











Preview text:
lOMoAR cPSD| 58490434
1. Khái niệm nhiễm trùng
Nhiễm trùng là hiện tượng vi sinh vật gây bệnh xâm nhập vào mô (tế bào) của cơ thể vật chủ
trong những hoàn cảnh nhất định.
Nhiễm trùng có thể dẫn đến bệnh, nhưng cũng có thể không gây thành bệnh.
Nhiễm trùng là một hiện tượng hay gặp trong thiên nhiên ở người, động vật, thực vật và ở cả
những sinh vật cấp thấp như vi khuẩn (hiện tượng phage).
2. Các hình thái nhiễm trùng
Tuỳ theo mức độ, người ta chia nhiễm trùng thành các loại sau:
2.1. Bệnh nhiễm trùng: Vi sinh vật gây ra các rối loạn cơ chế điều hoà của cơ thể (mất cân bằng
nội môi, dẫn đến xuất hiện các dấu hiệu của nhiễm trùng như sốt, ho, đau,... gọi là các triệu
chứng lâm sàng; tìm thấy các vi sinh vật trong bệnh phẩm; có những thay đổi về công thức máu
(thay đổi công thức hồng cầu, bạch cầu) và miễn dịch (test nhanh VGB). Bệnh nhiễm trùng được chia thành hai loại:
- Bệnh nhiễm trùng cấp tính: Triệu chứng bệnh rõ rệt và thưởng tồn tại trong một thời gian ngắn,
sau đó bệnh nhân khỏi hoặc tử vong, một số trường hợp có thể chuyên thành mạn tính. - Nhiễm
trùng mạn tính: Triệu chứng không dữ dội nhưng kéo dài. Loại nhiễm trùng này do các vi sinh
vật ký sinh bên trong tế bào gây nên. 2.2. Nhiễm trùng thể ẩn
Người bị nhiễm trùng không có dấu hiệu lâm sàng nhưng có thể thể có những thay đổi về công
thức máu, tìm thấy kháng thể dịch thể.... (chỉ phát hiện qua xét nghiệm máu, là loại tỉ lệ cao nhất,
hay gặp nhất, khó phát hiên)
2.3 Nhiễm trùng tiềm tàng: Vi sinh vật gây bệnh tồn tại/cư trú ở một cơ quan nào đó, đến một
lúc nào đó (khi có cơ hội) có thể gây ra các nhiễm trùng rõ rệt. (nhiễm lao, herpes)
2.4. Nhiễm trùng chậm: Do một số virus, thời gian ủ bệnh thường rất dài, điển hình là HIV, Lentivirus.
Các mức độ nhiễm trùng kể trên phụ thuộc vào sự tương quan giữa khả năng gây bệnh của các vi
sinh vật và sự đề kháng của cơ thể.
3. Vai trò của vi sinh vật trong nhiễm trùng
Khả năng gây bệnh của vi sinh vật phụ thuộc vào ba yếu tố: Độc lực của vi sinh vật, số lượng vi
sinh vật và đường xâm nhập của vi sinh vật vào cơ thể. 3.1. Độc lực
3.1.1. Định nghĩa: Độc lực là sức gây bệnh riêng của từng chủng vi sinh vật trong mộtloài vi
sinh vật có khả năng gây bệnh.
Ví dụ: trực khuẩn lao là một loài vi khuẩn có khả năng gây bệnh; trong loài này có những chủng
có độc lực thấp, có những chủng có độc lực cao. Các chủng vi khuẩn lao khác nhau về độc lực
thì có sức gây bệnh khác nhau. Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau về độc lực
là do có sự khác nhau về cấu tạo hoá học giữa các chủng đó. Trực khuẩn lao độc chứa 7,6% là
lipopolysaccharide, trong khi ở các chủng lao không độc chỉ chứa 0,56%. Các chủng vi khuẩn
dịch hạch độc và ít độc khác nhau ở kháng nguyên F. và VW.
3.1.2. Đơn vị đo độc lực: Có nhiều đơn vị để đo độc lực của một chủng vi sinh vật. Sau đây là
hai đơn vị đo độc lực hay dùng:
+ Liều chết tối thiểu MLD (Minimal Lethal Dose): là liều lượng nhỏ nhất vi sinh vật hoặc sản
phẩm gây bệnh của nó (ví dụ độc tố vi khuẩn) có khả năng làm chết súc vật thí nghiệm có một
khối lượng nhất định, trong một thời gian nhất định. Ví dụ: Đánh giá độc lực của ngoại độc tố lOMoAR cPSD| 58490434
một chủng vi khuẩn bạch hầu: liều chết tối thiểu của ngoại độc tố bạch hầu là lượng ngoại độc tố
nhỏ nhất làm chết một chuột lang nặng 250 gam, sau khi tiêm dưới da 96 giờ.
*Liều chết LD50 (50 percent Lethal Dose): là liều lượng vi sinh vật hoặc sản phẩm gây bệnh
của nó có khả năng làm chết 50% số động vật thí nghiệm trong một thời gian nhất định.
3.1.3. Sự biến đổi của độc lực:
Độc lực có thể tăng, giảm hoặc không đổi. Độc lực của vi sinh vật cao nhất khi mới phân lập từ
cơ thể người bệnh hoặc động vật.
* Tăng độc lực: muốn tăng độc lực phải nuôi vi sinh vật trong những điều kiện tối ưu về mọi
mặt: dinh dưỡng, nhiệt độ, pH. Trong hầu hết các trường hợp, nuôi trên các động vật cảm thụ
sẽ làm duy trì hoặc tăng độc lực của vi sinh vật. Sự phối hợp vi khuẩn có thể làm tăng độc lực,
ví dụ trực khuẩn bạch hầu phối hợp với liên cầu khuẩn làm cho bệnh bạch hầu đặc biệt nặng.
Các chủng vi sinh vật có độc lực cao hoặc đã giảm độc lực, khi xâm nhập vào cơ thể đã bị
giảm sút miễn dịch thứ phát sau chiếu xạ hoặc dùng các thuốc ức chế miễn dịch lâu ngày, có
thể phục hồi hoặc tăng độc lực.
* Giảm độc lực: độc lực của vi sinh vật giảm là một hiện tượng hay gặp như trong các trường
hợp giữ vi sinh vật lâu ngày trong các môi trường nhân tạo ở các phòng thí nghiệm hoặc các
nuôi cấy không thuận lợi cho vi sinh vật phát triển.
Độc lực có thể giảm một phần hoặc mất hẳn.
Các vacxin sống dùng để phòng bệnh được chế từ vi sinh vật đã được làm giảm hoặc mất hoàn
toàn độc lực. Các vi sinh vật làm vacxin này không được hồi biến độc lực. Việc tạo ra các vi
sinh vật giảm độc lực dễ dàng hơn việc làm tăng độc lực.
* Ổn định độc lực: trong nghiên cứu, việc nuôi, giữ các chủng vi sinh vật để cho độc lực của
chủng ổn định là việc quan trọng. Cách cố định và ổn định độc lực tốt nhất là đông khô và bảo
quản trong điều kiện lạnh. Đối với các vi khuẩn có nha bào thì việc hình thành nha bào là một
cách cố định độc lực tự nhiên. 3.1.4. Các yếu tố của độc lực
Độc lực của vi sinh vật do nhiều yếu tố gây nên. * Sự bám vào tế bào:
Bám vào tế bảo là điều kiện đầu tiên để vi sinh vật có thể xâm nhập vào mô và gây nhiễm trùng
Ví dụ điển hình của sự bám đặc hiệu vi sinh vật vào tế bào là ở vi khuẩn Streptococcus salivarins
định vị chủ yếu ở lưỡi và rất ít ở bề mặt răng, còn Streptococcus pyogenes thì định vị chủ yếu ở
hang miệng và là tác nhân chính gây viêm họng.
Khả năng bám đặc hiệu này của vi sinh vật là một yếu tố quan trọng của độc lực. Sự bám lên trên
bề mặt của niêm mạc (các đường hô hấp, tiêu hoá, sinh dục và tiết niệu) là bước đầu tiên của quá
trình bệnh sinh, dẫn tới bệnh nhiễm trùng.
Cơ chế của sự bám là do các phân tử bề mặt đặc hiệu của vi sinh vật gắn với các phân tử tiếp
nhận trên bề mặt tế bào cảm thụ.
Bảng 1.5. Một số yếu tố bám dính của vi khuẩn gây bệnh và vị trí bám dính VK Bệnh
nhiễm trùng Yếu tố bám dính Vị trí bám dính Streptococcus Viêm họng Protein F TB biểu mô hô pyogenes hấp Streptococcus mutans Sâu răng Adhesin P1 Răng
Neisseria gonorrhoeae Bệnh lậu
Type IV pili TB biểu mô niệu đạo Enterotoxigenic Ecoli Tiêu chảy Type 1 fimbriae TB biểu mô (ETEC) đường ruột lOMoAR cPSD| 58490434 Vibrio cholerae Bệnh tả N-methylphenylalamine pili TB biểu mô đường ruột Sự
bám là một yếu tố tạo nên khả năng gây nhiễm trùng của của vi sinh vật cho tế bào chủ và thường
kết hợp với độc lực; tuy nhiên cũng không hoàn toàn như vậy vì một số vi khuẩn không có độc
lực vẫn có khả năng bám và ngược lại một số vi khuẩn có độc lực thì yếu tố băm cũng không
tương quan với độc lực.
* Sự xâm nhập và sinh sản của vi sinh vật:
Xâm nhập là yếu tố quyết định của sự nhiễm trùng. Vì không có sự xâm nhập thì không có
nhiễm trùng. (Sự xâm nhập của VSV hoặc độc tố vào TB) -
Salmonella xâm nhập vào cơ thể theo đường tiêu hoá, khi dính chặt vào diềm bàn chải,
các vi nhung mao bắt đầu thoái hoá, khi vi khuẩn xâm nhập vào tế bào, sự thoái hoá xảy ra nhiều
hơn và tạo thành những không bảo ở bào tương chứa đựng một hoặc nhiều vi khuẩn, sự tái sinh
sản của vi nhung mao được thực hiện. -
Shigella: sự xâm nhập của vi khuẩn ở niêm mạc đường ruột phụ thuộc vào sự tồn tại của
kháng nguyên polysaccharide ở bề mặt tế bào vi khuẩn.... Còn đối với các vị khuẩn gây bệnh
bằng ngoại độc tố như tả, ho gà, bạch hầu thì không xâm nhập vào tế bào.Chúng lại làm tổn hại
màng tế bào, sinh sản trên màng nhầy niêm mạc, sản xuất và tiết ra ngoại độc tố, các ngoại độc
tố này thấm vào các tê bào và gây ra những tác dụng đặc hiệu nghiêm trọng cho cơ thể.
* Độc tố: Độc tố là những chất độc đặc biệt, là sản phẩm của quá trình chuyển hoá dinh dưỡng
của vi sinh vật. Có 2 loại độc tố: ngoại độc tố và nội độc tố.
+ Ngoại độc tố: Các ngoại độc tố của các vi khuẩn như trực khuẩn bạch hầu, uốn ván, hoại thư
sinh hơi, độc thịt, S. Shiga, liên cầu hay được nói tới. Mỗi một loại vi khuẩn tiết ra ngoại độc tố
ở một điều kiện nhất định. Ví dụ trực khuẩn uốn ván, hoại thư sinh hơi phải ở điều kiện kỵ khí.
Ngoại độc tố của vi khuẩn gây nên những triệu chứng lâm sàng rất đặc biệt và có tác động chọn
lọc đến một số cơ quan. Vì vậy, trên lâm sàng có thể người ta dễ dàng chẩn đoán ra bệnh mặc dù
chưa có các xét nghiệm vi sinh vật. Đa số các ngoại độc tố bị các men đường tiêu hoá phá huỷ
(trừ độc tố vi khuẩn độc thịt và độc tố ruột của tụ cầu). Yếu tố độc lực của ngoại độc tố lớn hơn
yếu tố độc lực của nội độc lực, làm tổn thương nặng lên và có triệu chứng đặc hiệu
Bảng 1.6: Một số ngoại độc tố của vi khuẩn gây bệnh Phân loại VD VK Cơ chế gây bệnh
Hoạt hóa adenylcyclase trong các tế bào
biểu mô tiên mục nội nem, làm tăng nồng độ adenosing Độc tố tả Vibrio cholerae
monophosphate (cAMP) tuần hoàn và
Độc tố nội bào tăng tiết dịch và chất điện giải ra khỏi Intracellular - tế bào, gây tiêu chảy. targeting
Ức chế sự giải phóng các dẫn truyền toxins Độc tố uốn
Clostridium tetani thần kinh trong hệ thần kinh trung ván ương, gây liệt. Độc tố bạch Corynebacterium lOMoAR cPSD| 58490434
Ức chế tổng hợp protein, gây chết TB hầu diphtheriae Streptococcus Streptolysin pyogenes
Các phân tử protein gắn vào lỗ trên Streptococcus Pneumolysin
mảng tế bào, phá vỡ chức năng của pneumoniae
chúng và tiêu diệt tế bào. Staphylococcus Alpha-toxin Độc tố phá hủy aureus màng TB Clostridium Alpha-toxin perfringens Phospholipases làm giảm Phospholipase Pseudomonas
phospholipid màng tế bào, phá hủy C aeruginosa
chức năng màng tế bào và tiêu diệt tế Staphylococcus bào. Beta-toxin aureus
Siêu kháng Độc tố gây Kích thích quá trình hoạt hóa các tế nguyên hội chứng Staphylococcus miễn
dịch và giải phóng các cytokine (superantigens shock nhiễm aureus (các chất trung gian hóa học) từ các tế ) trùng
bào miễn dịch, gây sốt, viêm và sốc.
+ Nội độc tố: có tác động gây rối loạn chung: giảm bạch cầu, rối loạn huyết áp, làm mê mệt.
Những rối loạn chung do thành phần lipit của nội độc tố gây nên. Thành phần protein của nội
độc tố có tính kháng nguyên nhưng yếu, thành phần polysaccharide đảm bảo tính đặc hiệu.
Trong điều trị một số nhiễm khuẩn do một số vi khuẩn Gram âm phải chú ý tránh để tình trạng vi
khuẩn giải phóng ồ ạt nội độc tố do việc dùng kháng sinh liều cao làm vi khuẩn chết và tan rã nhiều một lúc.
Bảng 1.7: So sánh đặc điểm của ngoại độc tố và nội độc tố Ngoại độc tố Nội độc tố
Do vk tiết ra và dễ khuếch tán ra mội trường
Gắn liền với thành TB vk, chỉ tiết ra khi TB vk xung quanh bị tan vỡ
Độc tính rất mạnh, gây rối loạn điển hình, đặc
Độc tính yếu hơn, gây ra các rối loạn chung biệt Bản chất là protein
Bản chất là phức hợp Gluxit-Lipid-Protid (Lipopolysaccharide)
Chịu nhiệt kém, bị phá hủy ở nhiệt độ 60 độ Chịu nhiệt cao (100 độ trong 30-60ph) trong 30ph Tính kháng nguyên mạnh Tính kháng nguyên yếu
Dễ bị trung hòa bởi kháng thể. Có kháng độc
Ít hoặc không bị trung hòa bởi kháng thể. tố điều trị
Không có kháng độc tố điều trị
Có thể chế thành giải độc tố (anatoxin)
Không thể chế được giải độc tố
Chủ yếu thấy ở vài loại vk gram dương
Thấy ở nhiều loại vk, chủ yếu ở vk gram âm lOMoAR cPSD| 58490434
*Một số enzyme ngoại bào: Một số enzyme có liên quan đến khả năng gây bệnh
+ Hyaluronidase: enzyme này được coi là yếu tố xâm nhập, nó có khả năng thuỷ phân axit
hyaluronic là một trong những thành phần cơ bản của tổ chức liên kết làm cho vi khuẩn dễ
khuyếch tán ra xa. Nhiều loại vi khuẩn sinh ra được chất này, ví dụ các tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn hoại thư.
+ Coagulase (Yếu tố đông huyết tương): làm đông huyết tương tạo thành một lớp fibrin bao bọc
xung quanh chỗ tổn thương, bảo vệ vi khuẩn không bị cơ thể hoặc những chất thuốc tác động tới.
+ Hemolysin (Yếu tố tan máu): làm huỷ hoại các hồng cầu. Yếu tố này có nghĩa trong chẩn đoán vi sinh vật.
+Yếu tố huỷ hoại chất tạo keo: là những collagenase của các trực khuẩn hoại thư làm tan chất
tạo keo và các sợi cơ giúp cho vi khuẩn xâm nhập vào các tổ chức.
+ Protease: Phế cầu và một số vi khuẩn tiết ra enzyme này có tác dụng thuỷ phân IgAi, làm
kháng thể này mất tác dụng bảo vệ cơ thể.
* Một số kháng nguyên bề mặt:
+ Vỏ: vi khuẩn có vỏ chống lại đại thực bào và các bạch cầu, có thể nhân lên bên trong các đại
thực bào. Vỏ là yếu tố độc lực (như phế cầu, dịch hạch, liên cầu... là những vi khuẩn có kháng
nguyên vỏ). Thành phần cấu tạo hoá học vỏ vi khuẩn ở các loài vi khuẩn khác nhau: vỏ vi khuẩn
dịch hạch là lipopolysaccharide, vỏ của vi khuẩn than là polypeptide.
+ Kháng nguyên bề mặt: Vi khuẩn thương hàn có kháng nguyên bề mặt Vi (hay kháng nguyên K).
* Độc lực của virus:
Virus có khả năng xâm nhập và nhân lên trong tế bào cảm thụ. Khả năng đó là một yếu tố của
độc lực. Những chất sinh ra do tế bào bị huỷ hoại gây độc cho cơ thể cũng là một yếu tố liên quan đến độc lực.
Bảng 1.8: Một số yếu tố bám dính của virus gây bệnh và vị trí bám dính Virus Bệnh
nhiễm trùng Yếu tố bám dính Vị trí bám dính Influenzavirus Bệnh cúm Hemaglutinin Sialic acid ở các TB niêm mạc đường hô hấp và tiêu hóa Herpes simplex virus Herpes miệng, sinh Glycoproteins gB, gC, Herparan sulfate trên
I hoặc II dục gD bề mặt TB niêm mạc miệng và sinh dục HIV HIV/AIDS Glycoprotein gp120 CD4 trên bề mặt các TB miễn dịch
* Phản ứng quá mẫn:
Quá mẫn là những phản ứng có hại cho cơ thể. Người ta cho rằng phản ứng quá mẫn là cơ chế
bệnh sinh của một số bệnh nhiễm trùng. Như các vi khuẩn đường ruột gây bệnh bằng nội độc tố
theo cơ chế Athrus, virus sốt xuất huyết gây xuất huyết bằng phức hợp miễn dịch.
* Sự né tránh đáp ứng miễn dịch của vi sinh vật:
+ Sự ẩn dật của vi sinh vật:
Một số vi khuẩn, virus tìm chỗ cư trú ngay trong tế bào của cơ thể, ở đó chúng có thể yên ổn phát
triển và nhân lên, thậm chí chúng có thể cư trú trong tế bào thực bào: ví dụ HBV trong tế bào gan, HIV trong T
. Để tránh bị tiêu diệt, các vi sinh vật này có các HBV trong cách như sau: CD4 -
Ức chế hòa nhập phagosom với lysosom. lOMoAR cPSD| 58490434 -
Dọn sạch các gốc tự do, kháng lại các enzyme tiêu trong phagolysosom. -
Đục thủng màng phagosom thoát vào bào tương trước khi có sự hòa nhập của phagosom và lysosom.
Chúng có thể sử dụng vỏ bọc sau đó rũ bỏ vào môi trường lỏng ngay từ đầu hoặc sau khi đã gắn
bổ thể và kháng thể qua hiện tượng opsonin hóa. Lớp vỏ đó có tác dụng ngụy trang tốt nếu có
cấu trúc giống cấu trúc tương đồng với một số chất của bản thân cơ thể chủ như: glycolipid của
kháng nguyên nhóm máu ABO và MHC-II mà được một số vi sinh vật đã sử dụng hoặc kháng
nguyên gp120 của virus HIV với IL-2
+ Thay đổi kháng nguyên: Rất nhiều loại vi sinh vật có thể thay đổi kháng nguyên. Sự thay đổi
đó có thể xẩy ra giữa các giai đoạn phát triển khác nhau của vi sinh vật trong cơ thể vật chủ.
Nhờ có sự thay đổi kháng nguyên bề mặt mà vi sinh vật có thể tồn tại và phát tri được trong cơ thể vật chủ.
+ Tác dụng ức chế miễn dịch:
Có loại vi sinh vật có thể ức chế miễn dịch bằng cách tấn công vào các tế bào c hệ miễn dịch,
làm cho tế bào của hệ miễn dịch suy giảm cả về số lượng lẫn chức năng Chúng ta dễ dàng nhận
thấy hiện tượng này trong nhiễm HIV (HIV tiếp cận và xâm nhập tế bào TCD4, tiêu diệt tế bào
làm suy giảm số lượng và chức năng tế bào TCDA, gây suy giảm đáp ứng miễn dịch). Vi
khuẩn tụ cầu tiết ra protein A bao quanh tế bào vi khuẩn, protein này phần Fc của IgG nên
ngăn cản tác dụng của kháng thể.
Do các biện pháp né tránh của vi sinh vật mà cho đến nay các cô gắng của Y học trong việc điều
trị bệnh nhân, trong việc tạo vacxin ở một số loại bệnh gặp không ít khó khăn và đây cũng chính
là vấn đề còn phải được tiếp tục nghiên cứu.
3.2. Số lượng vi sinh vật
Khi xâm nhập vào cơ thể, các vi sinh vật gây bệnh không những cần có độc lực mà phải có đủ số
lượng nhất định mới gây được bệnh. Số lượng vi sinh vật càng nhiều càng dễ gây bệnh. Số lượng
vi sinh vật quá ít, có thể bị cơ thể tiêu diệt nhanh chóng, không gây ra bệnh. Tuy nhiên, một số vi
sinh vật có độc lực rất cao, chỉ cần một số lượng rất nhỏ lọt vào cơ thể là cũng có thể gây được bệnh.
3.3. Đường xâm nhập của vi sinh vật vào cơ thể
+ Vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể theo đường thích hợp mới gây được bệnh. Ví dụ: để gây được
bệnh đường ruột, lỵ, thương hàn, phẩy khuẩn tả phải vào cơ thể bằng đường miệng qua thức ăn, nước uống.
+ Một số vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể theo những đường khác không thích hợp muốn gây
bệnh cần phải có số lượng cao hơn.
+ Có loại vi sinh vật chỉ có một đường xâm nhập, có loại có nhiều đường xâm nhập. Ví dụ trực
khuẩn dịch hạch, trực khuẩn than có thể xâm nhập cơ thể bằng tất cả bốn đường truyền nhiễm
(máu, hô hấp, tiêu hoá, da niêm mạc). Trong công tác bệnh viện, việc tiêm thuốc, chọc dò tạo
nên những cơ hội thuận lợi cho vi sinh vật xâm nhập vào cơ thể, nhất là việc tiêm tĩnh mạch có
thể đưa mầm bệnh vào máu. Cần hết sức đảm bảo vô trùng trong các kỹ thuật tiêm, chọc dò, truyền dịch.
4. Vai trò của cơ thể trong nhiễm trùng.
Vai trò của cơ thể trong nhiễm trùng phụ thuộc vào các yếu tố bảo vệ không đặc hiệu và các yếu
tố miễn dịch đặc hiệu của mỗi cơ thể (Đọc thêm bài Đại cương miễn dịch). Các yếu tố này quyết
định mức độ cảm thụ và đề kháng của cơ thể đối với vi sinh vật gây bệnh. lOMoAR cPSD| 58490434
Có nhiều cơ chế liên quan đến tính cảm thụ và đề kháng của cơ thể:
+ Sự toàn vẹn về giải phẫu của cơ thể. Khuyết tật bẩm sinh, tổn thương mắc phải hoặc cắt bỏ một
phần phủ tạng đều không lợi cho cơ thể trong khi bị nhiễm trùng.
+ Trạng thái thần kinh và hoạt động nội tiết. Thần kinh ở trạng thái cân bằng, hoạt động nội tiết ở
mức điều hoà giúp cơ thể chống lại vi sinh vật gây bệnh tốt hơn.
+ Bệnh mắc phải. Một số bệnh như ung thư, suy tuỷ xương có ảnh hưởng rất nhiều đến nhiễm trùng.
+ Điều kiện dinh dưỡng. Protein cung cấp nguyên liệu tổng hợp globulin miễn dịch, vitamin A,
C làm tăng độ bền chắc của niêm mạc, đã và thành mạch. Suy dính dưỡng kéo dài dẫn đến giảm
sút sức đề kháng của cơ thể.
+ Tình trạng nhiễm độc. Nhiễm độc hoá chất, bị chiếu xạ đều có thể làm tổn hại đến các yếu tố miễn dịch.
+ Dùng thuốc ức chế miễn dịch. Hầu hết các thuốc ức chế miễn dịch đều ảnh hưởng lớn đến quá trình nhiễm trùng.
+ Ngoài ra còn một số cơ chế khác như sự mệt mỏi kéo dài, tuổi, giới....
Vai trò quyết định kết thúc quá trình nhiễm trùng thuộc về phía cơ thể con người.
5. Vai trò của yếu tố ngoại cảnh trong nhiễm trùng
Yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình nhiễm trùng.
5.1. Yếu tố tự nhiên
Bao gồm các yếu tố địa lý (rừng núi, thành thị), khí hậu (nhiệt độ, độ ẩm), mùa, mật độ côn trùng
(ruồi, muỗi, ...) tạo điều kiện thuận lợi hoặc không thuận lợi cho nhiễm trùng xảy ra và sự lây lan của dịch bệnh.
Ví dụ: bệnh cúm hay xảy ra vào mùa đông, bệnh đường ruột thường xảy ra vàomùa hè, bệnh dịch
hạch xảy ra ở những khu vực nhất định khi có mật độ chuột và chỉ số bọ chét truyền bệnh cao.
5.2. Yếu tố xã hội
Chế độ chinh trị xã hội, điều kiện kinh tế có tác động rất lớn đến những sự phát sinh và phát triển
của bệnh truyền nhiễm.
Trình độ văn hoá của nhân dân cao hay thấp có vai trò trực tiếp đối với kết quả của các biện pháp
phòng ngừa nhiễm trùng và dịch bệnh. 6. Nguồn gốc, diễn biến và các thể nhiễm trùng
6.1. Nguồn gốc nhiễm trùng
Có thể chia làm hai loại nguồn gốc: Nhiễm trùng từ bên ngoài và nhiễm trùng từ bên trong. -
Nhiễm trùng bên ngoài: Còn gọi là nhiễm trùng ngoại sinh, xảy ra khi mầm bệnh xâm nhập từ
bên ngoài cơ thể vào trong cơ thể, đây là trường hợp hay gặp. Phần lớn các bệnh truyền nhiễm là
từ người truyền cho người, một số từ động vật truyền sang người.
- Nhiễm trùng bên trong: Còn gọi là nhiễm trùng nội sinh do mầm bệnh đã có sẵn bên trong cơ
thể, do một điều kiện nào đó (vi khuẩn đổi chỗ cư trú, sức đề kháng của cơ thể giảm) các mầm
bệnh đó thực sự trở thành các vi sinh vật gây bệnh. Hiện nay người ta gọi quá trình này là tự nhiễm trùng.
6.2. Diễn biến của nhiễm trùng
Bệnh nhiễm trùng có thể chia thành bốn thời kỳ
+ Thời kỳ nung bệnh (ủ bệnh): Chưa có dấu hiệu lâm sàng. Vi sinh vật và cơ thể vật chủ ở trạng
thái cân bằng.Thời kỳ tiên phát: Các triệu chứng bệnh xuất hiện nhanh chóng, dễ nhận thấy. + lOMoAR cPSD| 58490434
Thời kỳ toàn phát: Các dấu hiệu của bệnh rõ ràng và vi sinh vật không phát triển thêm vì cơ thể
đang chống đỡ lại. Thời kỳ kết thúc: Có thể diễn ra: + Người bệnh chết.
+ Người bệnh khỏi, cơ thể hết mầm bệnh.
+ Người bệnh khỏi về lâm sàng nhưng vẫn còn mang mầm bệnh trong một thời gian ngắn hoặc dài.
6.3. Các thể nhiễm trùng
Tuỳ theo biểu hiện có thể chia thành nhiều thể:
+ Nhiễm trùng đơn độc: do một loại mầm bệnh gây nên.
+ Nhiễm trùng phối hợp: do hai hoặc vài loại mầm bệnh gây nên. + Nhiễm trùng thứ phát: xảy ra
trên một cơ thể đang bị suy yếu do một nhiễm trùng khác, ví dụ viêm phổi xảy ra ở trẻ bị bệnh sởi, cúm.
+ Nhiễm trùng cục bộ: khu trú ở một vị trí nhất định (mụn, nhọt). + Nhiễm trùng toàn thân:
nhiễm trùng lan rộng khắp cơ thể.
+ Nhiễm trùng huyết: để chỉ các trường hợp nhiễm vi khuẩn vào máu, còn các virus vào máu thì
gọi là nhiễm virus huyết. Vi khuẩn vào máu có ba mức độ: -
Vãng khuẩn huyết (vãng trùng huyết): vi khuẩn đi qua máu trong một thời gian ngắn
với số lượng ít, không phát triển trong máu, không gây những dấu hiệu toàn thân. -
Nhiễm khuẩn huyết (nhiễm trùng huyết): vi khuẩn từ một ổ viêm vào máu ào ạt với số
lượng nhiều, phát triển trong máu và tiết ra các chất độc gây ra những triệu chứng lâm sàng
nặng. - Nhiễm khuẩn mủ huyết (nhiễm trùng mủ huyết): vừa có nhiễm khuẩn huyết vừa có sự
hình thành nhiều ổ gây mủ, bệnh cảnh lâm sàng đặc biệt nặng.
+ Nhiễm trùng cấp tính (cấp diễn): xảy ra nhanh và kết thúc nhanh (cúm, lỵ, viêm não).
Đây là trường hợp hay gặp.
+ Nhiễm trùng mạn tính (trường diễn): kéo dài nhiều ngày (lao, giang mai).
+ Người mang mầm bệnh không triệu chứng: là các trường hợp cơ thể vẫn khoẻ mạnh
nhưng có mang mầm bệnh, thường xuyên hoặc từng đợt đào thải mầm bệnh ra ngoài. Về mặt
dịch tễ học những người này cần được quan tâm, theo dõi để phát hiện sớm và xử lý đúng.
Ngoài các thể nhiễm trùng hay gặp ở trên, người ta còn có thể chia thêm các thể nhiễm trùng
khác: nhiễm trùng tái nhiễm, bội nhiễm; nhiễm trùng điển hình, không điển hình; nhiễm trùng
ẩn; nhiễm trùng phôi thai (giang mai bẩm sinh); nhiễm trùng chậm (do căn nguyên virus có thời
gian tiềm tàng rất lâu), nhiễm trùng phân tử (các axit nucleic của virus xâm nhập vào cơ thể có thể gây bệnh).
7. Nhiễm trùng bệnh viện 7.1. Định nghĩa
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, nhiễm trùng bệnh viện được định nghĩa như sau: “Nhiễm trùng
bệnh viện (Nosocomial infection Hospital acquired infection Health care-associated infection) là
những nhiễm trùng mắc phải trong thời gian người bệnh điều trị tại bệnh viện và nhiễm trùng
này không hiện diện cũng như không nằm trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện. Nhiễm
trùng bệnh viện thưởng xuất hiện sau 48 giờ kể từ khi người bệnh nhập viện. 7.2. Những đối
tượng có nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện (NTBV) Nhiễm trùng bệnh viện sẽ xảy ra khi hội đủ ba điều kiện:
- Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch: lOMoAR cPSD| 58490434
- Bị các bệnh của cơ quan miễn dịch.
- Dùng các thuốc giảm miễn dịch (ví dụ thuốc điều trị bệnh ung thư).
- Sau phẫu thuật hoặc sau mắc một bệnh nặng hoặc đang mắc bệnh mãn tính. - Người có tuổi
nằm điều trị ở bệnh viện lâu ngày, hoặc trẻ em còi xương, suy dinh dưỡng, bị bệnh tiêu chảy kéo dài...
- Các nhân viên bệnh viện hoặc người nhà bệnh nhân thường xuyên tiếp xúc với vi sinh vật gây
bệnh, trong khi cơ thể có sức đề kháng kém, tình trạng vệ sinh và bảo hộ lao động chưa được cải thiện.
*Sự hiện diện của các loài vi sinh vật có độc tính cao ở môi trường bệnh viện.
*Sự lây truyền mầm bệnh giữa nhân viên y tế và bệnh nhân hay giữa bệnh nhân với nhau
7.3. Căn nguyên gây nhiễm trùng bệnh viện
Căn nguyên vi sinh vật gây NTBV phần lớn là do vi khuẩn gây nên, sau đó là do virus, nấm và ký sinh trùng.
7.3.1. Vai trò gây bệnh của vi khuẩn
Vi khuẩn gây NTBV có thể tử hai nguồn khác nhau. Vi khuẩn nội sinh, thường cư trú ở lông,
tuyến mồ hôi, tuyến chất nhờn của cơ thể người bệnh. Một số vi khuẩn nội sinh có thể trở thành
căn nguyên nhiễm trùng khi khả năng bảo vệ tự nhiên của vật chủ bị tổn thương Vi khuẩn ngoại
sinh, là vi khuẩn có nguồn gốc ngoại lai, có thể t từ dụng cụ y tế, nhân viên y tế, không khí, nước
hoặc lây nhiễm chéo giữa các bệnh nhân.
+ Vi khuẩn Gram dương; chủ yếu là nhóm cầu khuẩn. Vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus
aureus) đóng vai trò quan trọng gây NTBV từ cả hai nguồn nội sinh và ngoại sinh. Vi khuẩn này
có thể gây nhiễm trùng ở phôi, xương, tim, nhiễm trùng huyết, nhiễm khuẩn ở da (nhiễm trùng
vết bỏng, nhiễm trùng vết mổ). Vi khuẩn tụ cầu Staphylococcus saprophyticus thường gây nhiễm
trùng tiết niệu tiên phát, nhiễm trùng vết bỏng. Vi khuẩn liên cầu tan máu beta có vai trò quan
trọng trong các biến chứng viêm màng cơ tim, viêm khớp.
+ Vi khuẩn Gram âm: các trực khuẩn Gram âm thường có liên quan nhiều đến NTBV và phổ
biến ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng phổi tại khoa điều trị tích cực. Họ vi khuẩn đường ruột
(Enterobacteriaceae) thường người và động vật, đang là mối quan tâm hàng đầu trong NTBV do
có khả năng đề kháng cao với các nhóm kháng sinh. Acinobacter baumann, thường gặp trong
không cư trú ở đường tiêu hóa của khí bệnh viện, nước máy, ống thông niệu đạo, máy trợ hô hấp
cũng là loại vi khuẩn có khả năng gây NTBV cao. Klebsiella pneumonia thưởng có vai trò trong
nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm trùng phổi, nhiễm trung huyết và mô mềm. E. coli gây nhiễm trùng
chủ yếu tiết niệu, sinh dục nữ và nhiễm trùng vết mổ. Trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas
aeruginosa) là căn nguyên gây nhiễm trùng phổi, tiết niệu, nhiễm trùng vết bỏng, nhiễm trùng
huyết. Vi khuẩn Proteus spp cũng thường gây NTBV, đặc biệt là nhiễm trùng vết mổ và nhiễm trùng tiết niệu.
7.3.2. Vai trò gây bệnh của virus
Một số virus có thể gây NTBV như virus viêm gan B (HBV), virus viêm gan C (HCV) (lây
nhiễm qua đường máu), các virus hợp bào đường hô hấp, virus đường ruột (Enteroviruses) lây
nhiễm qua tiếp xúc tay-miệng và theo đường phân-miệng. Các virus khác cũng có khả năng lây
truyền trong bệnh viện như HIV, virus cúm, virus herpes, Varicella-Zoster.
7.3.3. Vai trò gây bệnh của ký sinh trùng và nấm
Một số ký sinh trùng như Giardia lamblia có thể lây truyền dễ dàng giữa người trưởng thành và
trẻ em. Nhiều loại nấm và ký sinh trùng là các vi sinh vật cơ hội và là nguyên nhân gây nhiễm lOMoAR cPSD| 58490434
trùng khi bệnh nhân được điều trị quá nhiều kháng sinh và trong trường hợp suy giảm miễn dịch,
ví dụ Candida albicans, Aspergillus spp., Cryptococcus neoformans,
7.4. Đường lây truyền nhiễm trùng bệnh viện
Có 3 đường lây truyền chính trong cơ sở y tế là lây qua tiếp xúc, đường giọt bắn và không khí. -
Lây qua tiếp xúc: Là đường lây nhiễm quan trọng và phổ biến nhất trong NTBV (chiếm 90%
các trường hợp NTBV) và được chia thành hai loại khác nhau là lây nhiễm qua tiếp xúc trực
tiếp (tiếp xúc trực tiếp với tác nhân gây bệnh) và lây nhiễm qua tiếp xúc gián tiếp (tiếp xúc với
vật trung gian chứa tác nhân gây bệnh). Các vật trung gian chứa tác nhân gây bệnh: các vật liệu,
đồ dùng thông thường như quần áo bệnh nhân, nhân viên y tế, ống nghe, máy đo huyết áp...);
nước và thực phẩm; các dụng cụ phẫu thuật, thủ thuật... -
Lây qua đường giọt bắn Khi tác nhân gây bệnh chứa trong các giọt nhỏ bắn ra khi bệnh
nhân ho, hắt hơi, nói chuyện bắn vào kết mạc mắt, niêm mạc mũi, miệng của người tiếp xúc. Các
tác nhân gây bệnh truyền nhiễm có trong các giọt bắn có thể truyền bệnh từ người sang người
trong một khoảng cách ngắn (< 1 mét). Một số tác nhẫn gây bệnh qua đường giọt bắn có thể
truyền qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp. -
Lây nhiễm qua đường không khí xảy ra do các giọt nhỏ chứa tác nhân gây bệnh có kích
thước < 5um. Các giọt phát sinh khi người bệnh ho hay hắt hơi, sau đó phát tán vào không khí và
lưu chuyển đến một khoảng cách xa, trong một thời gian dài tùy thuộc vào yếu tố môi trường.
Những bệnh có khả năng lây truyền qua đường không khí như lao, sởi, thủy đậu, đậu mùa, cúm, quai bị, SARS.
7.5. Hậu quả của nhiễm trùng bệnh viện
NTBV dẫn đến nhiều hệ lụy cho người bệnh và cho hệ thống y tế như:
- Kéo dài thời gian nằm viện của bệnh nhân.
-Tăng nguy cơ biến chứng và tử vong cho người bệnh.
- Tăng chi phí điều trị.
-Tăng khả năng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn.
- Giảm uy tín, chất lượng phục vụ của bệnh viện. 7.6. Biện pháp dự phòng và kiểm soát nhiễm trùng bệnh viện
7.6.1. Nguyên tắc Các biện pháp phòng tránh cũng sẽ dựa trên nguyên tắc loại bỏ những điều kiện này.
(1) Nâng cao thể trạng và miễn dịch của bệnh nhân: là phương pháp khó có thể thực hiện được ở
tất cả các bệnh nhân vì còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố nguy cơ như độ tuổi, bệnh tiền căn
(tiểu đường, hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải...)
(2) Loại trừ nguồn vi sinh vật thường gây nhiễm trùng bệnh viện: kiểm tra và vệ sinh theo định
kì, khử trùng các dụng cụ y khoa.
(3) Kiểm soát đường lây truyền của mầm bệnh: là phương pháp quan trọng nhất, bao gồm các việc:
7.6.2. Biện pháp dự phòng
* Rửa tay là biện pháp quan trọng nhất, ngăn ngừa lây lan vi sinh vật từ bệnh nhân này sang
bệnh nhân khác qua tay các bác sĩ, điều dưỡng. Vấn đề này dễ bị xem thường và không tuân thủ theo quy định.
Thời điểm vệ sinh tay thường quy lOMoAR cPSD| 58490434
- Mọi đối tượng trực tiếp chăm sóc NB cần rửa tay bằng nước và xà thường hoặc chà tay bằng
dung dịch VST chứa cồn vào những thời điểm sau: phòng + Trước khi tiếp xúc trực tiếp với mỗi NB.
+ Trước khi thực hiện mỗi thủ thuật sạch/vô khuẩn.
+ Ngay sau mỗi khi tiếp xúc với máu, dịch cơ thể.
+ Sau khi tiếp xúc trực tiếp với mỗi NB.
+ Sau tiếp xúc với bề mặt đồ dùng, vật dụng trong buồng bệnh.
- Ngoài ra, các thời điểm chăm sóc sau cũng cần VST:
+ Khi chuyển từ chăm sóc bẩn sang chăm sóc sạch trên cùng người bệnh.
+ Trước khi mang găng và sau khi tháo găng.
+ Trước khi vào buồng bệnh và sau khi ra khỏi buồng bệnh.
+ Mọi NVYT trong buồng phẫu thuật không trực tiếp động chạm vào NB (phụ mê, chạy ngoài,
học viên...) phải VST trước khi vào buồng phẫu thuật. Trong buông phẫu thuật, bất kỳ khi nào
bắn tay chạm vào bề mặt thiết bị phương tiện phải VST ngay bằng dung dịch VST chứa cồn. +
NVYT khi làm việc trong buồng xét nghiệm cần tuân thủ nghiêm thời điểm 3 và 5 về VST để
phòng ngừa lây nhiễm cho bản thân.
* Dùng dụng cụ vô khuẩn: Thực hiện nghiêm ngặt quy trình vô khuẩn: Cọ rửa dụng cụ, khử
khuẩn và tiệt khuẩn dụng cụ đúng quy định.
* Cách ly bệnh nhân:
Bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm hoặc nghi ngờ có nguy cơ lây truyền bệnh sau khi nhập viện
được nằm ở phòng cách ly.
* Bệnh nhân sử dụng dụng cụ riêng:
Bơm kim tiêm, các loại ống thông, ống hút, đồ dùng cá nhân,... dùng riêng cho từng bệnh nhân.
* Quản lý chất thải trong khoa phòng và bệnh viện:
- Dùng thùng đựng chất thải, rác có nắp đậy kín, để đúng nơi quy định. Khi chuyên chở phải đảmbảo vệ sinh.
- Chất thải phải được sử lý trước khi đưa ra ngoài bệnh viện. * Vệ sinh khoa phòng hàng ngày vàđịnh kỳ:
- Vệ sinh khoa phòng từ khu sạch nhất đến khu bẩn nhất, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài,
các khu vực có dụng cụ riêng. Những nới có nguy cơ lây nhiễm cao được làm vệ sinh ngay. Sử
dụng đúng các loại dung dịch khử khuẩn.
- Phân loại các khu vực vệ sinh:
+ Khu sạch: Những phòng không có bệnh nhân như phòng hành chính, phòng giao ban, phòng
nghỉ dành cho nhân viên, ...
+ Khu kém sạch: Những phòng (nơi) liên quan trực tiếp đến hoạt động chăm sóc bệnh nhân như
phòng khám bệnh, buồng thay bằng, buồng chuẩn bị dụng cụ, buồng bệnh để bệnh nhân nằm. +
Khu nhiễm trùng: Khu vực có nguy cơ nhiễm trùng cao như nhà vệ sinh, phòng thụt tháo cho
bệnh nhân, phòng để đồ nhiễm bẩn, ... 7.6.3. Kiểm soát nhiễm trùng bệnh viện
- Phối hợp hoạt động chống nhiễm trùng giữa các cơ quan, khoa phòng nhằm giảm nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện.
- Thường xuyên thông báo về nhiễm trùng bệnh viện cho toàn bệnh viện và các cơ quan y tế có liên quan.
- Khi có dịch, bệnh viện phải có biện pháp phòng chống. lOMoAR cPSD| 58490434
- Giám sát môi trường bệnh viện, khoa phòng, không khí, nước, vệ sinh khoa phòng.