Những bài văn mẫu trên 9 - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương

Những bài văn mẫu trên 9 - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

I. Tây Tiến
Bài làm 1:
"Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông". (Giang Nam)
Qủa thật, dẫu mảnh đất Tây Bắc đã để thương, để nhớ cho biết bao thi nhân, đi vào thơ ca như một người đồng hương
quen mặt thì Tây Tiến của Quang Dũng vẫn đứng nghiêm trang trên một hòn ốc đảo độc lập, ghi vào thơ ca kháng chiến
một thi phẩm xứng tầm với danh xưng “vĩnh cửu”. Có lẽ bởi Quang Dũng không chỉ là một người lính cầm súng đánh
giặc, một nhà thơ cầm bút sáng tác mà còn là một người nghệ sĩ đa tài: vẽ tranh, soạn nhạc nên những vần thơ ông vừa
ngồn ngộn hiện thực chiến tranh, lại vừa tầng tầng lớp lớp men say của những nét thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc.
Nếu như những thi nhân khác vẽ Tây Bắc bằng lời ngưỡng vọng, tò mò hướng đến nơi phương xa đất lạ, thì Quang Dũng,
một người lính trải nghiệm Tây Bắc bằng cả tâm hồn mình, đã phác lên một Tây Tiến tràn ngập hình ảnh người lính anh
dũng lãng mạn, cũng tràn ngập nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc thơ mộng hùng vĩ mà khắc nghiệt nơi binh đoàn Tây Tiến
của Quang Dũng đóng quân.
Nhân vật chính của đoạn thơ: binh đoàn tây tiến binh đoàn nơi Quang Dũng công tác được -
thành lâp năm 1947, hoạt động chủ yếu ở vùng núi cao Tây Bắc với sứ mệnh bảo vệ vùng biên giới
việt lào. Tới năm 1948, khi phải rời xa đơn vị cũ, tại làng phù lưu chanh, tác giả đã chắp nỗi nhớ, nỗi
hoài niệm những buồn vui gian khổ về Tây Tiến thành vần thơ và cho ra đời bài thơ Tây tiến. Cũng
bởi phần đông chiến sĩ của đoàn binh là các học sinh, sinh viên, thanh niên của thủ đô hà nội nên giữa
mùi khói lửa chiến tranh, trong điều kiện hết sức gian khổ, thiếu thốn dòng ký ức được tại hiện trong
bài thơ tràn ngập màu lạc quan kiên cường anh dũng và hào hoa. Ban đầu bài thơ mang tên “ Nhớ Tây
Tiến”, nhưng về sau lại đổi thành “ Tây Tiến”. Hai tiếng “Tây Tiến” vang lên tạo ra âm hưởng mạnh
mẽ, chắc khỏe gợi cho độc giả hình dung về một binh đoàn anh hùng, gợi mở về không gian rộng lớn
của vùng núi Tây Bắc đồng thời bước đầu dẫn dắt người đọc đến với chân dung, hình tượng kiêu
hùng của những người lính Tây Tiến năm xưa. Phải chăng nhà thơ đã xoá đi từ “ nhớ” để khúc ca
chiến sĩ sẽ trở nên hoành tráng hơn? Để nỗi nhớ xuyên suốt, rạo rực như mạch máu nóng đưa tác giả
trở về hồi ức năm ấy?
Mở đầu hành trình trở về Tây Tiến, đó là nỗi nhớ thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở hùng vĩ
cùng với chặng đường hành quân đầy gian khổ của binh đoàn Tây Tiến. Mà con sông Mã đã mở đầu
cho nguồn cảm xúc chủ đạo bao quat toàn bài thơ:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Sông Mã là dòng sống chảy từ Thượng Lào vào đất Việt, là hình ảnh của thiên nhiên Tây Bắc
hoang sơ, hùng vĩ, là dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Tác giả đã gọi tên con sông Mã ở đầu tiên
trong nỗi nhớ của mình vì con sông còn là người bạn , là nhân chứng lịch sử đã theo suốt chặng
đường hành quân chứng kiến biết bao buồn vui, mất mát hi sinh của người lính Tây Tiến. “ Xa rồi” là
xa về không gian và thời gian, được đặt ở giữa hai địa danh sông Mã và Tây Tiến tạo nên khoảng
không xa xăm, mênh mông vời vợi. Tây Tiến và sông Mã đứng ở hai đầu nỗi nhớ mà hướng về nhau.
Cách gọi “ Tây Tiến ơi” gợi lên sự thân thương gần gũi đưa người đọc đến một nỗi nhớ da diết. Đó là
nỗi nhớ đồng đội, nhớ núi rừng Tây Bắc. Tác giả dùng rất độc đáo và chính xác sắc thái của nỗi nhớ
qua từ láy “chơi vơi “. Đó là nỗi nhớ không hình, không tượng nhưng cũng rất sâu nặng và mênh
mang. Bởi nó không đo được chỉ biết lửng lơ, ám ảnh trong tâm trí của thi nhân. Chúng ta cũng từng
gặp nỗi nhớ ấy trong ca dao:
“ Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải, nhớ chăn bạn nằm”
Hay trong thơ của Xuân Diệu cũng từng xuất hiện một nỗi nhớ độc đáo thế:
“ tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Câu thơ bảy chữ ngắt nhịp 4/3 và điệp từ nhớ được đặt ở đầu hai vế câu đã diễn tả một nỗi
nhớ da diết cháy bỏng như từng đợt sóng trong lòng, nỗi nhớ này chưa qua thì nỗi nhớ khác đã ùa về
trào dâng trong ký ức của nhà thơ. Hai câu thơ sử dụng hai vần “ơi” âm tiết mở lại là thanh bằng tạo
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
âm hưởng vang vọng ngân xa trong cả không gian, thời gian đều ngập tràn trong nỗi nhớ. Dường như
Quang Dũng đã đưa người đọc vào miền của nỗi nhớ một cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ.-
Những kí ức mãnh liệt ấy khép lại nhưng lại như mở ra trước mắt người đọc một hành trình
mới với những con người anh dũng, quả cảm của một thời lịch sử đã qua. Và cứ như thế những kí ức
về chặng đường hành quân đầy vả và gian khổ hiện lên trong tâm trí của nhà thơ. Nó đã được Quang
Dũng khắc hoạ thành một bức tranh sinh động và không kém phần hùng vĩ nơi Tây Bắc:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Trong đoạn thơ trên, tác giả đã liệt kê một loạt các địa danh bản làng : Sài Khao, Mường Lát,.. Đây là
những địa danh rất quen thuộc gắn bó với binh đoàn Tây Tiến. Từ đó, Quang Dũng như đưa người
đọc khám phá về nhưng mảnh đất mới xa xôi, heo hút lạ lẫm của Tổ Quốc. Không phải ngẫu nhiên
mà ông viết thế bởi có lẽ :
“ khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Ấn tượng đâu tiên về núi rừng Tây Bắc đó là màn sương mù dày đặc bao phủ Sài Khao. Đó không chỉ
là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương của kí ức, hoài niệm và nỗi nhớ.” Sài khao sương
lấp đoàn quân mỏi”. Qua bút pháp tả thực “ đoàn quân mỏi” gợi lên hình ảnh về một binh đoàn Tây
Tiến đang thấp thoáng ẩn hiện trong màn sương trên một chặng đường hành quân gian lao và vất vả.
Câu thơ ngắt nhịp 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ “ lấp” gợi tả được mà sương mênh mông dày
đặc một thiên nhiên khắc nghiệt, dữ dội. Từ đó ta hiểu và thấm hơn về sự vất vả trên chặng đường
hành quân đầy hiểm nguy của binh đoàn Tây Tiên. Đung như lời bình luận của nhà thơ Vũ Quần
Phương : “ đoàn quân không gợi chút nào cái hùng sân khấu mà đoàn quân mệt mỏi vì đường xa, bụi
bặm và đói khát”. Thế nhưng trong sự khắc nghiệt ấy lại ánh lên nét lãng mạn thơ mộng của “ đêm
hơi” :
“ Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
câu thơ mang vẻ đẹp huyền ảo mơ hồ với khói sương bồng bềnh. Quang Dũng sử dụng rất đắt và hay
từ “ hoa” với nhiều cách cảm nhận đa chiều phong phú khác nhau. Đó có thể là những bông hoa rừng
được người lính Tây Tiến mang về Mường Lát. Hay đó cũng chính là người lính Tây Tiến được ví
như những bông hoa tuyệt đẹp của núi rừng Tây Bắc đang trở về hội tụ nơi đây. Phải chăng con người
chính là trung tâm của cái đẹp? Hay đó cũng chính là hình ảnh của những người lính Tây Tiến hành
quân trong đêm tay cầm những ngọn đuốc giống như những bông hoa lửa lung linh trong khói sương
mờ ảo. Dù hiểu theo cách nào người đọc vẫn cảm nhận được những khó khăn gian khổ mà người lính
Tây Tiến đã trải qua. Và mặc dù vậy, họ vẫn vượt lên trên khốc liệt của chiến tranh để tâm hồn thăng
hoa trong cảm xúc cách nhìn của họ vẫn lãng mạn, mơ mộng và hào hoa.
Nhưng bức tranh thiên nhiên ấy còn dữ dội và khắc nghiệt hơn qua hình ảnh dốc núi Tây
Bắc:
“ Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Quang Dũng đã sử dụng các từ láy một cách độc đáo và tài tình. “ khúc khuỷu” gợi tả những chặng
đường gập ghềnh quanh co lúc ẩn lúc hiện, gấp khúc đứt nối. Còn “ Thăm thẳm” không chỉ gợi được
chiều cao mà còn gợi ấn tượng về chiều sâu, cảm giác như đến tận cùng cũng không biết đâu là giới
hạn cuối cùng. Qua câu thơ đã gợi lên bức tranh Tây Bắc hiểm trở hoang sơ, làm dốc nhiều đèo. Bên
cạnh đó, điệp từ “ dốc” kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 gợi cảm giác con dốc này chưa qua thì con dốc
khác đã hiện ra thăm thẳm trước mắt. Câu thơ 5/7 là thanh trắc gợi cảm giác gập ghềnh khó khăn trắc
trở khiên chúng ta liên tưởng đến câu thơ của Lý Bạch trong “ Thục đạo nan”:
“ Thục đạo chi nan
Nan y thướng thanh thiên”
Nhưng con dốc còn cao đến độ “ Heo hút côn mây súng ngửi trời” gợi lên sự khắc nghiệt và sự độc
đáo trong ngôn từ của Quang Dũng. Qua từ láy “ heo hút” người đọc hình dung trước mắt được sự
hoang vu vắng vẻ hiu quạnh nơi núi rừng hiểm trờ giữa không gian bao la hùng vĩ”. Bên cạnh đó còn
Ĉ Ă1*.é.$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
là sự liên tưởng độc đáo kết hợp bút pháp nhân hoá “ Súng ngửi trời” . Đó là hình ảnh đẹp hào hùng
và hào hoa. Những người lính Tây Tiến trong tư thế trên đỉnh núi cao nhất đứng giữa mây ngàn lòng
súng chạm trời. Đó là tư thế làm chủ thiên nhiên chân dung con người được đặt ở tầm vóc vũ trụ đẹp
đẽ hào hùng. Câu thơ dường như gợi nhắc chúng ta về hình ảnh của người lính vệ quốc trong thơ của
Tố Hữu :
“ Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo”
Chữ “ngửi” có thể thay bằng từ “chạm” nhưng chữ “ chạm” chỉ miêu tả được độ cao. Còn chữ “ ngửi”
không chỉ miêu tả được độ cao mà còn miêu tả được vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến.
Dưới cái nhìn của họ, ngọn sứng như đang tò mò thám hiểm trời xanh. Đó là cái nhìn lãng mạn, hồn
nhiên, trẻ trung và tinh nghịch. Chính nét hiên ngang hồn nhiên ấy không hề bị lu mờ trước sự thách
thức của thiên nhiên mà càng thêm nổi bật:
“ Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
“Ngàn thước” là nghệ thuật điệp với ước từ chỉ số lượng mang tính chất ước lệ. Qua nghệ thuật đối
lập hai động từ “ lên” và “xuống” kết hợp với nhịp câu thơ 4/3, khiến câu thơ như bị bẻ gãy làm đôi
miêu tả được hai chiều không gian Tây Bắc : vừa có độ cao lên đến tận cùng , vừa có chiều sâu thăm
thẳm như đến cõi vô biên. Ngòi bút tạo hình gân guốc rắn rỏi đã khắc hoạ ấn tượng sông núi miền
Tây Bắc đầy hiểm trở hùng vĩ. Chính vì thế nhà thơ Trần Lê Văn đã từng nhận xét “ đọc câu thơ và
nghe như đã muốn mòn chân mỏi gối”. Chỉ bằng một vài nét gợi cách sử dụng thanh điệu, từ láy, tác
giả đã đặc tả được núi cao Tây Bắc quanh co gập ghềnh hiểm trở và đồng thời cũng mang vẻ đẹp
hùng vĩ. Từ đó thấy được con đường hành quân đầy nhọc nhằn của người lính Tây Tiến.
Trải qua một chặng đường hành quân vất vả để rổi tác giả như vỡ oà trước cảnh thôn quê
thanh bình- thứ mà họ đang cố gắng để bảo vệ từng ngày:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Quang Dũng đã thả xuống một câu thơ hoàn toàn là thanh bằng, kết hợp với âm tiết mở khiên câu thơ
như một dấu nặng đột ngột nâng nâng êm đềm, như một chỗ dừng chân sau một chặng đường gian lao
và vất vả. Đaị từ phiếm chỉ “ nhà ai” đã gợi tả một ngôi nhà không xác định nhạt nhoà trong màn
mưa. Câu thơ đã miêu tả màn mưa giăng mắc khắp núi rừng : cảnh vật thân quen, thanh bình khiến
tâm hồn người lính trở nên thanh thản sau một chặng đường hành quân đầy sương gió. Nếu như ở ba
câu thơ trên có 11 thanh trắc gợi cảm giác nặng nề mệt mỏi thì câu thơ thứ tư hoàn toàn là thanh bằng
gợi cảm giác nhẹ nhàng. Sự phối thanh trong đoạn thơ cũng giống như sự phối màu trong hội hoạ:
giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng nhưng gam màu lạnh làm dịu lại xoa mát cả khổ thơ.
Chính vì thơ nhà thơ Xuân Diệu đã từng nhận xét : “ Đọc Tây Tiến như ngậm âm nhạc trong miệng ”
Hành trình trở về nỗi nhớ trong kí ức của nhà thơ lại dừng chân ở một bản làng Tây Bắc mà
luôn có sự rình rập của thú hoang và sự cuồng bạo của thiên nhiên:
“ chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Từ láy hoàn toàn chỉ thời gian : “ chiều chiều , đêm đêm” là thời gian được lặp đi lặp lại cho thấy sự
vĩnh hằng, trường cửu. Màn đêm buông xuống sự hiểm nguy trở nên khắc nghiệt hơn bao giờ hết qua
nghệ thuật nhân hoá đặc sắc : thác gầm thét và cọp trêu người. Độc đáo hơn đó là phép phối thanh
được sử dụng rất tinh tế : thác thét, hịch cọp. Thác –- - thét ở âm vực cao gợi tả âm thanh tiếng thác
nước man dại, dữ dội, hịch cọp âm vực thấp góp phần miêu tả những bước chân nặng nề đang ngày -
đêm đe doạ con người. Qua hai câu thơ gợi lên sự âm u đầy huyền bí nguy hiểm đang đe doạ con
người vừa cảm phục tấm lòng của những người lính Tây Tiến.
Kết thúc chặng đường hành quân gian khổ mà hào hùng ấy, Quang Dũng có những khoảng
lặng riêng, một cảm nhận về một thời xưa cũ với những người đồng đội đã kề vai sát cánh cùng ông
vượt qua bao gian khổ:
“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hai tiếng “Anh bạn” cất lên giữa những nỗi bâng khuâng trong cảm xúc như một tiếng nấc nghẹn
ngào. Từ láy “ dãi dầu” như diễn tả một phần nào đó sự khó khăn gian khôt mà người lính Tây Tiến
phải trải qua trên dọc đường hành quân. Chính vì thế, có những người “ không bước nữa “ và “ bỏ
quên đời”. Đó là khoảnh khắc nghỉ ngơi , nỗi mệt mỏi dường như bao trùm khiến họ kiệt sức không
Ĉ Ă1*.é.$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
thể tiếp tục qua bút pháp tả thực. Hay chúng ta có thể hiểu đó là nghệ thuật nói gỉam nói tránh đề cập
đến sự hi sinh của những người lính Tây Tiến. Cách nói như vậy khiến người lính đối diện với cái
chết vẫn ngang tàng ngạo nghễ nhẹ nhàng thanh thản vì họ đã hi sinh thân mình vì dân tộc. Nhà thơ
không hề né tránh những mất mát hi sinh vì đó là một phần tất yếu của chiến tranh. Dù có hi sinh
những khi gục xuống thì họ vẫn có súng mũ bên mình. Đó trở thành một vật bất li thân. Qua hai câu
thơ trên Quang Dũng đã tái hiện hiện thực chiến tranh từ đó người lính Tây Tiến hiện lên kiên cường
hào hùng với tinh thần yêu nước thiết tha.
Khép lại khổ thơ, Quang Dũng đã đưa người đọc trở lại một bức tranh thẫm đẫm tình quân
dân gắn bó trên mảnh đất Tây Bắc thân yêu:
“ Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Thán từ “ ôi” kết hợp với từ nhớ đã diễn tả một nỗi nhớ trào dâng, ăm ắp trong lòng không thể kìm
nén được mà bật lên thành lời. Hình ảnh cơm lên khói như một sự chuyển biến về hình ảnh . Tất cả
đều ấm lại, sự ấm áp như tràn ngập trong lòng người chiến sĩ khi chứng kiến hình ảnh cuộc sống
thanh bình của nhân dân. Nhưng không thể không nói đến sự kết hợp từ độc đáo và đắc địa “ mùa
em”. Từ “ mùa” là một từ đơn vị thời gian chỉ sự sinh sôi dào dạt sức sống. Còn “ Em” là cách xưng
hô đầy tình tứ. “ Mùa em’” gợi lên hình ảnh mùa lúa chín gặp em hay cũng có thể hiểu là mùa của
niềm thương nỗi nhớ, của những tấm lòng thơm thảo. Những kí ức ấy đã trở thành dấu ấn in sâu trong
trái tim của những người lính. Mùa hương thơm của cơm nếp của vùng Tây Bức không chỉ để thương
để nhớ cho Quang Dũng mà còn để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm trí của Chế Lan Viên:
“ Đất Tây Bắc tháng này không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương.”
Hai câu thơ chủ yếu là thanh bằng gợi cảm giác bồng bềnh xao xuyến trong nỗi nhớ về một khoảnh
khắc đã xa. Tất cả đều hoà quyện vào nhau để tạo nên một nỗi nhớ đọng lại sâu trong kí ức của độc
giả.
Mười bốn câu thơ đầu tiên khép lại, một bức tranh về mảnh đất Tây Bắc hiểm trở khắc nghiệt
hùng vĩ những cũng rất đỗi thơ mộng lãng mạn được khắc hoạ sinh động hấp dẫn. Nổi bận trên nền
núi rừng ấy, là hình ảnh của những người lính Tây Tiến kiên cường trên chặng đường hành quân đầy
gian lao vất vả. Qua đó ta thấy được vẻ dẹp tâm hồn đầy lạc quan tinh nghịch của những chàng trai
Hà Thành. Tất cả điều đó đều được nhà thơ thể hiện qua các biện pháp tư từ : nhân hoá, điệp, phép
đối cùng các động từ mạnh , phép phối thanh tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao,.. Từ đó đã để lại ấn
tượng như một khúc ca kháng chiến kết hợp hài hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Tám câu thơ tiếp theo mở ra một bức tranh mới, cảm xúc mới, một đêm liên hoan lửa trại
thẫm đẫm tình quân dân cùng những người đồng đội cũ. Một cách chuyển đổi cảnh vô cùng tinh tế, tất
cả sự hiểm trở quanh co đều biến mất để nhường chỗ cho những đường nét mềm mại, uyển chuyển
đầy tinh tế:
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”
Trải qua cả một quãng hành trình đầy máu và sương, đoàn quân dừng chân tại doanh trại và nhận
được sự đón tiếp nồng hậu thân tình của những con người Tây Bắc. Có lẽ đây là kỉ niệm khó nhớ vô
cùng trong quãng đời người lĩnh của Quang Dũng. Động từ ‘ bừng” như làm bừng sáng lung linh cả
khoảng trời Tây Bắc bởi những ngọn đuốc trong đêm liên hoan. Trong Việt Bắc, Tố Hữu cũng từng
có kỉ niệm như thế :
“ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”
Phải chăng bừng lên còn bởi không khí lễ hội vui tươi phấn khởi, náo nức mê say của đêm hội liên
hoan. Có lẽ trong cuộc đời cái khoảnh khắc ấy đối với Quang Dũng là không nhiều. Ở đây nhà thơ đã
có cách sử dụng từ ngữ vô cùng độc đáo “ đuốc hoa” Đó là hình ảnh tả thực những ngọn đuôc bập
bềnh cháy như những bông hoa lửa xoè nở giữa núi rừng Tây Bắc. “Đuốc hoa” lấy nghĩa từ chữ Hán
là “ hoa chúc” nến thắp trong phòng vợ chồng đêm tân hôn. Từ đó có thể Quang Dũng đang gửi gắm
khát vọng hạnh phúc về tình yêu đôi lứa. chúng ta cũng từng gặp hình ảnh đuốc hoa trong dân ca quan
họ Bắc Ninh:
“ còn duyên ngồi gốc cây thông
Hết duyên ngồi gốc cây hồng hái hoa
Ĉ Ă1*.é.$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
Có yêu nhau sang chơi cửa chơi nhà
Cho thầy mẹ biết để đuốc hoa định ngày
Với không khí tưng bừng của lễ hội những ánh nến lung linh dưới cái nhìn lãng mạn của người lính
Tây Tiến thì doanh trại vốn là nơi của kỉ luật trật tự nay bỗng tràn ngập ánh sáng ấm áp niềm vui say
mê của những chàng trai cô gái trẻ tuổi. Trong phút chố, doanh trại trở thành sân khấu cho đêm hội
ánh sáng lung linh huyền ảo giữa núi rừng.
Trong cái lễ hội tưng bừng ấy hình ảnh của các cô gái hiện lên thật lỗng lẫy. Những cô gái
này không được miêu tả kĩ ở chân dung, ở nhan sắc mà hiện lên vô cùng đẹp đẽ qua từ “ Xiêm áo”
Đây là từ Hán Việt cổ chỉ những bộ trang phục cầu kì, lộng lẫy hết sức mới lạ và đẹp đẽ. Chính vì thế,
câu thơ đã gợi lên sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, thích thú trong ánh nhìn của người lính Tây Tiến
trước sự xuất hiện của các cô gái miền Sơn Cước qua thán từ “ kìa” và cụm từ “ tựa bao giờ”. Không
chỉ là đêm hội của ánh sáng, mà đêm hội ấy còn rộn rã âm thanh và nhịp nhàng những điệu múa.
“Khèn” là nhạc cụ truyền thống của một số đồng bào dân tộc thiểu số của vùng núi cao Tây Bắc.
Trong tiếng khèn còn là hồn vía của núi rừng, là tâm tư tình cảm của những con người nơi đây. Tiếng
khèn cất lên làm sống dậy cả một vùng văn hoá bản địa. Bên cạnh đó., Quang Dũng đã sử dụng từ
“ Man điệu” hết sức tài hoa để nói lên những vũ khúc hoang sơ, những vũ khúc ấy hoà với vẻ đẹp e ấp
tình tứ của “em” khiến cho chàng lính trẻ say mê ngây ngất. Một điều đặc biệt trong cách sử dụng từ
của Quang Dũng là cách xưng hô. Ban đầy là “em” sau đó chuyển thành “ nàng” lúc này những cô gái
giống như những nàng tiên kiều diễm đẹp đẽ lộng lẫy, huyền ảo khiến tâm hồn những người lính ngây
ngất trước cảnh và người. :
“ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Mở đầu là nhạc kết thúc là thơ kết hợp với một loạt các thanh bằng diễn tả cảm giác bay bổng say
mê , nâng cánh tâm hồn người lính bay đến kinh đô của cõi mộng, cõi mơ. Người lính say sưa đắm
chìm trong bữa tiệc thịnh soạn của tâm hồn. Đoạn thơ đã tái hiện một buổi liên hoan văn nghệ thấm
đẫm tình quân dân, đậm màu sắc văn hoá bản địa. Từ đó còn thấy được vẻ đẹp lãng mạn hài hoa, nét
đa tình trẻ trung của những người lính Tây Tiến. Với khoảnh khắc ấy người lính không thoát khỏi
thực tại, chốn chạy thực tế mà những giờ phút áy trở thành niềm động viên để người lính cân bằng sau
những gian khổ hi sinh bảo vệ đất nước.
Dọc theo hành trình trở về kí ức mang tên Tây Tiến, ta một lần nữa bắt gặp cảnh sắc đẹp đẽ,
nên thơ núi rừng Tây Bắc. Đó là khung cảnh chia ta miền sông nước hoang vắng tĩnh lặng, có chút
man mắc buồn:
“ người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Câu thơ thứ nhất, có nhân vật là người đi, có không gian là “ Châu Mộc” có thời gian là “ chiều sương
ấy” . Nhưng tất cả đều nhoà mờ hư ảo trong cảm giác xa xôi, u buồn và tiếc nhớ. Biện pháp nhân hoá
“ hồn lau “ được sử dụng một cách độc đáo. Cây lau xuất hiện trong thơ của Quang Dũng như một
điều hiển nhiên bởi có lẽ nó là một hình ảnh đắc trưng của núi rừng. Trong “Việt Bắc” Tố Hữu” cũng
đã viết :
“ Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
Hay trong thơ của Chế Lan Viên;
“ Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau chỉ trắng có một mình”
Nhưng đối với thơ của Quang Dũng, ông không chỉ nhìn thấy cây lau, ngàn lau mà ông còn thấy
“ hồn lau”. Nó không chỉ là linh hồn của cây lau mà có lẽ đó là chính linh hồn của thiên nhiên rừng
núi Tây Bắc đang trở về hội tụ nơi đây trong một buổi chiều sương lạnh. Nó cũng biết nhớ biết
thương. Tác giả đã cảm nhận rất tinh tế hai từ này. Bởi nó gợi cảm giác hoang vắng thiêng liêng và có
chút phảng phất tâm linh của núi từng. Bên cạnh đó , cụm từ “ nẻo bến bờ “ gợi cmar giác xa xôi heo
hút vắn vẻ và cô tịch. Tác giả hỏi có “ có thấy” dường như khác sâu nỗi nhớ hơn nữa. có lẽ, để thấy
được những vạt lau chỉ cần sự quan sát của thị giác. Nhưng để cảm nhận được hồn lau thì phải là
người sống ở đây quen thuộc và yêu mảnh đất này lắm, phải có sự lãng mạn tinh tế nhiều lắm thì mới
có thể nhận ra được điều đó. Hơn hết, tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp câu hỏi tu từ “ có thấy- có
nhớ” như chạm khắc vào lòng người đọc một nỗi nhớ da diết cháy bỏng khôn nguôi :
“ có nhớ dáng người trên độc mộc
Ĉ Ă1*.é.$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.’
Nếu như ở hai câu thơ trên là câu gợi nhắc về thiên nhiên Tây Bắc thì ở câu thơ thứ ba là câu hỏi gợi
nhớ về con người Tây Bắc. Đó là hình ảnh của con thuyền “ độc mộc” một loại thuyền nhỏ làm bằng
từ thân cây gỗ, là phương tiện di chuyển chủ yếu trên sông suối, vượt thác băng rừng của người dân
miền núi. Để điều khiển được con thuyền này không chỉ đỏi hỏi sự khéo léo, uyển chuyển mà còn
phải có sức khoẻ bản lĩnh và kinh nghiệm. Hình ảnh của con người Tây Bắc trên con thuyền độc mộc
băng thác lũ mưa rừng gợi vẻ đẹp kiên cường mạnh mẽ khoẻ khoắn. Đó là hình ảnh con người chinh
phục thiên nhiên khác hẳn với con người của thời trung đại trong thơ của Nguyễn Du:
“ hoa trôi man mác biết là về đâu”
“ trôi dòng nước lũ” là hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội làm nền cho con người xuất hiện đẹp
đẽ và con người trở thành trung tâm của bức tranh. Hơn hết Quang Dũng đã sử dụng đắc địa từ “đong
đưa” chứ không phải từ “ đung đưa”. Có lẽ bởi nếu như “đung đưa” chỉ là chuyển động một cách cơ
học thì “ đong đưa” lại gợi cách chuyển động nhẹ nhàng , uyển chuyển mềm mại như đang làm duyên
làm dáng với dòng nước lũ. Câu thơ trở nên tình tứ và đó còn là sự tài hoa, tinh tế lãng mạn của
những người lính Tây Tiến, những đứa con từ giã Hà Thành hoa lệ để cầm súng chiến đâu bảo vệ quê
hương.
Đoạn thơ thứ hai là một khúc nhạc đầy chất hoạ. Đó là nhạc điệu cất lên từ tiếng khèn, là tâm hồn trẻ
trung của người lính. Hình ảnh thơ tạo nên bởi đường nét hài hoà mang chất trữ tình lãng mạn của nhà
thơ phần nào cho thấy sự lạc quan yêu đời của những người lính. Bên cạnh nỗi nhớ về thiên nhiên
hùng vĩ thơ mộng cùng đồng đội cũ, thì còn tập trung tái hiện lên hình ảnh bi tráng, oai hùng của
người lính Tây Tiến.
Nếu như đoạn đầu của bài thơ là nỗi “nhớ chơi vơi” bao kỉ niệm đẹp và cảm động của một
thời trận mạc đầy gian khổ, hy sinh thì tám câu thơ đoạn ba lại khắc họa khí phách anh hùng và tâm
hồn lãng mạn của người chiến sĩ trong máu lửa, qua đó thể hiện rõ niềm tự hào của tác giả. Bốn câu
thơ đầu tác giả đã khắc hoạ thành công hình ảnh của người lính Tây Tiến trong những năm tháng hào
hùng của dân tộc:
“ Tây Tiến đoàn bình không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Mở đầu khổ thơ là đảo ngữ “ Tây Tiến” nhằm nhấn mạnh khắc sâu ấn tượng về một cái tên Tây Tiến,
chỉ riêng cái tên thôi đã gợi trong longd nhà thơ biết bao kỉ niệm về một quãng đời không thể nào
quên. Không chỉ thế vượt qua gió bụi của thời gian Tây Tiến đã đi vào lịch sử như một đoàn binh có
một không hai, là chủ nhân của một thời đại gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc. Bên cạnh đó,
những người lính Tây Tiến với cái tên “ Đoàn binh” là từ Hán Việt gợi cảm giác về một đoàn quân
được trang bị đầy đủ và tinh nhuệ. Qua bút pháp tả thực, cụm từ ‘ không mọc tóc” hiện lên đầy ấn
tượng qua cách sử dụng bút pháp hiện thực đề cập đến sự khốc liệt của chiến tranh. Đó là những cơn
sốt rét rừng hành hạ khiến cho người lính Tây Tiến bị rụng hết tóc. Trong văn học kháng chiến không
ít lần chúng ta bắt gặp hình ảnh của những cơn sốt rét rừng. Như trong tác phẩm “ đồng chí “ của
Chính Hữu :
“ anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Hay Nguyễn Đức Mậu cũng từng viét :
“ nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân”
Cách diễn đạt của Quang Dũng thật độc đáo khi chuyển “ không mọc tóc “ từ thế bị động
sang thế chủ động không thèm mọc tóc khiến chó người đọc cảm nhận về một đoàn quân kiêu hùng
ngang tàng , bất châp mọi hiểm nguy , gian khổ. Họ vẫn kiêu hãnh nhìn thẳng về phía trước, lạc quan
hài hước và hóm hỉnh. Trong sự thiếu thốn trăm bề ấ là hình ảnh của người lính Tây Tiến hiện lên thật
chân thực và oai hùng : “ Quân xanh màu lá dữ oai hùm” . Xanh màu lá là hình ảnh tả thực : màu
xanh ấy có thể là màu xanh của quần áo lính, màu lá nguỵ trang .H ay đó có thể là xanh như lá cây do
những cơn sốt rừng, do đói ăn khát sống bệnh tật, thiếu thốn trăm bề. Nhưng độc đáo hơn là cụm từ
“ dữ oai hùm” qua bút pháp ẩn dụ độc đáo. Bên ngoài hình tượng tưởng chừng như tiều tuỵ ấy là cả
một khí phách, một bản lĩnh kiên cường, một sư oai nghiêm sữ dằn đầy sức mạnh như một vị chúa
Ĉ Ă1*.é.$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
sơm lâm. Đúng như nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Lối viết của Quang Dũng thật tài hoa.
Nói được lính ốm mà không thấy lính yếu”.
Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật... muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những
giấc “mơ”, giấc “mộng” rất đẹp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Chân dung người chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng, oai phong trong dáng vẻ dữ
dội, uy nghi mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn. “ Mắt trừng” là từ để diễn tả
một ánh nhìn đầy căng thẳng nung nấu, chưa đựng bao hoài bão hướng về kẻ thù. Đó là cái nhìn đầy
oai phong lẫm liệt. Còn “ Mộng” là ước mơ giết giặc lập công của những người chiến sĩ. Đó là cái
mộng để hướng tới cuộc sống hoà bình, độc lập cho dân tộc. Đây là cái mộng cao cả xuất phát từ tình
yêu quê hướng đất nước. Mộng của người chiến sĩ Tây Tiến rất giống với quan niệm nợ công da nh
của những trang hào kiệt đấng nam nhi thời Trung đại. Mộng thì gửi về biên cương nhưng mơ thì
hướng về Hà Nội :
“ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các
anh vẫn mơ về Hà Nội. Quên sao dược những hàng me, hàng sấu, nhưng phố cũ trường xưa, “Những
phố dài xao xác hơi may?”... Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thương yêu, những
“dáng kiều thơm" từng hò hẹn . Đó có thể là người vợ, người yêu hay một người em gái chưa từng
dám ngỏ lời. Câu thơ thể hiện cái nhìn lãng mạn, đa tình, cũng như gửi gắm khát khao thầm kín về
hạnh phúc lứa đôi. Bởi chiến sĩ Tây Tiến vốn là những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà hành
“xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa: “Từ thuở mang gươm đi
giữ nước Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long” (Huỳnh Văn Nghệ).-
Quang Dũng đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lính Tây Tiến : vẻ ngoài xanh xao, tiều
tuỵ nhưng mang một ý chí mạnh mẽ, tư thế chiến đấu oai hùng, tinh thần yêu nước hiết tha và âm hồn
lãng mạn hào hoa. Đó cũng chính là một nét khám phá mới của nhà thơ khi vẽ chân dung anh bộ đội
cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến trống Pháp. Bên cạnh đó đoạn thơ
nhưng mộ khúc hùng ca bi tráng oai hùng về một thời đại không thể nào quên với Quang Dũng và
những người lính Tây Tiến qua sự kết hợp tài tình giữa bút pháp lãng mạn và bút pháp hiện thực, sử
dụng thành công các biện pháp tu từ : ẩn dụ, đảo ngữ,.. cùng một lối diễn đạt giàu cảm xúc, giàu hình
ảnh.
Dải đất hình chữ S thân yêu đã độc lập từ rất lâu nhưng có lẽ hình ảnh của những người chiến sĩ đã
ngã xuống vẫn in sâu trong từng tấc đất, bản làng, ngõ xóm,.. Tưởng chừng tất cả đã qua đi nhưng
hình ảnh xương máu của cha ông một lần nữa được tái hiện trong âm hưởng bi tráng và niềm tự hào
dân tộc :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ.
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Câu thơ đầu đem đến một cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết: Rải rác biên cương/ mồ viễn xứ.
Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào chữ mồ, một âm tiết mang thanh bằng ở âm vực thấp,
một từ gợi ý nghĩa hiện hữu của cái chết, câu thơ vì thế đem đến cảm giác trầm buồn và ảm đạm.
Trong đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt : biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào,… Tất cả
được sử dụng một cách trang nghiêm như những nén tâm hương thắp lên để tưởng nhớ những người
chiến sĩ đã hi sinh vì tổ quốc. “Mồ” chỉ nắm đất đắp vội chôn ngay dọc đường hành quân để đoàn
quân tiếp tục lên đường đặt trong không gian nơi biên cương miền viễn xứ khiến nấm mồ ấy gợi bao
xót xa. Khi nằm xuống, bất cứ ai cũng mong trở về nơi quê hương đất mẹ, được vùi mình xuống dòng
nước mát quê hương. Nhưng ảm đạm thay họ phải hi sinh nơi đất khách quê người gợi biết bao
thương tiếc. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật đảo “ rải rác” lên đầu câu gợi sự thưa thớt.
Đó là những nấm mồ nằm lẻ loi dọc đường hành quân, cũng là nơi những người lính Tây Tiến đã nằm
xuống. Đó cũng chính là hiện thực chiến tranh tàn khốc mà không ai có thể trốn tránh. Nhờ đó, cảm
giác ảm đạm ngậm ngùi trong câu 5 đã nhanh chóng được xoá đi bởi tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi như một
lời tuyên thệ trong câu 6:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Ĉ Ă1*.é.$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem
đến nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh, đã nâng cao chí khi và tầm vóc người lính. Nghệ thuật đảo trong cụm từ “ Chiến
trường đi” nhấn mạnh điểm đến. Chiến trường chính là nơi hòn tên mũi đại đầy gian khổ hi sinh.
Nhưng chiến trường cũng chính là lựa chọn duy nhất đầy trách nhiệm của cả thế hệ trẻ vì đối với họ
“ đường ra trận mùa này đẹp lắm “ . Và cuộc đời đẹp nhất là trên trận chiến đấu chống quân thù.
Hơn hết, cách nói “ chẳng tiếc đời xanh” cho thấy sự dứt khoát quyết tâm. “ Đời xanh” là tuổi trẻ, là
thanh xuân của những “ chàng trai chưa trắng nợ anh hùng”.. những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ
quyết tử cho tổ quốc quyết sinh câu thơ vang lên như một lời thề thiêng liêng cao cả. Các anh quyết
đem xương máu để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. chúng ta cũng từng thấy tinh thần ấy trong
“ trường ca những người đi tới biển “ của nhà thơ Thanh Thảo:
“ chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi thì làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc”
Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá: Chúng ta thà hi sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu làm nô lệ. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến trường miền
Tây thuở ấy:
“Áo bào thay chiếu anh vế đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Hình ảnh “ áo bào thay chiếu “ là một hình ảnh thực đến xót xa của chiến tranh. Đó là sự thiêú thốn về
vật chất. họ hi sinh chỉ có tấm chiếu chôn vào lòng đất. Nhưng ở đây không có chiếu mà có áo bào.
Hình ảnh áo bào có lẽ chính là tấm áo lính họ mặc chiến đấu hằng ngày nó giống như những tấm áo
bào của tráng sĩ ngày xưa. Cách nói như vậy để vinh danh những người lính Tây Tiến như những
tráng sĩ có da ngựa bọc thây, áo bào bọc thấy. Quang Dũng có kể lại: “Khi tử sĩ nằm xuống không đủ
manh chiếu để liệm, nói áo bào thay chiếu là mượn cách nói của thơ trước đây để an ủi những người
đồng chí vừa ngã xuống". Còn cụm từ “ về đất” là cách nói giảm nói tránh nhưng có ý nghĩa biểu
tượng thiêng liêng và sâu xa . Chết không phải đi vào cõi hư vô mà là trở về với đất mẹ thân yêu. Đất
mẹ mở lòng dang tay đón những đứa con ưu tú của mình. Các anh đã ngã xuống để hoá thân cho dáng
hình xứ xở để mỗi tên làng, tên sông, tên núi đều có hình bóng các anh . Hình ảnh con sông Mã lại
một lần nữa xuất hiện : mở đầu cho cuộc hành trành trở về Tây Tiến trong kí ức của nhà thơ là con
sông Mã. Và lúc này khi tiễn đưa những người con trở về với đất mẹ cũng là con sông Mã. Với nghệ
thuật nhân hoá “ sông Mã gầm “ dòng sông ấy gầm lên trong cơn giận dữ đau thương và uất nghẹn.
Đau thương ấy sẽ biến thành sức mạnh của lòng căm thù. Hơn hết “ độc hành” tức là một mình.
Những ngừoi lính Tây Tiến hi sinh là những mất mát thiếu hụt không gì có thể bù đắp được để lại sự
thương tiếc xót xa và hụt hẫng.
Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất.
Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và
biểu lộ cảm xúc, tạo nên những câu thơ “có hồn”. Người lính đã sông anh dũng, chết vẻ vang. Hình
tượng người chiến sĩ Tây Tiến mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân
tộc.
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!
Đến khổ cuối của bài thơ, âm điệu trở nên thiết tha, sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng lòng rung lên
theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi hiện lên qua từng con chữ:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Tây Tiến một lần nữa xuất hiện ở đầu câu, gợi nhắc về một binh đoàn hào hùng kiêu dũng. Chỉ một
cái tên thôi đã gợi trong lòng Quang Dũng biết bao nhớ thương về một quãng đời không thể nào quên.
Cụm từ “ không hẹn ước” khẳng định ý chí của những người lính Tây Tiến. Họ ra đi mà không hẹn
ngày trở về. Bởi khi bước chân ra đi họ đã xác định “ nhất khứ bất phục phản”. Tư thế ra đi của người
lính Tây Tiến rất giống với tư thế ra đi của người ly khách trong “ Tống biệt hành” của Thâm Tâm:
“ ly khách! Ly khách con đường nhỏ
Chí lớn không về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ĉ Ă1*.é.$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
Ba năm mẹ già cũng đừng mong”
Có lẽ, Tây Tiến chỉ còn lại trong tâm trí của nhà thơ còn hiện thực thì “ thăm thẳm”. Đó là sự xa xôi,
cảm giác như hút tầm mắt không biết đâu là giới hạn cuối cùng. Cụm từ “ một chia phôi” và “ chẳng
về xuôi” gợi lên một tư thế ra đi đầy dứt khoát vững vàng. Họ từ giã gia đình ra nơi biên cương miền
chiến địa. Họ coi đó là một cuộc chia phôi không hẹn ước. Đó cũng chính là tinh thần chung của cả
thế hệ thời kháng chiến. Giọng thơ trầm lại nhưng ý thơ vẫn hào hùng.
Trước thực tế hiện tại, xuất phát từ tình đồng chí đồng đội, từ tình quân dân keo sơn, từ những kỉ niệm
và nỗi nhớ nhà thơ Quang Dũng khẳng định tâm hồn của mình luôn gắn bó với Sầm Nứa:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong lòng nhà thơ những hoài
niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời nhắn nhủ thiết tha. “Ai” là đại từ chỉ nhà thơ hay chỉ
người lính Tây Tiến, nó không được xác định. Có lẽ nhà thơ cố tình nói như thế để thay mặt cho tất cả
những người lính trong đoàn quân Tây Tiến dù còn sống hay đã chết đều trở về Sầm Nưa. Họ không
sinh ra ở mảnh đất biên cương heo hút, gian nan ấy nhưng họ lại nguyện gắn bó tâm hồn mình với nó.
“ Mùa xuân ấy” là một khoảng thời gian quý giá nhất trong cuộc đời. Đó là từ ngữ gợi nhắc đếm thời
điểm thành lập binh đoàn Tây Tiến : mùa xuân năm 1947. Hay đó là mùa xuân của tuổi trẻ : những
con ngừoi mang tuổi xuân chẳng tiếc đời xanh của mình, để góp phần làm nên mùa xuân lớn của dân
tộc. Họ đã để lại nơi cánh rừng, nhưng dòng sông ngọn núi, bản làng, nơi biên cương tổ quốc một
phần tuổi trẻ, quãng đời oanh liệt hào hùng với những kỉ niệm không thể nào quên. Chính vì thế câu
thơ cuối vang lên như một lời thề lời hứa :
“ hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Dù đã hi sinh hay chiến đấu thì người lính Tây Tiến vẫn tự nguyện gắn bó với mảnh đất Tây Bắc. Bởi
đó là cả thanh xuân của họ để lại.
Khổ thơ như một khúc vĩ thanh khép lại bài thơ để lại trong lòng người đọc biết bao xúc động. Đó
là ước hẹn thuỷ chung, gắn bó son sắt với mảnh đất và con người Tây Bắc, những đồng đội từng chia
sẻ thiếu thốn, hiểm nguy vào sinh ra tử. Đoạn thơ cuối này sử dụng bút pháp lãng mạn để nhấn mạnh
vẻ đẹp tinh thần hi sinh vì lí tưởng mang màu sắc lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến. Vẻ đẹp chân
dung của một tập thể anh hùng tiêu biểu cho một thời kì lịch sử bi tráng được khắc họa bởi bút pháp
tài hoa sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc. Đoạn thơ cũng bộc lộ tình đồng chí, đồng đội thắm
thiết của Quang Dũng. Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng
mạn, Quang Dũng đã dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân
thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân
tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp.
Bằng việc sử dụng bút pháp sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng mạn, âm hưởng bi tráng hào
hùng bài thơ Tây Tiến đã khắc hoạ thành công bức tranh Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ nhưng cũng rất
đỗi lãng mạng và thơ mộng. Mà nổi bật hơn cả là bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến anh
dũng lãng mạn mà hào hoa. Họ là những người lính trẻ mang trong mình những lý tưởng cao đẹp vì
đọc lập dân tộc. Bài thơ còn thể hiện ngòi bút tài hoa của Quang Dũng qua cách sử dụng từ ngữ độc
đáo, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, các biện pháp tu từ: điệp, liệt kê, ẩn dụ,…..
“ có khoảng không nào đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào sâu thẳm hơn tình thương”
Khép lại trang thơ Tây Tiến ta vẫn không khỏi ám ảnh, bồi hồi trước một hành trình theo mạch
cảm xúc nỗi nhớ về vẻ đẹp của sông núi, đắm đuối trước cái yên bình nồng đượm ẩn hiện trong nhưng
khung cảnh đường nét tuyệt mũ. Và ta cũng không sao quên được một bức tượng đài bất diệt về người
lính kiêu dũng, ngang tàng với một vẻ đẹp lãng mạn đến hào hoa như Phong Lan từng nhận xét: “ Lý
tưởng cách mạng đã truyền cho chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tang và chất men say lãng
mạn ngay cả khi họ chết cũng phảng phất nét nghệ sĩ tài tử”.
Nguyễn Diệu Linh
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Ĉ Ă1*.é.$+Ӑ&,1%2; 3 $*(
Bài làm 2:
Chiến tranh đã qua đi, những hạt bụi thời gian dần phủ dày lên ức của m tháng, tưởng
chừng thể vùi chôn đi hình ảnh của những anh hùng danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng
liêng của đã khắc tạc vĩnh viễn vào tâm hồn độc giả hình ảnh những người con anh hùng của đất
nước, họ đã dùng máu và nước mắt của mình tô lên hai chữ “độc lập” của dân tộc. Kho tàng văn thơ
kháng chiến Việt Nam không thiếu những bản anh hùng ca về những người lính cụ Hồ, trong đó Tây
Tiến là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong giai đoạn lịch sử khốc liệt những năm 1945 - 1954.
Với sự kết hợp tài tình giữa chất hoạ và chất nhạc, Quang Dũng đã dùng bút lực của mình để hoạ lên
thi đàn văn chương một bức tượng đài người lính Tây Tiến vừa lãng mạn tài hoa, vừa hào hùng bi tráng.
Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài, sức sáng tạo của ông ghi dấu trên nhiều lĩnh vực như: viết
văn, làm thơ, vẽ tranh, trong đó nổi bật hơn cả có thể kể đến thơ ca. Giữa rừng thơ ca kháng chiến muôn
màu muôn vẻ, hồn thơ Quang Dũng được độc giả đặc biệt ấn tượng với nét phóng khoáng, ngang tàng
nhưng rất đỗi hào hoa, lãng mạn điển hình cho tâm hồn của những chàng trai đất Hà Thành, và bài thơ
Tây Tiến chính là kết tinh tiêu biểu nhất cho hồn thơ ấy. Bài thơ được sáng tác vào cuối năm 1948,
trong một buổi liên hoan mừng công tại làng Phù Lưu Chanh – chưa lâu kể từ khi Quang Dũng rời binh
đoàn Tây Tiến để chuyển đến công tác ở đơn vị khác, trong cảm xúc nghẹn ngào, lưu luyến nhớ nhung
về binh đoàn Tây Tiến, Quang Dũng đã viết bài thơ này để ghi lại những cảm xúc thiêng liêng, những
kỉ niệm gắn đã với những người đồng đội chí cốt, với mảnh đất Tây Bắc tuy thâm u, trắc trở
nhưng cũng đầy thơ mộng và ấm áp tình người.
Bằng nét hào hoa, lãng mạn của thanh niên, trí thức Hà Thành, Quang Dũng đã mang đến cho
"Tây Tiến" một chất lính đầy mới lạ, cũng đầy xúc động qua cách khắc hoạ hình ảnh những người lính
có lí tưởng, luôn lạc quan trong mọi hoàn cảnh, những chàng thanh niên mang trong mình sức trẻ, tâm
hồn lãng mạn, hào hoa. Qua Tây Tiến, độc giả đón nhận một hình tượng hoàn toàn mới lvề người lính
trong kháng chiến, đó không chỉ là những con người yêu nước, cháy bỏng một niềm tin, lí tưởng "quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh" còn mang nét hào hoa, lãng mạn của những chàng trai tuổi đôi mươi.
Ngay trong chính nhan đề súc tích chỉ gói gọn 2 từ "Tây Tiến", tác giả đã rất khéo léo lồng ghép những
nội dung và tư tưởng muốn gửi gắm qua tác phẩm. Tây Tiến không chỉ viết về nỗi nhớ đồng đội, nhớ
mảnh đất Tây Bắc da diết, mà tác giả còn tái hiện đầy sống động hình ảnh bi tráng mà ngang tàng, vừa
hào hoa lại vừa bản lĩnh của người lính Tây Tiến xưa, khơi dậy trong lòng chúng ta những rung động
mạnh mẽ.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương,nỗi nhớ da diết về mảnh
đất Tây Bắc và binh đoàn Tây Tiến trên những chặng đường hành quân vất vả như dồn nén và rồi trào
dâng mãnh liệt trong lòng tác giả:
“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Sông Mã là một địa danh nổi tiếng hùng của miền Tây Bắc, đó cũng là một người bạn,
một người đồng hành cùng những người lính Tây Tiến sẻ chia những khó khăn, vất vả trên con đường
hành quân. Đi cùng chiều dài của lịch sử, Sông Mã chính là một chứng nhân lâu đời cho những chiến
công oanh liệt của dân tộc, là hiện thân của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội vừa thơ mộng, trữ
tình. Hai từ Tây Tiến trong tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” hiện lên sao mà thân quen, gần gũi đến thế,đối với
Quang Dũng, đó không đơn giản chỉ là tên một binh đoàn, một đơn vị mà đó còn là những người bạn,
những ngưi đồng chí đã từng gắn bó keo sơn trong suốt chặng đường Cách mạng. Lời thơ như một lời
xác nhận đầy tiếc nuối, rằng sông Mã đã xa và Tây Tiến cũng xa rồi. Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc
và những người đồng đội trong lòng tác giả là một nỗi nhớ “chơi vơi”, cách sử dụng từ láy tinh tế kết
hợp cùng phép điệp từ “nhớ” đã diễn tả thần tình nỗi nhớ vừa da diết cồn cào, vừa bồng bềnh lơ lửng,
nó cứ len lỏi, cứ ám ảnh day dứt mãi không thôi, đó là nỗi nhớ về những người đồng chí, nỗi nhớ “rừng
núi” - địa bàn gắn liền những người lính trên đường hành quân gian khổ. Nỗi nhớ ấy lửng lơ, giăng mắc
theo những con đường trùng điệp trong mây trời sương khói huyền ảo của miền đất Tây Bắc. Trong t
văn ngàn đời, chúng ta cũng đã bắt gặp cụm từ “chơi vơi” trong thơ của Xuân Diệu: “Tương nâng
lòng lên chơi vơi”, “Ra hay như trong ca dao cũng đã từng cách bộc lộ nỗi nhớ độc đáo như vậy :
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
về nhớ bạn chơi vơi”. Thanh âm mở của vần “ơi” như bắt nguồn cho một nỗi nhớ mênh mang, không
điểm tựa gợi dậy sự bồn chồn, xôn xao trong tâm hồn. Nhớ như vậy, có lẽ mới quay quắt, mới khiến
người ta nhói lòng.
Đi cùng với nỗi nhớ da diết của tác giả là những kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống
dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân
thiết, làm xao xuyến tâm hồn người chiến sĩ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Sài Khao, Mường Lát là những địa danh, bản làng xa xôi hẻo lánh mà binh đoàn Tây Tiến đã hành quân
qua hoặc đã có những phút giây ngơi nghỉ. Sài Khao là mảnh đất lắm sương nhiều khói, sương che lấp
đường đi, sương phủ kín bóng người, sương như tấm áo choàng bảng lảng chùm lên con sông, ngọn
suối, sườn đèo. Ta nghe đâu đây giữa núi rừng hiểm trở cheo leo những i thở mệt mỏi của các
chàng trai đất Hà thành nhọc nhằn trên chặng đường hành quân. Thế mà với trái tim nhạy cảm, tình yêu
tha thiết với mảnh đất con người y Bắc, họ như nghe từng hơi thở nhịp đập thậm chí là cái khe
khẽ trở mình của cỏ cây hoa lá trên đất Mường Lát khi màn đêm buông xuống. Hình ảnh “hoa” ở đây
có thể hiểu theo nhiều nghĩa, đó có thể là những bông hoa rừng hé nở trong đêm sương Tây Bắc, cũng
có thể là hình ảnh những ngọn đuốc soi đường của đoàn quân vào buổi đêm trông từ xa tựa như những
đoá hoa lửa bập bùng trên phông nền của thiên nhiên Tây Bắc, hay “hoa” cũng chính là hình ảnh ẩn dụ
cho những cô gái miền Tây duyên dáng, e ấp đầy quyến rũ lòng người.Song, dù hiểu theo cách nào thì
sự xuất hiện của hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” cũng giúp xoa dịu đi cái vất vả, mỏi mệt của những
người lính trên đường hành quân, làm cho ý thơ đầy chất hoạ.
Có thể nói Quang Dũng như một phóng viên lia ống kính một cách tài tình để mở ra trước mắt
người đọc một thước phim về núi rừng hiểm trở và cheo leo:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như những nét khắc, nét
vẽ giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây nhà thơ và đồng đội phải
vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). Câu thơ sử
dụng phần lớn là các thanh trắc, kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như bẻ câu thơ làm đôi, gợi mở ra địa
hình hiểm trở, độc dữ của những con dốc những người lính phải vượt qua. "Súng ngửi trời" vừa là một
hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính Tây Tiến,
vừa gợi ra độ cao của những ngọn núi miền Tây Bắc, núi cao đến mức khi đứng trên đỉnh thì tưởng
chừng như mũi súng của họ có thể chạm đến tận trời . Câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường
của người chiến Tây Tiến được đo bằng: "Ngàn thước lên cao // Ngàn thước xuống". Núi tiếp núi,
đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng cùng với
địa hình hiểm trở như muốn nuốt trọn người lính chỉ khi một bước chân sơ sảy. Điệp từ “ngàn thước”
như một phép ước lượng khi người lính lấy tầm mắt làm thước đo, nghệ thuật ước lệ kết hợp với phép
điệp và tiểu đối “lên><xuống”, cách ngắt nhịp 4/3 giúp mở ra trước mặt người đọc hình nh những dãy
núi cao đến tận cùng, sâu đến tận đáy, khiến ta mới chỉ đọc lên đã tháy mỏi bước, chùn chân. Từ những
đỉnh cao " ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp
thoáng ẩn hiện.
Nếu những câu thơ trên gieo toàn thanh trắc, thì đến câu thơ cuối:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Quang Dũng gieo toàn thanh bằng, nếu như 3 câu thơ trên là nét vẽ hiện thực gân guốc, rắn rỏi thì câu
cuối là nét mẽ mềm mại, lãng mạn, tinh tế, nếu 3 câu thơ trên mở ra theo chiều cao, chiều sâu, thì câu
thơ cuối mở ra theo chiều rộng khoáng đạt của không gian, tạo cho bức tranh tổng thể sự cân đối hài
hoà, quả đúng là “thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Câu thơ đã diễn tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng
thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng
thấy những bản làng ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, mang lại cảm giác vừa thân quen, vừa bình yên
ấm áp cho những ngưi con xa quê nhà, giúp họ xua đi cái mệt mỏi trên đường hành quân.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy, những mất mát hi sinh là điều
không thể tránh khỏi, trong đoạn thơ tiếp theo, Quang Dũng đã tái hiện lại những hình ảnh đau thương
ấy làm cho âm điệu câu thơ bỗng chùng xuống, trĩu nặng:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa.
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!"
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong những ngày dài
hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "không bước nữa",vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên
đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể
hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi
súng còn cầm trên tay, mũ còn đội trên đầu. Ta chợt nhđến dáng đứng của anh giải phóng quân về
sau trong thơ Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống trong khi đang đứng bắn
Máu anh tuôn theo lửa đạn cầu vồng.
Dáng đứng của anh giải phóng quân mãi mãi đi vào lòng người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì
dáng ngã xuống của anh lính cụ Hồ hẳn sẽ không phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng, của đoàn
quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách nói nhẹ và
cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh
lại tiếp bước.
Mặc Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ "không bước nữa", "bỏ quên
đời!",… nhưng vẫn trào lên nỗi xót xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Song, vần thơ
của Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương mà trái
lại, tác giả đã khắc hoạ chân dung người lính đầy ngoan cường, bất khuất. Quang Dũng không dùng từ
“ không thể bước” mà là “không bước nữa” thể hiện một tư thế chủ động và ngang tàng, tuy rằng các
anh hi sinh, nhưng là hi sinh trong tư thế oai hùng nhất, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Đó cũng chính
là màu sắc hào hùng, bi tráng tác giả muốn gửi gắm qua bài thơ.
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn, muỗi
rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật,
hùng vĩ và oai nghiêm:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Điệp từ “chiều chiều, đêm đêm” được đặt ở đầu câu thơ, gọi ra dòng thời gian vô tận, dài đằng đẵng.
Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác. Trên một không gian
mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa.
Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. Thác thì
"gầm thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến. Sự hiệp vần
tài tình của 3 từ “ Mường – Hịch – cọp” khiến người đọc cảm thấy được bước chân nặng nề của thú dữ
trong đêm, nghe thấy cả tiếng tim đập thình thịch, đầy hồi hộp, cảnh giác của ngưi lính. Tác giả dùng
từ “ trêu” chứ không phải “vồ” hay “rình”, mang theo tiếng cười tinh nghịch, dí dỏm của những người
lính, khó khăn gian khổ không làm họ chùn bước mà vẫn luôn giữ trong mình sự ngoan cường, tự tin
và ngạo nghễ vốn có.
Những ấn tượng về một miền Tây Bắc độc dữ tạm lùi xa, nhường lại cho vẻ đẹp thơ mộng, trữ
tình được hiển hiện qua 2 câu thơ:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. Quên
sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp xôi". Đất trời có 4 mùa “ xuân, hạ,
thu, đông” còn “mùa em” lại một mùa rất riêng của Quang Dũng, đó mùa cây lá đâm chồi, mùa
của đôi lứa hò hẹn, mùa tươi đẹp nhất. Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp
xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu với những người lính Tây
Tiến. Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào.
Cuộc sống của những ngừoi lính ở chiến trường không chỉnhững chặng đường hành quân
vất vả,không chỉ có những trận đánh ác liệt mà còn có những đêm liên hoan mừng công thấm đẫm tình
quân dân:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Kìa em xiêm áo tự bao giờ,
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"
Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc
hoa". Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần, làm cho không gian sáng bừng lên từ những ngọn đuốc trong
đêm hội. Cảnh vật, con người như bốc lên men say ngây ngất. Cái ác liệt của chiến tranh đã lùi xa,
nhường chỗ cho một không gian ngập tràn âm thanh, ánh sáng giúp cả quân dân tạm vơi bớt đi những
mệt mỏi trong hiện thực chiến tranh khốc liệt lúc bấy giờ. Chữ "kìa" là đại từ để trở từ xa, gợi nhiều
ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền
Tây Bắc trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đem đến cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao
niềm vui, tình quân dân thắm thiết. “Kìa em” là lời chào đón đầy ngạc nhiên, sung sướng đến ngỡ ngàng.
Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ
của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc
văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vđẹp của họ. Em trở thành điểm sáng của bức
tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Đêm liên hoan sôi động trong tiếng khèn của núi rừng,có khúc nhạc
du dương, có dáng điệu duyên dáng "e ấp" của những cô gái Tây Bắc xinh đẹp tay trong tay cùng những
người lính nhảy múa theo man điệu đầy say mê.
Chiều sương ở nơi đâu cũng gợi buồn, gợi nhớ, đặc biệt là những buổi chiều ở miền Tây Bắc
với “bản sương giăng, đèo mây phủ” lại đặc biệt gợi buồn gợi nhớ hơn cả:
"Người đi Châu mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Nhớ Tây Tiến nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con thuyền độc mộc. Một
không gian ngập tràn khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái
mộng của sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy
đoạn thơ được tô đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài
nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút. Cách
sử dụng từ ngữ “ hồn lau, dáng người, hoa đong đưa” có sự cộng hưởng hô ứng với nhau, tác gỉa dùng
từ “ hồn lau” mà không phải bờ lau, làm cho câu thơ càng thêm mềm mại có hồn. Cách đặt câu
hỏi tu từ thật đặc sắc, kết hợp với điệp từ “ nhớ, thấy” như sâu vào trong trí nhớ, khơi dậy
những ký ức sâu đậm, thiêng liêng nhất. Quang Dũng đã rất khéo léo trong việc chọn lọc từ ngữ “ hoa
đong đưa” mà không phải “hoa đung đưa”, biện pháp nhân hoá một nét vẽ giàu giá trị tạo hình gợi
lên hình ảnh những bông hoa đang làm duyên làm dáng đầy quyến rũ, mê say. Sự đối lập giữa “nước
lũ”- cái dữ dội khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh “hoa đong đưa” sự thơ mộng, huyền -
ảo của thiên nhiên đã tạo nên một khoảnh khắc quý giá. Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của
đời người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì Quang Dũng không thể nào viết được những vần t
mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế.
Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ
họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc
họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc,
học vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc,
xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn.
Trong đoạn thơ tiếp theo, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài đầy oai hùng, bi tráng về
đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong màn
mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc thẳm, "áo vải chân không đi lùng giặc đánh", chắc chắn
phải gặp rất nhiều khó khăn, gian khổ:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật
khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong
thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
tuyệt đẹp. Hai câu thơ đầu đã khắc hoạ hình hài kỳ dị của những người lính Tây Tiến: những cơn sốt
rét rừng hành hạ, sự thiếu thốn thuốc men, nhu yếu phẩm, những con suối độc,… đã khiến cho người
lính rụng hết tóc, hoặc họ phải cạo trọc đầu để dễ dàng trong sinh hoạt, chiến đấu, khiến da họ xanh xao
như màu lá. Hiện thực này cũng đã được phản ánh qua rất nhiều những bài thơ trong kháng chiến chống
Pháp:
“ tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi” – (Chính Hữu)
“ giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi, sao mà yêu đến thế” – (Tố Hữu)
Tuy nhiên Quang Dũng đã viết về hiện thực ấy bằng ngòi bút lãng mạn. Tác giả dùng từ" không mọc
tóc" chứ không phải “không thể mọc” để tô đậm tư thế chủ động, ngoan cường của những người lính
khi đương đầu với khó khăn. Màu da xanh xao của họ được miêu tả qua câu thơ “ quân xanh màu lá dữ
oai hùm”làm toát lên vẻ oai nghiêm của những chúa tể rừng xanh làm kẻ địch khiếp sợ. Cũng là một
cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu"
(Phạm Ngũ Lão), "Tỳ hổ b Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu).a quân – Quang Dũng đã thật tài
tình trong việc kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ như vậy!
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố
phường, nơi ngàn năm văn hiến. Là "Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…" ra đi đánh giặc với
hoài bão và nhưunxg mơ ước lớn, hai câu thơ tiếp theo đã diễn tả được những vẻ đẹp nội tâm đáng quý
của những người lính ấy:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
“Mắt trừng” là đôi mắt thao thức suốt đêm không ngủ để làm nhiệm vụ canh chừng biên cương của Tổ
quốc, khiến ta nhớ đến ý thơ của Chính Hữu : Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới/ Đầu súng trăng
treo”.Nhưng người lính thao thức không ngủ được còn bởi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết,nhớ về
phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm" nơi Hà Nội yêu dấu.Câu thơ "Đêm mơ
Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong
bài "Đồng Chí" của Chính Hữu, thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió
lung lay", về giếng nước gốc đa.. Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ "Nhớ" của Hồng Nguyên
là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
… "Ba năm rồi gửi lại quê hương,
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ,
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya"…
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông dân, hay tiểu tư sản thành
thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ ấy đều biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết.
Nếu có ai đó cho rằng câu thơ của Quang Dũng mang theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản
thì mới thật buồn thay. Thời gian độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng của thơ
Quang Dũng góp phần làm phong phú thêm chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến
chống Pháp.
Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao khí phách của dân tộc, được ghi
nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương máu của hàng ngàn, hàng vạn người lính
trên chiến trường. Lý tưởng cao đẹp: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" đã được Quang Dũng thể hiện
bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Cụm từ Hán Việt “biên cương”
kết hợp với đảo ngữ “rải rác” gợi nên một không gian vừa hoa sơ, xa vắng lại vừa trang trọng.Với "áo
bào thay chiếu" rất bình dị, chẳng có "da ngựa bọc thây" như những tráng sĩ thời xưa, các anh đã thanh
thản "về đất", vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ Tổ quốc thân yêu. Hai chữ "về đất" được sử dụng như một
cách nói giảm nói tránh để xoa dịu sự đau thương, mất mát.Các anh hi sinh trong một tâm thế vẫn kiêu
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
hùng và chủ động như vậy, điều ấy đã được khẳng định qua cụm từ “chẳng tiếc đời xanh”, những chiến
binh ấy đã chẳng tiếc hi sinh tuôit thanh xuân đẹp nhất của cuộc đời cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cao
cả. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như một tiếng khóc thương tiễn biệt người
bạn đồng hành của nó, tiếng gầm dội lên trầm hùng trong lòng đồng độiNhư tiếng kèn trong bài "Chiêu
hồn liệt sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một lời thề cao cả,
thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên
nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng
thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến đấu
độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một lời thề, một niềm tin mãnh liệt: "Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh".
"Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên). Những câu thơ trên đây của Quang
Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến Tây Tiến, với những đồng đội đã oanh liệt hi sinh giữa
núi rừng biên cương Việt – Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây Tiến mang chí khí
những anh hùng danh, những anh hùng thời đại, ra trận với "tình sông núi", với quyết tâm "Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ
vững sơn hà. Họ đã sống nh dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc quan. Họ đã sống
anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả "đời xanh" hiến dâng cho nhân dân và đất nước.
Cuối cùng khi chia li, sông Mã cũng phải tiếp tục hành trình về xuôi của nó, để lại một khoảng lặng
trầm buồn cho chúng ta tưởng nhớ oai linh những chiến binh quả cảm ấy…
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn tiếng lòng rung lên theo
hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất
quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: "Nhất khứ bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của
cả một thế hệ "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương. Những ai còn ai
mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó "Hồn về Sầm Nứa
chẳng về xuôi". Nhưng quê hương vẫn đi đời ôm ấp bóng hình các anh người chiến trong binh
đoàn Tây Tiến. Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Bài thơ Tây Tiến dưới ngòi bút tài tình của Quang Dũng đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật
được kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất hoạ và chất nhạc, chất hào hùng, bi tráng. Bằng cách sử dụng tài
tình và nhuần nhuyễn ngòi bút mang tính sử thi, kết hợp với các biện pháp tu từ, các cấu trúc câu độc
đáo, và tên các đa danh của Tây Bắc đặt rải rác suốt chiều dài của tác phẩm, Quang Dũng đã rất thành
công khắc hoạ hình ảnh của một miền Tây Bắc với thiên nhiên vừa hùng vĩ, tráng lệ, vừa thơ mộng trữ
tình và đặc biệt hơn cả, nổi bật trên màu nền của thiên nhiên chính là hình ảnh những người lính Tây
Tiến vừa tinh nghịch, dí dỏm, vừa oai hùng, kiêu hãnh, dũng cảm và ngang tàng coi thường hiểm nguy
và cái chết để bảo vệ độc lập Tổ quốc.
Tây Tiến là một tượng đài thi ca qua nhiều thế hệ. Nhưng trên hết và trước hết Tây Tiến là lịch
sử. Lịch sử của một đoàn quân. Lịch sử của một cuộc chiến tranh. Lịch sử của một dân tộc. Và lịch sử
của một con người, một nhà thơ. Tây Tiến đã trở thành lịch sử của tâm hồn, của văn hóa, của tinh thần
một giống nòi. Bài thơ đã bất tử hoá sức sống của đoàn quân Tây Tiến và sẽ luôn là nguồn cảm hứng
bất tận củng cố cho tình yêu nước và lòng biết ơn của các thế hệ sau này đối với những thế hệ cha anh
đi trước đã hi sinh cả bản thân cho độc lập tự do của đất nước ngày hôm nay.
Nguyệt Hà
Học sinh khoá văn 2020 Lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 3:
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng.
Bài làm:
“Có một không gian nào,
Đo chiều dài nỗi nhớ?
Có khoảng mênh mông nào
Sâu thẳm hơn tình thương?”
( Trần Đình Chính )
Thơ ca Việt Nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ thương mà
Hoàng Cầm đã gửi lại mảnh đất của mình trong bài thơ “Bên kia sông Đuống”, là nỗi nhớ thương của
người con xa quê qua bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. Đôi khi đó còn là nỗi nhớ thương trong tình
yêu mà người bên ấy chỉ dám gửi cho ngưi bên này trong bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh
Nhàn. Và Quang Dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng không phải là một ngoại lệ khi đặt tình cảm của
mình nơi những người đồng chí, đồng đội qua bài thơ “Tây Tiến”.
Nói về Quang Dũng là ta nhớ ngay đến tác phẩm thơ đặc sắc viết về đề tài người lính của ông
- Tây Tiến. Có lẽ do nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là một đơn vị quân đội được
thành lập năm 1947, với nhiệm vụ phối hợp với Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao sinh
lực địch ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng là đại đội trưởng của binh đoàn
Tây Tiến nhưng đến năm 1984, Tây Tiến giải thể, thành lập Trung đoàn 52, Quang Dũng cũng
chuyển sang đơn vị khác ở Phù Lưu Chanh – 1 làng ven bờ ở sông Đáy. Trong nỗi nhớ về đơn vị cũ
của mình, ông sáng tác thành công bài thơ với cái tên lúc đầu là “Nhớ Tây Tiến” nhưng một thời gian
sau, khi in lại trong trong tập “Mây đầu ô” ông đã bỏ từ “nhớ” trong tiêu đề vì suốt cả bài thơ là mạch
dòng cảm xúc của nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết, cồn cào, chỉ với hai từ “Tây Tiến” cũng đủ để gợi lên
cảm hứng chủ đạo trong bài thơ, đó là nỗi nhớ.
Bài thơ bắt đầu bằng những câu thơ mang âm điệu trầm, buồn và sâu lắng. Ẩn sâu trong đó là
nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nỗi nhớ về con đường hành quân hùng vĩ, dữ dội nhưng
cũng rất đỗi thơ mộng, trữ tình của một thời Tây Tiến đã qua! Nỗi nhớ ấy thể hiện qua hai câu đầu
của nhà thơ được thốt lên thành tiếng gọi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Mở đầu bài thơ, tác giả đã đề cập đến hình ảnh sông . Và ta cũng thấy rằng, sông Mã xuất hiện ở
đầu tác phẩm và gần cuối tác phẩm, đây chính là nghệ thuật đầu cuối tương ứng, bắt mạch vòng với
nhau để thể hiện một điều rằng sông Mã gắn liền với suốt đoạn đường hành quân của người lính Tây
Tiến từ vùng địa bàn này sang vùng địa bàn khác. Mặt khác, con sông Mã ấy còn được nâng tầm để
trở thành một chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác tày trời của kẻ thù và những chiến công vẻ vang của
người lính Tây Tiến. Như nhà thơ Phan Quế đã nhận xét: “Câu thơ như một tuyết bút thiên nhiên về
sông Mã. Tôi chưa đọcu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của
con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ
tứ thơ”. “Tây Tiến” không chỉ để gọi tên đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn “tri âm, tri
kỷ” để nhà thơ có thể giãi bày tâm sự. Câu thơ cảm thán kết hợp với điệp từ “nhớ” diễn tả nỗi nhớ
quay quắt, cồn cào đang ùa vào trong tâm trí Quang Dũng, khiến cho nỗi nhớ ấy cứ bồng bềnh như
một dải lụa, vương vấn trong lòng người đọc mãi không nguôi. Nỗi nhớ ấy đâu chỉ riêng về dòng sông
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Mã, mà đó còn là nỗi nhớ về Trung đoàn Tây Tiến đã cùng nhà thơ trải qua mọi khó khăn gian khổ,
nỗi nhớ ấy cũng đồng thời là nỗi nhớ về địa bàn hoạt động, là nhớ về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc
hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng vừa trữ tình Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi” đã khắc họa nên cái
hồn của câu thơ. Thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nh có nhiều cách diễn tả. Ca dao có câu:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”
Cách nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, tiếc nuối về một thời đã xa, về
những khoảng thời gian, những kỷ niệm của một thời tươi đẹp, bởi những điều ấy sẽ không bao giờ
quay trở lại nữa. “Chơii” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng lớn, không thể bấu víu vào
đâu cả. “Nhớ chơi vơi” ta có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, không đầu,
không cuối, không có thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bâng khuâng làm
cho con người có cảm giác đứng ngồi chẳng yên. Vần “ơi!” kết hợp với từ “chơi vơi” đó là tiếng gọi
tha thiết về đoàn binh Tây Tiến, diễn tả một nỗi nhớ sâu lắng, mênh mang, chênh chao giữa hai bờ
thực, nỗi nhớ không nổi hình nổi khối, khi cụ thể, lúc chìm khuất trong hư ảo, chơi vơi. Nó còn vẽ ra
trạng thái cụ thể của nỗi nhớ nỗi nhớ thấm vào cảnh vật, thấm vào không gian, thấm cả vào thế giới -
mênh mông của những hoài niệm. Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Quang
Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu,…Tất cả đều là những nơi họ từng đi qua và dừng chân trên bước
đường hành quân gian khổ, những địa danh ấy đã in đậm dấu chân của đoàn binh Tây Tiến. Càng
nhiều địa danh hiện lên thì nỗi nhớ thương lại càng da diết, mà càng da diết thì lại tạo cảm giác xa
xôi, hoang vu, bí ẩn.
Trước hết là miền Tây Bắc hiện lên bởi con đường hành quân gian nan, vất vả. Tuy thời tiết
sương mù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng cũng thật trữ tình:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nói đến Tây Bắc là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Ấn tượng đầu tiên về
thiên nhiên nơi đây chắc chắn phải là sương. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ che lấp luôn cả
đoàn quân Tây Tiến đang ngày đêm vượt núi, băng sông khiến họ không nhìn rõ mặt nhau. Động từ
“lấp” làm ta như có cảm giác chính sương đã khiến cho đoàn quân khó khăn thêm phần khó khăn hơn,
bị trĩu xuống trong mỏi mệt. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần họ không hề có chút sự mỏi mệt, nản
lòng nào, bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ quốc đã làm cho họ trở nên kiên cường, bất khuất hơn.
Quang Dũng thật tài tình khi dùng hình ảnh sương để khắc họa sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng
Tây Bắc. Cũng miêu tả sương, Chế Lan Viên đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”
Nhưng cũng thật bất ngờ, trong cái gian truân, vất vả ấy vẫn có nét lãng mạn với hình ảnh “hoa về
trong đêm hơi”, đó chính là hương thơm của hoa nở vào lúc đêm phảng phất nhẹ nhàng trong tâm hồn
người lính. Nhưng ta cũng có thể hiểu “hoa” ở đây chính là những người lính Tây Tiến trở về, bởi Bác
Hồ đã từng nói: “Con người ta là hoa đất, con người ta là đẹp nhất”, mặt khác hình ảnh hoa là một
hình ảnh ẩn dụ chỉ những bó đuốc bình thường đang chập chn, lung linh, huyền ảo mà người lính
cầm trên tay để soi đường chỉ lối trong những đêm dài hành quân nung nấu. Cái hay của nhà thơ
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
không nói hoa nở mà nói “hoa về”, không nói đêm sương mà nói “đêm hơi”. Cách dùng từ ngữ đã
chứng tỏ được vẻ đẹp trong tâm hồn của những anh bộ đội cụ Hồ là một tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
Ngoài sự giá lạnh của sương thì dốc và đèo là những thứ không thể bỏ qua khi nhắc về thiên
nhiên miền Tây Bắc. Quang Dũng tả cảnh vượt dốc, băng đèo, đường đi nguy hiểm với dốc cao, vực
thẳm, tuy hùng vĩ và dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, huyền ảo:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng người trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Tác giả sử dụng điệp từ “dốc” nhằm nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua. Với hàng loạt
những từ láy tượng hình toàn vần trắc như: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” diễn tả một cách
đắc địa sự hiểm trở của núi rừng, những chặng đường hành quân luôn có sự nguy hiểm đang rình rập.
“Khúc khuỷu” ý chỉ đường đi hiểm trở, nhiều gấp khúc. “Thăm thẳm” là từ chỉ độ sâu nhưng tác giả
lại dùng để chỉ độ cao, cao đến rợn người. Quang Dũng đã khéo léo khi không sử dụng từ “chót vót”,
bởi như thế thì ngưi đọc có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó ai
có thể hình dung được nó sâu như thế nào. Để có thể đem lại một cảm giác chân thật như thế thì điểm
nhìn của anh phải ở từ dưới lên mới có thể thấy dốc khúc khuỷu, nhìn từ trên xuống mới biết dốc sâu
thăm thăm, mà để có được cái nhìn như vậy thì buộc các anh phải trải nghiệm, phải hành quân đi lên
những ngọn núi, con dốc đầy nguy hiểm ấy. Kết hợp với nhịp thơ 4/3 gập đôi câu thơ giúp bạn đọc
hình dung các anh đang phải treo mình trên những triền núi đá, một bên là vực sâu thăm thẳm, một
bên là núi cao chót vót. Ở câu thơ đầu có 7 chữ thì đã tận 5 thanh trắc, gợi nên cảm giác chênh vênh,
gập ghềnh, vô cùng nguy hiểm. Ta nghe như có tiếng thở mệt nhọc của người lính khi vượt qua đèo
dốc, vực sâu. Đây cũng là chất nhạc trong thơ Quang Dũng, làm ta liên tưởng đến tiếng nhạc trong bài
hát “Nhạc rừng” của nhạc sĩ Hoàng Việt. “Cồn mây heo hút” thể hiện sự vắng vẻ, không có bóng
người. Quang Dũng đã viết “súng ngửi trời” chứ không phải là “súng chạm trời”, bởi “chạm” hay
“đụng” thì ý câu thơ sẽ yếu hẳn đi, đồng thời “súng ngửi trời” cũng thể hiện vẻ đẹp hiên ngang của
chiến binh dũng cảm, họ đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên, chinh phục nơi mà ít người lui tới.
Khi người lính Tây Tiến hành quân qua các đỉnh núi, mũi súng của các anh dường như đã chạm đến
đỉnh của bầu trời, khoảng cách được thu hẹp đến mức ngắn nhất giữa súng và trời, đó là hiện thực
nhưng qua cách nói này làm tôn thêm vẻ đẹp khí phách của người lính Tây Tiến, đồng thời đây cũng
là những giây phút đùa vui, tếu táo, có nét tinh nghịch của người đồng đội trẻ với nhau. Quang Dũng
sử dụng phép đối ở câu thơ thứ ba, đối “lên cao” vi “thước xuống”, dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ
một cách đột ngột tạo thành hai vế đối lập nhau. Thế núi bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp,
dốc lên cao rồi lại đổ xuống ngay lập tức gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút, ngó xuống thì sâu
thăm thẳm, khoảng cách giữa đỉnh dốc và mặt đất như xa “ngàn thước’ vạn dặm. Dẫu vậy, những
người lính vẫn âm thầm tiến lên phía trước, đứng trên độ cao ấy, phóng mắt nhìn ra xa để rồi chợt vỡ
òa vui sướng trước cảnh thôn quê êm đềm trải dài trước mắt: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong
làn mưa giăng giăng của núi rừng Tây Bắc thì những ngôi nhà ẩn hiện, cứ bồng bềnh giữa biển khơi
của mưa và sương đọng lại. Nhìn từ góc độ hội họa thì nó như một bức tranh thủy mặc có những cái
tả sắc nét nhưng cũng có những khoảng trống, khoảng lặng huyền ảo. “Nhà ai” là những mái nhà, bản
làng của người vùng cao, các anh luôn luôn được đón tiếp nồng hậu và đây cũng là địa điểm nghỉ
chân của các anh. Vẻ đẹp này ta cũng từng bắt gặp trong bài “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung
Thông:
“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bị rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về”
Đó là cảm giác bình yên của người lính khi được nhìn thấy những mái nhà của đồng bào miền cao.
Và vui hơn nữa khi các anh được đón tiếp bằng tình cảm quân dân nồng ấm.
Bốn câu thơ này được phối hợp vi nhau rất đặc biệt, sau ba câu thơ được vẽ bằng nét gân
guốc thì câu thơ thứ tư lại được vẽ bằng một nét rất mềm mại. Không phải ngẫu nhiên mà tài năng hội
họa của Quang Dũng lại được mọi người yêu mến đến vậy. Bởi quy luật sử dụng những gam màu
trong hội họa là giữa những gam màu nóng phải pha chút gam màu lạnh để tạo sự hài hòa cho bức
tranh, thì ở đây nhà thơ cũng sự dụng đúng như vậy trong thơ ca của mình từ các thanh bằng – trắc.
Không chỉ là tranh mà những hình ảnh ấy còn là nhạc, sau những nốt lên cao lại là nốt trầm thấp, bởi
vậy nói như Xuân Diệu: “Đọc Tây Tiến, người ta như ngậm âm nhạc trong miệng” cũng là một nhận
xét thật tinh tế.
Tuy trên chặng đường hành quân, các anh gặp vô vàn khó khăn, gian nan đến tột bậc nhưng ta vẫn
thấy ở các anh có sự can trường tột bậc. Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía
trước. Uy lực của thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một
tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân
vô cùng khó khăn:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
“Tây Tiến” đã từng có một thời gian không được đưa vào chương trình giảng dạy bởi tác phẩm đã đề
cập đến đề tài nhạy cảm trong văn chương Việt Nam thời chiến tranh, đó là viết về cái chết, viết về sự
hi sinh. Chúng ta biết rằng, văn chương muốn thuyết phục lòng người thì trước hết phải chân thật. Dù
là viết về chiến tranh nhưng Quang Dũng không nề hà, né tránh sự thật đau thương. Vì vậy mà “Tây
Tiến” được một lần nữa đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. Hai tiếng “ anh
bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Sức nặng của câu thơ đã dồn vào từ láy “dãi dầu” thể hiện
vất vả, khó khăn trên chặng đường hành quân. Đặc biệt thay, tác giả không viết “bị gục xuống” mà
ông lại viết là “không bước nữa”, biến các anh từ thế bị động sang chủ động, họ chấp nhận cái chết,
coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi. “Súng mũ” là biểu tượng của người lính, cho thấy rằng
dù có ra đi, các anh vẫn không quên mình vẫn là một người lính, dù có gục cũng phải “gục lên” súng
mũ của người lính, tư thế hi sinh đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng. Hình ảnh về người lính anh
dũng hy sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “Dáng đứng Việt Nam”:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
Dáng của các anh bộ đội cụ Hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không phai mờ trong tâm của Quang
Dũng, của đoàn quân Tây Tiến và của cả những người tham gia kháng chiến. Họ đã hy sinh trên
chặng đường hành quân, đã có những người lính nằm xuống, rõ ràng súng đã nổ, người dân Việt Nam
cũng đổ máu, chiến tranh không phải là trò đùa, có người ra đi thì có người hi sinh, đó là điều rất đỗi
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
bình thường. Người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “Bỏ quên đời” là cách nói giảm nhẹ
sự mất mát, tang thương. Khi người lính từ trần, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể. Cách nói
giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hy sinh thầm lặng của những người lính
Tây Tiến. Thông qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì sự hi sinh ấy hiện về chỉ như giấc ngủ của
người lính. Ông thật tài tình khi miêu tả cái chết của người lính nhẹ tựa lông hồng. Nhưng dù thế nào
vẫn không thể diễn tả hết được sự xót xa, thương tiếc, vì thế tác giả đành ngậm ngùi đặt dấu chấm
cảm “!” cuối câu như một nén nhang tâm tình gửi lại.
Khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất Tây Bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn suối
mà còn biết bao thử thách khó khăn hơn. Chặng đường hành quân của các anh qua núi rừng Tây Bắc
đầy hoang dại, bí ẩn, dường như là để thử thách bước chân của người lính :
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Quang Dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời điểm bộc lộ rõ
nhất sự nguy hiểm của chốn rừng núi Tây Bắc, và sự nguy hiểm ấy cứ tuần hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày
các anh đều phải đối diện với những khó khăn, hiểm nguy như thế. Các anh phải thường xuyên hành
quân qua những mảnh đất rừng thiêng nước độc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác nước
gầm thét dữ dội. Ở nơi xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. “Mường
Hịch” với sức nặng dồn vào từ “Hịch” thể hiện bước chân nặng trịch có bóng cọp vờn người, cọp ăn
thịt người, cọp xé xác người, cọp giết người. Nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh của người lính thì bóng
hổ ấy chỉ đơn thuần là trò đùa trẻ con, điều này được thể hiện qua từ “trêu” để thử thách sự gan dạ, độ
bền gan của các anh bộ đội cụ Hồ mà thôi.
Và ở những câu thơ này, tác giả mô tả rất chân thực, dù chúng ta không sống ở thời kỳ này,
chúng ta vẫn chưa từng đặt chân lên núi non miền Tây, chưa nhập ngũ vào đoàn binh Tây Tiến.
Nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người lính trải qua. Để khép lại khổ một, nhà thơ
đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ ấy phả vào bản làng Tây Bắc thân yêu:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Lần thứ hai trong bài thơ, tác giả gọi tên đơn vị Tây Tiến, phải chăng ông nhớ quá những gian
khổ, kỉ niệm gắn bó với các đồng đội của mình trong suốt những năm tháng kháng chiến cùng nhau
nên Quang Dũng mới thốt lên “nhớ ôi Tây Tiến” như vậy. Sau chặng đường hành quân vất vả, mệt
mỏi các chiến sĩ có dịp dừng chân dựng trại ở một bản làng có tên rất đỗi thân thương Mai Châu. Ở -
đây các thiếu nữ dân tộc trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho các anh, cùng các anh quay
quần ngồi bên nồi xôi nếp khiến bao nhiêu vất vả, khó khăn đều tan biến. Đây là khung cảnh đậm đà
tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt
vui tươi. Sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. Nay các anh được
đồng bào Mai Châu đón tiếp bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng.
Quang Dũng đã dùng từ “mùa em”thể hiện sự gần gũi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, các
anh bộ đội cụ Hồ nh những vụ mùa, nhớ cơm nếp thơm và nhớ cả những bóng hồng miền sơn cước.
Cũng nói về hương nếp, hương xôi và tình cảm quân dân, Chế Lan Viên đã viết trong bài “Tiếng hát
con tàu”:
“ Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
Nhớ mùi hương thơm của lúa gạo là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng
cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Mười bốn câu đầu của bài thơ “Tây Tiến” một trong những bài thơ hay nhất viết về người
lính trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi
bật là hình ảnh chiến sĩ đầy bản lĩnh và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa. Nửa thế hệ trôi qua, bài
thơ vẫn giữ được trị của mình. Như bốn câu thơ của Giang Nam:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
Cảnh núi rừng hoang vu, chênh vênh, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn, nhường bước
cho một thế giới hoàn toàn khác của núi rừng Tây Bắc. Những nét vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế
dưới ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ thứ hai. Đó là nỗi nhớ
về những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ và vẻ đẹp huyền hồ của thiên nhiên miền Tây Bắc. Mở đầu
phần hai là sự tiếp nối cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “Hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong
lòng nhà thơ, trở thành hành trang trong tâm hồn của các chiến binh Tây Tiến. Trên con đường hành
quân gian khổ, các anh dừng chân dựng trại và được sự tiếp đón nồng hậu, thân tình của người dân.
Đối với Quang Dũng cũng như những người lính, không khíơi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm
tình quân dân với ánh lửa sáng bừng luôn là những kỉ niệm khó có thể quên:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay ở doanh trại bộ đội, đây là hiện thực. Không gian
ở bốn câu thơ không còn rộng lớn như đoạn thơ đầu, mà không gian giờ đây được thu hẹp lại thành
“doanh trại” – một không gian bình yên, đưc coi là mái nhà của ngưi lính. Ở đây, những người lính
không phải gồng mình lên để chiến thắng những khó khăn, vất vả mà tâm hồn họ thực sự được thư
giãn. Hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng bừng náo nhiệt, ấm áp, rực rỡ, ngập
tràn ánh sáng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng, “bừng” cũng có nga là
tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Ở đây, Quang Dũng đã có cách ví von đầy nghệ
thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “Đuốc hoa” trong Hán Việt có nghĩa là nến hoa chúc – một biểu tượng
hạnh phúc của các đôi uyên ương, là từ ngữ được dùng trong văn học cũ: “Đuốc hoa chẳng thẹn với
chàng mai xưa” (Truyện Kiều). Nhưng thật ra, “đuốc hoa” ở đây chỉ là những bó đuốc bình thường
trong những đêm giao lưu văn nghệ của người lính Tây Tiến, khi có gió thổi qua làm cho những bó
đuốc ấy phát ra các tia lửa và nhìn nhận qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì lại trở thành đuốc hoa,
khiến cho ta liên tưởng đến lễ cưới. “Kìa em” là sự ngắm nghía, đồng thời là lời thốt lên bất ngờ vì vẻ
đẹp lộng lẫy, kiêu sa của các cô gái miền cao. Đằng sau từ “kìa” là thấy cả ánh mắt, nụ cười hết sức
yêu đời, tinh nghịch, phong độ và tài hoa của người lính Tây Tiến. “Xiêm áo” chính là những bộ trang
phục đẹp của người con gái miền cao, nhưng ta có thể hiểu đây là hình ảnh vô cùng vui tươi, tinh
nghịch của người lính khi các anh mặc những bộ xiêm y của phụ nữ cùng nhau vui đùa, nhảy múa
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
xung quanh ngọn lửa trại. Từ xa xưa, những chiếc khèn bè đã được dùng làm nhạc đệm trong hầu hết
các làn điệu dân ca, làm nền cho những điệu dân vũ, điệu múa lăm vông, hát đối, giao duyên, trong
các dịp lễ Tết, lễ hội hay tiếng khèn dùng để gọi bạn tình đêm khuya của những chàng trai cô gái Lào
khi yêu nhau. Tiếng khèn bè trầm bổng, sâu lắng, dồn dập, rộn ràng, náo nức cả không gian yên ắng.
Khi tiếng khèn cất lên làm người nghe thấy da diết, sâu lắng, ngân nga trong sáng như tiếng suối reo,
gió hát, hiện nên vẻ hoang sơ,hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc. Bởi thế, Quang Dũng đã không khỏi say
sưa và quyện vào tiếng nhạc du dương của khèn, vừa lạ vừa mang tính sơ khai mà đậm đà bản sắc văn
hóa dân tộc. Từ “man điệu” mà tác giả sử dụng ở đây cũng rất tài hoa, người đọc như được chứng
kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Trong những đêm sinh hoạt ấy có trang phục đẹp,
có cả âm nhạc, có những điệu múa, điệu nhảy vui tươi và không khí ở đây là không khí say mê ngây
ngất. Điều đó được chứng tỏ khi ban đầu ông dùng từ “em” sau ông lại chuyển sang dùng từ “nàng”.
Từ cách sử dụng ấy, ta cảm nhận em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc cõi thần tiên với một
không khí say mê đến ngây ngất. Những thiếu nữ Mường,Thái xinh đẹp, duyên dáng “e ấp” xuất hiện
trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ”, xây cả nỗi nhớ bâng
khuâng trong lòng những người lính trẻ. Địa danh Viêng Chăn không phải là địa danh của Việt Nam,
mà đó là thủ đô của Lào. Ta nhận thấy được sự đặc biệt trong địa bàn hoạt động của người lính Tây
Tiến. Họ không chỉ chiến đấu trên nước ta, mà còn cầm súng trên đất bạn Lào. “Nhạc về” tạo nên đ
phiêu du phiêu lãng khiến tâm hồn người lính trở nên thăng hoa. Mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến,
thay vào đó là lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Chính những phút giây ấy đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn
trên con đường hành quân phía trước.
Ở đoạn thơ này, tác giả đã làm xuất hiện một thế giới khác của Tây Bắc, thiên nhiên giờ đây
không còn khốc liệt, dữ dội nữa mà nó hiện ra với vẻ đẹp tmộng và trữ tình. Ngòi bút của Quang
Dũng có sự thay đổi, bên cạnh nét vẽ mạnh mẽ, khỏe khoắn thì vẫn có những đường nét mềm mại,
uyển chuyển, tinh tế. Tất cả làm cho bức tranh thiên nhiên và con ngưi miền Tây hiện lên rất rõ.
So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng
lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang
Dũng đã đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều
sương. Một không gian bảng làng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây
Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hóa. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi thay vào đó là những hình
ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
“Người đi” chắc hẳn là người lính Tây Tiến. Ngòi bút Quang Dũng không tả mà chỉ gợi. Hình ảnh
đầu tiên là hình ảnh của một “chiều sương” cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây.
Nhưng sương lúc này không phải là sương lấp, sương che hay sương phủ, mà chỉ là những làn sương
bình thường mở ảo, nó gợi màu sắc bảng làng, khói sương và có chút man mác buồn. Địa danh duy
nhất trong khổ hai chính là Châu Mộc, bởi ở đây có cảnh sắc thiên nhiên rất đẹp, nơi đây có núi sông
diệu lệ, có lung lũng lúa chín vàng, có gió cuốn mây bay, có nắng vàng rực rỡ. Mở ra ở đó là một
không gian buổi chiều được giăng mắt lên là mùa của sương khói hiện ra như một miền cổ tích, chính
vì vậy mà Châu Mộc là nơi để lại cho các anh nhiều ấn tượng, kỷ niệm sâu sắc nhất. Đại từ “ấy” làm
rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương, nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều rất đặc biệt, chiều sương
trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng. Chữ “ấy” bắt vần vi
chữ “thấy” ở câu thơ sau, một vần lưng thân tình, âm điệu câu thơ như bị trĩu xuống như một nốt
nhấn. Nữ thi sĩ xưa nhớ kinh thành Thăng Long là nhớ “hồn thu thảo”, nay Quang Dũng nhớ về “hồn
lau”, nhớ về cái xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời, những cây lau giăng khắp mọi nẻo bến
bờ, hiện ra như những đôi bờ tiền sử. Trong văn chương Nguyễn Tuân thì cảnh vật không hề vô tri vô
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
giác, bởi đó là nghệ thuật nhân hóa “hồn lau”. Nỗi buồn, tâm trạng của người đi dường như cũng
khuếch tán vào cảnh vật, những bông lau sậy chập chờn đôi bờ cũng có hồn của nhà thơ, Ta nhớ thơ
Chế Lan Viên:
“Ai lên biên giới cho lòng ta theo với
Thăm ngàn lau trắng chỉ có một mình
Bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi
Suốt một đời với gió giao tranh”
Những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “bến bờ” và “hoa đong đưa” kết hợp với cách hỏi “có
thấy, có nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sương trong ký ức. Sương mờ giăng khắp không gian,
bến bờ lặng lẽ hoang dại như một bờ tiền sử, trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển
chuyển nhưng cũng hết sức vững chãi của người đi trên thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong
đưa làm duyên trong dòng nước. Điệp ngữ “có thấy có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào nỗi nhớ da -
diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ cây gỗ lớn dài, dáng người trên
chiếc thuyền độc mộc ấy có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo
đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Nhưng ta cũng có thể xem đây là dáng hình kiêu dũng của các chiến
Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy
đều để lại trong lòng Quang Dũng một cách khó phai nhòa. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu. Ai
nói rằng đất Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy để tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây
Bắc ngấm vào hồn. Câu t cuối được tác giả dùng từ rất tinh tế, ông đã dùng từ láy hoa “đong đưa”
chứ không phải là “đung đưa” hay “đu đưa”, bởi nếu viết “hoa đung đưa” thì cảnh vật ở đây vô tri vô
giác, gợi đến một sự chuyển động về cơ học khô khan, còn “hoa đong đưa” thì lại có hồn người, thể
hiện sự chuyển động duyên dáng, tình tứ, bông hoa lau trở thành những sinh thể có hồn đang làm
duyên, làm dáng trên mặt nước sóng sánh, chòng chành. Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con
người, cánh hoa ấy như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn các anh vượt sông đi đánh giặc. Cảnh như
có hồn, có sự thiêng liêng của núi rừng, đậm đà màu sắc cổ tích và huyền thoại. Qua những nét vẽ hư
ảo trên, ta thấy như trước mắt mình một bức tranh sơn thủy hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn
nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, tài hoa, vô cùng yêu mến và gắn bó với mảnh đất miền Tây trong tâm
hồn Quang Dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ Tây Tiến
trước cái đẹp.
Tám câu thơ đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ
mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng hòa quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo
nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của tác giả đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn
thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong bài tổng thể bài thơ.
Giữa thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy thơ mộng trữ tình là hình ảnh
người lính Tây Tiến với những gian khổ thiếu thốn được thể hiện qua khổ thơ thứ ba. Nếu như những
đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp, nói đến gian khổ, hy sinh và địa
bàn hoạt động thì đây, đoàn quân ấy đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc, rạch ròi. Đã trở
thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Đó là bức tượng đài bi tráng về những chàng trai xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ sẵn sàng ra đi với
tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hai câu thơ trên nói về ngoại hình của người
lính Tây Tiến, mang vẻ đẹp ở đây là viết về cái ốm nhưng không hề yếu. Nhà thơ miêu tả, khắc tạc cả
một tập thể của mình, những con người anh hùng được tác giả gọi bằng cái tên khá thú vị “Đoàn -
binh không mọc tóc”, cái hào hùng hiện lên qua cách dùng từ Hán Việt “đào binh” thay vì là “quân
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
ấy” nhằm gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường, gợi âm vang khỏe khoắn, khẳng định một lực lượng đông
đảo, hừng hực khí thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã từng gọi tiểu đội của mình bằng cái tên bắt
nguồn từ hiện thực khắc nghiệt – “Tiểu đội xe không kính”, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan và
chất lính dí dỏm hài hước.
Nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực, thực một cách trần trụi: Chiến sĩ Tây Tiến hồi ấy hoạt
động ở những vùng núi hiểm trở, ma thiêng nước độc, chết trận thì ít mà chết bệnh thì nhiều, có
những con suối khiến họ rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Câu thơ cũng mang đến một nét nghĩa
nữa là người lính Tây Tiến họ tự cạo trọc đầu trở thành những anh “vệ trọc” để giữ vệ sinh trong cuộc
kháng chiến thiếu thốn trăm bề và cũng dễ thuận lợi trong việc đánh giáp lá cà. Và nhà thơ còn đề cập
đến một căn bệnh đã ám ảnh vào cả một thời kì trong văn chương của thời kì kháng chiến chống
Pháp, căn bệnh khiến cho các anh bị rụng tóc đó là bệnh sốt rét rừng. Một căn bệnh nguy hiểm đã
hoành hành dữ dội khiến cho người chiến sĩ chết đường chết bệnh còn nhiều hơn là chết trận. Thơ ca
kháng chiến đã từng ghi lại những hình ảnh thật cảm động về sự tiều tụy của người chiến sĩ vì sự
nguy hiểm của căn bệnh này, không chỉ người lính trong “Tây Tiến” mà ngày trong cả bài thơ “Đồng
chí” của Chính Hữu cũng có nhắc đến:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Quang Dũng thật tinh tế khi viết “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”, bởi “không
mọc tóc” được ông sắp xếp từ ngữ để chỉ cái ngang tàng, ngạo nghễ, tinh thần vượt lên trên sự khốc
liệt của cuộc chiến ở người lính nhưng có nét hóm hỉnh, đùa vui là không cần mọc tóc, nhìn qua lăng
kính lãng mạn của tác giả chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Từ đó ta thấy rằng, hiện lên trong
trang thơ của Quang Dũng đó là vẻ đẹp của những anh vệ trọc đáng yêu, tuy ốm nhưng chẳng hề yếu.
Trong thực tế, “xanh màu lá” chính là màu xanh của làn da đang bị ốm, làn da xanh xao, vàng vọt,
bủng beo. Điều này ta có thể thấy sự tương đồng trong bài “Cá nước” của nhà thơ Tố Hữu:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế”
Hay trong thơ của Thôi Hữu cũng có nhắc:
“Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”
Đâu chỉ riêng những người lính trong thơ Quang Dũng mới bị mắc bệnh, mới phải chết vì căn bệnh ác
liệt này. Thế nhưng một lần nữa thông qua lăng kính lãng mạn của Quang Dũng, màu xanh ấy không
còn là màu của làn da đang bị ốm nữa mà nó trở thành màu xanh của áo lính, màu xanh của lá cây
ngụy trang, xanh sắc mạ non, xanh lũy tre làng. Quang Dũng đã dùng từ “dữ oai hùm” một cách rất
sáng tạo, tạo nên âm hưởng mạnh mẽ cho u thơ khiến người đọc cảm nhận được sức mạnh tinh
thần, khí thế oai hùng khiến cho kẻ địch khiếp sợ của đoàn binh. Hình ảnh người lính Tây Tiến trong
tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất trời Tây Bắc, đạp đổ mọi gian khổ, khó khăn để tiến về phía
trước, họ mạnh mẽ, oai phong lẫm liệt như mãnh hổ ngự trị chốn rừng xanh rộng lớn. Câu thơ thứ hai
tạo ra hai vế đối lập giữa “quân xanh màu lá” với “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn, khó khăn
gian khổ, một bên là khí phách anh hùng của những người lính Tây Tiến. Ba tiếng “dữ oai hùm” tạo
nên một âm hưởng mạnh mẽ, hùng tráng cho câu thơ, người đọc cảm nhận được khí thế của đoàn
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
quân ra trận, câu thơ ngắt nhịp mạnh tô đậm nét hùng dũng. Như Vũ Quần Phương nhận xét: “Quân
xanh màu lá, màu áo hay màu da? Chắc cả hai! Chỗ này tả lính rất khéo, nói được lính ôm mà không
yếu, có tóc rụng, có da xanh, nhưng ấn tượng lưu lại là dữ oai hùm”. Mười bốn chữ tmà chạm
khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc đời cũng
như trong thơ ca. Đoàn quân của một thuở “xếp bút nghiên lên đường chinh chiến”.
Dưới ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, các chiến sĩ không còn là nạn nhân mà trở nên thật chủ
động, ngạo nghễ: không mọc tóc, da xanh xao là để thích nghi với hoàn cảnh chiến đấu. Vũ Quần
Phương có nhận xét: Quang Dũng miêu tả lính Tây Tiến ốm mà không hề yếu. Đầu không mọc tóc
không phải là hình ảnh gây cười hay nói chính xác hơn là cười mà xót xa, không cầm được nước mắt,
bởi răng tóc là gốc con người, ai cũng muốn chăm sóc cho vẻ đẹp ngoại hình của mình. Từ biệt Hà
Thành ra đi chiến đấu khi màu tóc còn xanh, da còn hồng hào. Vậy mà giờ đây họ chấp nhận hy sinh
mái tóc, tuổi thanh xuân của mình để góp phần làm nên mùa xuân vĩnh viễn của Tổ quốc.
Khó khăn gian khổ là thế, nhưng các chiến binh Tây Tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm
lãng mạn. Nếu hai câu thơ trên như nét khắc, nét chạm vào không gian của tác giả để tạo nên bức
tượng đài với ngoại hình ốm mà không yếu, thì hai câu thơ sau, tác giả lại nói về vẻ đẹp tâm hồn của
họ. Và tâm hồn chính là sức mạnh nội tâm, là khí phách của những ngưi lính Tây Tiến. Dù cuộc
sống có vất vả thiếu thốn nhưng không vì thế mà từ bỏ lý tưởng “mộng chinh phu, mộng giai nhân”:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cùng một lúc ta có thể thấy xuất hiện hai hành động trong tâm hồn của người lính Tây Tiến đồng thời
xảy ra. Đó là “mắt trừng”, đó là “gửi mộng”. Hai câu thơ nhốt trọn hai thế giới, hai giấc mộng của
người lính Tây Tiến. Người ta vẫn thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là tâm điểm của mọi suy
nghĩ”. Vì vậy, khi bắt gặp đôi mắt trừng đã gợi cho ta nhiều liên tưởng. Đôi mắt của các anh mở to
nhắm thẳng về phía quân thù mà bắn với chí khí thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy còn gửi mộng
qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình.Ban ngày các anh gửi ánh mắt trừng
đầy căm thù tới kẻ địch. Hình ảnh “mắt trừng” là ánh mắt mở to, đầy dữ dằn hướng về phía trước, ánh
lên sự quyết tâm, khát vọng chiến đấu giành chiến thắng. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới –
mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình. Một hình ảnh ước lệ làm tôn lên khí thế oai phong
lẫm liệt, kiêu hùng của đoàn binh như trong bài thơ “Bài ca chim Chơ Rao” của Thu Bồn từng viết:
“Quân thù kia ơi! Một bầy man rợ
Bay đừng hòng khuất phục đời ta
Bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy
Trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”.
Nhiều người cho rằng : “ dáng kiều thơm” là nỗi nhớ của Quang Dũng về quán kiều trên phố Hàng
Bông, nơi mà ông hay lui đến để đàm đạo văn chương. Hay có người cho rằng đó là những người lính
đang nhớ về những thiếu nữ Hà Thành, nhớ người yêu của mình với vẻ đẹp “sắc nước hương trời”,
với các chiến sĩ thì nỗi nhớ ấy là sự cân bằng, thư thái trong tâm hồn sau mỗi chặng đường hành quân
vất vả, chứ không phải nhớ những điều ấy mà quên đi nhiệm vụ cao cả, nh để mà thối chí nản lòng.
Vậy mà một thời câu thơ “đẹp một cách lãng man”như thế này đã khiến cho tác giả của nó và chính
bài thơ trải qua bao gió dập, sóng dồi. Từng một thời bị phê phán bởi thói tiểu tư sản, nhưng thực ra
nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ. Quang Dũng đã tạo nên
một nét tương phản hết sức đặc sắc. Những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng
chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng
đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn,
trái tim họ vẫn rung động trong nỗi nhớ về một dáng kiều thơm. Bức tượng đài người lính Tây Tiến
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Tại
sao cấm những người lính xuất thân từ thành thị sống với những tâm tình riêng của mình, trong khi
những người lính xuất thân từ nông dân thì lại được phép nhớ giếng nước, nhớ gốc đa, nhớ người thân
của họ. Vấn đề là nỗi nhớ ấy có ảnh hưng đến ý chí, tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ hay không?
Hay họ vẫn hiên ngang chắp tay súng tiêu diệt kẻ thù. Có lẽ đa phần người lính Tây Tiến đều là học
sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, tuổi đời còn rất trẻ nên hành trang mang theo khi ra
chiến trường không chỉ có súng đạn mà còn là một thế giới tâm hồn đầy mộng mơ. Nỗi nhớ ấy cũng
được nhà thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện trong bài “Đất nước”:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Tuy nhiên, thơ hay ta không nên truy theo nghĩa riêng để làm mất đi vẻ đẹp của bài thơ ấy, ta phải
truy theo nghĩa chung. Dù có đến quán kiều như Quang Dũng, dù có nhớ dáng hình yêu kiều của
người con gái đi chăng nữa thì tất cả những người lính đều nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội với
những con đường nồng nàn hoa sữa:
“Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long
Điều đó cho ta thấy, các anh bộ đội cụ Hồ không chỉ biết cầm súng bảo vệ Tổ quốc mà còn rất hào
hoa, lãng mạn. Ban đêm họ buông bỏ một vài gánh nặng để nhớ về Hà Nội, nhớ những con phố, góc
nhỏ thân quen, nhớ về hình bóng giai nhân của mảnh đất Hà Thành. Những giấc mộng tưởng như đơn
giản nhưng lại chính là động lực để họ vững tin chiến đấu trong những tháng ngày gian khổ.
Hai câu thơ tiếp theo là ý chí của người lính, sáng ngời vẻ đẹp lí tưởng của thời đại: “Quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Quang Dũng không hề né tránh hiện thực, né tránh đau thương mất mát mà ông lại nhìn thẳng vào
những bi thương ấy để viết nên những vần thơ của mình. Có thể thấy câu thơ: “Rải rác biên cương mồ
viễn xứ” nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về những
nấm mồ nơi “viễn xứ”, nơi xa xôi. Tác giả dùng phép đảo và đưa từ láy “rải rác” lên đầu câu để nhấn
mạnh sự ít ỏi, thưa thớt, gợi sự hoang lạnh của những nấm mồ người lính Tây Tiến. Cả một đoàn
quân đang đi trên đường dài thỉnh thoảng sẽ có một người ở lại, họ ra đi không một tiếng khóc than,
không một lời từ biệt. Những nấm mồ ấy nằm rải rác không một nén hương, không một vòng hoa,
cũng không có giọt nước mắt tiễn đưa của người thân. Thật sự quá cô đơn, côi cút khi họ ngã xuống
và lại yên nghỉ ở nơi nào đó trên con đường diệt giặc, ở đỉnh đèo, góc núi, dưới tầng sâu, nơi đất lạnh
đều có bóng dáng của họ. Câu thơ như đưa người đọc vào cõi tê tái, nghẹn lòng như trong bài thơ
“Chinh phụ ngâm” của “Đặng Trần Côn”:
“Hồn sĩ tử gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Yếu tố bi tráng, hào hùng được nâng lên, yếu tố bi lụy đau thương được giảm bớt khi Quang Dũng sử
dụng từ Hán Việt “biên cương”, “mồ”, “viễn xứ” thì tăng tính trang trọng cho câu thơ, gợi không khí
cổ kính, biến những nấm mồ hoang lạnh nơi rừng sâu thành những ngôi mộ trang nghiêm nơi vĩnh
hằng. Lúc bấy giờ, ít ai viết bạo tay như Quang Dũng và đưa hình ảnh ảm đạm, thê lương, chết chóc
vào thơ ca nhưng nhà thơ đã làm và tạo nên nét riêng của mình. Các anh bộ đội cụ Hồ chiến đấu trên
mọi mặt trận, mọi địa bàn núi non hiểm trở, thậm chí phải hy sinh tính mạng của mình. Thế nhưng đó
lại là bản lĩnh của người lính Tây Tiến, họ thà bám riết vào trận địa chứ quyết không đào ngũ bỏ về,
lấy cái chết của mình làm tiền đề cho những người đồng đội nhắm thẳng về phía quân thù mà bắn.
Nếu như câu thơ trước tạo nên cái bi thì vần thơ sau lại vẽ lên nét tráng, câu thơ nhẹ nhàng như
không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Cái không khí bi quan biến mất, chỉ còn lại
nét ngang tàn, chút thanh thản của người lính Tây Tiến. “Chiến trường” là nơi mưa bom bão đạn dữ
dội, khốc liệt và nguy nan, là nơi cái chết cận kề như một định mệnh. Bảo “chẳng tiếc đời xanh” là
cách nói của người thanh niên trí thức Hà Nội mang cả quan niệm lí tưởng chiến đấu cao đẹp. Đâu
phải họ không tiếc cho tuổi trẻ! Chẳng phải “tuổi trẻ là mùa xuân” đó sao? Nhưng cao hơn cả “mùa
xuân” ấy, họ còn có tự do, quê hương, còn người hậu phương gửi gắm cả nỗi lòng cho họ. Đó cũng là
lí do tại sao người lính không tiếc đi xanh, họ chỉ tiếc nếu như tuổi trẻ này không được cầm súng bảo
vệ quê hương đất nước thì sẽ vô nghĩa biết nhường nào! Cụm từ “chẳng tiếc” là một cách nói hết sức
ngang tàng, khí phách của người lính, đây là thái độ tự nguyện, không gượng ép mình, họ ra đi với
tâm trạng thanh thản, và cũng khẳng định rằng đời xanh, tuổi xuân nhiều hy vọng, hoa mộng sẽ không
có ý nghĩa gì nếu không xông pha nơi trận mạc, góp mình bảo vệ quê hương Tổ quốc. Người lính coi
cái chết nhẹ tựa lông hồng, là lí tưởng quên mình chói sáng “Chết vinh còn hơn sống nhục”, thà hi
sinh anh dũng chứ quyết không sống dưới tay kẻ thù. Người lính Tây Tiến mang dáng vẻ của người
anh hùng “Kinh Kha” sang mưu sát Tần Thủy Hoàng trong bài “Sông Dịch”, ười chinh phu thời ng
xưa một đi không trở lại:
“Gió thổi hiu hắt, nước sông Dịch lạnh,
Tráng sĩ một khi ra đi, sẽ không trở về nữa”
Hay lí tưởng của người đi trong bài “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:
“Li khách, li khách con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không”
Mãi sau này, nhà thơ Thanh Thảo cũng viết:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc
Vậy là người lính cụ Hồ không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà còn mang một vẻ đẹp cổ kính đượm
màu hiệp sĩ xa xưa. Nhà thơ đã nhìn thẳng vào sự thật khốc liệt của chiến tranh, miêu tả cái chết một
cách không né tránh. Đúng như những gì nhà thơ Trần Lê Văn nhận xét: “Tây Tiến phảng phất nét
buồn đau, nhưng buồn đau mà không hề bi lụy”. Quang Dũng thật tài tình khi nói về cái chết nhưng
không bao giờ hét của người lính Tây Tiến ở hai câu thơ trên
Và hai câu thơ sau, nhà thơ đã viết về vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng qua sự hy sinh cao đẹp của
những người lính Tây Tiến:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Cách nói “Áo bào thay chiếu” có thể hiểu là chiếu không có, những có áo bào vì theo ý kiến của
Quang Dũng: Tôi muốn nói thêm cái phần gian khổ, thiếu thốn của miền Tây. Khi nằm xuống, người
chiến sĩ không có manh chiếu để liệm. Nói “áo bào thay chiếu” là cách nói của người lính chúng tôi,
cách ước lệ để an ủi đồng chí của mình đã nằm xuống. Người lính Tây Tiến ra đi từ những năm 1946,
1947 của thời kỳ trước, những năm đầu của cuộc kháng chiến, họ thiếu thốn đủ bề về cơ sở vật chất.
Vậy áo bào là điều không thể có, muốn hiểu hình ảnh này ta đến với cách hiểu cua Trần Lê Văn:
“ Không có áo bào, mà chỉ đơn giản là những tấm áo mỏng và người lính cởi ra để bọc người đồng
đội của mình trở về với đất mẹ”. Vẻ đẹp này ta bắt gặp trong thơ của Chế Lan Viên:
“Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
“Áo bào” là một từ Hán Việt, thực ra đó là tấm áo choàng bên ngoài của các anh bộ đội nhưng qua cái
nhìn của tác giả, dù nó đã bạc, sờn hay rách vì bom đạn của kẻ thù nhưng nó vẫn trở thành chiếc áo
bào sang trọng tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Cách dùng từ “áo bào” làm cho câu thơ trở nên
cổ kính hơn, trang trọng hơn cho cái chết người lính. Gợi được hào khí của c trai “thời loạn sẵn sàng
chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây”. Nhà thơ Hoàng Lộc trong bài thơ “Viếng Bạn” cũng đã
viết về cảnh tiễn đưa như thế:
“Ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán”
Hoặc “áo bào” này Trần Lê Văn khẳng định: “Đôi khi là những tấm chiếu mỏng, những tấm chăn
mỏng của đồng bào dân tộc miền cao. Họ tặng cho người lính, các anh sử dụng tấm chiếu này để đưa
người đồng đội của mình trở về với cát bụi”. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhóm, ngạo nghễ của
người tráng sĩ đi vào cái chết. “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành
nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng
đội và đây cũng là cách nói giảm nói tránh để vơi bớt đau thương. Quang Dũng muốn vĩnh viễn hóa
sự hy sinh cao đẹp, vi người lính thì chết không phải là hết mà là về với đất mẹ, được đất mẹ ôm vào
lòng để hóa thân mình cho dáng hình xứ sở, để còn mãi với núi sông này. Dù hôm nay chưa có bảng
vàng, bia đá để khắc tạc công ơn nhưng trong lòng người ở lại, các anh được tôn vinh như những anh
hùng dân tộc, được xứng đáng tiễn đưa trang trọng nhất. Quang Dũng nói về cái chết nhưng lại bất tử
hóa người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Các anh ra đi mãi mãi nhưng ra
đi là cho lẽ sống của mình còn sống mãi nên cái chết của các anh nhẹ nhàng như về đất. Trong bài
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nói:
“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Mở đầu bài thơ ta gặp hình ảnh sông Mã gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến, chứng kiến mọi
gian khổ, chiến công của ta, nhìn thấy tội ác của quân thù và giờ đây, cũng chính con sông Mã ấy lại
chứng kiến sự hy sinh của người lính. Nó như “gầm” lên khúc độc hành bi phẫn, đau thương làm rung
động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ đề cập đến đau thương nhưng vẫn hùng tráng. Sông Mã “gầm
lên” đây là âm vang của sông núi, là điệu khèn vĩnh quyết, là khúc ca bi tráng của thiên nhiên miền
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Tây và quê hương đất nước đang quặn lòng, nghiêng mình tiễn đưa các anh về nơi yên nghỉ cuối
cùng. Khi các anh ngã xuống về cõi vĩnh hằng, sông Mã như con chiến mã trung thành gầm lên một
tiếng kêu đầy đau đớn tiếc thương cho tướng sĩ của mình , đây chính là biểu hiện cao độ của nỗi đau.
Và sông Mã oai hùng qua biện pháp nhân hóa đã trở thành một sinh thể biết đau đớn, như thay cho cả
dân tộc kịp tấu lên những âm thanh bi tráng để tiễn đưa những anh hùng dân tộc. Tiếng gầm ấy là
khúc tráng ca - khúc nhạc bi tráng, khúc nhạc thiêng tiễn đưa anh linh của những người chiến sĩ về
điểm dừng chân cuối cùng, nó đã nâng cao cái chết của người lính lên tầm sử thi hoành tráng, cái chết
của người trai thời loạn đầy hào sảng. Không hề có tiếng khóc, không có những giọt nước mắt tang
thương, chỉ có núi sông, đất mẹ chứng kiến cái chết của các anh. Người lính ra đi nhưng hình ảnh của
các anh sẽ không bao giờ phai nhòa trong tâm trí mọi người. Hình ảnh người lính và những kỉ niệm
vẫn đậm mãi trong lòng Quang Dũng nói riêng và trong mỗi chúng ta nói chung. Trong bài “Bài thơ
ấy”, Giang Nam có viết:
“Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
Từ sự kết hợp hài hòa giữa cái nhìn hiện thực và cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên một
bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được
khắc tạc bằng cả tình yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước mình,
mang ba vẻ đẹp ốm mà không yếu, chết nhưng không hết, bi nhưng không bi quan bi lụy mà còn bi
hùng bi tráng. Nói như Vũ Thu Hương: “…Tây Tiến – bức tượng đài bất tử về người lính vô danh…”.
Đoạn thơ cuối thể hiện tình cảm của nhà thơ về đoàn quân Tây Tiến, tình đồng chí đồng đội
trong những năm kháng chiến gian khổ, đó là khúc vĩ thanh của nỗi nhớ. Bốn câu thơ này được xem
là mộ chí của người lính Tây Tiến, là lời thề gắn bó sâu sắc, ý chí còn đến muôn đời sau của các anh
bộ đội cụ Hồ:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm vị chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Người chiến sĩ ra đi với quyết tâm sắt đá, có chí lớn, không ước hẹn ngày về, tinh thần hi sinh vì
nước quyết lập được chiến công như những người chiến sĩ trong bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm
Tâm:
“Li khách! Li khách con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong”
Từ láy “thăm thẳm” ý chỉ các anh bộ đội càng đi thì càng không có cơ hội trở về. Bởi lẽ, họ ra
đi trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, và đây là lúc thế giặc thì mạnh còn quân
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
ta thì yếu. Đó là hoàn cảnh lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải hy sinh xương máu mới mong có ngày độc
lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”. Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của người lính cụ Hồ, làm nổi bật phẩm chất yêu quê
hương, yêu đất nước của họ. “Ai” là đại từ phiếm chỉ chỉ đoàn binh Tây Tiến ra đi trong mùa xuân
năm ấy, mùa xuân khi “tiếng kèn vang dậy khắp non sông”, đoàn binh Tây Tiến xuất quân lên đường
với hành trình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. “Mùa xuân” ấy ta có thể hiểu đó là thời điểm thành lập đoàn
quân Tây Tiến, mùa xuân năm 1947. Hoặc đây chính là mùa xuân của tuổi trẻ, của các chiến sĩ đã trở
thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Câu thơ cuối với sự kết hợp linh hoạt từ
các thanh bằng như một bài hát đầy cảm xúc. “Sầm Nứa” là địa danh ở phía đông Thượng Lào,
“chẳng về xuôi” nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân. Chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước
bạn hợp đồng tác chiến với quân dân Lào chống Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng.
Cho nên dù ngã xuống trên đường hành quân, nhưng hương hồn vẫn đi cùng đồng đội, sống trong
lòng đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”:
“Sống cũng đánh giặc, thác cũng đánh giặc”
Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, hoang dại, nguyên nhưng cũng không kém phần thơ
mộng của núi rừng Tây Bắc. Đặc biệt là cảnh sông nước mênh mang, m sương khói của Tây Bắc
càng làm cho bức tranh thiên nhiên ở đây hiện lên đầy ấn tượng và trở thành nỗi nhớ khôn nguôi của
những người lính Tây Tiến. Hình tượng của những người lính Tây Tiến vừa mang vẻ đẹp lãng mạn,
vừa mang tinh thần bi tráng. Những chặng đường hành quân dài qua núi non gập ghềnh, trắc trở và
những trận chiến hùng tráng, sự hi sinh mất mát cũng không làm hình ảnh của các anh mờ nhòe đi mà
chỉ là những nét bút tô đậm hơn vẻ kỳ vĩ của những bức tượng đài ấy mà thôi. Qua bài thơ, ta thấy
tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó máu thịt với đoàn binh Tây Tiến của tác giả Quang Dũng. Với những
sáng tạo nghệ thuật của Quang Dũng cùng bút pháp tạo hình đa dạng đã dựng nên bức tranh thiên
nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng và hình ảnh của người lính Tây Tiến với những đường nét khỏe
khoắn, mạnh mẽ. Sử dụng ngôn ngữ vừa quen thuộc vừa độc đáo, vừa có nét cổ kính, vừa mới lạ, bút
pháp lãng mạn kết hợp với tinh thần bi tráng tạo nên giọng điệu riêng cho thơ Quang Dũng.
Những người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính chống Pháp nói chung đã để lại
cho thế hệ trẻ hôm nay một bài học, một sự nhìn nhận đúng đắn về vai trò và sứ mệnh của bản thân
trong thời đại mới. Ngày hôm nay, khi chúng ta ở trong thời bình, những tiếng súng, những hình ảnh
hành quân, những khó khăn gian khổ của người lính chỉ còn ở trong những trang sách, vần thơ mà
thôi. Nhưng mà đó là thời đại có thật, thời oanh liệt của cha ông chúng ta cho nên ta phải trân trọng
nó và từ đó trân trọng cuộc sống của mình hôm nay, để có ý thức phát triển bản thân, giữ gìn và phát
huy lòng yêu nước của mình, có nhiều cống hiến cho quê hương, đất nước Việt Nam thêm phát triển
bền vững và ngày càng lớn mạnh, có thể sánh vai với các cường quốc năm châu như những lời mà
Bác đã dặn.
Có thể nói, trong những năm trường kỳ kháng chiến, cảm hứng yêu nước thật sự là một động
lực tinh thần mạnh mẽ cho những người con đất Việt mang “Tầm vóc nhà thơ đứng trên thành chiến
lũy”. Lịch sử hào hùng của dân tộc, thiên nhiên và người chiến sĩ, đã được tái hiện sinh động và hào
hùng qua những câu thơ “Tây Tiến”. Khép lại những trang thơ hào hùng nhưng dư âm của nó có lẽ
vẫn còn vương mãi. Ta nhớ đến những câu thơ của Chế Lan Viên:
“Ôi kháng chiến mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường
Ngọn lửa thắp sáng ấy có lẽ không chỉ trong thơ ông, mà còn thắp lên từ những câu thơ Tây Tiến, hòa
vào những bản trường ca kháng chiến. Nhờ sự cống hiến hết mình cho nền thơ ca hiện đại mà vào
năm 2001, Quang Dũng được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Nguyễn Sơn T
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 4:
Nhà thơ Jorge Luis Borges từng nhận định “Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những
vẫn thơ”. Thật vậy thời gian có thể phá hoại mọi thứ nhưng văn chương thì không. Có một tác phẩm
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
luôn trường tồn với chúng ta qua bao nhiêu năm tháng đó là bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang
Dũng.Ông được biết đến với hồn thơ lãng mạn nặng tình quê hương đất nước. Đến với bài thơ “Tây
Tiến” là nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị cũ. Nhớ những cuộc hành quân vất vả, gian lao với
bao mất mát hi sinh nhưng vẫn còn đó những kỉ niệm đẹp, ấm áp tình đồng chí, đồng đội. Qua tác
phẩm, tác giả đã khắc hoạ chân thực hình ảnh người lính Tây Tiến hào hùng, dũng cảm đan xen với
cảnh thiên nhiên thơ mộng hữu tình nơi miền Tây Bắc ấy:
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
…........
Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Nhà thơ Anh Ngọc đã từng nói “Tây Tiến hay đến nỗi ta phải ngạc nhiên mà nghĩ rằng : Tại sao trong
những ngày đầu non nớt của nền thơ kháng chiến và cách mạng mà chúng ta lại có được một tác
phẩm thơ tuyệt diệu đến thế , kinh điển đến thế mà cũng hiện đại đến thế”. Quả thật một “Tây Tiến”
tuyệt diệu, kinh điển, hiện đại đã đưc hiện lên dưới ngòi bút tài hoa độc đáo của người con xứ Đoài.
Được in trong tập “Mây đầu ô" năm 1948, khi Quang Dũng chuyển đơn vị khác và được viết tại Phù
Lưu Chanh.Ban đầu tác phẩm có tên là “Nhớ Tây Tiến" và được đổi lại là “Tây Tiến” Bài thơ được
viết trong thời kì kháng chiến chống Pháp ác liệt nhất nhưng nổi bật lên những khó khăn, gian khổ ấy
lại là bức tranh về hình tượng của những người lính trẻ Hà Nội. Họ hi sinh ước mơ, tuổi trẻ, tình cảm
để hướng về Tổ Quốc thân yêu.Phải tinh tế và tài tình làm sao khi tác giả kết hợp bút pháp hiện thực
và lãng mãn cùng vi những hình ảnh độc đáo và sáng tạo khiến bài thơ “Tây Tiến” luôn vang đọng
trong tâm trí người đọc.
Đến với 14 câu thơ đầu của bài thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến gắn liền với thiên nhiên Tây Bắc
cùng với những chặng đường hành quân gian khổ, khó khăn. Mở đầu bài thơ với âm điệu nhẹ nhàng
trìu mến:
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”
Bài thơ mở ra cùng với âm mở “ơii” như vang vọng khắp núi rừng. Nỗi nhớ ấy như được dồn nén lại
để bật lên một tiếng “ơi” tha thiết đến thế.Dường như mọi khoảng cách về địa lý cũng không thể
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
khiến tác giả quên đi mà thay vào đó là một nỗi nhớ “chơi vơi”.Một nỗi nhớ lửng lơ, mơ màng trong
tâm trí người lính ấy. Kết hợp với âm “ơi” tuy nhẹ nhàng nhưng lại luôn khiến người đọc day dứt
trong trái tim. Xuyên cả không gian và thời gian nỗi nhớ ấy cũng chính là mạch cảm xúc của toàn bài
thơ làm sống dậy bao kí ức tươi đẹp của tác giả. Tuy đã “ xa rồi” nhưng đối với Quang Dũng chắc hẳn
“Sông Mã” là một chứng nhân lịch sử ghi dấu lại bao tội ác của kẻ thù cũng như cả bao chiến tích của
đoàn binh “Tây Tiến”. Hình ảnh “Sông Mã” như gắn liền với bao năm tháng chiến đấu gian khổ với
chặng đường hành quân vô cùng vất vả nhưng cũng đầy tươi đẹp đối với những người lính.Chỉ bằng
hai câu thơ mà dường như nỗi nhớ đã hiện lên một cách đầy rõ nét và sinh động.
Tiếp nối khúc độc hành ấy mở ra con đường hành quân với vô vàn chông gai trước mắt đoàn binh
Tây Tiến:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Đứng đầu hai câu thơ hiện ra hai địa danh “ Sài Khao và Mường Lát” vốn là những không gian nơi
gắn liền với cuộc hành quân của người lính. Tây Bắc luôn được nhớ đến với địa hình hiểm trở cùng
với khí hậu khắc nghiệt chính vì vậy mà nhà thơ đã viết “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”. Hình
ảnh “ sương lấp” cũng cho thấy sự vất vả khi thể hiện khoảng thời gian mà các anh đi hành quân từ
lúc mặt trời còn chưa kịp xuất hiện cho tới tận “ đêm hơi” khi mặt trời đã xuống núi.Đối mặt vi
những gian lao ấy hiện lên một nét đẹp rất chân thực qua hình ảnh “ đoàn quân mỏi”. Chỉ bằng 3 từ
đã cho chúng ta những hình dung về dáng vẻ, tư thế của người lính trong gian lao.Tuy “mỏi” nhưng
tinh thần của họ chưa bao giờ bị khuất phục trước khó khăn bởi họ luôn mang trong mình tinh thần
lạc quan và nồng nàn lòng yêu nước “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Quang Dũng đã khéo léo sử
dụng một lúc hai biện pháp tu từ nhân háo và ẩn dụ quanh ảnh “ hoa về”.Và cũng thật tinh tế khi
tác giả không sử dụng từ “hoa nở” mà thay vào đó là từ “hoa về”.Cách dùng từ vừa khiến không gian
như nhẹ hơn vừa cho ta cảm giác những bông hoa như những ngọn đuốc sáng trong đêm để mừng sự
trở về của những người lính. Nhà thơ Tố Hữu cũng có những liên tưởng độc đáo về hình ảnh đoàn
quân:
“Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Còn trong thơ Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra với những hình ảnh sóng đôi trái ngược:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Có thể thấy cuộc hành quân với muôn vàn khó khăn trắc trở được tác giả thể hiện qua những con dốc.
Quang Dũng đã sử dụng một loạt tính từ để miểu tả độ cao của con dốc “khúc khuỷu, thăm thẳm, heo
hút” kết hợp với nhịp thơ 4/3 càng làm tăng sự khó khăn, vất vả lên nhiều lần. Những vách núi cheo
leo và địa hình gấp gãy cùng với độ cao của con dốc làm thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, bao la hơn bao
giờ hết. Giữa cái không gian rộng lớn, bao la như thế con người lại càng trở nên nhỏ bé hơn giữa các
cồn mây trắng xoá. Sự vắng vẻ, hiu quạnh nơi núi cao bởi có lẽ nơi mà các anh đi qua chư ai từng đặt
chân tới. Hình ảnh “ súng gửi trời” vừa thể hiện độ cao choáng ngợp khi những mũi súng hướng lên
khi đi hành quân cuả đoàn binh tưởng chừng như đã chạm tới trời.Quả thật nhà thơ đã rất tài tình để
vừa miêu tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ của đất nước đồng thời đó cũng làm nôir bật lên sự dũng cảm
khi đứng trước khó khăn của người lính.Dường như chua dừng lại ở đó những khó khăn vẫn tiếp diễn:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Phải chăng đối với người lính càng khó khăn lại càng kích thích họ chinh phục? Hai hình ảnh so sánh
đối lập “ lên xuống”, “cao thấp” càng tô đậm sự nguy hiểm và khó khăn của đoàn binh Tây - -
Tiến.Hình như thiên nhiên Tây Bắc đang muốn thử tài những người lính từ chỗ sâu thẳm nhất cho tới
chỗ ngút ngàn nhất của mình. Nhưng khi hành quân từ trên cao xuống thì hình ảnh bình dị thân thuộc
lại hiện lên trong mắt người lính:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Trong một phút dừng chân nghỉ nơi, có lẽ đây chính là khung cảnh yên bình nhất mà đoàn binh Tây
Tiến có thể ngắm nhìn được. Phải chăng có những giây phút người lính nhớ nhà ko? Bởi trên chặng
đường gian lao ấy có không ít những người đã gục ngã, hi sinh:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hai từ “ anh bạn” chắc hẳn đó chính là những người đồng đội, đồng chí có thấy sự thân thiết, gắn bó
qua từ ngữ mà nhà thơ đã dùng. Với biết bao thiếu thốn về vật chất, thuốc men nên đã có biết bao
những ngừoi lính không thể bước tiếp. Từ “gục” với âm nặng làm cho câu thơ có phần nặng nhưng
khi kết hợp với “bỏ quên đời” dường như làm cho câu văn được cân bằng và nhẹ nhàng hơn. Những
người lính Tây Tiến đã chủ động không bước nữa để ra đi thanh thản không day dứt, đắn đo. Tác giả
còn rất tinh tế khi sử dụng cụm từ “bỏ quên đời” làm giảm sự đau xót đối với cái mất của những
người lính.
Chỉ hai câu thơ đã nói lên tất cả sự khắc nghiệt của miền sơn cước này, một vùng núi tăm tối, nơi thú
dữ đe dọa con người. Nhà thơ sử dụng các từ “chiều-chiều”, “đêm đêm” để gợi lên một khoảng thời -
gian có tính chu kỳ và đều đặn, lặp đi lặp lại. Dưng như những gian khổ mà những người lính đã
phải trải qua không chỉ là những ngọn núi cao và dốc đứng, không chỉ là những cơn mưa cù với ng
thác đổ ầm ầm, mà còn những lúc khi hổ đang đùa giỡn với con người .Cả sức nặng thơ của câu
như đổ ồn vào chữ “Mường Hịch”, những khó khăn ấy dường như khi nhìn qua lăng kính lãng mạn
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
của Quang Dũng, nó như một trò đùa trẻ con dùng để “chọc tức thiên hạ”. Thế nhưng, giữa nơi rừng
thiêng nước qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một thời người ta vẫn nhìn thấy
được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Là hình ảnh ấm áp đầy quen thuộc của người dân đồng bào vơi mùi hương của nếp xôi tạo sự gần gũi
quen thuộc đối với người dân Việt Nam. Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên từng viết:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương.”
Nồi cơm ấm nóng cùng đồng chí, đồng đội xua tan bao mệt mỏi. Dù phải chiến đấu ở đâu, trong hoàn
cảnh nào, mùi lúa nếp vẫn luôn đọng trong lòng mỗi người lính khi nhớ về quê hương. Khi đến đoạn
thứ hai, chúng ta thấy một hướng Tây Bắc hoàn toàn khác với đoạn trước. Thay vì hình ảnh cảnh núi
non hoang vu, hiểm trở, Tây Bắc như một miền sơn cước đẹp đẽ, đầy quyến rũ và trữ tình, rất đỗi nên
thơ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
“Doanh trại” nơi chiến đấu, sinh hoạt gắn bó với biết bao kỷ niệm tươi đẹp của một thời chiến binh. -
Đêm ấy, sau những chặng đường hành quân gian lao, vất vả, buổi liên hoan văn nghệ cùng đồng bào
Tây Bắc đã diễn ra trong niềm vui hân hoan, háo hức. Từ “bừng” giống như nhãn tự của câu thơ này
bởi chỉ với một từ duy nhất làm cả không gian núi rừng Tây Bắc đen tối, âm u nay tràn ngập ảnh sáng
ấm áp của ngọn lửa, xua đi giá lạnh, xua đi những mệt nhọc vất vả hiểm nguy nơi chiến trường vừa
qua.một từ ngữ xuất hiện.Đêm liên hoan văn nghệ này cũng chính là sự rạo rực, tưng bừng, tươi vui,
hân hoan như những ngày lễ hội của người dân miền núi cao Tây Bắc. Tác giả ban đầu viết là “nàng”
nhưng sau đổi thành “em” như chính trong không gian âm nhạc và vũ điệu đã chắp cánh cho tâm hồn
Quang Dũng cũng như những người lính Tây Tiến khác. Đêm liên hoan văn nghệ có ánh sáng, có âm
thanh của tiếng khèn nhạc cụ đặc trưng của những dân tộc miền núi cao Tây Bắc thêm vào đó còn là -
những vũ điệu của tình người, tình quân dân. Tình cảm đẹp đẽ ấy, có phải đôi lần hay là rất nhiều lần
ta đã gặp trong thơ:
“Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm
- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Để rồi:
Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò”
(Hơi ấm ổ rơm Nguyễn Duy)-
Ở câu thơ sau, ta bắt gặp Quảng trường Viêng Chăn, một địa danh độc nhất vô nhị trong bài thơ
không thuộc đất nước Việt Nam, thủ đô nước Lào, ta nhận thấy người lính Tây Tiến không chỉ chiến
đấu ở Việt Nam mà còn chiến đấu trên đất nước Việt Nam. và dù bạn ở đâu, bạn luôn được chào đón
nồng nhiệt. Mặt khác, người đọc còn thấy được tình cảm lâu đời của Lào đối với Việt Nam, kẻ thù
chung của thực dân Pháp. Nếu bốn câu thơ trước là cuộc giao lưu văn hóa nghệ thuật của các dân tộc
cao nguyên với đoàn binh Tây Tiến thì bốn câu thơ sau mang vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây:
“ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
“Buổi chiều mù sương ấy” là buổi chiều mùa thu năm 1947. Màn sương mù phủ trắng núi rừng chiến
khu vào buổi chiều thu này đã in sâu vào tâm hồn người đọc với nỗi nhớ ngày càng lan tỏa. Hồn của
cây lau là hồn của mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu "nẻo bến bờ", nơi bờ
sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên
Châu Mộc qua cảnh sắc "chiều sương" và "hồn lau nẻo bến bờ". Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp
cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:
"Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng".
Các từ “đã thấy”, “đã nhớ” càng làm cho nỗi nhớ Châu Mộc chiều sương thêm man mác,
bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ người.Như một câu hỏi “có nhớ" con thuyền độc mộc và "dáng
người" chèo thuyền độc mộc? "Có nhớ" hình ảnh "hoa đong đưa" trên dòng nước lũ? "Hoa đong đưa"
có phải là hoa rừng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay
"Hoa đong đưa" là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên
dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang "đong đưa" trên sông suối. Thuở ấy, núi rừng Tây
Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan
và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng,
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc. Đến với khổ 3 là hình tượng người lính Tây
Tiến hào
hùng, hào hoa, lãng mạn và bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Chiến tranh rồi sẽ qua, thời gian sẽ bù đắp những đau thương, mất mát, nhưng hình ảnh người lính vô
danh hy sinh vì tổ quốc không phai sẽ luôn còn mãi trong trái tim hàng triệu người Việt Nam. Như
Banzlac đã nói: “Nhà văn phải là người thư ký trung thành của thời đại mình”. Như vậy, văn học với
sứ mệnh thiêng liêng của mình đã mãi mãi khắc ghi trong lòng người đọc hình ảnh những người con
anh hùng đã ngã xuống vì độc lập tự do của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử. Đọc câu thơ Đoàn
quân Tây Tiến không mọc tóc ta mới thấy được tài năng trong ngòi bút của Quang Dũng. Nếu tả
người lính với những nét khắc khổ, tiều tụy thì đều gợi lên âm hưởng hào hùng, bởi những điểm nhấn
đầu tiên của những câu thơ được gieo vào lòng như “tiến lên”, “tóc mọc”, từng chữ, từng vần. chúng
như những nét khắc trên tượng đài người lính Tây Tiến. Ngay từ hai dòng đầu của đoạn văn, tác giả
đã gợi lại trong tâm trí người đọc một căn bệnh quái ác đã ám ảnh văn học thời kỳ kháng chiến chống
Pháp bệnh sốt rét rừng. Ta nhớ đến một bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hoảng hốt xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
Đoàn quân Tây Tiến chủ yếu hoạt động những vùng rừng núi hiểm trở, núi cao, vực thẳm, những
cơn sốt rét của rừng khiến họ xanh xao, yếu ớt đến nỗi hình hài cũng thay đổi " không thể mọc tóc" .
Nhưng khó khăn không thể khuất phục được ý chí chiến đấu, ở họ luôn tràn đầy sức sống anh dũng,
tiêu biểu cho một tinh thần chiến đấu kiên cường bất chấp hiểm nguy bủa vây, dù bệnh tật, cuộc sống
khó khăn.Vẻ uy nghiêm được thể hiện qua ánh mắt giận dữ đầy căm thù của những người lính dường
như đôi mắt anh hùng cũng có chút dữ tợn đối với người lính, nhưng đằng sau tấm chăn ấy là những
tâm hồn luôn khao khát yêu thương. Khắc họa về đồng đội mình, Quang Dũng tiếp tục đem đến
những hình ảnh chân thực,không chỉ về đời sống mà còn về tâm hồn hào hoa, lãng mạn của các anh:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới” (Vũ Quần Phương), “thấy nổi lên lời độc tấu của chàng trai
Nội” (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh "mắt trừng" thể hiện sự quyết tâm
mãnh liệt của đoàn binh Tây Tiến chiến đấu bảo vệ biên cương. Hình ảnh này còn thể hiện hoài bão,
khát vọng lập công lòng căm thù giặc cháy bỏng của những người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc
sống chiến đấu gian khổ dữ dằn đó, những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật du hiền,
thân thương: "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"Chiến tranh tàn khốc, nhưng chiến tranh không cướp
được chất hào hoa của những chàng trai Hà thành Không gì có thể ngăn được những giây phút mộng
trong tâm hồn người lính. Thực chất đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp tâm hồn riêng của ngừoi nh Tây Tiến
Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp này trong bài thơ Đất nước:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang
Dũng thể hiện tình cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như
chính tâm hồn họ vậy. Giấc mơ đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào
hoa!
Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng
không né tránh và nhà thơ đã nói theo cách riêng củamình:
“ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì chẳng khác nào một hình ảnh xám xịt và lạnh lẽo, tăm tối,
hiu quạnh, mang nhiều ngậm ngùi. Nhưng trong ngữ cảnh, mạch văn, câu thơ sau: "Ra chiến trường
chẳng tiếc đời xanh" đã nâng cao chí khí, tầm vóc của người chiến sĩ. Bạn ra trận vì một lý tưởng cao
đẹp. Đó là cuộc sống của một chàng trai trẻ. , những thanh niên của "Những chàng trai chưa trắng nợ
anh hùng…", anh là những sinh viên Hà Nội, lên đường nhập ngũ vì nghĩa lớn với ý chí làm người, đã
"Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh" Câu thơ "Chiến trường đi không tiếc đời xanh" vang lên như một
lời thề thiêng liêng và cao cả. Các anh đã quyết hiến máu xương của mình để bảo vệ độc lập, tự do
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
của quê hương, chống lại thực dân Pháp với một quyết tâm sắt đá: "Chúng tôi thà hy sinh tất cả chứ
không chịu mất nước, dứt khoát không chịu làm nô lệ". Quang Dũng ghi lại cảnh tượng bi tráng giữa
chiến trường miền Tây thuở ấy:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Những tráng sĩ năm xưa giữa chiến trường đã lấy da ngựa để bọc thân như một niềm tự hào. Những
người lính Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với chiếc "áo" giản dị này: "đã về với đất". Một cái chết
ngọt ngào và thanh thản. Anh ra trận giết giặc cho quê hương. Anh đã ngã xuống: "trở về trần gian",
nằm trong vòng tay của quê hương thân yêu. Nhà thơ không dùng từ "chết",hy sinh" mà dùng thành
ngữ " về đất" để ca ngợi sự hy sinh cao cả mà giản dị, bình lặng mà thanh thản, ngọt ngào coi cái chết
nhẹ tựa lông hồng. Người chiến binh Tây Tiến đã sống và chiến đấu vì quê hương. "Anh về đất " bằng
tất cả tấm lòng thủy chung của một người lính. Tiếng thác nước sông Mã "gầm thét" giữa núi rừng
miền Tây như tiếng kèn trong bài hát "Chiêu hồn liệt sĩ" tống tiễn linh hồn liệt sĩ về nơi an giấc ngàn
thu. Câu "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" là một câu thơ hay. bởi nó gợi không khí linh thiêng,
trang nghiêm, đồng thời tạo nên âm điệu hào hùng, đượm buồn. Phong cách ngôn ngữ của Quang
Dũng rất đặc biệt, ngoài những từ ngữ giản dị đời thường của người lính như: gục, không mọc tóc, về
đất, … còn có một số âm Hán. Từ Việt Nam như mộng, mơ, biên giới, dáng kiều, viễn xứ, áo bào, -
khúc độc hành nhờ đó mà cái bình dị làm nổi bật cái cao cả thiêng liêng, cái bình thường tô đậm cái
anh hùng, vĩ đại . Đoạn thơ tả chân dung người lính trong bài thơ "Tây Tiến" là đoạn thơ đặc sắc
nhất. Khuynh hướng thơ và cảm hứng lãng mạn kết hợp với những sáng tạo trong miêu tả và bộc lộ
cảm xúc đã tạo nên những câu thơ có "hồn". Người lính đã sống một cuộc đời anh hùng và chết một
cái chết vẻ vang. Hình tượng người lính Tây tiến mãi mãi là tượng đài nghệ thuật bi tráng khắc sâu
vào tâm hồn dân tộc.Bốn câu thơ cuối là lý tưởng cao đẹp, vẻ đẹp bi tráng, coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng, sự hy sinh:cao cả của người lính Tây Tiến:
“Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Quang Dũng đã mượn âm thanh của sông nước, thiên nhiên và hồn thiêng Tây Bắc để nói lời từ biệt,
cảm ơn và ngợi ca đồng đội của mình. Câu thơ vừa dữ dội vừa hào hùng để cho sự hi sinh của người
lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Bài thơ kết thúc bằng bốn dòng với giọng buồn,
nhịp điệu chậm rãi nhưng hồn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại
một thời kỳ hào hùng, lãng mạn và thơ mộng trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ và ác liệt như vậy.
"Có một khúc ca không bao giờ quên" có một "Tây Tiến", một Quang Dũng luôn đi trong lòng bất -
cứ người yêu văn học nào. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng dư âm của nó sẽ luôn trường tồn. "Tây Tiến"
là một trong những ca khúc không thể quên của những năm dài chống Pháp.", nhà thơ Vũ Thu Hương
cũng nhận xét: "Tây Tiến là sự tiếp nối của một dòng thơ lãng mạn, nhưng được tác giả thổi vào một
tâm hồn rất trẻ trung, mới mẻ. Và cũng là cảm hứng khó và giai đoạn vẻ vang trong lịch sử đất nước,
Tây Tiến đã thể hiện mình một cách đặc biệt qua ngòi bút của Quang Dũng, với nỗi nhớ về đồng đội
của tác giả. đã làm xúc động người đọc bao thế hệ, và đây cũng là âm hưởng chủ đạo của bài thơ.
Shelly đã từng nói: “T ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử”. Quả vậy,
bài thơ “Tây Tiến” đã trở thành một tượng đài bất tử của đoàn binh Tây Tiến nói riêng cũng như
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
những người lính Việt Nam nói chung.Trong mặt người đọc “Tây Tiến” hiện lên quá đỗi hùng vĩ, bao
la đến choáng ngợp nhưng không vì như thế mà làm những người lính trở nên nhỏ bé. Với ý chí và
một trái tim yêu nưc nồng nàn họ quyết hi sinh để bảo vệ cho Tổ Quốc của mình. Bằng sự tài tình và
tinh tế trong cách viết nhà thơ Quang Dũng đã kết hợp hài hoà bút pháp hiện thực và lãng mãn với
nhiều hình ảnh, giọng điệu khi tha thiết bồi hồ, khi nhẹ nhàng vui tươi.Tất cả những điều đó đã tạo
nên một “Tây Tiến” như sống dậy trong longf người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân
tộc.Qua đó cho thấy thêm hiểu được những khó khăn, vất vả của cha ông ta để ta có thể trân trọng hơn
những ngày tháng được sống trong đọc lập tự do.
Khuất Phương Thảo
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
II. Việt Bắc
Bài làm 1: bức tranh tứ bình
“Khi ta ở chỉ là nơi đất
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Đến với những mảnh đất màu mỡ của văn chương, với những cảm hứng bất tận, nhà thơ Tố Hữu cũng
đã từng thả hồn mình với Việt Bắc để tâm sự rằng: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào tâm hồn
tôi, máu thịt tôi”. Chắc hẳn, phải là con người yêu mảnh đất hóa tâm hồn ấy lắm mới có thể cảm nhận
sâu sắc được cái tình mà nó đem lại đến vậy. Phải chăng vì thế mà khi đọc thơ Tố hữu người đọc lay
động từng chút, từng câu chữ sáng tạo độc đáo nhưng thấm nhuần hương sắc đất Việt. Điều này được
khắc họa rõ nét trong bài thơ “Việt Bắc” một thi phẩm đặc sắc đậm đà bản sắc dân tộc, ca ngợi con người
kháng chiến và cuộc sống chiến khu thời kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng và là bản tình ca
thủy chung, nghĩa tình giữa con người cách mạng với đồng bào Việt Bắc. Mà ấn tượng hơn cả là bức
tranh tứ bình trở nốt nhạc ngân xa, vang vọng khắp núi rừng:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của bộ đội ta trong kháng chiến chống
Pháp. Tại nơi đây, người dân miền núi đã che chở, đùm bọc cho Đảng, Chính phủ và kề vai sát cánh bên
những người cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Chính vì thế bài thơ “Việt
Bắc” được coi là một trong những đỉnh cao sáng tác của đời thơ Tố Hữu bài thơ được sáng tác nhân một
sự kiện quan trọng diễn ra vào năm 1954. Đó là thời điểm quân và dân ta giành được thắng lợi Điện Biên
Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký với ta hiệp định
Giơnevơ lập lại hòa bình ở miền Bắc. Đây cũng là lúc cơ quan trung ương đảng và cán bộ cách mạng rời
chiến khu Việt Bắc để trở về với Hà Nội thủ đô sao vàng nắng Ba Đình. Nhân sự kiện trọng đại đó -
tháng mười năm 1954, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc, bài thơ ra đời trở thành khúc hùng ca, khúc tình
ca, được biết bao thế hệ yêu thích và trân trọng gọi đó là đỉnh cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đúng
như lời Chế Lan Viên tâm sự "Anh là một con chim vụ ở đường bay, hơn là bộ lông bộ cánh, tuy vẫn là
lông cánh đẹp"
“Việt Bắc” để lại trong lòng người đọc những lời đối đáp đầy chân thành mà lưu luyến, bịn rịn giữa
tình cảm của người ra đi và ở lại. Đó còn là những kí ức chẳng thể phai nhoà trong những năm tháng
được sống, được chiến đấu ở mảnh đất của cách mạng của kháng chiến. Mà trong đó Tố Hữu đã đặt bút
để “ vẽ” lên bức tranh tứ bình với những nét chấm phá hài hòa, mang những đặc trưng của núi rừng Việt
Bắc.
Thiên nhiên Việt Bắc cũng tạo nên một bức tranh tứ bình với phong cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông:
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta v , ta nh ng hoa c nhữ ùng người”
Câu hỏi tu từ vang lên, cũng là câu hỏi đầu tiên từ phía người ra đi một câu hỏi phảng phất hương vị ngọt
ngào của tình yêu. Đó cũng là câu hỏi để gọi nhắc chứ không gọi câu trả lời. Vì có lẽ họ quá hiểu rõ lòng
nhau. Một lần nữa ta lại bắt gặp giọng điệu ngọt ngào tha thiết qua cặp đại từ “mình ta”. Đọc một bài thơ
viết về tháng năm cách mạng một tình cảm chung của cả dân tộc vậy mà cách xưng hô nhà thơ này sử
dụng lại là “mình ta”. Chúng ta đã từng gặp rất nhiều trong ca dao:-
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng”
Hay cặp đại từ mình ta để diễn tả tình yêu đôi lứa:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm dải áo ta đề câu thơ”
Sáng tạo của Tố hữu khi sử dụng cặp đại từ mình ta để diễn tả tình cảm cách mạng cho mối quan hệ càng
trở nên gắn bó gần gũi thân thiết. “Hoa” là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất của núi rừng Việt Bắc.
Nhắc đến hoa là nhớ đến người dân Việt Bắc nơi đây. Hoa và người có sự hòa quyện gắn bó, làm cho
bức tranh thiên nhiên thêm sống động. Cấu trúc của khổ thơ rất độc đáo cứ một câu nói về cảnh lại là một
câu nói về người, tạo nên bức tranh tứ bình cảnh với cảnh sắc bốn mùa. Trong nghệ thuật tứ bình phương
Đông khi nói đến cảnh của thiên nhiên bao giờ cũng có hình ảnh của “tùng, cúc, trúc, mai” “long, hay
ly, quy, phượng” còn nói tới con người là “ngư, tiều, canh, mục”. Còn ở đây Tố Hữu đã lãng mạn hóa
núi rừng Tây Bắc tạo nên bức tứ bình riêng rất Việt Nam. Đầu tiên là cảnh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Bức tranh mùa đông gợi lên bởi không gian mênh mông với chiều rộng của rừng xanh đại ngàn. Tất cả trở
nên sáng hơn khi tô điểm trên nền màu xanh bát ngát của núi rừng, là màu đỏ tươi của hoa chuối đang nở
rộ. Hai từ “đỏ tươi” làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng ấm áp xua đi cái hoang sơ lạnh lẽo
vốn có của mùa đông. Nổi bật trên nền xanh ấy là hình ảnh con người trong một tư thế trên đỉnh đèo cao.
Đó là tư thế của con người hiên ngang vững chãi làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng. Không chỉ thế
thì hình ảnh “dao gài thắt lưng” làm con người hiện lên trong lao động hằng ngày chăm chỉ cần cù.
Nhưng đặc sắc hơn là cụm từ “nắng ánh”. Tác giả thật tinh tế khi đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất trong
ngày. Đó là khi anh nắng rọi vào lối sau khiến con người trở thành điểm hội tụ của ánh sáng tỏa sáng trên
đỉnh đèo cao. Có lẽ đây là một phát hiện độc đáo và sáng tạo trong cái nhìn quan sát đầy tinh tế và chi
tiết của Tố hữu. Qua hai câu thơ ta thấy giữa hoang sơ heo hút, giữa trời cao và rừng rộng mênh mông
con người đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông ở Việt Bắc.
Khép lại bức tranh mùa đông là sự bao trùm với màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã làm cho không
gian núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp trong trẻo lạ thường:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ n chungười đan nó t t ng s ợi giang.”
Đó là khi Việt Bắc vào mùa xuân. Chúng ta đã thấy hình ảnh ấy trong bài thơ “trường ca theo chân Bác”:
“Ôi sáng xuân nay Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về ... im lặng! Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Tố hữu đã sử dụng thành công động từ “nở” để miêu tả được sức sống mùa xuân như lan tỏa khắp không
gian núi rừng Tây Bắc. Màu xanh của cánh rừng đại ngàn đã được thay thế bởi sắc trắng tinh khiết của
hoa mơ. Hình ảnh ấy gi cho ta nhớ đến cảnh xuân trong truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Nhưng sắc trắng trong thơ Nguyễn Du là sự điểm xuyết, là nét chấm phá tài tình với sự “ trắng điểm” đầy
tinh tế giữa nền xanh của núi rừng. Còn trong thơ Tố Hữu là sắc trắng ngần bao phủ cả núi rừng. Hai từ
“trắng rừng” thôi đã làm cho không gian của núi rừng Việt Bắc như bừng sáng cả một khoảng trời, được
tắm mình trong sắc trắng của hoa mơ.Trên nền trắng tinh khôi ấy thì con người vẫn chịu khó, cần cù,
nhẫn nại, tỉ mỉ khéo léo trong công việc hằng ngày qua từ " chuốt ". Nó còn gợi lên vẻ đẹp trong hành
động, tính cách của con người Việt Bắc. Họ đơn sơ, giản dị và nâng niu từng giá trị mà mẹ thiên nhiên
ban tặng. Họ cũng là những người đã và đang tiếp tục và giữ gìn nghề đan nón một công việc truyền -
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
thống ở Việt Bắc. Từ đó về đẹp con người Việt Bắc đã khắc sâu trong tâm trí của người ra đi trở thành
một dấu ấn không thể nào phai mờ.
Bức tranh mùa xuân qua đi màu trắng cũng mờ dần, để nhường chỗ cho âm thanh tiếng ve kêu rạo
rực cả một góc trời Việt Bắc vào mùa hè. Đó là âm thanh rộn rã tươi vui một âm thanh rất đặc trưng để
báo hiệu hè về:
“Ve kêu rừ ách đổng ph vàng
Nhớ á cô em g i hái măng một mình”
Trong cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, ông cũng đã từng nhắc đến tiếng ve như một dấu hiệu nhận biết hè
sang:
“Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Không chỉ là âm thanh mà cả hình ảnh cũng hiện lên với màu sắc vô cùng rực rỡ khi rừng phách đổ vàng.
Động từ “đổ” đã diễn tả thật tinh tế cảm giác choáng ngợp ấy, vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc
màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt lá phách rừng trút xuống khi có ngọn gió thoảng qua. Dường như cảnh
vật có sự giao cảm với nhau. Sau lời giục giã của tiếng ve, dòng thác vàng bất ngờ “đổ” ụp từ trời cao
xuống khiến cả rừng y óng ánh sắc vàng. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp sự chuyển đổi màu sắc trong
bài thơ “Duyên” của Xuân Diệu :
“ Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
Bức tranh mùa hè trong tưởng tượng như một bức tranh sơn mài lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm
thanh.
Sau c ng l b c tranh m a thu, tuy nhiên l không h cù à ù à ó bt c màu sc nào c thay v l ào đó à
hình nh c a ánh trăng Khác v i xu th b ế ình thư đông, mở ùa đông vàng là xuân-h-thu- đầu li là m kết
li b ng m ùa thu.B y l t mởi trong 9 năm ấ à ùa đông năm 1946 Bác đưa ra lời kêu gi toàn qu c kh ng á
chiến v kh p l i b ng thà é áng 10/1954. Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh
núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy,
những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của
núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát "ân tình" khép lại bức tranh tứ bình về thiên
nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa v
tình yêu Tổ quốc. Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự
hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa
về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của
Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình,
thủy chung.
Bài thơ Việt Bắc để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi bức tranh tứ bình và chính con người Việt
Bắc hiện lên đầy thi vị và lãng mạn. Đó đều là những dấu ấn không thể phai nhòa trong khoảng lặng tâm
hồn của nhà thơ và cũng như độc giả. Bằng cách sử dụng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng
điệu thủ thỉ tâm tình, cách sử dụng cặp đại từ mình ta độc đáo sáng tạo, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng
các biện pháp tu từ câu hỏi tu từ, ….cách sử dụng động từ,..Tố Hữu đã mang đến cho người đọc những
cảm xúc khó tả trước một bức tranh tứ bình với những nét chấm phá đơn sơ giản dị vừa cổ điển vừa hiện
đại.Quả thật không sai khi nói rằng "thái độ toàn tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm
nên thành công của nhà thơ Tố Hữu "
Nhà văn Macxen Prut cho rằng: Thế Giới được tạo lập không phải chỉ một lần mà mỗi lần người
nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Mỗi người nghệ sĩ đều có nét đẹp riêng,
phong cách riêng, phong cách độc đáo không ai giống ai. Và người nghệ sĩ xuất hiện để mang đến một
thế giới riêng dưới ánh mắt cách nn riêng. Cũng trong thời kì kháng chiến chống Pháp, nhưng nhà thơ
Tố Hữu đã tạo nên một thế giới mới cho mình với kiệt tác “Việt Bắc”.Mà ở ghi dấu trong lòng người đọc
là vẻ đẹp của bức tranh tứ bình với những nét vẽ giản dị mà đầy thơ mông. Quả như Hoài Thanh đã nói:
“văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có.”
Nguyễn Diệu Linh
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Bài làm 2:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Quả thật đúng như thế phải là con người yêu mảnh đất hóa tâm hồn ấy lắm mới có thể cảm
nhận sâu sắc được cái tình mà nó đem lại đến vậy. Phải chăng vì thế mà khi đọc thơ Tố hữu người đọc
lay động từng chút, từng câu chữ sáng tạo độc đáo nhưng thấm nhuần hương sắc đất Việt. Điều này
được khắc họa rõ nét trong bài thơ “Việt Bắc” một thi phẩm đặc sắc đậm đà bản sắc dân tộc, ca ngợi
con người kháng chiến và cuộc sống chiến khu thời kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng và là
bản tình ca thủy chung, nghĩa tình giữa con người cách mạng với đồng bào Việt Bắc.
Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của bộ đội ta trong kháng chiến
chống Pháp. Tại nơi đây, người dân miền núi đã che chở, đùm bọc cho Đảng, Chính phủ và kề vai sát
cánh bên những người cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Chính vì thế
bài thơ “Việt Bắc” được coi là một trong những đỉnh cao sáng tác của đời thơ Tố Hữu bài thơ được
sáng tác nhân một sự kiện quan trọng diễn ra vào năm 1954. Đó là thời điểm quân và dân ta giành
được thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu, buộc Pháp phải ngồi vào bàn
đàm phán và ký với ta hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở miền Bắc. Đây cũng là lúc cơ quan trung
ương đảng và cán bộ cách mạng rời chiến khu Việt Bắc để trở về với Hà Nội ủ đô sao vàng nắng - th
Ba Đình. Nhân sự kiện trọng đại đó tháng mười năm 1954, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc, bài thơ
ra đời trở thành khúc hùng ca, khúc tình ca, được biết bao thế hệ yêu thích và trân trọng gọi đó là đình
cao của thơ kháng chiến chống Pháp. Đúng như lời Chế Lan Viên tâm sự "Anh là một con chim vụ ở
đường bay, hơn là bộ lông bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp"
Là nhà cách mạng nhưng Tố Hữu lại hiện lên trong mắt bạn đọc giống như một nhà thơ kể
chuyện một người nghệ sĩ chuyên viết tình ca, tình cảm gắn bó với đồng bào Việt Bắc trong những
năm tháng sinh hoạt và chiến đấu tại đây đã trở thành niềm trăn trở trong Tố Hữu. Có lẽ cũng bởi vậy
mà giây phút chia li giữa người đi kẻ ở đã được tái hiện vô cùng chân thực và sinh động:
"Mình về mình có nh ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng"
Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại đồng bào Việt Bắc, trước khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến -
với cán bộ cách mạng, đồng bào đã không thể kìm nổi lòng mình mà kết thành tiếng bày tỏ câu hỏi
được đặt ra một cách trực tiếp, tình cảm của cán bộ cách mạng. khi về đến thủ đô Hà Nội rồi liệu có
còn nhớ đến chúng tôi hay không? Chữ “về” nghe sao mà tha thiết bâng khuâng đến thế? Có lẽ đây là
nơi thấp nhất khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một khoản hụt hẫng trong tâm hồn, giữa buổi chia tay
đầy bịn rịn. Đọc một bài thơ viết về tháng năm cách mạng một tình cảm chung của cả dân tộc vậy mà
cách xưng hô nhà thơ này sử dụng lại là “mình ta”. Chúng ta đã từng gặp rất nhiều trong ca dao:-
Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng
Hay cặp đại từ mình ta để diễn tả tình yêu đôi lứa:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm dải áo ta đề câu thơ
Sáng tạo của Tố hữu khi sử dụng cặp đại từ mình ta để diễn tả tình cảm cách mạng cho mối quan hệ
càng trở nên gắn bó gần gũi thân thiết. Cuộc ân tình cách mạng đã hóa thành hàng loạt lời hỏi tha thiết
vừa để dò hỏi khám phá sự nhắn nhủ cán bộ về xuôi vừa để bày tỏ nỗi nhớ niềm thương đang đong
đầy cõi lòng mình. Đây cũng là thời điểm phù hợp để người ở lại nhắc nhớ về khoảng thời gian mười
lăm năm. Đó là giai đoạn kháng chiến thủa còn Việt Minh một khoảng thời gian dài gắn bó với biết
bao kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Tố Hữu đã rất tinh tế khi sử dụng chữ “ấy” để cá nhân hóa khoảng
thời gian này. Đây là khoảng thời gian đã chứng kiến biết bao kỉ niệm trong chiến đấu trong sinh hoạt
của cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Và đặc biệt thay đó cũng là mốc thời gian nhắc nhớ về
cội nguồn cách mạng. Cách sử dụng từ ngữ của Tố hữu thật đặc biệt nói về tình cảm của những người
cán bộ cách mạng vi đồng bào Việt Bắc mà lại sử dụng tính từ “thiết tha ,mặn nồng”. Đây vốn là
những từ ngữ thường sử dụng cho tình cảm của đôi lứa, uyên ương. Vậy mới thấy được chất trữ tình
nồng đượm trong tứ thơ của nhà thơ cách mạng Tố Hữu. Chế Lan Viên người bạn thơ đã đưa ra nhận
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
xét về thơ Tố hữu như sau "thơ là đi giữa nhạc và ý rơi vào cái vực ý thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khó
khan, rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say người nhưng cũng dễ nông cạn ,Tố hữu đã gi
được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy thơ của anh vừa run người trong nhạc vừa thức người
bằng ý.” Đọc Việt Bắc chúng ta càng thêm thấm thía nhận định này. Qua những câu thơ trên, người ở
lại đặt bày tỏ tình cảm lưu luyến bịn rịn không nỡ rời xa. Chưa dừng lại ở đó người ở lại tiếp tục tỏ
bày:
Mình v m nh c nh không ì ó
Nhìn cây nh n i, nh ú ìn sông nh ngu n?
Điệp từ “nhìn và nh” được nhắc lại hai lần, thể hiện một nỗi nhớ bao trùm không gian và cả thời
gian, như tha thiết thường trực trong lòng của người ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở người đi về
tình cảm của người ở lại. Lời ướm hỏi nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây. Về
với Hà Nội của đèn đường của phố thị, những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến
người quên đi hay không? “Nhìn cây nhớ núi” là nhớ về thiên nhiên Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông
nhớ nguồn” là nhớ về cội nguồn của tình nghĩa, cội nguồn cách mạng. Có lẽ bởi vậy, nhà thơ chế Lan
Viên cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình nói hộ biết bao trái tim và những cung bậc trước khi
chia xa
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Có lẽ giờ đây Việt Bắc đối với những người cán bộ cách mạng chỉ là một thời đã xa nhưng vẫn hiện
hữu trong ký ức. Nó như một nỗi ám ảnh thường trực như một mạch cảm xúc nóng đang chảy trong
lồng ngực. Qua bốn câu thơ ta thấy được cách vận dụng từ ngữ linh hoạt của Tố hữu, Ông đã vận
dụng rất khéo léo đạo lí " uống nước nhớ nguồn" của dân tộc để nhắc nhỏ con cháu đời sau không
được quên công ơn của thế hệ cha ông đi trước. Sau này hỏi để gợi nhắc một cách khéo léo của người
ở lại là lời giãi bày bộc bạch cảm xúc của người ra đi. Dù không trực tiếp nhưng đầy bâng khuâng xao
xuyến:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
Mở đầu đoạn thơ là đại từ phiếm chỉ “ai “vang lên một cách đầy tự nhiên.Đó chính là người ở lại,
nhưng đại từ phiếm chỉ gợi cảm giác tiếng của ai đó chưa rõ mặt chỉ là những âm thanh cách lên vang
vọng từ núi rừng Tây Bắc.Những cặp từ láy “bâng khuâng” “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ
thương luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. “bâng khuâng” gọi trạng thái cảm xúc khó tả mơ hồ đan
xen bởi buồn vui luyến tiếc nhớ nhung. Còn “ bồn chồn” là tâm trạng thấp thỏm, nôn nào khiến con
người ta đứng ngồi không yên. Đúng như Tú xương đã viết:
“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”
Cách ngắt nhịp 4/4 với hai vị tiểu đối đối lập giữa bên trong và bên ngoài cho thấy hiệu quả
diễn đạt thêm súc tích. Tâm trạng chia tay đầy lưu luyến ấy còn được thể hiện một cách tinh tế qua hai
câu thơ tiếp theo
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Tình nghĩa sắt son mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia ly. Màu “áo
chàm” đặc trưng cho những con người chân chất miền núi Tây Bắc. Tố Hữu đã khéo léo tận dụng
hình ảnh hoán dụ này, càng thể hiện sự gần gũi giản dị giữa quân và dân miền núi. Họ không cùng
một quê hương nhưng chung một đất nước, có thể lý tưng sống của mỗi người cũng khác nhau
nhưng một khi đã gặp nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng trong lòng họ không ai bảo ai, đều
chung một niềm tin chiến đấu chiến đấu đến cùng đập tan quân giặc. Sắc áo chàm vĩnh viễn in đậm
trong nỗi nhớ thương của những người con về xuôi, màu áo vừa khắc họa tính cách một mặt vừa thắm
lên tấm lòng son sắc thuỷ chung của họ với cách mạng với kháng chiến. Động từ “cầm tay” thể hiện
sự gắn bó khăng khít yêu thương và đoàn kết đó là hành động thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ người
đi. Người ta cầm tay nhau để truyền sức mạnh, truyền tình cảm. Giống như người lính cụ Hồ trong
kháng chiến “nắm tay” nhau để truyền hơi ấm và gắn kết tình đồng đội:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Đồng chí – Chính Hữu
Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào vì thế không nói nên lời. “Biết nói gì hôm nay” có lẽ
không phải không muốn nói gì mà họ có quá nhiều điều muốn nói nên không biết nói gì vào lúc này,
khi mọi lời nói trở nên bất hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt, bao nhiêu tình cảm thân thương
trìu mến chất chứa trong sự im lặng đầy xúc động. Dấu ba chấm xuất hiện như một nốt nhạc ngân dài
nối tiếp tình cảm hai bên. Bốn câu thơ là lời đồng vọng nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại,
vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng trong ngày chia tay. Tất cả đều được tái hiện
qua cặp đại từ “mình ta”, thể thơ lục bát truyền thống với ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện
pháp tu từ: hoán dụ, từ láy,...
Có thể nói Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca mà còn là khúc hùng ca thiết tha, ân tình của
nhà thơ đối với khu căn cứ địa của cách mạng Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ
hai lời tâm tình của người dân Việt Bắc và những ngày kháng chiến đã đồng cam cộng khổ cùng cán
bộ trong suốt mười lăm năm:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để g
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Lời nói mộc mạc giản dị, như thủ th mà rót vào lòng người đi mình đi có nhớ rất ngọt ngào sâu lắng,
mà lại thân thương gần gũi. Những ngày đó là khoảng thời gian gắn bó cuộc đời mình với chiến đấu
với Việt Bắc và cả đồng bào Việt Bắc. Câu thơ mang dáng dấp của u hỏi tu từ, cũng đồng thời gợi
ra một khoảng thời gian ký ức đong đầy nhớ thương của đồng bào Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Và
những ngày ấy là:
“Mưa nguồn suối lũ những mây cùng
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối muối thù nặng vai”
Tác giả đã liệt kê ra những khung cảnh thiên nhiên hoang sơ thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt
Bắc. Qua đó khắc họa những khó khăn mà nhân dân Việt Bắc cùng cán bộ kháng chiến đã cùng nhau
trải qua trong mười lăm năm gắn bó. Hơn nữa nghệ thuật đối lập “mưa nguồn suối lũ” “những mây
cùng mù” đã gợi lên hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc rất đỗi thơ mộng và trữ tình. Trong khung cảnh
quen thuộc ấy hình ảnh “miếng cơm chấm muối” “ mối thù nặng vai”gợi ra những tháng ngày k
khăn gian khổ và đầy thiếu thốn. Mặc dù trong gian lao thế nhưng họ cùng chung chí hướng ,cùng
chung lý tưởng đó là mối thù sâu nặng đối với những kẻ cướp nước. Câu thơ thấp thoáng niềm tự hào,
bởi mình và ta đã cùng nhau sát cánh trải qua những tháng ngày gian khổ sống chết bên nhau. Tố Hữu
viết tiếp những dòng thơ thương nhớ :
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để g
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Tất cả những điều đó như lần lượt theo dòng hồi ức mà tràn về trong nỗi nhớ của cả người đi lẫn
người ở. Câu hỏi với sự ám ảnh của người đi người về cứ xoáy sâu vào tâm trí của người đọc. Qua
nghệ thuật nhân hóa “rừng núi nhớ ai” nỗi nhớ như bao trùm lan tỏa khắp không gian của núi rừng
Việt Bắc, rừng núi cũng dường như gần ngơ trước nỗi buồn chia xa. Nhà thơ Tố hữu thật tinh tế khi
lấy " trám và măng" để gợi tả nỗi nhớ. Bởi đó là hai sản vật quen thuộc của núi rừng Việt Bắc: người
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
ở lại đã lấy sự thừa thãi của cảnh vật để diễn tả nỗi trống vắng trong tâm hồn. Mình về khiến núi rừng
Việt Bắc trở nên trống trải buồn bã đến lạ thường. Cách giãi bày nỗi nhớ rất mộc mạc, giản dị ,chân
thành mà tha thiết. Bên cạnh đó hình ảnh những nếp nhà Việt Bắc cũng được nhắc đến trong ý thơ.
Tác giả đã đảo " hắt hiu" lên đầu câu để nhấn mạnh sự vắng vẻ hoang vu của núi rừng Việt Bắc. Hình
ảnh lau xám dường như rất quen thuộc đối với núi rừng hoang sơ :
“Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Trăm ngàn lâu lau trắng có một mình”
Thủ pháp đối lập giữa hình ảnh trong u thơ " hắt hiu lau xám đậm đà lòng son" đã thể hiện đậm nét
sự thủy chung, son sắt bền lòng của tình quân dân trên mảnh đất này. Nhìn từ xa đó là những ngôi nhà
có sự heo hút ,nghèo nàn, đơn sơ nhưng ẩn sâu bên trong lại là trái tim ấm áp và tình cảm sắt son của
đồng bào Việt Bắc. Hình ảnh “tấm lòng son “khiến ta gợi nhớ đến vẻ đẹp của người phụ nữ phong
kiến trong thơ của Hồ Xuân Hương:
" Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son"
Những năm tháng gian nan vất vả thiếu thốn, khó tránh khỏi những đau thương khắc nghiệt
của cuộc sống, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn cháy dữ dội những ngày tháng vẫn còn phải kháng Nhật
thuở còn Việt Minh như đã in sâu trong tiềm thức trong trí nhớ:
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Câu lục tác giả đã sử dụng cách xưng hô vô cùng độc đáo: ba từ “mình” diễn tả hai ngôi hai ,từ “mình
“đầu tiên ở ngôi thứ hai từ “mình” thứ ba ở ngôi thứ nhất. Từ đó tác giả muốn thể hiện “ta với mình
“tuy hai mà một, quấn quýt gắn bó không thể tách rời. Câu tám đã khép lại đoạn thơ là nỗi nhớ về
những địa danh lịch sử bằng nghệ thuật liệt kê. Đó là những địa danh địa điểm vô cùng quen thuộc có
ý nghĩa đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Câu thơ đã gợi nhắc đến hai địa danh nổi tiếng
gắn liền với hai sự kiện quan trọng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất là sự kiện cây đa Tân Trào .
Đó là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam) làm
lễ xuất quân lúc đầu chỉ có 34 thành viên sau đó đã trở thành một quân đội lớn mạnh. Địa điểm thứ
hai là mái đình Hồng Thái, nơi bác chủ trì cuộc họp quyết định cách mạng tháng tám . Chính quyết
định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp thành công giành lại độc lập tự do cho nước nhà.
Có lẽ tác giả nhắc lại những địa danh lịch sử nhằm nhấn mạnh câu hỏi để nhắc nhở và khẳng định
Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng là thủ đô của kháng chiến.
Khổ thơ tiếp theo là lời thề son sắt thủy chung và nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc thơ mộng
trữ tình là lời bộc bạch trực tiếp củan bộ về xuôi đối với người dân Việt Bắc:
Ta v i m nh, m ì ình vi ta
Lòng ta sau trước mn mà đinh ninh
Mình đi mình li nh m ình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình by nhiêu…
Sâu nặng bền chặt tình “ta và mình” luôn khắc sâu và được hai bên ghi lòng tạc dạ. Đó là tình
quân dân gắn bó như cá với nước, là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng ,là bài học cha
ông vẫn còn nguyên giá trị.Qua nghệ thuật lặp kết hợp với đảo "ta, mình ,với" đã thể hiện đưc sự gắn
bó tình cảm gần gũi của người ra đi dành cho người ở lại. “Mình và ta” là một quấn quýt yêu thương.
Bên cạnh đó là nghệ thuật đối lập “sau và trước” khẳng định tình cảm thủy chung trước sau như một
không thay đổi. Đó không chỉ là tình cảm đối với ngưi ở lại, mà còn là sự chung thủy gắn bó với
cách mạng. Hai từ láy “mặn mà ,đinh ninh” vang lên một cách tự nhiên khẳng định đó là tình cảm
chắc chắn bền vững không thay đổi theo thời gian. Hai câu thơ là lời thề lời hứa ra đi không quên cội
nguồn Việt Bắc. Câu thớ gợi về một tứ Kiều:
“Vầng trăng vằng vằng giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Còn từ “lại” chính là đáp lại câu hỏi của người ở lại khẳng định nỗi nhớ thường trực không nguôi
trong lòng của người ra đi. “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã mượn cách nói quen
thuộc của ca dao:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Qua nghệ thuật so sánh nghĩa tình của người ra đi và người ở lại với nước trong nguồn. “Nước trong
nguồn” thì không bao giờ vơi cạn và tình nghĩa cách mạng cũng thuỷ chung son sắt không bao giờ
thay đổi. Lời của người ra đi đáp lại tình cảm của ngưi ở lại bằng những lời khẳng định chắc chắn
đinh ninh, như một lời thề lời hứa thủy chung son sắt không bao giờ thay đổi. Tác giả đã tái hiện cuộc
chia tay đầy lưu luyến giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc đồng thời khẳng định tình cảm
thủy chung son sắt . Đó là nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Tính dân tộc đó mà thấm
nhuần trong từng câu chữ của thi phẩm:
Nh g ì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nng chiều lưng nương
Nh t ng b n kh i c ó ùng sương
Sm khuya b p lế ửa người thương đi về.
Nh t ng r ng n a b tre
Ngòi Thia, sông Đá ối Lê vơi đầy, su y.
Những kỷ ức như ngày nào dội về ,mỗi kỷ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua
vậy. Tác giả đã so sánh nỗi nhớ Việt Bắc như nỗi nhớ người yêu. Có lẽ bởi khi nói về nỗi nhớ người
yêu khiến cho con ngưi ta bồn chồn đứng ngồi không yên. Đó là nỗi nhớ ám ảnh thường trực, không
nguôi nhiều khi mãnh liệt và phi lý:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Qua đó, nỗi nhớ đã cho thấy mức độ tình cảm của người về xuôi dành cho Việt Bắc là vô
cùng sâu nặng và tha thiết. Có ai ngờ giữa không khí cách mạng cao trào lại hiện lên khung cảnh
thiên nhiên lãng mạn đến vậy? “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương"cảnh sắc nên thơ êm ả quá.
Cả miền Việt Bắc như dịu êm, mờ ảo trong khói chiều làm mê đắm lòng người. Tác giả đã sử dụng
nghệ thuật liệt kê hình ảnh thiên nhiên “trăng, núi, nắng , khói sương, rừng nứa bờ tre , sông suối.
…Từ đó bức tranh thiên nhiên Việt Bắc được khắc họa một cách phong, phú đa dạng ,đồng thời cũng
rất lãng mạn thơ mộng và trữ tình. Thời gian thì cứ liên tiếp nhau lặp lại cùng không gian bao la của
núi rừng. Dường như nỗi nhớ đã bao trùm toàn bộ không gian và thời gian. Điệp ngữ “nhớ từng”
được lặp lại hai lần như khắc sâu một lần nữa tình cảm sâu nặng da diết. Bên cạnh đó tác giả đã liệt kê
một loạt các địa danh ngồi Thia ,sông đáy, suối lê đó là những địa danh thân thuộc gắn bó. Hơn nữa
từ “vơi đầy” là chỉ sự phơi bày của nước dòng sông và cũng như nỗi nhớ dào dạt tha thiết của người
về xuôi. Bức tranh thiên nhiên khép lại để mở ra một nỗi nhớ da diết hơn về con người Việt Bắc.
“Sớm khuya” là khoảng thời gian trong ngày kết hợp với động từ “đi về” đã thể hiện sự vất vả chăm
chỉ cần cù của ngưi dân Việt Bắc. “Người thương” ấy là những con người nghĩa tình, đã cùng cán bộ
chia sẻ buồn vui, gánh vác gian khó. Đó có chăng là hình ảnh người mẹ, người em liên lạc, người con
gái quả cảm hay người anh du kích trong thơ Chế Lan Viên:
“Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
“Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Tưởng như câu thơ “Ta đi ta nhớ “đã khẳng định một cách chắc chắn đinh ninh tình cảm kiên định
không thay đổi. Hơn hết cách nói “mình đây ta đó” thể hiện tình cảm khăng khít gắn bó. Chính vì thế
họ đã trải qua những “đắng cay ngọt bùi” cho những gian khổ khó khăn cũng như niềm vui buồn
trong mười lăm năm sâu nặng nghĩa tình. Thật tinh tế và khéo léo, qua cách Tố hữu đã đưa thành ngữ
vào thơ một cách tự nhiên “đắng cay ngọt bùi”. Tất cả khó khăn ấy đầu khép lại bằng phép im lặng
qua dấu ba chấm ở cuối câu, để thể hiện cảm xúc dâng trào không thể tiếp tục nói lên lời. Họ không
chỉ trải qua khó khan, mà họ còn chia nhau “củ sắn lùi” ,”bát cơm sẻ nửa” “chăn sui” qua liệt kê một
loạt các hình ảnh phong phú sinh động và chân thực. Dường như tác giả đã vẽ lên bức tranh cuộc sống
kháng chiến không chỉ ác liệt với kẻ thù, mà còn thiếu thốn trong đời sống sinh hoạt. Và có lẽ các
động từ “chia sẻ” “đắp cùng” đã thể hiện chân thực cảm động tình cảm giữa người dân Việt Bắc và
cán bộ kháng chiến. Họ chia sẻ với nhau từng miếng ăn ngày đói, hơi ấm trong những đêm đông giá
lạnh. Chính những điều đó đã tiếp thêm động lực để cán bộ kháng chiến có thể chiến đấu để có thể
vượt qua những gian khổ. Đó cũng chính là cội nguồn của nỗi nhớ. Nhưng cảm động hơn ở một khía
cạnh khác đó là hình ảnh của người mẹ trong kháng chiến:
“nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh nắng cháy lưng lên ảnh tả thực gửi mẹ Việt Bắc lao động trong điều kiện khắc
nghiệt dữ dội nhất. Tố hữu đã sử dụng thành công các động từ địu, Bẻ để diễn tả sự vất vả của người
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
mẹ Việt Bắc trong cuộc sống lao động. Người mẹ đã nhọc nhằn chịu thương chu khó chắt chiu cho
con và ủng hộ kháng chiến. Lúc này con người Việt Bắc hiện lên trong tứ thư của nhà thơ là những
con người cần cù chu thương chịu khó trong lao động, yêu thương ủng hộ kháng chiến, thủy chung
với cách mạng. Bên cạnh đó còn là tình cảm yêu mến của nhà thơ và sự trân trọng biết ơn đối với
những người mẹ kháng chiến. Hình ảnh của họ từng hiện lên rất xúc động trong thơ Thu Bồn.
“Mẹ qu t con bng gi n m ló òng m
M p con b ng l ng ng c không c n m ò ùa đông
M xoa đầu con
B ng b n tay m xoa c à ánh đồng”
Hơn hết không chỉ là những con người cao cả ấy mà cả cuộc sống sinh hoạt ở Việt Bắc cũng
để lại ấn tượng sâu đậm trong trí nh của nhà thơ:
Nh sao l p h c i t
Đồng khuya đuốc s ng nh ng gi liên hoaná
Nh sao ng y thà áng cơ quan
Gian nan đời vn ca vang núi đèo.
Nh sao ti ng m r ng chiế õ u
Chày đêm nệ ối đều đền c u suối xa…
Điệp ngữ nhớ sao được nhắc lại hai lần thể hiện một nỗi nhớ da diết mãnh liệt khôn nguôi đang chào
dâng ăm ắp trong lòng. Đó là hình ảnh của lớp học " i tờ " là hình ảnh của những lớp bình dân học v
xóa nạn mù chữ trong những ngày đầu kháng chiến. Cụm từ ấy đã gọi xa cách đánh vần ngọng nghịu
những nét chữ vụng về. Nhưng đằng sau đó là cả một sự cố gắng và tinh thần giác ngộ cách mạng của
con người Việt Bắc. Bởi lẽ biết chữ họ mới có thể tiếp cận được với thông tin kháng chiến để góp
một phần công sức nào đó vào sự độc lập của dân tộc. Hình ảnh những giờ liên hoan cũng được hiện
lên với không khí vui tươi phấn khởi náo nức. Đó là những phút giây khiến cho con người kháng
chiến quên đi những mệt nhọc để tiếp tục chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Khó khăn gian khổ là thế nhưng
đâu đó vẫn vang vọng tinh thần lạc quan yêu đời tin tưởng vào ngày mai tươi sáng của những con
người Việt Bắc qua âm thanh tiếng hát ca vang. Hai câu cuối âm thanh hiện lên vô cùng sinh động đã
xua đi cái im lặng của núi rừng tiếng mõ rừng chiều chạy đêm nện cối suối xa. Đó là những âm thanh
quen thuộc của Việt Bắc mang nét đặc trưng của núi rừng, gợi cuộc sống em đềm thanh bình êm ả.
Thiên nhiên Việt Bắc cũng tạo nên một bức tranh tứ bình với phong cảnh bốn mùa xuân, hạ,
thu, đông:
Ta v , m nh c ì ó nh ta
Ta v , ta nh nh ng hoa cùng ngưi
Câu hỏi tu từ vang lên, cũng là câu hỏi đầu tiên từ phía người ra đi một câu hỏi phản phất hương vị
ngọt ngào của tình yêu. Đó cũng là câu hỏi để gọi nhắc chứ không gọi câu trả lời. Vì có lẽ họ quá hiểu
rõ lòng nhau. Một lần nữa ta lại bắt gặp giọng điệu ngọt ngào tha thiết qua cặp đại từ “mình ta”.
“Hoa” là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất của núi rừng Việt Bắc. Nhắc đến hoa là nhớ đến
người dân Việt Bắc nơi đây. Hoa và người có sự hòa quyện gắn bó, làm cho bức tranh thiên nhiên
thêm sống động. Cấu trúc của khổ thơ rất độc đáo cứ một câu nói về cảnh lại là một câu nói về người,
tạo nên bức tranh tứ bình cảnh với cảnh sắc bốn mùa. Trong nghệ thuật tứ bình phương Đông khi nói
đến cảnh của thiên nhiên bao giờ cũng có hình ảnh của tùng, cúc, trúc, mai hay long, ly, quy, phượng,
còn nói tới con người là ngư, tiêu, canh, mục. Còn ở đây Tố Hữu đã lãng mạn hóa núi rừng Tây Bắc
tạo nên bức tứ bình riêng rất Việt Nam. Đầu tiên là cảnh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Bức tranh mùa đông gi lên bởi không gian mênh mông với chiều rộng của rừng xanh đại ngàn. Tất
cả trở nên sáng hơn khi tô điểm trên nền màu xanh bát ngát của núi rừng, là màu đỏ tươi của hoa
chuối đang nở rộ. Hai từ “đỏ tươi” làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng ấm áp xua đi cái
hoang sơ lạnh lẽo vốn có của mùa đông. Nổi bật trên nền xanh ấy là hình ảnh con người trong một tư
thế trên đỉnh đèo cao. Đó là tư thế của con người hiên ngang vững chãi làm chủ thiên nhiên, làm chủ
núi rừng. Không chỉ thế thì hình ảnh “dao gài thắt lưng” làm con người hiện lên trong lao động hằng
ngày chăm chỉ cần cù. Nhưng đặc sắc hơn là cụm từ “nắng ánh”. Tác giả thật tinh tế khi đã chớp lấy
khoảnh khắc đẹp nhất trong ngày. Đó là khi anh nắng rọi vào lối sau khiến con người trở thành điểm
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
hội tụ của ánh sáng tỏa sáng trên đỉnh đèo cao. Có lẽ đây là một phát hiện độc đáo và sáng tạo trong
cái nhìn quan sát đầy tinh tế và chi tiết của Tố hữu. Qua hai câu thơ ta thấy giữa hoang sơ heo hút,
giữa trời cao và rừng rộng mênh mông con người đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông ở
Việt Bắc.
Khép lại bức tranh mùa đông là sự bao trùm với màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã làm cho
không gian núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp trong trẻo lạ thường:
Ngày xuân mơ nở trng rng
Nh n chungười đan nó t t ng s i giang.
Đó là khi Việt Bắc vào mùa xuân. Chúng ta đã thấy hình ảnh ấy trong bài thơ “trường ca theo chân
Bác”:
“Ôi sáng xuân nay Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về ... im lặng! Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Tố hữu đã sử dụng thành công động từ “nở” để miêu tả được sức sống mùa xuân như lan tỏa khắp
không gian núi rừng Tây Bắc. Hai từ “trắng rừng” đã làm cho không gian của núi rừng Việt Bắc như
bừng sáng cả một khoảng trời, như được thay áo mới. Trên nền trắng tinh khôi ấy thì con người vẫn tỉ
mỉ khéo léo cần mẫn trong công việc hằng ngày qua từ " chuốt ". Đó là ngày đan nón một công việc
truyền thống ở Việt Bắc. Từ đó về đẹp con người Việt Bắc đã khắc sâu trong tâm trí của người ra đi
trở thành một dấu ấn không thể nào phai mờ.
Bức tranh mùa xuân qua đi màu trắng cũng mờ dần, để nhường chỗ cho âm thanh tiếng ve
kêu rạo rực cả một góc trời Việt Bắc vào mùa hè. Đó là âm thanh rộn rã tươi vui một âm thanh rất đặc
trưng để báo hiệu hè về:
Ve kêu r ng ph ách đổ vàng
Nh cô em g i há ái măng một mình
Trong cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, ông cũng đã từng nhắc đến tiếng ve như một dấu hiệu nhận biết
hè sang:
“Dắng dỏi cầm vé lầu tịch dương
Không chỉ là âm thanh mà cả hình ảnh cũng hiện lên với màu sắc vô cùng rực rỡ khi rừng phách đổ
vàng. Động từ “đổ” đã diễn tả thật tinh tế cảm giác choáng ngợp ấy, vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ
của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt lá phách rừng trút xuống khi có ngọn gió thoảng qua.
Dường như cảnh vật có sự giao cảm với nhau. Sau lời giục giã của tiếng ve, dòng thác vàng bất ngờ
“đổ” ụp từ trời cao xuống khiến cả rừng cây óng ánh sắc vàng. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp sự
chuyển đổi màu sắc trong bài thơ “Duyên” của Xuân Diệu :
“ Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
Bức tranh mùa hè trong tưởng tượng như một bức tranh sơn mài lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã
âm thanh.
Sau c ng l b c tranh m a thu, tuy nhiên l không h cù à ù à ó bt c màu sc nào c thay v l ào đó à
hình nh c a ánh trăng Khác v i xu th b ế ình thườ đông, mở ùa đông vàng là xuân-h-thu- đầu li là m
kết l i b ng m ùa thu.Bởi trong 9 năm ấy là t mùa đông năm 1946 Bác đưa ra lời kêu gi toàn quc
kháng chiến v khà é p l i b ng th áng 10/1954. Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi
làm cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu
huyền ảo ấy, những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm
cả lòng người:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát
của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát "ân tình" khép lại bức tranh tứ bình về
thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu
xa về tình yêu Tổ quốc. Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ
ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức
tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ
tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn
hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Tuy cảm. xúc chủ đạo là nỗi nhớ, nhưng nhắc đến Việt Bắc nhắc đến Điện Biên Phủ, thì cũng
không thể thiếu những hình ảnh của những người lính trên chiến trận. Mở đầu khúc hùng ca ta bắt gặp
hình ảnh của những con người ra trận:
Những đường Việt Bắc ca ta
Đêm đêm rầm rập như là đt rung
Hình ảnh những con đường ra trận dòng hoài niệm của người cán bộ với ăm ắp những niềm
tự hào. Hai chữ “của ta” vang lên thật hùng hồn. Câu thơ giống như lời khẳng định chắc nịch. Đọc
xong sáu chữ ấy mà khát khao được đ quê hương, đất nướ ình vẫn vang vọng trong ng lên làm ch c m
trí nhớ. Cảm hứng này đã từng xuất hiện nhiều trong thơ ca cách mạng
“Trời xanh đây là ca ch ng taú
Núi r cừng đây là a chúng ta”.
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Hình ảnh những con đường hành quân đi tới ngày mai tươi sáng. Nhưng những con đường ấy cũng
chính là biểu tượng cho con đường cách mạng trong cả quá trình trưởng thành.
Nếu ở hai câu đầu ngưi cán bộ nhớ về hình ảnh đoàn quân Việt Bắc ra trận qua từ láy rầm rập thì
hai câu thơ sau ông miêu tả trọn vẹn sức mạnh khổng lồ của đoàn quân qua từ lấy tượng hình điệp
điệp trùng trùng.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Đó là một cách sử dụng từ độc đáo của Tố Hữu. Khi ông lấy từ gốc là trùng điệp sau đó tách từ và láy
lại, Đã miêu tả đoàn quân đông đảo có thể chạy sài Vinh dọc khắp núi rừng vừa mạnh mẽ hào hùng
vừa có thể đập tan mọi kẻ thù xâm lược. Câu thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh thật đẹp. Đó là hình ảnh
Ánh Sao đầu súng có thể hiểu theo hai cách. Có thể là ý nghĩa tả thực, những người lính hành quân
trong đêm súng vác trên vai Ngôi sao có lúc như treo trên đầu Ngọn súng, Ngôi sao trở thành người
bạn đồng hành của những người chiến sĩ. Hình ảnh thơ ấy có nét tương đồng với ảnh thơ trong bài thơ
đồng chí của chính hữu:
Đầu súng trăng treo
Hay đó là nét tương đồng trong thơ của Nguyễn đình Thi:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Bên cạnh đó hình ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng vô cùng đặc sắc. Ánh sao là biểu tượng cho lý
tưởng cách mạng lý tưởng cao đẹp của cuộc đời những người chiến sĩ. Đầu súng là tinh thần chiến
đấu là sự oai nghiêm dũng cảm. Cả câu thơ có thể hiểu, đó là lý tưởng cách mạng đã soi đường chỉ lối
cho những người lính tiếp tục chiến đấu bằng ý chí và sự bất khuất kiên cường. Tất cả hình ảnh thơ
được tái hiện vừa thực vừa lãng mạn.
Không chỉ có bộ đội ra trận mà nhân dân ta ở bất kì đâu cũng hăng hái góp sức mình vào cuộc
kháng chiến. Cùng hành quân với bộ đội là những đoàn dân công phục vụ chiến đấu:
Dân công đỏ ừng đoà đuốc t n
Bước chân n , muôn t n l a bay.át đá à
Tác giả đã sử dụng đảo ngữ “dân công” lên đầu câu. Từ đó nhấn mạnh lực lượng cùng tham gia kháng
chiến bao gồm cả các dân công. Dường như đó là cuộc kháng chiến của cả toàn dân của cả dân tộc
chứ không riêng gì những người chiến sĩ đầu đội trời chân đạp đất. Tố hữu thật tinh tế và độc đáo khi
đặt “dân công” ở đâu câu cuối câu là “từng đoàn”. Với cấu trúc ấy đã gợi ra sự trùng điệp vô tận của
những đoàn dân công, họ ngày đêm cần mẫn với công việc chuyển lương thực, phục vụ chiến trường.
Hình ảnh đoàn dân công bước đi trong đêm với những ngọn đuốc cháy sáng rực trên tay. Tất cả đều
mang âm hưởng sử thi hào hùng, hình ảnh hoành tráng bay bổng lãng mạn. Nhưng đặc sắc hơn khi
nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật phóng đại bước chân nát đá. Từ đó để miêu tả được sự đông đảo của
những lực lượng tham gia kháng chiến. Dường như mọi thứ đã được thần thoại hóa kể cả sức mạnh
của quân đội ta: những con người đạp bằng chông gai đi tới. Để có thể chiến đấu và chiến thắng mọi
kẻ thù xâm lược họ quyết hi sinh bản thân mình vì dân tộc. Khép lại hai câu thơ trên hình ảnh thơ đã
tái hiện được khí thế hào hùng của Việt Bắc trong chiến đấu.
Mặc dù điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, nhưng trong họ vẫn luôn giữ niềm lạc quan tin
tưởng vững chắc vào ngày mai chiến thắng của dân tộc ta:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Hiện thực mà tác giả khắc họa là cuộc chiến đấu của nhân dân, bộ đội rất gian khổ, bí mật thường
phải chiến đấu trong đêm tuổi nên cần đốt đuốc, “Nghìn đêm” được tái hiện qua nghệ thuật ước lệ. Đó
là khoảng thời gian dài không có điểm dừng. Nhưng hơn thế nữa, qua từ láy “thăm thẳm” đã gợi tả
được màn sương dày đặc bao phủ Việt Bắc. Đó là thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội, gọi lên sự mù mịt
không hướng đi. Đặc sắc hơn hình ảnh đó còn ẩn dụ cho quãng thời gian đen tối khi dân tộc, chìm
trong đêm trường nô lệ. Nhân dân cả nước phải chịu sự đau khổ mất mát cả về tinh thần lẫn vật chất
trong những năm tháng chiến tranh. Xua đi đêm tối, gạt đi màn sương dày động từ “bật sáng” xuất
hiện như làm bừng sáng cả câu thơ kết hợp với nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên”. Hai hình đó đã
nhấn mạnh khoảnh khắc chói lòa khi kháng chiến chuyển sang một thời kỳ mới: thời kỳ của chiến
thắng vẻ vang đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng của cán bộ kháng chiến của nhân dân Việt Bắc. Tố
Hữu đã đã sử dụng nghệ thuật đối lập “thăm thẳm sương dày” và “bật sáng như ngày mai lên” để diễn
tả sự tự hào, niềm tin vào tương lai tươi sáng của cách mạng. Tất cả những hình ảnh ấy khép lại làm
hiện lên trước mắt người đọc một Việt Bắc hào hùng anh dũng, một quân đội nhân dân lớn mạnh có
thể chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Và đó cũng là một thời kỳ gian khổ hiểm nguy
nhưng vô cùng hào hùng của dân tộc..
Chính những sức mạnh ấy, niềm tin ấy đã đem lại những niềm vui chiến thắng. Những tin vui
chiến thắng dồn dập, liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về làm nức lòng quân và dân ta:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng
Điệp từ "vui" được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế
tiếp đợt sóng kia cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng quân dân cả
nước.Với lối thơ lục bát ngọt ngào như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng, thật sôi nổi, hào hùng,
thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này đã thể hiện nổi bật khí thế hào hùng của quân và dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc; đồng thời đoạn thơ còn thể hiện niềm lạc quan cách
mạng, ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, làm nên những chiến thắng vẻ vang, mang niềm vui về
cho dân tộc. Đoạn thơ như một đoạn sử thi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Sau chiến thắng vẻ vang của toàn dân ta, khắp nơi hân hoan trong màu sắc rực rỡ tươi vui
dưới anh nắng và lá cờ đỏ sao vàng:
Ai v ai c nh không? ó
Ng đỏn c thm gi l ng c a hang.ó
Nắng trưa rực r sao vàng
Trung ương, Chính ph n b n vi c công lu à
Điề ếu quân chi n dch Thu đông
Nông thôn ph ng, giao thông m át độ đường
Gi đê, phò ạn, thu lươngng h
Gi dao miền ngược, thêm trường các khu…
m quân thđâu u á ù
Nhìn lên Vi t B c: C H s ng soi á
n giđâu đau đớ ng nòi
Trông v t B c m nuôi ch b Vi à í n.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mng d ng nên C ng H òa.
Mình v m nh l i nh ì ta
Mái đình Hng Thái, cây đa Tân Trào
Trung ương đảng và chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một
đổi mới với chính sách mới của đảng và nhà nước. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca công lao vĩ
đại của Bác hồ kính yêu lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Tây Bắc thân thương, dù mai này đã trở
về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ cho mình một góc trong tim dành
cho Việt Bắc. Và một lần nữa tác giả lại nhắc đến c địa danh địa điểm có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong cuộc kháng chiến: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào như gợi nhắc chúng ta về một
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
thời lịch sử đã qua nhưng vẫn hiện hữu ở đó. Và khổ thơ cuối gắn liền với ảnh của Bác hồ và cũng là
cội nguồn cuộc cách mạng, là điểm tựa niềm tin tinh thần của nhân dân Việt Nam. Từ đó thể hiện tình
cảm tri ân của nhà thơ dành cho Việt Bắc. Có lẽ bởi Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng là đầu
não kháng chiến, mà một phần đời còn lại các cán bộ kháng chiến không thể nào quên.
Bài thơ Việt Bắc để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi bức tranh thiên nhiên con người
Việt Bắc. Đó đều là những dấu ấn không thể phai nhòa trong khoảng lặng tâm hồn của nhà thơ và
cũng như độc giả. Bằng cách sử dụng thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng điệu thủ thỉ tâm
tình, cách sử dụng cặp đại từ mình ta độc đáo sáng tạo, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện
pháp tu từ điệp ngữ điệp cấu trúc, nghệ thuật liệt kê, ….Tố Hữu đã mang đến cho người đọc những
cảm xúc khó tả ,sự khâm phục tinh thần bất khuất của một thời lịch sử hào hùng đã qua. Quả thật
không sai khi nói rằng "thái độ toàn tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành
công của nhà thơ Tố Hữu "
Nhà văn Macxen Prut cho rằng: Thế Giới được tạo lập không phải chỉ một lần mà mỗi lần người
nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Mỗi người nghệ sĩ đều có nét đẹp
riêng, phong cách riêng, phong cách độc đáo không ai giống ai. Và người nghệ sĩ xuất hiện để mang
đến một thế giới riêng dưới ánh mắt cách nhìn riêng. Cũng trong thời kì khánh chiến chống Pháp
nhưng nhà thơ Tố Hữu đã tạo nên một thế giới mới cho mình với kiệt tác “Việt Bắc”. Những vần thơ
của Tố Hữu biết bao khoảnh khắc gian khổ, nhưng rất đời , rất tình ở Việt Bắc. Quả như Hoài Thanh
đã nói: “văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có.”
Nguyễn Diệu Linh
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 3:
Ở trong bản đồ văn học Việt Nam, dường như mỗi nhà văn, nhà thơ đều chọn cho mình một mảnh
đất để thương và để nhớ. Nguyễn Trung Thành bén duyên với Tây Nguyên đầy nắng và gió, Nguyễn
Thi dành hết yêu thương cho mảnh đất Nam Bộ nghĩa tình, hay như Nguyễn Tuấn đến với Tây Bắc xa
xôi, rộng lớn để tìm cái đẹp,…Còn với Tối Hữu, sau mười lăm năm gắn bó mặn nồng với mảnh đất và
con người Việt Bắc đã trở thành một phần không thể nào khuất đi trong tâm hồn của ông. Có lẽ cũng
chính vì hai chữ “thương”, “nhớ” đã giúp ông sáng tác thành công bài thơ “Việt Bắc”. Thi phẩm là
khúc nhạc lòng sâu lắng về tình cảm của người đi và kẻ ở, là mối tình sâu lắng, thủy chung, mặn nồng
của cán bộ và nhân dân.
Tố Hữu là lá cờ đầu của cách mạng Việt Nam các chặng đường sáng tác của ông song hành với
những chặng đường lịch sử gian khổ hi sinh nhưng cũng đầy những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Đọc những vần thơ đầy tính chính trị nhưng ta không hề thấy khô khan, bởi thi nhân đã thổi vào đó
những nhịp điệu của tâm hồn của một trái tim nhỏ bé lúc nào cũng rung lên thổn thức suy nghĩ cho
vận mệnh của quê hương đất nước. Thơ Tố Hữu đậm đà bản sắc dân tộc thấm đậm những nét đẹp của
quê hương đất nước để rồi Nguyễn Đình Thi đã có đánh giá sâu sắc về thơ của ông “Từ cuộc sống
hiện đại thơ anh ngày càng ghét nguồn trở lại về đoạn thơ của điểm của dân tộc”. Với sự thể hiện
những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ của mình Việt Bắc không chỉ là đỉnh cao
của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc nhất của thơ ca thời kỳ kháng chiến
chống Pháp.Thi phẩm được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và
con người kháng chiến.
Để làm nên thành công của bài thơ trước tiên phải kể đến thể thơ lục bát cùng lối xưng hô “ta-
mình”, “ mình ta” đậm đà màu sắc ca dao dân ca bài thơ có kết cấu như một màn đối đáp giữa kẻ ở -
và người đi trong cuộc chia tay đặc biệt đầy lưu luyến. “Kẻ ở” là nhân dân Việt Bắc những người đã -
đồng cam cộng khổ, gắn bó keo sơ, hết lòng vì cách mạng, vì kháng chiến. Còn “Người đi” chính là
những cán bộ về xuôi, những người đã hy sinh cả tuổi xuân, tuổi trẻ của mình để phục vụ cho cách
mạn, cho kháng chiến, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Bốn câu mở đầu là lời của người dân Việt bế hỏi người ra đi hỏi là để cơ giới kỷ niệm một giai
đoạn đã qua vì không dây nguồn cội tình nghĩa tình đã gắn bó keo sơn vi nhau trong suốt 15
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
năm.Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao dân ca chan chứa tình yêu thương
của người ở lại với người ra đi, hỏi để gợi nhắc người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Khi nói “Mình về” chính là biểu thị cho hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm cảm xúc. Bởi
nếu người không về (về xuôi) thì ta đâu có lý do,có cơ hội nào để bộc lộ tấm chân tình này. Trong câu
hỏi của người ở “mình” là chỉ người đi, “ta” là người ở lại. Mình ở đầu u, ta ở cuối câu, tưởng như
xa cách nhưng hóa ra lại thật gần, vì ở giữa” mình” “ta” có sự gắn kết bởi động từ “nhớ”. cách xưng -
hô “mình – ta” mộc mac quen thuộc thường thấy ở lối hát của ca dao, dân ca:
“Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
tình cảm “mình” “ta” không thể nào quên:-
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”
Còn trong thơ Tố Hữu, “mình” – “ta” là nỗi nhớ tình nghĩa giữa đồng bào và cán bộ. Cơ sở tạo nên
nỗi nhớ ấy là: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Người ở lại hỏi người ra đi: Có nhớ “ta”
trong “mười lăm năm ấy” đã đồng cam cộng khổ, cùng nhau gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với mình hay
không? “Mười lăm năm” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là khoảng thời gian từ năm 1940. Sau cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10 năm 1954. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm
Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung son sắt, keo sơn bền chặt. Tất cả những tình cảm ấy, người ở lại
đã dành riêng một vị trí đẹp nhất, quan trọng nhất trong trái tim mình. Bởi vậy, người ở lại hỏi nhưng
mục đích chính là để bộc lộ tình cảm, cảm xúc và hỏi là để thể hiện mong muốn người ra đi cũng có
tình cảm như mình.
Nếu hai câu đầu là lời gợi nhắc kỷ niệm “mười lăm năm” gắn bó, thì hai câu sau là lời nhắc nhở
chân tình, lời dặn dò n đáo mà rất đỗi tha thiết:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Ý thơ cho thấy: Đối tượng hỏi không còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa “mình” “ta” và nỗi nhớ -
dường như không còn chỉ hướng tới người đi, mà hướng tới đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó
chính là không gian: cây, sông, núi, nguồn. “Núi” và “nguồn” ở Việt Bắc chính là không gian quen
thuộc, gắn bó với người đi. Không gian đó, người đi, người ở lại chất chứa đầy kỷ niệm của “mười
lăm năm” nghĩa tình. Động từ “nhớ” và “nhìn” được nhắc đi nhắn lại hai lần, tác động mạnh vào cảm
xúc của người đi. Sự đan xen giữa các hành động và hình ảnh mà người ở lại đưa ra chỉ với mong
muốn nhắc nhở người đi sống ở đâu cũng đừng quên quá khứ, quên nơi mình đã gắn bó suốt một thời
gian dài.Việt Bắc chính là cội nguồn của Cách mạng, là “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng
hòa”, xin người về đừng quên. Tác giả đã vận dụng thành công đạo lý truyền thống: “Uống nước nhớ
nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để nhắc nhở con cháu phải biết hướng về gốc gác, cội nguồn.
Tấm lòng người ở đã tỏ lộ giãi bày trong không gian, theo thời gian.
Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn:
”Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Lúc này không còn phân biệt rõ “ta” và “mình” nhưng người đọc đều hiểu rõ đó chính là tiếng lòng
của các chiến sĩ. Độc giả vẫn dễ dàng tưởng tượng cảnh cia tay bịn rịn, đầy nước mắt ất. Người chiến
sĩ chuẩn bị quay bưc đi nhưng bỗng nghe văng vẳng bên tai “tiếng ai tha thiết bên cồn” để rồi lại
cảm thấy “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Tác giả sử dụng cụm từ láy “bâng khuâng” ở
đây để bộc lộ sự xuyến xao trong cõi lòng. Còn từ “bồn chồn” lại lột tả tâm trạng đứng ngồi không
yên, còn nhiều lo lắng của các chiến dành cho đồng bào sự dẫn đến việc không nỡ rời xa. Sở dĩ các
chiến sĩ còn nhiều âu lo cho đồng bào dù rằng Cách mạng đã thành công, nhưng dân ta còn nghèo,
nước ta còn chưa mạnh, giặc vẫn còn nhiều phen lâm le ngoài bờ cõi. Vì thế, yên tâm sao được!. Nhất
là khi các chiến sĩ nhìn thấy chiếc áo chàm bà con đang mặc. Nó thật giản dị đơn sơ nhưng cũng th
hiện cả sự đói nghèo thiếu thốn. Bởi vậy dù còn nhiều bận tâm, dù không muốn rời đi, nhưng các
chiến sĩ vẫn phải quyết chí để về xuôi hoàn thành nhiệm vụ. Chính bởi vậy mà “Áo chàm đưa buổi
phân li/ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Chỉ cầm thay mà không biết nói gì ở đây không phải vì
không có gì để nói mà là có quá nhiều điều muốn chia sẻ nhưng không biết bắt đầu từ đâu, nói như
thế nào. Tưởng chừng như bao câu từ cứ bị nghẹn ứ ở cổ họng, nên chỉ cầm tay nhau thôi, trao nhau
hơi ấm của cơ thể cũng đủ để thay lời yêu thương.
Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con ngưi ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những kỉ
niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối lũ về,
cả trời đất mây mù che kín. Khoảng khắc khó khăn ấy người dân luôn có những chiến sĩ kề bên. Hay
người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay không, chiến khu ấy nghèo chỉ có cơm chấm muối
thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân nơi đây. Và trong
hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã quá đầy đủ rồi. Mối thù
nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy cho người chiến sĩ. Những người chiến sĩ
về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi đất trời nơi đây. Và bây giờ trám bùi thì để rụng còn măng mai để
già. Những gì của thiên nhiên Việt Bắc vốn là để cho những chiến sĩ cách mạng thì giờ đây người đi
những thứ ấy lại để rụng để già. Những từ nhớ như điệp đi điệp lại nhiều lần như vang vào trong lòng
người những nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa, cứ
lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu thương gắn bó của những
con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở như thâu tóm cả thiên nhiên và con người Việt Bắc với
những tình cảm của một tấm lòng son sắc không phai. Những địa danh đưc nhắc đến như chứng
minh cho những trận chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.
Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và
những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa.
Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc
và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia ly giữa nhân dân Việt Bắc và những
người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
“Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau.
Người ra đi một mực khẳng định rằng “mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” như ghim chặt vào
lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng
và cao cả. Những chữ “ta”, “mình” quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng đó.
Người ở lại hỏi: “Mình đi, mình có nhớ mình” thì người ra đi có ngay lời đồng vọng “mình đi, mình
lại nhớ mình”, tuy hai mà một. Thật hài hoà, gắn bó, thắm thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn
không bao giờ cạn: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Bao nhiêu, bấy nhiêu” – Cặp từ
hô ứng đã nhấn mạnh được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.
Mười tám câu thơ tiếp người ra đi diễn tả cụ thể nỗi nhớ về Việt Bắc gắn với những kỷ niệm về
không gian, kỷ niệm cảnh vật cuộc sống, con người nơi chiến khu. Qua đó làm nổi bật lên một Việt
Bắc nghĩa tình. Nỗi nhớ về thời gian, không gian cảnh vật con người nơi chiến khu Việt Bắc được tái
hiện trong 8 câu thơ đầu:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa b tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...”
Đoạn thơ là nỗi nhớ da diết của người ra đi về quê hương cách mạng. Tình cảm đó trước hết được
thể hiện qua điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại và đặc biệt qua biện pháp nghệ thuật so sánh độc đáo,
gợi cảm.
“Nhớ gì như nhớ người yêu”
Trong muôn vàn nỗi nhớ của con người thì nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi bao giờ cũng cồn cào, cháy
bỏng nhất. Chúng ta đã từng nghe khúc ca “Sóng” của Xuân Quỳnh với những vần thơ nhớ về người
yêu da diết:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẩu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nhớ
Hướng về anh một phương.”
Cách so sánh như vậy không chỉ giúp ngưi đọc cảm nhận được nỗi nhớ về Việt Bắc của người ra đi
da diết, mãnh liệt mà còn tạo cho người đọc cảm nhận được sắc thái nghệ thuật đặc sắc trong phong
cách thơ của Tố Hữu. Những tình cảm công dân, tình cảm cách mạng được lí giải bằng những cảm
xúc rất riêng tư. Ông nói chuyện chính trị như đang tâm tình với người yêu. Nỗi nhớ đó đã làm sống
lại những hoài niệm về thời gian, không gian cảnh vật, cuộc sống con người nơi chiến khu. Tất cả đều
đẹp đẽ, thân thương, đáng yêu, đáng nhớ. Đó là những khoảnh khắc thanh bình, êm dịu của núi rừng:
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương.
Như không rảnh hẹn hò của những đôi lứa yêu nhau. Đó là những bản làng thấp thoáng hiện ra trong
mây núi, sương phủ. Là những ngôi nhà sàn với bếp lửa bập bùng. Là những người thương đi về
khuya sớm.Tất cả đều trở nên chân thực, thân thuộc, gắn bó với người cách mạng:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nỗi nhớ không gian cảnh vật núi rừng Việt Bắc như được mở rộng đến khôn cùng mà cũng rất chân
thực cụ thể:
Nhớ từng rừng nữa bi tre
Ngòi thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Những cánh rừng, con suối, con sông nơi chiến khu Việt Bắc không phải là những sự vật vô tri mà đã
trở thành những địa danh thấm đẫm bao ân tình kỷ niệm. Hai chữ “vơi đầy” không chỉ mang ý nghĩa
tả thực về con nước mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho tình cảm luôn đong đầy trong tâm trí người ra đi.
Bởi lẽ, tất cả những cảnh vật nơi núi rừng Việt Bắc đều ghi dấu những kỷ niệm không thể nào quên
trong suốt mười lăm năm ấy:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi.
Vất vả, lam lũ là thế nhưng những con người nơi đây vẫn sống với nhau thật thủy chung, tình nghĩa,
họ luôn đồng cam cộng khổ với nhau, chia ngọt sẻ bùi, lạc quan, yêu đời để cùng nhau vượt qua
những năm tháng khó khăn, gian nan của cuộc kháng chiến.
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i t
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Bốn câu đầu tác giả muốn nói đến vẻ đẹp của tình người. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên trước
hết với vẻ đẹp ở nơi chiến khu cách mạng:
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
“Củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui” đó là những vật chất đơn sơ, bình dị. Tưởng như không có gì
đáng giá nhưng cái đáng trân trọng nhất lại là ở những hành động việc làm, cử chỉ giản dị mà thấm
đượm nghĩa tình. Đó là biểu hiện cụ thể, thiết thực của tình thương. Những người dân Việt Bắc sẵn
sàng cưu mang, đùm bọc, đồng cam cộng khổ với những người cán bộ cách mạng để cùng nhau vượt
qua mọi khó khăn. Trong muôn vàn tình cảm mà người dân Việt Bắc đã dành cho những người cách
mạng, ấn tượng sâu đậm nhất trong nỗi nhớ của người ra đi là hình ảnh của người mẹ nghèo Việt Bắc.
Hình ảnh “nắng cháy lưng” không chỉ diễn tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên, hoàn cảnh lao động vất
vả, cơ cực mà còn gọi lên được sức chịu đựng bền b, dẻo dai của người mẹ. Mẹ trong cái nắng hè
chói chang gay gắt mẹ vừa địu con, vừa lên rẫy bẻ từng bắp ngô. Chắt chiu từ những giọt mồ hôi để
nuôi con, nuôi người cách mạng. Hình ảnh câu thơ còn gợi lên bao nỗi xúc động, bùi ngùi, vừa xót xa,
vừa cảm phục của người ra đi. Mẹ đã trở thành biểu tượng cho những người mẹ Việt Bắc nói riêng và
những người mẹ Việt Nam nói chung: lam lũ, tảo tần, giàu tình yêu thương và đức hy sinh vô hạn.
Không chỉ gợi lại những kỉ niệm về tình người với những ân tình sâu nặng, cuộc sống sinh hoạt
nơi chiến khu cách mạng cũng được tái hiện một cách chân thực cụ thể:
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Nhớ sao lớp học i t
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Điệp khúc “Nhớ sao” được lặp đi lặp lại đã tô đậm nỗi nhớ về Việt Bắc mỗi lúc càng thêm
bâng khuâng, da diết. Những kỷ niệm đã lùi xa theo thời gian nhưng trong tâm trí của người đi nó
vẫn hiện lên rõ nét, tươi mới, sinh động từ hình ảnh, âm thanh, sắc màu. Đó là hình ảnh những lớp
bình dân học vụ nhộn nhịp những đêm liên hoan văn nghệ tưng bừng náo nức, rực sáng rừng đêm
thắm thiết nghĩa tình quân dân. Đó là những buổi sinh hoạt cơ quan với những bài ca vang vọng tràn
đầy hi vọng niềm lạc quan tin tưởng. Đó là những âm thanh đều đều của tiếng mõ rừng chiều khi bầy
trâu về bản, tiếng chày nện cối nơi suối xa. Những âm thanh quen thuộc đó đã tạo thành một bản hòa
ca náo nức báo hiệu cuộc sống hòa bình, êm vui nơi chiến khu cách mạng.
Khổ thơ sau là mười câu thơ. bức tranh tứ bình, nỗi nhvề vẻ đẹp nhất của thiên nhiên, con
người Việt Bắc.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao dài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chút từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Ngày thu trăng gọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đoạn thơ được đánh giá là những vần thơ đẹp nhất của bài thơ Việt Bắc. Vẫn là nỗi nhớ nhung da diết
của người ra đi về quê hương cách mạng. Mở đầu người ra đi đã ướm hỏi Việt Bắc thật dịu dàng, tình
tứ:
“Ta về mình có nhớ ta.”
Những câu hỏi chỉ là cái cớ để người ra đi bày tỏ, khẳng định nỗi nhớ da diết với người ở lại, với quê
hương Việt Bắc:
“Ta về ta nhớ những hoa cùng ngưi”
Hoa biểu tượng đẹp nhất của thiên nhiên, con người kết tinh cho vẻ đẹp nhất của cuộc sống người
ta là hoa đất” Hoa cùng người đã trở thành đối tượng của nỗi nhớ, là trung tâm của nỗi nhớ, cùng soi .
chiếu, đồng hiện trong hoài niệm của người ra đi làm nên những hình ảnh đẹp đẽ nhất, thân thương nhất
về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa.
Tám câu thơ còn lại, người ra đi gợi tả vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông với bốn cặp câu lục bát hài hòa, cân đối cùng bút pháp nghệ thuật miêu tả theo lối
chấm phá, những từ ngữ, hình ảnh sinh động, giàu chất tạo hình giúp đoạn thơ được xem như một bộ
tranh tứ bình về Việt Bắc trong bốn mùa. Mỗi mùa có một mét một vẻ đẹp riêng nhưng mùa nào cũng
đẹp, đáng yêu và đáng nhớ.
Mở đầu là khung cảnh rừng đông Việt Bắc:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
Khung cảnh thiên nhiên rừng đông được gợi tả bởi hai gam màu đối lập: tương phản (lạnh, xanh)
nóng đỏ. Trên màu xanh bạt ngàn, mênh mông của rừng già làm sắc màu rực rỡ đỏ tươi của những bông
hoa chuối nổi bật tựa như những ngọn lửa cháy rực, thắp sáng cả rừng đông âm u khiến cho cánh rừng
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
không còn vẻ hoang vu, lạnh lẽo mà vẫn tràn đầy sức sống. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên trên
nền cảnh rừng đông với những chi tiết rất giàu giá trị tạo hình và đầy ấn tượng:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
Câu thơ vừa gợi hình ảnh, vừa gợi những đường nét và ánh sáng. Người đi rừng đang đứng trên đỉnh
cao hùng vĩ của thiên nhiên con dao trên thắt lưng phản chiếu nắng chiều. Không phải những người tiều
khu nghèo khó nhỏ bé khi xưa trong những câu thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan mà
đó là tư thế hào hùng, hiên ngang, khỏe khoắn của con người lao động đã được đổi đời, được làm chủ
cuộc sống thiên nhiên núi rừng.
Hai câu thơ tiếp theo là cảnh rừng xuân Việt Bắc:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đang đón chuốt từng sợi giang.”
Màu xanh bạt ngàn, tĩnh lặng của rừng già được thay thế bằng sắc trắng tinh khiết của hoa mơ. Đặc
biệt, động từ “nở” và cụm tính từ “trắng rừng” gợi lên sự bao trùm của sắc trắng và gợi tả cả sự vận
động, sự sinh sôi, nảy nở không ngừng của sắc trắng. Cảnh núi rừng Việt Bắc vào xuân mang vẻ đẹp
thơ mộng, huyền ảo, diễm lệ như chốn bồng lai tiên cảnh và tràn ngập sắc xuân.
Trên nền cảnh rừng xuân hiền dịu ấy, con người lao động Việt Bắc hiện lên với đôi bàn tay đầy ấn
tượng
“Nhớ người đang đón chuốt từng sợi giang.”
Từ “chuốt” không chỉ mô phỏng động tác của người mà còn gọi lên được sự cần mẫn, khéo léo, mềm
mại và tài hoa. Bao tình yêu thương, tấm ng cưu mang đùm bọc với người cách mạng được họ gửi
gắm lặng thầm vào những việc làm cụ thể vào trong từng động tác. Tiếp đó là cảnh rừng Việt Bắc vào
hạ rộn ràng:
”Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
Nếu như cảnh rừng đông, rừng xuân Việt Bắc được hiện lên bởi những sắc màu dịu thì cảnh rừng hạ
lại được cảm nhận bằng những âm thanh rộn rã và sắc màu sặc sỡ. Động từ “đổ” chỉ sự chuyển đổi một
cách bất ngờ, đột ngột, nhanh chóng, mạnh mẽ của không gian cảnh vật. Một câu thơ có mang đến cho
người đọc người nghe nhiều liên tưởng. Tiếng ve kêu gọi mùa hè đến, hè về đã mang theo sắc vàng rực
rỡ và làm nhuộm vàng cả cánh rừng. Hình đó màu vàng chói chang của nắng là màu vàng tươi của
hoa phách. Màu vàng của nắng chan hòa cùng với màu vàng có hoa phách. Hạ đẹp không chỉ bởi những
âm thanh, sắc màu mà còn bởi sức sống nội tại của thiên nhiên tạo vật. Trong khung cảnh rừng hạ sôi
động và rực rỡ, hình ảnh người thiếu nữ lao động hiện lên thật đáng yêu, đáng nh:
“Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Câu thơ không hề gợi lên cô đơn, lẻ loi của người thiếu nữ khi hái măng một mình mình mà mang đến
cho người đọc, người nghe niềm thiết tha yêu mến về người con gái trẻ trung, cần cù, chịu thương chịu
khó. Giữa cánh rừng mênh mang, đôi bàn tay người thiếu nữ thoăn thoắt cần mẫn hái từng đọt măng
rừng để nuôi người cán bộ cách mạng trong những năm tháng khó khăn gian khổ của kháng chiến.
Hai mươi hai câu thơ tiếp theo là khúc hùng ca về Việt Bắc trong đó mười câu thơ đầu tiên là khúc ca
ca ngợi Việt Bắc quật khởi vùng lên. Trong sáu câu thơ đầu tiên:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa thậm xưng cùng với các động từ mạnh, các từ ngữ chỉ không
gian rộng lớn như: rừng cây núi đá để nhằm ca ngợi sức mạnh quật khởi vùng lên cùng tinh thần
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
bất khuất, kiên cường của những người lính. Và đây cũng không phải là lần đầu tiên chúng ta thấy
tinh thần ý chí ấy trong những câu thơ kháng chiến. Xuyên suốt chặng đường của lịch sử của dân tộc
ta, đã bao lần hình ảnh những người lính đã anh dũng đã chiến đấu vì độc lập vì tự do đã đi vào những
trang viết và trở thành biểu tượng anh hùng. Và một lần nữa, câu thơ của Tố Hữu hình ảnh các anh
hiện lên lại đẹp như thế lại đầy xúc động và sáng ngời tinh thần. Họ cùng đồng tâm hiệp lực từ thiên
nhiên cho đến con người, từ quân đến dân đều chung sức, chung lòng đứng lên giết giặc.
Trong bốn câu thơ còn lại, Tố Hữu đã liệt kê ra một loạt những địa danh quen thuộc nơi chiến khu
Việt Bắc:
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông Đèo Giàng.
Nhớ Sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà.-
Đó là tên của những chiến dịch, những địa danh của chiến thắng giòn giã làm nức lòng người. Nêu lên
những địa danh cụ thể, Tố Hữu không chỉ nhằm khắc ghi về những chứng nhân của lịch sử mà nơi
đó ẩn chứa một tình yêu thương vô bờ mà Tố Hữu dành cho thiên nhiên cho con người. Những người
đã hi sinh và cả những con người đang ngày đêm tiếp bước vì độc lập vì tự do do. Nghệ thuật liệt kê
đã thành công trong việc thể hiện tình cảm của nhà thơ một tình cảm chân thành, tha thiết.-
Mười hai câu thơ tiếp là hình ảnh của Việt Bắc trong những ngày ra trận hào hùng. Việt Bắc không
chỉ là khúc tình ca cách mạng. Nó còn là bản hùng ca về kháng chiến và con người. Bởi vậy, bên cạnh
những vần thơ ngọt ngào, ân tình thì Việt Bắc còn là những vần thơ đầy sảng khoái, tràn đầy tự hào
dân tộc mà tiêu biểu nhất là đoạn thơ:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Khổ thơ đã gợi tả khung cảnh không khí chung của Việt Bắc trong những ngày ra trận của cuộc tổng
phản công giành chiến thắng. Tất cả họ cùng hòa nhịp vào trong một ước mơ chiến thắng:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.”
Những đường Việt Bắc không chỉ nói tới con đường đi cụ thể mà đó là con đường ra trận, là con đường
đi tới thắng lợi vẻ vang. Con đường ấy là nơi hội tụ của lòng yêu nước và khí thế, sức mạnh tiến công.
Không khí kháng chiến được diễn ra vào “đêm đêm”. Từ láy “đêm đêm” vừa gợi, vừa diễn tả không
gian không ngừng nghỉ, khí thế khẩn trương của cuộc chiến khiến cho ngày đêm không còn ranh giới.
Những nẻo đường Việt Bắc trong con đường hành quân hàng đêm không yên tĩnh mà sôi động lạ
thường nên trở thành bạn đồng minh tin cậy của ngưi chiến sĩ. Cùng với từ láy âm thanh “rầm rập”, ta
càng hiểu hơn về tiếng bước chân nhanh, mạnh, khỏe khoắn của cả đàn quân. Như là đất rung là một
so nh đặc sắc tô đậm sức mạnh của bức tranh ra trận, khẳng định quy mô và tầm vóc của những người
làm nên chiến thắng. Ta tưởng như nơi đây đang xảy ra một cơn địa chấn mạnh và tiếng bước chân
khí thế tinh thần của toàn quân và dân ta.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Người chiến sĩ xuất hiện trong không khí khẩn trương. khí thế:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
Từ “điệp điệp trùng trùng” trước hết gợi ra một đoàn quân đông đảo với sức mạnh hào hùng. Họ láy
mang theo tinh thần, sự quyết tâm hồ hởi bao trùm cả dòng người và sức mạnh cuộn trào như thác lũ.
Bức tranh còn được phát triển theo chiều cao với hình ảnh ánh sao. Ánh sao là một hình ảnh tả thực với
bối cảnh đêm Việt Bắc ra trận nhưng cũng thấm đẫm hình ảnh tượng trưng. Ánh Sao là ánh sáng của
niềm tin của lý tưởng soi đường dẫn lối cho quân dân ta. Hình ảnh ánh sao, mũi súng, mũ nan hợp thành
một hình tượng đẹp, khỏe khoắn, vững chãi. Về mặt tạo hình, nó biểu hiện cho niềm tin, ý chí và tinh
thần lãng mạn của người chiến sĩ cách mạng.
Cuộc chiến đấu còn có sự tham gia của những dân quân những trái tim hăng hái chiến đấu bất chấp -
mọi hiểm nguy:
“ Dân quân đỏ buốt từng đoàn
Bước chân nát đá muốn tàn lửa bay.”
Câu thơ tái hiện một hình ảnh rất thực và sinh động. Đó là đoàn dân quân đốt đuốc băng rừng đưa hàng
hóa ra mặt trận với khí thế khẩn trương và hối hả. Họ hiện lên hùng dũng, hiên ngang. Họ đem sức lực
của mình góp chung vào kháng chiến. Và để khắc họa hình ảnh đoàn dân quân, nhà thơ sử dụng từ ngữ
rất tạo hình “bước chân nát đá” đã khẳng định ý chí, sức mạnh của con người vượt qua được tất cả khó
khăn khắc nghiệt trên con đường ra trận. Đây cũng là một hình ảnh ẩn dụ thậm xưng rất độc đáo trong
bài thơ được lấy cảm hứng từ câu thành ngữ “Chân cứng đá mềm . Khi mang trong mình sức mạnh
niềm tin thì mọi khó khăn không làm chùn bước chân người lính. Họ vẫn lạc quan, vẫn lãng mạn qua
muôn tàn lửa bay. Những tàn lửa của ngọn đuốc rừng đêm tựa như những đóa hoa rực rỡ và biểu trưng
cho nét đẹp tâm hồn người dân quân: trong gian khổ mà vẫn giàu niềm tin để hướng về những niềm vui
trọn vẹn trong tương lai không xa. Mà niềm vui ấy trước hết là khi quân dân ta từ thế phòng ngự chuyển
sang thế chủ động tấn công:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Đoàn xe vận tải thuốc men, lương thực, vũ khí đã góp vai trò quan trọng vào kháng chiến. Họ miệt mài
trong đêm tối đặc biệt là thời gian “nghìn đêm đã phần nào khắc họa công việc, trách nhiệm họ mang
theo mình. Sau từng đoàn xe nối đuôi nhau trên con đường trận mạc vượt qua bao hiểm trở, trở về của
núi rừng lại phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt. “Sương dày làm khuất tầm nhìn của người lính
lái xe. Nhưng có lẽ họ đã sớm quen với những ngày tháng tuần hoàn cùng thiên nhiên khắc nghiệt như
vậy. Trong tim họ, chỉ có ý chí hướng về ngày mai độc lập, giữ trong mình tinh thần lạc quan. Và cũng
chính tinh thần ý chí của quân và dân ta đã làm biến chuyển cục diện chiến tranh từ thế bị động phòng
thủ sang chủ động tấn công. Ánh sáng chói lóa rực rỡ của đoàn xe đêm với sương mù dày đặc, xua đi
tất cả khó khăn gian khó. HÌnh ảnh ảnh ẩn dụ, so sánh như ngày mai lên”đã nói thay cho niềm hi vọng ,
tin tưởng của người lính cũng như toàn dân. Đó là dự cảm về một chiến thắng không xa.
Bốn câu thơ cuối đoạn đã gợi ra hình ảnh thắng trận. Những tin vui chiến thắng với quân và dân ta cứ
dồn dập được nói đến:
”Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng.”
Điệp từ vui được nhắc lại rất nhiều lần: vui từ, vui về, vui lên đã tạo không khí phấn chấn, rộn ràng và
cũng khẳng định rằng Việt Bắc là đầu não của cuộc kháng chiến, là nơi hội tụ của mọi niềm vui để niềm
vui đó trải đi mọi miền tổ quốc. Những chiến thắng được liệt rất cụ thể: Hòa Bình, Tây Bắc, An
Khê….gắn với bao tin tưởng và hi vọng làm náo nức lòng người.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Khổ thơ tiếp theo khẳng định Trung ương chính phủ là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến với chủ
trương, đường lối sáng suốt, việc làm thiết thực, cụ thể:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương chính phủ luận bàn việc công.
Điều quân chiến dịch Thu Đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê phòng hạn thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường c khu….”
Hình ảnh ngọn c đỏ thắm đi vào thơ Tố Hữu một cách rất tự nhiên và nó cũng chứa chan bao hi vọng,
khẳng định sức mạnh ý chí, niềm tin của toàn dân tộc. Ngọn cờ cùng “ nắng trưa rực rỡ sao vàng “đã
trở thành những hình ảnh biểu trưng nhất của dân tộc, hình ảnh ảnh của sức mạnh niềm tin đối với
những người kháng chiến. Lãnh đạo cuộc kháng chiến gian khổ đó chính là trung ương chính phủ với
bao vất vả, khó nhọc. Nhưng trong mọi hoàn cảnh vẫn đưa ra những sách lược tỉnh táo để bảo toàn sức
mạnh của quân và dân ta rồi làm nên chiến thắng như ngày hôm nay. Nghệ thuật liệt kê của nhà thơ Tố
Hữu sử dụng đã làm sáng vai trò ch đạo sáng suốt của những người cán bộ. Họ cùng với nhân dân phối
hợp là nên thắng lợi vẻ vang.
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ là sự ca ngợi của nhà thơ dành cho bác Hồ:
“ Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nh ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”
Lời thơ ở đây vừa sự hào hùng, vừa mang âm hưởng trữ tình tha thiết, tin tưởng cũng là những
lời khẳng định tấm chân tình mà cán bộ dành cho người ở lại nhân dân Việt Bắc cùng những kỷ niệm -
ân tình khó quên. Việt Bắc mãi là điểm tựa tinh thần cho những con người cùng khổ. Hình ảnh Bác Hồ
đã được kỳ vỹ hóa trong thơ Tố Hữu, qua cấu trúc câu điệp Ở đâu Tố Hữu đã khẳng định niềm tin sâu ,
sắc mà ông dành cho Người. Đoạn thơ khép lại là tình cảm nhớ thương, nghĩa tình thủy chung son sắt
với cách mạng. Và một lần nữa, mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào được nhắc lại, được khắc ghi
không thể nào quên.
“Việt Bắc” là khúc hùng ca, khúc tình ca Cách mạng. Giọng thơ tự sự trữ tình của Tố Hữu hòa cùng
những dòng thơ lục bát, hình ảnh ẩn dụ, liệt đã khắc họa chân thực bức chân dung tinh thần của
người đi và người ở lại. Kháng chiến có lẽ sẽ không thành công nếu không có những nghĩa tình Cách
mạng. Làm nên Việt Bắc anh hùng và chiến thắng của nhân dân ta là những “người đi, kẻ ở” hết lòng
vì sự nghiệp độc lập của tô quốc. Chân tình người đi kẻ ở tha thiết như những đôi lứa đang tâm tình cứ
nhẹ nhàng mà đi vào trái tim bạn đọc mọi thế hệ. Việt Bắc dưới ngòi bút Tố Hữu thật sự là tác phẩm
thơ tiêu biểu cho văn học kháng chiến. Nó là những vần thơ kết hợp hài hòa giữa lời tâm tình và công
việc Cách mạng. Sau câu chữ cũng chứa chan bao tình cảm, bao thương nhớ của bản thân nhà thơ
Chế Lan Viên từng nói: “Thơ là đi giữa vực nhạc và ý. Rơi vào vực ý, thì thơ sẽ rất sâu, nhưng sẽ
rất dễ khô khan.Rơi vào cái vực nhạc thì thơ rất dễ đắm say lòng người nhưng cũng dễ nông cạn”.Ấy
thế mà, Tỗ Hữu đã tuyệt nhiên trung hòa giữa hai vực thu hút ấy. “Thơ anh vừa ru người trong nhạc
vừa thức người bằng ý”(Chế Lan Viên). Những tiếng thơ “Việt Bắc” đã không chỉ thu hút chúng ta bởi
sắc điệu trữ tình của ngôn từ mà còn chính bằng những tình cảm của con người nơi đây hun đúc thành.
Tố Hữu đã truyền vào Việt Bắc cái sức mạnh lớn nhất của qua tim anh được nuôi dưỡng qua “tiếng đời
lăn náo nức” từ những đau thương mà “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Để “Việt Bắc” trở thành một khúc
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
tình ca về kháng chiến mang đậm tinh thần dân tộc nhưng giàu những ý vị. “Việt Bắc chính là đỉnh thơ
cao nhất mà Tối Hữu đã bước lên” (Xuân Diệu).
“Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu phản ánh hiện
thực ấy là một bức tranh rất đỗi trữ tình” (Xuân Diệu). Bằng tài năng nghệ thuật cùng trái tim chân
thành, nhà thơ Tố Hữu đã gọi lại những nét đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu
đã gọi lại những nét đẹp, tình cảm chia li của núi rừng và con người Việt Bắc, giữa người đi và người
về một cách vô cùng đặc sắc.
Nguyệt Hà
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 4:
Ở trong bản đồ văn học Việt Nam, dường như mỗi nhà văn, nhà thơ đều chọn cho mình một mảnh
đất để thương và để nhớ. Nguyễn Trung Thành bén duyên với Tây Nguyên đầy nắng và gió, Nguyễn
Thi dành hết yêu thương cho mảnh đất Nam Bộ nghĩa tình, hay như Nguyễn Tuấn đến với Tây Bắc xa
xôi, rộng lớn để tìm cái đẹp,…Còn với Tối Hữu, sau mười lăm năm gắn bó mặn nồng với mảnh đất và
con người Việt Bắc đã trở thành một phần không thể nào khuất đi trong tâm hồn của ông. Có lẽ cũng
chính vì hai chữ “thương”, “nhớ” đã giúp ông sáng tác thành công bài thơ “Việt Bắc”. Thi phẩm là
khúc nhạc lòng sâu lắng về tình cảm của người đi và kẻ ở, là mối tình sâu lắng, thủy chung, mặn nồng
của cán bộ và nhân dân.
Tố Hữu là lá cờ đầu của cách mạng Việt Nam các chặng đường sáng tác của ông song hành với
những chặng đường lịch sử gian khổ hi sinh nhưng cũng đầy những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Đọc những vần thơ đầy tính chính trị nhưng ta không hề thấy khô khan, bởi thi nhân đã thổi vào đó
những nhịp điệu của tâm hồn của một trái tim nhỏ bé lúc nào cũng rung lên thổn thức suy nghĩ cho
vận mệnh của quê hương đất nước. Thơ Tố Hữu đậm đà bản sắc dân tộc thấm đậm những nét đẹp của
quê hương đất nước để rồi Nguyễn Đình Thi đã có đánh giá sâu sắc về thơ của ông “Từ cuộc sống
hiện đại thơ anh ngày càng ghét nguồn trở lại về đoạn thơ của điểm của dân tộc”. Với sự thể hiện
những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ của mình Việt Bắc không chỉ là đỉnh cao
của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc nhất của thơ ca thời kỳ kháng chiến
chống Pháp.Thi phẩm được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và
con người kháng chiến.
Để làm nên thành công của bài thơ trước tiên phải kể đến thể thơ lục bát cùng lối xưng hô “ta-
mình”, “ mình ta” đậm đà màu sắc ca dao dân ca bài thơ có kết cấu như một màn đối đáp giữa kẻ ở -
và người đi trong cuộc chia tay đặc biệt đầy lưu luyến. “Kẻ ở” là nhân dân Việt Bắc những người đã -
đồng cam cộng khổ, gắn bó keo sơ, hết lòng vì cách mạng, vì kháng chiến. Còn “Người đi” chính là
những cán bộ về xuôi, những người đã hy sinh cả tuổi xuân, tuổi trẻ của mình để phục vụ cho cách
mạn, cho kháng chiến, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Bốn câu mở đầu là lời của người dân Việt bế hỏi người ra đi hỏi là để cơ giới kỷ niệm một
giai đoạn đã qua vì không dây nguồn cội tình nghĩa tình đã gắn bó keo sơn với nhau trong suốt 15
năm.Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao dân ca chan chứa tình yêu thương
của người ở lại với người ra đi, hỏi để gợi nhắc người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Khi nói “Mình về” chính là biểu thị cho hoàn cảnh để người ở lại bộc lộ nỗi niềm cảm
xúc. Bởi nếu người không về (về xuôi) thì ta đâu có lý do,có cơ hội nào để bộc lộ tấm chân tình này.
Trong câu hỏi của người ở “mình” là chỉ người đi, “ta” là người ở lại. Mình ở đầu câu, ta ở cuối câu,
tưởng như xa cách nhưng hóa ra lại thật gần, vì ở giữa” mình” “ta” có sự gắn kết bởi động từ “nhớ”. -
cách xưng hô “mình – ta” mộc mac quen thuộc thường thấy ở lối hát của ca dao, dân ca:
“Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”
Là tình cảm “mình” “ta” không thể nào quên:-
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”
Còn trong thơ Tố Hữu, “mình” – “ta” là nỗi nhớ tình nghĩa giữa đồng bào và cán bộ. Cơ sở
tạo nên nỗi nhớ ấy là: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Người ở lại hỏi người ra đi: Có nhớ
“ta” trong “mười lăm năm ấy” đã đồng cam cộng khổ, cùng nhau gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với mình
hay không? “Mười lăm năm” là trạng ngữ chỉ thời gian, đó là khoảng thời gian từ năm 1940. Sau cuộc
khởi nghĩa Bắc Sơn cho đến tháng 10 năm 1954. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm
Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung son sắt, keo sơn bền chặt. Tất cả những tình cảm ấy, ngưi ở lại
đã dành riêng một vị trí đẹp nhất, quan trọng nhất trong trái tim mình. Bởi vậy, người ở lại hỏi nhưng
mục đích chính là để bộc lộ tình cảm, cảm xúc và hỏi là để thể hiện mong muốn người ra đi cũng có
tình cảm như mình.
Nếu hai câu đầu là lời gợi nhắc kỷ niệm “mười lăm năm” gắn bó, thì hai câu sau là lời nhắc
nhở chân tình, lời dặn dò kín đáo mà rất đỗi tha thiết:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Ý thơ cho thấy: Đối tượng hỏi không còn bó hẹp trong mối quan hệ giữa “mình” “ta” và nỗi nhớ -
dường như không còn chỉ hướng tới người đi, mà hướng tới đối tượng rộng lớn hơn rất nhiều, đó
chính là không gian: cây, sông, núi, nguồn. “Núi” và “nguồn” ở Việt Bắc chính là không gian quen
thuộc, gắn bó với người đi. Không gian đó, người đi, người ở lại chất chứa đầy kỷ niệm của “mười
lăm năm” nghĩa tình. Động từ “nhớ” và “nhìn” được nhắc đi nhắn lại hai lần, tác động mạnh vào cảm
xúc của người đi. Sự đan xen giữa các hành động và hình ảnh mà người ở lại đưa ra chỉ với mong
muốn nhắc nhở người đi sống ở đâu cũng đừng quên quá khứ, quên nơi mình đã gắn bó suốt một thời
gian dài.Việt Bắc chính là cội nguồn của Cách mạng, là “Quê hương cách mạng dựng nên Cộng
hòa”, xin người về đừng quên. Tác giả đã vận dụng thành công đạo lý truyền thống: “Uống nước nhớ
nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” để nhắc nhở con cháu phải biết hướng về gốc gác, cội nguồn.
Tấm lòng người ở đã tỏ lộ giãi bày trong không gian, theo thời gian.
Bốn câu thơ tiếp theo là tiếng lòng của người về xuôi mang bao nỗi nhớ thương, bịn rịn:
”Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Lúc này không còn phân biệt rõ “ta” và “mình” nhưng người đọc đều hiểu rõ đó chính là tiếng lòng
của các chiến sĩ. Độc giả vẫn dễ dàng tưởng tượng cảnh cia tay bịn rịn, đầy nước mắt ất. Người chiến
sĩ chuẩn bị quay bước đi nhưng bỗng nghe văng vẳng bên tai “tiếng ai tha thiết bên cồn” để rồi lại
cảm thấy “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Tác giả sử dụng cụm từ láy “bâng khuâng” ở
đây để bộc lộ sự xuyến xao trong cõi lòng. Còn từ “bồn chồn” lại lột tả tâm trạng đứng ngồi không
yên, còn nhiều lo lắng của các chiến dành cho đồng bào sự dẫn đến việc không nỡ rời xa. Sở dĩ các
chiến sĩ còn nhiều âu lo cho đồng bào dù rằng Cách mạng đã thành công, nhưng dân ta còn nghèo,
nước ta còn chưa mạnh, giặc vẫn còn nhiều phen lâm le ngoài bờ cõi. Vì thế, yên tâm sao được!. Nhất
là khi các chiến sĩ nhìn thấy chiếc áo chàm bà con đang mặc. Nó thật giản dị đơn sơ nhưng cũng thể
hiện cả sự đói nghèo thiếu thốn. Bởi vậy dù còn nhiều bận tâm, dù không muốn rời đi, nhưng các
chiến sĩ vẫn phải quyết chí để về xuôi hoàn thành nhiệm vụ. Chính bởi vậy mà “Áo chàm đưa buổi
phân li/ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Ch cầm thay mà không biết nói gì ở đây không phải vì
không có gì để nói mà là có quá nhiều điều muốn chia sẻ nhưng không biết bắt đầu từ đâu, nói như
thế nào. Tưởng chừng như bao câu từ cứ bị nghẹn ứ ở cổ họng, nên chỉ cầm tay nhau thôi, trao nhau
hơi ấm của cơ thể cũng đủ để thay lời yêu thương.
Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc lại những kỉ
niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để g
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa nguồn suối
lũ về, cả trời đất mây mù che kín. Khoảng khắc khó khăn ấy người dân luôn có những chiến sĩ kề bên.
Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu hay không, chiến khu ấy nghèo chỉ có cơm chấm
muối thế nhưng nó tràn đầy những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân nơi đây. Và
trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã quá đầy đủ rồi. Mối
thù nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng ấy cho người chiến sĩ. Những người
chiến sĩ về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi đất trời nơi đây. Và bây giờ trám bùi thì để rụng còn
măng mai để già. Những gì của thiên nhiên Việt Bắc vốn là để cho những chiến sĩ cách mạng thì giờ
đây người đi những thứ ấy lại để rụng để già. Những từ nhớ như điệp đi điệp lại nhiều lần như vang
vào trong lòng ngưi những nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô mình ta như biến hóa thành
nhiều nghĩa, cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu thương
gắn bó của những con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở như thâu tóm cả thiên nhiên và con
người Việt Bắc với những tình cảm của một tấm lòng son sắc không phai. Những địa danh được nhắc
đến như chứng minh cho những trận chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.
Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa Việt Bắc và
những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến anh hùng mà đầy tình nghĩa.
Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc
và những người cán bộ kháng chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những
người chiến sĩ cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.
Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
“Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau.
Người ra đi một mực khẳng định rằng “mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” như ghim chặt vào
lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng
và cao cả. Những chữ “ta”, “mình” quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng đó.
Người ở lại hỏi: “Mình đi, mình có nhớ mình” thì ngưi ra đi có ngay lời đồng vọng “mình đi, mình
lại nhớ mình”, tuy hai mà một. Thật hài hoà, gắn bó, thắm thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn
không bao giờ cạn: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Bao nhiêu, bấy nhiêu” – Cặp từ
hô ứng đã nhấn mạnh được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.
Mười tám câu thơ tiếp người ra đi diễn tả cụ thể nỗi nhớ về Việt Bắc gắn với những kỷ niệm về
không gian, kỷ niệm cảnh vật cuộc sống, con người nơi chiến khu. Qua đó làm nổi bật lên một Việt
Bắc nghĩa tình. Nỗi nhớ về thời gian, không gian cảnh vật con người nơi chiến khu Việt Bắc được tái
hiện trong 8 câu thơ đầu:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa b tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Đoạn thơ là nỗi nhớ da diết của người ra đi về quê hương cách mạng. Tình cảm đó trước hết
được thể hiện qua điệp từ “nhớ” được lặp đi lặp lại và đặc biệt qua biện pháp nghệ thuật so sánh độc
đáo, gợi cảm.
“Nhớ gì như nhớ người yêu”
Trong muôn vàn nỗi nhớ của con người thì nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi bao giờ cũng cồn cào, cháy
bỏng nhất. Chúng ta đã từng nghe khúc ca “Sóng” của Xuân Quỳnh với những vần thơ nhớ về người
yêu da diết:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẩu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nhớ
Hướng về anh một phương.”
Cách so sánh như vậy không chỉ giúp ngưi đọc cảm nhận được nỗi nhớ về Việt Bắc của người ra đi
da diết, mãnh liệt mà còn tạo cho người đọc cảm nhận được sắc thái nghệ thuật đặc sắc trong phong
cách thơ của Tố Hữu. Những tình cảm công dân, tình cảm cách mạng được lí giải bằng những cảm
xúc rất riêng tư. Ông nói chuyện chính trị như đang tâm tình với người yêu. Nỗi nhớ đó đã làm sống
lại những hoài niệm về thời gian, không gian cảnh vật, cuộc sống con người nơi chiến khu. Tất cả đều
đẹp đẽ, thân thương, đáng yêu, đáng nhớ. Đó là những khoảnh khắc thanh bình, êm dịu của núi rừng:
Trăng lên đâu núi nắng chiếu lưng nương.
Như không rảnh hẹn hò của những đôi lứa yêu nhau. Đó là những bản làng thấp thoáng hiện ra trong
mây núi, sương phủ. Là những ngôi nhà sàn với bếp lửa bập bùng. Là những người thương đi về
khuya sớm.Tất cả đều trở nên chân thực, thân thuộc, gắn bó với người cách mạng:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nỗi nhớ không gian cảnh vật núi rừng Việt Bắc như được mở rộng đến khôn cùng mà cũng rất chân
thực cụ thể:
Nhớ từng rừng nữa bi tre
Ngoì thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Những cánh rừng, con suối, con sông nơi chiến khu Việt Bắc không phải là những sự vật vô tri mà đã
trở thành những địa danh thấm đẫm bao ân tình kỷ niệm. Hai chữ “vơi đầy” không chỉ mang ý nghĩa
tả thực về con nước mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ cho tình cảm luôn đong đầy trong tâm trí người ra đi.
Bởi lẽ, tất cả những cảnh vật nơi núi rừng Việt Bắc đều ghi dấu những kỷ niệm không thể nào quên
trong suốt mười lăm năm ấy:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi.
Vất vả, lam lũ là thế nhưng những con người nơi đây vẫn sống với nhau thật thủy chung, tình nghĩa,
họ luôn đồng cam cộng khổ với nhau, chia ngọt sẻ bùi, lạc quan, yêu đi để cùng nhau vượt qua
những năm tháng khó khăn, gian nan của cuộc kháng chiến.
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i t
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Bốn câu đầu tác giả muốn nói đến vẻ đẹp của tình người. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên trước
hết với vẻ đẹp ở nơi chiến khu cách mạng:
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
“Củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui” đó là những vật chất đơn sơ, bình dị. Tưởng như không có gì
đáng giá nhưng cái đáng trân trọng nhất lại là ở những hành động việc làm, cử chỉ giản dị mà thấm
đượm nghĩa tình. Đó là biểu hiện cụ thể, thiết thực của tình thương. Những người dân Việt Bắc sẵn
sàng cưu mang, đùm bọc, đồng cam cộng khổ với những người cán bộ cách mạng để cùng nhau vượt
qua mọi khó khăn. Trong muôn vàn tình cảm mà người dân Việt Bắc đã dành cho những người cách
mạng, ấn tượng sâu đậm nhất trong nỗi nhớ của người ra đi là hình ảnh của người mẹ nghèo Việt Bắc.
Hình ảnh “nắng cháy lưng” không chỉ diễn tả sự khắc nghiệt của thiên nhiên, hoàn cảnh lao động vất
vả, cơ cực mà còn gọi lên được sức chịu đựng bền b, dẻo dai của người mẹ. Mẹ trong cái nắng hè
chói chang gay gắt mẹ vừa địu con, vừa lên rẫy bẻ từng bắp ngô. Chắt chiu từ những giọt mồ hôi đ
nuôi con, nuôi người cách mạng. Hình ảnh câu thơ còn gợi lên bao nỗi xúc động, bùi ngùi, vừa xót xa,
vừa cảm phục của người ra đi. Mẹ đã trở thành biểu tượng cho những người mẹ Việt Bắc nói riêng và
những người mẹ Việt Nam nói chung: lam lũ, tảo tần, giàu tình yêu thương và đức hy sinh vô hạn.
Không chỉ gợi lại những kỉ niệm về tình người với những ân tình sâu nặng, cuộc sống sinh
hoạt nơi chiến khu cách mạng cũng được tái hiện một cách chân thực cụ thể:
Nhớ sao lớp học i t
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Điệp khúc “Nhớ sao” được lặp đi lặp lại đã tô đậm nỗi nhớ về Việt Bắc mỗi lúc càng thêm
bâng khuâng, da diết. Những kỷ niệm đã lùi xa theo thời gian nhưng trong tâm trí của người đi nó
vẫn hiện lên rõ nét, tươi mới, sinh động từ hình ảnh, âm thanh, sắc màu. Đó là hình ảnh những lớp
bình dân học vụ nhộn nhịp những đêm liên hoan văn nghệ tưng bừng náo nức, rực sáng rừng đêm
thắm thiết nghĩa tình quân dân. Đó là những buổi sinh hoạt cơ quan với những bài ca vang vọng tràn
đầy hi vọng niềm lạc quan tin tưởng. Đó là những âm thanh đều đều của tiếng mõ rừng chiều khi bầy
trâu về bản, tiếng chày nện cối nơi suối xa. Những âm thanh quen thuộc đó đã tạo thành một bản hòa
ca náo nức báo hiệu cuộc sống hòa bình, êm vui nơi chiến khu cách mạng.
Khổ thơ sau là mười câu thơ. bức tranh tứ bình, là nỗi nhớ về vẻ đẹp nhất của thiên nhiên,
con người Việt Bắc.
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao dài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chút từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Ngày thutrăng gọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đoạn thơ được đánh giá là những vần thơ đẹp nhất của bài thơ Việt Bắc. Vẫn là nỗi nhớ nhung da diết
của người ra đi về quê hương cách mạng. Mở đầu người ra đi đã ướm hỏi Việt Bắc thật dịu dàng, tình
tứ:
“Ta về mình có nhớ ta.”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Nhưng câu hỏi chỉ là cái cớ để người ra đi bày tỏ, khẳng định nỗi nhớ da diết với người ở lại, với quê
hương Việt Bắc:
“Ta về ta nhớ những hoa cùng ngưi”
Hoa biểu tượng đẹp nhất của thiên nhiên, con người là kết tinh cho vẻ đẹp nhất của cuộc sống “người
ta là hoa đất” Hoa cùng người đã trở thành đối tượng của nỗi nhớ, là trung tâm của nỗi nhớ, cùng soi .
chiếu, đồng hiện trong hoài niệm của người ra đi làm nên những hình ảnh đẹp đẽ nhất, thân thương nhất
về thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn mùa.
Tám câu thơ còn lại, người ra đi gợi tả vẻ đẹp của thiên nhiên, con người Việt Bắc trong bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông với bốn cặp câu lục bát hài hòa, cân đối cùng bút pháp nghệ thuật miêu tả theo
lối chấm phá, những từ ngữ, hình ảnh sinh động, giàu chất tạo hình giúp đoạn thơ được xem như một
bộ tranh tứ bình về Việt Bắc trong bốn mùa. Mỗi mùa một mét một vẻ đẹp riêng nhưng mùa nào
cũng đẹp, đáng yêu và đáng nhớ.
Mở đầu là khung cảnh rừng đông Việt Bắc:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.”
Khung cảnh thiên nhiên rừng đông được gợi tả bởi hai gam màu đối lập: tương phản (lạnh, xanh)
nóng đỏ. Trên màu xanh bạt ngàn, mênh mông của rừng già làm sắc màu rực rỡ đỏ tươi của những bông
hoa chuối nổi bật tựa như những ngọn lửa cháy rực, thắp sáng cả rừng đông âm u khiến cho cánh rừng
không còn vẻ hoang vu, lạnh lẽo mà vẫn tràn đầy sức sống. Hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên trên
nền cảnh rừng đông với những chi tiết rất giàu giá trị tạo hình và đầy ấn tượng:
“Đèo cao nắng ánh dao dài thắt lưng.”
Câu thơ vừa gợi hình ảnh, vừa gợi những đường nét và ánh sáng. Người đi rừng đang đứng trên đỉnh
cao hùng vĩ của thiên nhiên con dao trên thắt lưng phản chiếu nắng chiều. Không phải những người tiều
khu nghèo khó nhỏ bé khi xưa trong những câu thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan mà
đó là tư thế hào hùng, hiên ngang, khỏe khoắn của con người lao động đã được đổi đời, được làm chủ
cuộc sống thiên nhiên núi rừng.
Hai câu thơ tiếp theo là cảnh rừng xuân Việt Bắc:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đang đón chuốt từng sợi giang.”
Màu xanh bạt ngàn, tĩnh lặng của rừng già được thay thế bằng sắc trắng tinh khiết của hoa mơ. Đặc
biệt, động từ “nở” và cụm tính từ “trắng rừng” gợi lên sự bao trùm của sắc trắng và gợi tả cả sự vận
động, sự sinh sôi, nảy nở không ngừng của sắc trắng. Cảnh núi rừng Việt Bắc vào xuân mang vẻ đẹp
thơ mộng, huyền ảo, diễm lệ như chốn bồng lai tiên cảnh và tràn ngập sắc xuân.
Trên nền cảnh rừng xuân hiền dịu ấy, con người lao động Việt Bắc hiện lên với đôi bàn tay đầy ấn
tượng
“Nhớ người đang đón chuốt từng sợi giang.”
Từ “chuốt” không chỉ mô phỏng động tác của người mà còn gọi lên được sự cần mẫn, khéo léo, mềm
mại và tài hoa. Bao tình yêu thương, tấm lòng cưu mang đùm bọc với người cách mạng được họ gửi
gắm lặng thầm vào những việc làm cụ thể vào trong từng động tác. Tiếp đó là cảnh rừng Việt Bắc vào
hạ rộn ràng:
”Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.”
Nếu như cảnh rừng đông, rừng xuân Việt Bắc được hiện lên bởi những sắc màu dịu thì cảnh rừng hạ
lại được cảm nhận bằng những âm thanh rộn rã và sắc màu sặc sỡ. Động từ “đổ” chỉ sự chuyển đổi một
cách bất ngờ, đột ngột, nhanh chóng, mạnh mẽ của không gian cảnh vật. Một câu thơ có mang đến cho
người đọc người nghe nhiều liên tưởng. Tiếng ve kêu gọi mùa hè đến, hè về đã mang theo sắc vàng rực
rỡ và làm nhuộm vàng cả cánh rừng. Hình đó màu vàng chói chang của nắng là màu vàng tươi của
hoa phách. Màu vàng của nắng chan hòa cùng với màu vàng có hoa phách. Hđẹp không chỉ bởi những
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
âm thanh, sắc màu mà còn bởi sức sống nội tại của thiên nhiên tạo vật. Trong khung cảnh rừng hạ sôi
động và rực rỡ, hình ảnh người thiếu nữ lao động hiện lên thật đáng yêu, đáng nhớ:
“Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Câu thơ không hề gợi lên cô đơn, lẻ loi của người thiếu nữ khi hái măng một mình mình mà mang đến
cho người đọc, người nghe niềm thiết tha yêu mến về người con gái trẻ trung, cần cù, chịu thương chịu
khó. Giữa cánh rừng mênh mang, đôi bàn tay người thiếu nữ thoăn thoắt cần mẫn hái từng đọt măng
rừng để nuôi người cán bộ cách mạng trong những năm tháng khó khăn gian khổ của kháng chiến.
Hai mươi hai câu thơ tiếp theo là khúc hùng ca về Việt Bắc trong đó mười câu thơ đầu tiên là khúc ca
ca ngợi Việt Bắc quật khởi vùng lên. Trong sáu câu thơ đầu tiên:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.”
Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa thậm xưng cùng với các động từ mạnh, các từ ngữ chỉ không
gian rộng lớn như: rừng cây núi đá để nhằm ca ngợi sức mạnh quật khởi vùng lên cùng tinh thần
bất khuất, kiên cường của những người lính. Và đây cũng không phải là lần đầu tiên chúng ta thấy
tinh thần ý chí ấy trong những câu thơ kháng chiến. Xuyên suốt chặng đường của lịch sử của dân tộc
ta, đã bao lần hình ảnh những người lính đã anh dũng đã chiến đấu vì độc lập vì tự do đã đi vào những
trang viết và trở thành biểu tượng anh hùng. Và một lần nữa, câu thơ của Tố Hữu hình ảnh các anh
hiện lên lại đẹp như thế lại đầy xúc động và sáng ngời tinh thần. Họ cùng đồng tâm hiệp lực từ thiên
nhiên cho đến con người, từ quân đến dân đều chung sức, chung lòng đứng lên giết giặc.
Trong bốn câu thơ còn lại, Tố Hữu đã liệt kê ra một loạt những địa danh quen thuộc nơi chiến khu
Việt Bắc:
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông Đèo Giàng.
Nhớ Sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà.-
Đó là tên của những chiến dịch, những địa danh của chiến thắng giòn giã làm nức lòng người. Nêu lên
những địa danh cụ thể, Tố Hữu không chỉ nhằm khắc ghi về những chứng nhân của lịch sử mà nơi
đó ẩn chứa một tình yêu thương vô bờ mà Tố Hữu dành cho thiên nhiên cho con người. Những người
đã hi sinh và cả những con người đang ngày đêm tiếp bước vì độc lập vì tự do do. Nghệ thuật liệt kê
đã thành công trong việc thể hiện tình cảm của nhà thơ một tình cảm chân thành, tha thiết.-
Mười hai câu thơ tiếp là hình ảnh của Việt Bắc trong những ngày ra trận hào hùng. Việt Bắc
không chỉ là khúc tình ca cách mạng. Nó còn là bản hùng ca về kháng chiến và con người. Bởi vậy,
bên cạnh những vần thơ ngọt ngào, ân tình thì Việt Bắc còn là những vần thơ đầy sảng khoái, tràn đầy
tự hào dân tộc mà tiêu biểu nhất là đoạn thơ:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Khổ thơ đã gợi tả khung cảnh không khí chung của Việt Bắc trong những ngày ra trận của cuộc tổng
phản công giành chiến thắng. Tất cả họ cùng hòa nhịp vào trong một ước mơ chiến thắng:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.”
Những đường Việt Bắc không chỉ nói tới con đường đi cụ thể mà đó con đường ra trận, con đường
đi tới thắng lợi vẻ vang. Con đường ấy là nơi hội tụ của lòng yêu nước và khí thế, sức mạnh tiến công.
Không khí kháng chiến được diễn ra vào “đêm đêm”. Từ láy “đêm đêm” vừa gợi, vừa diễn tả không
gian không ngừng nghỉ, khí thế khẩn trương của cuộc chiến khiến cho ngày đêm không còn ranh giới.
Những nẻo đường Việt Bắc trong con đường hành quân hàng đêm không yên tĩnh mà sôi động lạ
thường nên trở thành bạn đồng minh tin cậy của người chiến sĩ. Cùng với từ láy âm thanh rầm rập”,
ta càng hiểu hơn về tiếng bước chân nhanh, mạnh, khỏe khoắn của cả đàn quân. Như là đất rung là một
so nh đặc sắc tô đậm sức mạnh của bức tranh ra trận, khẳng định quy mô và tầm c của những người
làm nên chiến thắng. Ta tưởng như nơi đây đang xảy ra một cơn địa chấn mạnh và tiếng bước chân là
khí thế tinh thần của toàn quân và dân ta.
Người chiến sĩ xuất hiện trong không khí khẩn trương. khí thế:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.”
Từ láy “điệp điệp trùng trùng” trước hết gợi ra một đoàn quân đông đảo với sức mạnh hào hùng. Họ
mang theo tinh thần, sự quyết tâm hồ hởi bao trùm cả dòng người và sức mạnh cuộn trào như thác lũ.
Bức tranh còn được phát triển theo chiều cao với hình ảnh ánh sao. Ánh sao là một hình ảnh tả thực với
bối cảnh đêm Việt Bắc ra trận nhưng cũng thấm đẫm hình ảnh tượng trưng. Ánh Sao là ánh sáng của
niềm tin của lý tưởng soi đường dẫn lối cho quân dân ta. Hình ảnh ánh sao, mũi súng, mũ nan hợp thành
một hình tượng đẹp, khỏe khoắn, vững chãi. Về mặt tạo hình, nó biểu hiện cho niềm tin, ý chí và tinh
thần lãng mạn của người chiến sĩ cách mạng.
Cuộc chiến đấu còn có sự tham gia của những dân quân những trái tim hăng hái chiến đấu bất chấp -
mọi hiểm nguy:
“ Dân quân đỏ buốt từng đoàn
Bước chân nát đá muốn tàn lửa bay.”
Câu thơ tái hiện một hình ảnh rất thực và sinh động. Đó là đoàn dân quân đốt đuốc băng rừng đưa hàng
hóa ra mặt trận với khí thế khẩn trương và hối hả. Họ hiện lên hùng dũng, hiên ngang. Họ đem sức lực
của mình góp chung vào kháng chiến. Và để khắc họa hình ảnh đoàn dân quân, nhà thơ sử dụng từ ngữ
rất tạo hình “bước chân nát đá” đã khẳng định ý chí, sức mạnh của con người vượt qua được tất cả khó
khăn khắc nghiệt trên con đường ra trận. Đây cũng là một hình ảnh ẩn dụ thậm xưng rất độc đáo trong
bài thơ được lấy cảm hứng từ câu thành ngữ “Chân cứng đá mềm . Khi mang trong mình sức mạnh
niềm tin thì mọi khó khăn không làm chùn bước chân người lính. Họ vẫn lạc quan, vẫn lãng mạn qua
muôn tàn lửa bay. Những tàn lửa của ngọn đuốc rừng đêm tựa như những đóa hoa rực rỡ và biểu trưng
cho nét đẹp tâm hồn người dân quân: trong gian khổ mà vẫn giàu niềm tin để hướng về những niềm vui
trọn vẹn trong tương lai không xa. Mà niềm vui ấy trước hết là khi quân dân ta từ thế phòng ngự chuyển
sang thế chủ động tấn công:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Đoàn xe vận tải thuốc men, lương thực, vũ khí đã góp vai trò quan trọng vào kháng chiến. Họ miệt mài
trong đêm tối đặc biệt là thời gian “nghìn đêm đã phần nào khắc họa công việc, trách nhiệm họ mang
theo mình. Sau từng đoàn xe nối đuôi nhau trên con đường trận mạc vượt qua bao hiểm trở, trở về của
núi rừng lại phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt. “Sương dày làm khuất tầm nhìn của người lính
lái xe. Nhưng có lẽ họ đã sớm quen với những ngày tháng tuần hoàn cùng thiên nhiên khắc nghiệt như
vậy. Trong tim họ, chỉ có ý chí hướng về ngày mai độc lập, giữ trong mình tinh thần lạc quan. Và cũng
chính tinh thần ý chí của quân và dân ta đã làm biến chuyển cục diện chiến tranh từ thế bị động phòng
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
thủ sang chủ động tấn công. Ánh sáng chói lóa rực rỡ của đoàn xe đêm với sương mù dày đặc, xua đi
tất cả khó khăn gian khó. HÌnh ảnh ảnh ẩn dụ, so sánh “như ngày mai lên”đã nói thay cho niềm hi vọng,
tin tưởng của người lính cũng như toàn dân. Đó là dự cảm về một chiến thắng không xa.
Bốn câu thơ cuối đoạn đã gợi ra hình ảnh thắng trận. Những tin vui chiến thắng với quân và dân ta cứ
dồn dập được nói đến:
”Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng.”
Điệp từ vui được nhắc lại rất nhiều lần: vui từ, vui về, vui lên đã tạo không khí phấn chấn, rộn ràng và
cũng khẳng định rằng Việt Bắc là đầu não của cuộc kháng chiến, là nơi hội tụ của mọi niềm vui để niềm
vui đó trải đi mọi miền tổ quốc. Những chiến thắng được liệt rất cụ thể: Hòa Bình, Tây Bắc, An
Khê….gắn với bao tin tưởng và hi vọng làm náo nức lòng người.
Khổ thơ tiếp theo khẳng định Trung ương chính phủ là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến với chủ
trương, đường lối sáng suốt, việc làm thiết thực, cụ thể:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương chính phủ luận bàn việc công.
Điều quân chiến dịch Thu Đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê phòng hạn thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường c khu….”
Hình ảnh ngọn c đỏ thắm đi vào thơ Tố Hữu một cách rất tự nhiên và nó cũng chứa chan bao hi vọng,
khẳng định sức mạnh ý chí, niềm tin của toàn dân tộc. Ngọn cờ cùng “ nắng trưa rực rỡ sao vàng “đã
trở thành những hình ảnh biểu trưng nhất của dân tộc, hình ảnh ảnh của sức mạnh niềm tin đối với
những người kháng chiến. Lãnh đạo cuộc kháng chiến gian khổ đó chính là trung ương chính phủ với
bao vất vả, khó nhọc. Nhưng trong mọi hoàn cảnh vẫn đưa ra những sách lược tỉnh táo để bảo toàn sức
mạnh của quân và dân ta rồi làm nên chiến thắng như ngày hôm nay. Nghệ thuật liệt kê của nhà thơ Tố
Hữu sử dụng đã làm sáng vai trò chỉ đạo sáng suốt của những người cán bộ. Họ cùng với nhân dân phối
hợp là nên thắng lợi vẻ vang.
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ là sự ca ngợi của nhà thơ dành cho bác Hồ:
“ Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nh ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”
Lời thơ ở đây vừa có sự hào hùng, vừa mang âm hưởng trữ tình tha thiết, tin tưởng và cũng là
những lời khẳng định tấm chân tình mà cán bộ dành cho người ở lại- nhân dân Việt Bắc cùng những kỷ
niệm ân tình khó quên. Việt Bắc mãi điểm tựa tinh thần cho những con người cùng khổ. Hình ảnh
Bác Hồ đã được kỳ vỹ hóa trong thơ Tố Hữu, qua cấu trúc câu điệp Ở đâu, Tố Hữu đã khẳng định niềm
tin sâu sắc mà ông dành cho Người. Đoạn thơ khép lại là tình cảm nhớ thương, nghĩa tình thủy chung
son sắt với cách mạng. Và một lần nữa, mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào được nhắc lại, được khắc
ghi không thể nào quên.
“Việt Bắc” là khúc hùng ca, khúc tình ca Cách mạng. Giọng thơ tự sự trữ nh của Tố Hữu hòa
cùng những dòng thơ lục bát, hình ảnh ẩn dụ, liệt đã khắc họa chân thực bức chân dung tinh thần
của người đi người ở lại. Kháng chiến lẽ sẽ không thành công nếu không những nghĩa tình
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Cách mạng. Làm nên Việt Bắc anh hùng và chiến thắng của nhân dân ta là những “người đi, kẻ ở” hết
lòng vì sự nghiệp độc lập của tô quốc. Chân tình người đi kẻ ở tha thiết như những đôi lứa đang tâm
tình cứ nhẹ nhàng mà đi vào trái tim bạn đọc mọi thế hệ. Việt Bắc dưới ngòi bút Tố Hữu thật sự là tác
phẩm thơ tiêu biểu cho văn học kháng chiến. Nó là những vần thơ kết hợp hài hòa giữa lời tâm tình và
công việc Cách mạng. Sau câu chữ cũng chứa chan bao tình cảm, bao thương nhớ của bản thân nhà thơ
Chế Lan Viên từng nói: “Thơ là đi giữa vực nhạc và ý. Rơi vào vực ý, thì thơ sẽ rất sâu, nhưng
sẽ rất dễ khô khan.Rơi vào cái vực nhạc thì thơ rất dễ đắm say lòng ngưi nhưng cũng dễ nông cạn”.Ấy
thế mà, Tỗ Hữu đã tuyệt nhiên trung hòa giữa hai vực thu hút ấy. “Thơ anh vừa ru người trong nhạc
vừa thức người bằng ý”(Chế Lan Viên). Những tiếng thơ “Việt Bắc” đã không chỉ thu hút chúng ta bởi
sắc điệu trữ tình của ngôn từ mà còn chính bằng những tình cảm của con người nơi đây hun đúc thành.
Tố Hữu đã truyền vào Việt Bắc cái sức mạnh lớn nhất của qua tim anh được nuôi dưỡng qua “tiếng đời
lăn náo nức” từ những đau thương mà “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Để “Việt Bắc” trở thành một khúc
tình ca về kháng chiến mang đậm tinh thần dân tộc nhưng giàu những ý vị. “Việt Bắc chính là đỉnh thơ
cao nhất mà Tối Hữu đã bước lên” (Xuân Diệu).
“Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu phản ánh
hiện thực ấy là một bức tranh rất đỗi trữ tình” (Xuân Diệu). Bằng tài năng nghệ thuật cùng trái tim chân
thành, nhà thơ Tố Hữu đã gọi lại những nét đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu
đã gọi lại những nét đẹp, tình cảm chia li của núi rừng và con người Việt Bắc, giữa người đi người
về một cách vô cùng đặc sắc.
Nguyễn Sơn T
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
III. Sóng
Bài làm 1:
“ Em không ph i là chi u mà nhu n tím m anh đế
Sóng chẳng đi đ n đâu n u không đ a em đế ế ư ến
Vì sóng đã làm anh
Nghiêng ngả
Vì em…”
Không bi t t bao gi , nh p sóng v i d ng không ch làm th n th c bi n c mà còn ế ngoài đạ ươ
làm rung động bi t bao trái tim ngế ười thi sĩ. Chính vì th sĩ Xuân Quỳnh đã khoác lên nhế, n ững con
sóng b u t m áo tình yêu nạc đầ ồng nàn, vĩnh cửu b ng m ột hồn th ơ đắm say, cháy b ng. Gi a lúc cu ộc
kháng chi n ch ng M c sôi l a b ng, th ế đang nướ ơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng c a m t ng ười ph n
nhiều tr n, v a h n nhiên, t i t n, v m th m và luôn da di t trong khát v ng v ắc ẩ ươ ừa chân thành, đằ ế
hạnh phúc bình d i th ng. N i b đờ ườ ật nh t cho phong cách th chan ch a v p d u dàng y ph i k ơ đẹ
đến “Sóng”, bài thơ tình ng i sáng nh m t hòn ng c báu c ng. ư ủa văn chươ
“Sóng” là bông hoa xinh x n, đáng yêu b t mà Xuân Quỳnh hái đ n đi t ậc nhấ ược nhân chuyế ới
vùng bi n Diêm Điền Thái Bình năm 1967, in năm 1968 trong t p “Hoa d n hào”. Đây cũng là 1 ọc chiế
trong nh a con tinh th c sững “đứ ần” đặ ắc nh t, tiêu bi u nh t ph n chi u phong cách th c ế ơ ủa “bà hoàng
thơ tình”. Xuân Quỳnh vi t “ Sóng khi ế ở độ i hai m i qua nh ng b ng b t ít nhituổ ươi lăm, khi đã trả ều
trong tình yêu. Có l chính vì th ế mà khi đọc tác ph m ngoài s t i m y s c tr ươ ới đầ ẻ của tình yêu ta còn
thấy chút gì đó nhẹ nhàng sâu l ng. Vi ết v đề tài tình yêu đặc bi t l a ch n hình t ng sóng làm hình ượ
tượng chính cho tác phẩm của mình, Xuân Quỳnh không phải là ng i ngh u tiên nh ng l i là ườ sĩ đầ ư
người ngh , vi sĩ vô cùng tinh tế ết v g i g sóng để ắm tình yêu của trái tim ng i ph n bình d ườ
mãnh liệt vô cùng. Xuân Quỳnh đã lựa ch n hình t ng sóng và em song hành có lúc tách bi t có lúc ượ
hoà vào nhau để n nh ng cung b c c m xúc, nh ng suy t thể hiệ ư trăn trở. Nh ng câu th là nh ng con ơ
sóng nh , kh là nh thơ ững con sóng l n còn bài th là bi n kh i bao la c n i ti ơ ơ thế ếp nhau đế n t n
chân tr i, da di t mãnh li t trong lòng ng ế ười đọc.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
V i nh ng khao khát trong tình yêu, v i nh ng cung b c c m xúc nhi u biến động, hình
tượng sóng và em đã hòa nh p đ ể soi mình vào sóng nhìn ra tình c m riêng c a mình. Xuân
Quỳnh đã b t đ ầu thi ph m này m t cách vô cùng tinh t ế và đ c đáo :
“Dữ dội d u êm
n ào và l ng l
Sông không hi u n ổi mình
Sóng tìm ra t n b ể”
Mở u bài th là hai cđầ ơ p tính t đối l p nhau:” dữ dội, dịu êm”, “ ”. Tác giồn ào, l ng l đã
miêu t con sóng bi n c a t nhiên v ới nh ng tr ng thái vô cùng mâu thu n. Khi bi n êm
đềm sóng dịu dàng xô b cát tr ng, khi bi n d d i thì sóng g m gào bão t phong ba. T đó
chiều sâu c a câu th là hình nh n d cho tâm h n ng i ph n khi yêu: ph c t p, th ơ ườ ất
thường. Khi thì sôi nổi mãnh liệt v i tình yêu, khi l i d u dàng sâu l ng. Vì th trong bài th ế ơ
của m t n thi sĩ ng i Nga đã tườ ừng vi t rế ằng:
“Em b o anh đi đi
Sao anh không đứng lại
Em bảo anh đ ng đ ợi
Sao anh v i v ngay
Lời nói thoảng gió bay
Đôi m n đắt buồ ẫm lệ
Sao mà anh ng c th ế
Không nhìn vào mắt em”
Đặc sắ ơc h n Xuân Quỳnh đã s “và” v ng khám phá vô cùng đ c đáo. ử d ng liên t ới nhữ
Thông th ng gi a nh ng c p t ườ trái nghĩa là quan h u đệ biể ạt s t ng ph n. Nh ng Xuân ươ ư
Quỳnh lại s d ng quan h t và bi u hi n quan h c ng h ng n ưở i ti ếp để biểu đạt. Nh ng
đặc điểm tưởng ch ng nh i l ư đ ập l i th ng nh t v i nhau t n tại trong cùng m t chỉnh th
là sóng. Trong cái d d i có cái d u êm, trong s n ào l i ch ng s l ng l . Nhà th ứa đự ơ thật
tinh t khi nh n ra trong cái d d n giông bão c a nh yêu, chi sâu c a nó là s d u êm và ế ều
lặng lẽ. Đó là quy lu t muôn đ i “h ết mưa là n ng, h t gi n là th ế ương”. Vì thế Xuân Quỳnh
đã để d u em l ng l ng phía sau gi ng nh i ph n xuố ư ngườ ữ trong tình yêu luôn khát khao
bến b bình yên và h nh phúc. Nh m t quy lu t t ư nhiên,trăm sông suối đổ về m t sông,
trăm sông đổ v biển l n. Hành trình c a sóng t i d sông ra đạ ương. Và tình yêu cũng là một
hành trình nh ư thế:
“Sông không hiểu n i mình
Sóng tìm ra t n b ể”
Ra n i mênh mông d n nơ ạt dào, đế ơi bi n r ng tr i cao, sóng m c v y vùng, mới đượ i th c s
tìm th y mình trong s c s ng m nh m . Ba hình ảnh đi song hành v i nhau: “sông, sóng,
bể”. “Sông” là không gian chật h p tù ng nh bé. Còn “b ” là không gian c ủa bi n kh ơi r ng
lớn, bao la khoảng đạt mênh mông. Chính vì th ng tr c bi n khế đứ ướ ơi ấy luôn g i cho Xuân
Quỳnh những chiêm nghiệm:
“Suốt cuộc đời bi n g ọi giấc mơ
Nỗi khát vọng những ph ng tr i chươ ưa đến
Đứng trước bi n quên nh ững điều nh h ẹp
Lại th y lòng trong s ạch thêm ra”
“Tận” là hành trình r t xa xôi đ n đó ể đế phải tr i qua nh ững khó khăn vất v . H n th n ơ ế ữa
sông là n d cho tình yêu nh bé ích k t m th ng. Còn bi n l ườ ớn ẩn dụ cho một tình yêu
rộng l n có s thấu hiểu đ ng đi ệu là một tình yêu đích th c. Đó là hành trình c a em sẵn
sàng v t qua nh ng bão t p v n t i bi n lượ hong ba để ươ ớn tình yêu tìm được s đồng điệu
và đ m. Đây là m ng đồng cả ột khát vọ ẹp khát v ng m nh m c a m ột trái tim không chấp
nhận s t m th ng nh ườ bé trong yêu. Đó là ng n lĩnh và quyười ph n b ết li t khát khao
trong tình yêu nh ng không cam ch u và nh n như ục. Xuân Quỳnh đã mang đến m t quan
niệm vô cùng m i m và đầy táo b o trong tình yêu.
Con sóng ngày x a vư ới con sóng hôm nay không có gì là thay đổi v n d ạt dào, vẫn sôi nổi
như tình yêu của tuổi tr v i con sóng c i d ủa đạ ương:
“Ôi con sóng ngày xưa
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Và ngày sau v n th ế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi h i trong ng c tr ẻ”
Thán t c th t lên t n i th n th c c a m t trái tim yêu. Bên c “ôi” đã đượ ạnh đó Xuân
Quỳnh đã tinh t “ngày x a, Ngày nay”, “quá kh ng lai” ế khi s d ng c p t ư ứ, hi n t và t ại ươ
kết h p v n th nh m ới “vẫ ế” để khẳng đị ột cách ch c ch ắn và đinh ninh sự b t bi n không thay ế
đổi của con sóng bi i d ng. H n nển đạ ươ ơ ữa đó là đ c đi m nghìn đ ời v n có c a sóng dù là
quá kh hay t ng lai: con sóng v n luôn ch ng nh ng tr ng i l ươ ứa đự thái đố p vẫ n luôn v n
động theo quy lu v v i biật trăm sông đổ ển. Đó là khát vọng tình yêu xôn xao r o r c trong
trái tim con ng i trong quan ni m cườ ủa Xuân Quỳnh, là khát v ng muôn đ ời của nhân loại
mà mãnh li t nh t là của tuổi tr . Sóng v i khúc hát tình yêu b t di t qu là m u r ột âm điệ ất
phù h p v i s c s ng c ủa tình yêu, đồng th i khi ến hình tượng con sóng được tái t o mang
hàng loạt ý nghĩa phong phú, ng và đ c đáo. Khi tình yêu đấn tư ến nh mư ột tâm lý t nhiên
và th ng tình ng i ta luôn có nhu c u tìm hi u và phân tích nh ng tình yêu l i là m t hình ườ ườ ư
tượng tâm lý bí n khó có th c nh ng l i gi tìm đượ ải thích xác đáng v nó. Đi ều mà trước đó
đã từng làm Xuân Diệu băn khoăn:
“Làm sao sống được mà không yêu,
Không nh , không th ng m t k nào? ươ
p theo m t l n nKhổ thơ tiế ữa Xuân Quỳnh b ch độc bạ ầy t nhiên và d ng r t n thươ
tính, r t tr c c ảm Xuân Quỳnh đã nêu lên quy luật và không có quy lu t c a tình yêu:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về n lbiể n
Từ n i nào ơ sóng lên?”
Đứng trước không gian r ng l n c a sóng bi ển đại dương, Xuân Quỳnh đã m n sóng đượ ể nói
đến tiếng lòng. Qua điệp ng k t h p v ế ới điệp cấu trúc: “đêm nghĩ v …” Đã g ợi lên hình nh
của người ph n đang suy t băn khoăn trăn trư c bi n l n c tình yêu. Có l dù có trướ ủa
mạnh m đến đâu thì người ph n luôn có s n tính c a riêng mình, luôn có s suy t ư trăn
trở trước tình yêu ấy. Xuân Quỳnh đã sử d ng câu h i tu t tìm hi u ngu n g c c a sóng để
biển đại dương và đã tự b n thân tìm câu tr l gi u t ời để ải “sóng b t đ gió”. Tiếp tục
Xuân Quỳnh đã hỏi v ngu n g c c a gió:
“Sóng b t đ ầu t gió
Gió b u t ắt đầ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Cô gái d ng nh n m hi u t n cùng ngu n g c c a sóng bườ ư muố ắt đ đâu. Xuân Quỳnh ầu t
đã dựa vào quy lu t c ủa thiên nhiên để truy tìm kh i ngu n c a tình yêu. Th ng hoàn ế như
toàn b t l c b i tình yêu là th i c a c y bí n và không d lý gi i. Có bi t bao th ế giớ ảm xúc đầ ế ế
hệ loài người đã đi tìm lời giải thích tình yêu là gì tình yêu đến t khi nào vì sao con ng ười
yêu nhau. Nhưng:
“Nơi tình yêu bắt đầu
Cũng là nơi khó nhất
Trái tim dù bi t hátế
Nhưng chuy n tình d đâu”
Hay Xuân Diệu cũng t ng trăn tr ở:
“Làm sao c t nghĩa đ ược chữ yêu”
Đặ c sắ ơc h n ngh thu o ng khi n cho câu th m cái lật đả ế ơ như t ắc đầu nhẹ nhàng đầy n
tính. B i cô gái hoàn toàn b t l c khi c g u ngu n g c c ắng đi tìm hiể a tình yêu. Đây là cách
cắt nghĩa tình yêu chân thành không d m và đấu diế ầy n tính.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
V i nh ng c m xúc khó t c a m ột con tim đang đ c yêu, Xuân Quỳnhượ diễn t nó m ột
cách th t m nh m . M t n i nh c n cào, da di t, cu n cu n và d ế t dào nh ng con sóng ư nhữ
biển tri n miên, b t t n, vô h ạn. Âm điệu, Nh p th trong su t bài th này nh p sóng, nh ng ơ ơ ư
rõ nh t, d t dào, hâm h và mãnh li t nh t có l n th là đoạ ơ thứ năm:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên m t n ước
Ôi con sóng nh b
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nh n anh đế
Cả trong m còn thơ ức’
Có l n i nh t thành m t dlâu đã trở ư v không th thi u trong tình yêu. Chính vì th ế ế
biết bao l i th bày t ơ đã nhữ ng nỗi nh vô cùng da diết:
“Đêm nằm l ng ch ng t i giư ường
Mong cho mau sáng ra đ p anh”ường gặ
Hay trong Truy n Ki u c a Nguy n Du:
“ S u đong càng l c càng đ ầy
Ba thu d n l i m ột ngày dài ghê”
Thế i có m nhưng Xuân Quỳnh lạ ột cách để thể n nhiệ ỗi nh r ất riêng và đ c đáo b ằng cách
gửi g m vào hình t ng con sóng bi i d ng. Ngh thu ượ ển đạ ươ ật điệp cấu trúc “con sóng” kết
hợp v i ngh thu i l i lòng sâu, trên m t n ật đố ập: “dướ ước”. Từ đó con sóng ở các v trí khác
nhau: Con sóng l ng d i d ng mênh mông hay con sóng tung b t d d ưới lòng đạ ươ ội trên mặt
biển k t h p v i nhau t o s ng. T n dế đa dạ đó ẩ ụ cho khoảng cách trong tình yêu ng nhữ
không gian ng ph ng tr i khác nhau. H n th n a ngh thu nhữ ươ ơ ế ật nhân hóa “sóng nhớ b
và ngày đêm không ng c” đóủ đượ là m t n ỗi nh kéo dài t t c m i không gian m i th i gian.
Nhưng tinh tế h n chúng ta ph n cách s d ng r t chính xác t ơ ải nói đế “ lòng”. Trong bài thơ
duyên c a Xuân Di ng vi ệu ông cũng từ ết
“ Bữa th y chi u hôm ng n v ơ ngẩ ậy
Thôi lòng anh đã cưới lòng em”
Nhưng Xuân Quỳnh cũng sử d ng chính xác t i sâu kín nh t c a tâm h “lòng em” là nơ ồn
con ng i n i bí m t c a tình yêu và n i nhườ ơ ớ. Khi Xuân Quỳnh nói lòng em nh nghĩa là đã
phơ i bày t t c trút h t yêu th ng g i cho ng i mình yêu. Câu th n d ế ươ ườ ơ giả ị chân thành mà
nồng nàn tha thiế ết. H n thơ n a n ỗi nh c th n m t cách mãnh li t và da di ấy còn đượ hiệ ết
“cả trong m còn thơ ức”. Đó là nỗi nh không ch có m ặt trong không gian mà còn ăn sâu vào
tiềm th c c a cô gái. Tình yêu và n i nh o l n nh p s ng k làm đả hiến cho cô gái thao thức
ngay c trong gi c ng ủ. Nó xóa đi ranh gi a ngày và đêm, xóa đi ranh giới giữ ới c a không
gian ch còn l i n i nh . Hình nh con sóng và em qu n quýt hòa quy n: em là sóng sóng
cũng là em để b c l n i nh da di ết cháy b ng c a m t trái tim yêu mãnh li t chân thành.
Có l trong tình yêu kho ng cách luôn tr thành nh ững khó khăn và trắc tr , nh ng chính ư
khoảng cách y là th để thử thách tình yêu, để u rõ lòng mình:hiể
“Dẫ u xuôi v phương b c
Dẫu ngược v phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng v anh - m t ph ương”
Từ “phương B c, ph ương Nam” chỉ hai mi n xa xôi c a t qu c. T đó ẩn dụ cho không gian
xa xôi cách tr trong tình yêu. Trong th ơ Xuân Quỳnh thường l y hình nh Ph ng Nam, ươ
Phương B n d cho khoắc để ảng cách trong “S u em đi”:ân ga chiề
“Vừa thoáng ti ng còi tàuế
Lòng đã Nam đã Bắc”
Các đ ng: “xuôi ,ng c” thộng t c h ngượ ướ ượ n nh ng nhiệ ỗi v t v ả gian truân trong tình yêu.
Thông th ng ng i ta th ng nói: xuôi vào Nam ng c ra B c, nhườ ườ ườ ượ ưng Xuân Quỳnh lại nói
ngược: xuôi b c ng c Nam. D ng nh i v ượ ườ ư đố ới Xuân Quỳnh cái logic của lí trí thông
thường đã bị xóa mờ, ch còn l i hai mi n xuôi ng ược để trăn tr tìm nhau, đ ể khao khát
được ở bên nhau. Có ph i ta th ng m t dải chăng khi yêu ngườ ườ ần đi lý trí, ý thức và Xuân
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Quỳnh cũng không ngo i l Xuân Di như ệu đã t ng nói: “yêu là ch ết trong lòng một ít.”
Như ng cần đ c đoạn th ta l i càng c m thì h n nh mà tác giơ ơ ững trăn trở ả muốn g i g ắm
trong t ng con ch ữ. Đi u” k i điệp t “dẫ ết h p v ệp cấu trúc đã kh ng đ nh bản lĩnh kiên
cường c a m t ng ười phụ n trong tình yêu đó là sự thủy chung trước sau nh m t vư ới
người mà mình th ng yêu. Bươ ản lĩnh y đã t nghìn đ ừng có trong ca dao t ời xưa:
“Yêu nhau m y núi cũng leo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”
c tình yêu tr n vCó đượ ẹn, nh ng làm th ư ế nào để giữ c nó mđượ ới khó khăn. Nếu lòng
không có quy t tâm không có s chung th y th u hi u l n nhau thì tình yêu ế ấy cũng tàn theo
sóng gió m t th i. Dù cu i kia có quá nhi ộc đờ ều sóng gió, thăng trầm nh ng em v n luôn ư
khát khao, ch mong v m t ng c a tình yêu duy nh phươ ất đó là “ph ng Anh”:ươ
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng v anh m t ph ương”
“Nơi nào” là chỉ không gian, đ ng để khẳ ịnh b t c ơ n i đâu. “Phương Nam, Ph ng B ươ ắc” để
chỉ ng h ng trong không gian. Nh ng trong th c a Xuân phươ ướ ư ơ Quỳnh tình yêu của người
phụ n đã đem đến m t sáng t o m i m độc đáo trong ngôn từ. Tình yêu không có Ph ng ươ
Nam Ph ng B c mươ ọi không gian khách quan đ nên vô Nghĩa trều tr ước không gian diệu kỳ
của tình yêu. Bởi đối v i ng i con gái m ườ ọi phương tr i kh ông có anh đều tr nên u ám:
“Dẫ ế u bi t ch c r ng anh tr l ại
Ngọn gió buồ n v n th i phía không anh”
“Anh” đã trở thành trung tâm c a n i nh . D ẫu có đi về phương nào thì em v n luôn h ng ướ
về anh. Anh tr thành h quy chi u c i em. Câu th ng nh m ế ủa đờ ơ gi ư t l i th : thà r ng em
dù có ph i v t v ngược xuôi gian truân lên thác xu ng g ần thì cũng chỉ có anh là duy nh t.
Khổ thơ đã toát lên vẻ đẹp tình yêu đầy n tính d u dàng mãnh li ệt đam mê nh ng cũng rư ất
truyền th ng: tình yêu g n li n v i s y chung thủ
M t l n n a Xuân Quỳnh đã mượn quy lu t b t bi n c a sóng bi i d ế ển đạ ương xa xăm,
mênh mông kia để kh ng định t m lòng, tình yêu mãnh li m lòng son s c và niệt. Đó là tấ ềm
tin vào tình yêu:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào ch ng t ới bờ
Dù muôn v i cách tr ở”
Không gian hi n lên là không ra r ng l n c a bi n kh i bao la bát ngát. T ơ s l ng ch ượ
mang tính chất ước lệ “trăm ngàn” k t đết h p v i ngh thu o ng t đó thể n ni m tin hiệ
chắc chắn sóng s n v i b . Em s n v i anh s c p b n b h nh phúc. Câu th m đế đế ế ơ như ột
lời d n lòng nh c nh ng bao gi m t ni đừ ềm tin vào tình yêu. Đó là niềm tin c a m t ng ười
phụ n sâu s c t ng tr i. Tin nh ng không h ư ề dễ dãi ngây th và ni m tin ơ ấy càng thêm đáng
quý và đáng trân trọng.
Ta yêu c n t n cùng th ho đế ế giới t n cùng th m t mai ta không còn c m th ời gian, để ấy
nuối ti c n a. Th ng khi có nh ng phút giây tr m lế ế như ắng nghĩ về s vô h n c a th i gian
tự nhiên và s h u h n c ủa đời ng i. Trong lòng n ườ sĩ Xuân Quỳnh chọn trào lên nh ng n ỗi
niềm khó tả:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng v n đi qua
Như n kia dbiể u rộng
Mây v n bay v xa
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Những băn khoăn trăn trở t hi n trong ph m trù không gian và th i gian. Th i gian và xuấ
không gian đ c đượ ặt trong bình di i lện đố ập nhau. “Cuộc đ i” tuy dài nh ng nó ch là kho ng ư
thời gian ng n ng i h u h n c a m ột ki p ngế ười. “Năm tháng” là khoảng th i gian vô h ạn
không có điểm d ng còn bi n là không gian mênh mông nh h u h n. Nh ng ưng cũng là sự ư
có l “mây trôi” là sự phiêu du vô h n nh ng chân tr i m i mà d ng nh không ai thạn đế ườ ư ấy
điểm d ng. Cu ộc đời tuy dài bi n tuy r ộng năm tháng s đi h c đ ết cuộ ời. Nh ng mây kia s ư
bay qua nh ư biể ến rộng đ n v i nh ng không gian c vô cùng. Kh t hi n n a vũ trụ thơ xuấ ỗi
lo âu trong cái hữu h n c a tình yêu. Chính Xuân Di ệu cũng đã từng s cái h u h ạn này của
lòng mình:
“ G p đi em anh s ợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”
Hay chính Xuân Quỳnh cũng t ng trăn tr ở và lo lắng tr c cái h u h n c a tình yêu:ướ
“ Kh o dâng đắp nẻ ầy hoa c may
Áo em s ý c ơ găm đy
Lời yêu mỏng m nh nh l i khói ư
Ai biết tình ai có đ i thay”
Thời gian đã xóa đi bi c tình đết bao cuộ ẹp, nh ng b l y nu i ti đầ ếc c i ng i. Và r i c ủa đờ ườ
thế còn l i s chỉ thổn th c mong ch , v ấn vương vào dòng ch y c a tình yêu. Chính vì th ế
Xuân Quỳn n tình yêu còn mãi nên đã tìm ra gi i pháp đ vĩnh vih muố ể có thể ễn hóa tình yêu
của chính mình:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa bi n l ớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ. “
“Làm sao” cụm t thể hiện ước nguyện chân thành được hòa mình vào biển lớn tình yêu đã
được Xuân Quỳnh th t cách sinh đ n mhiệ ộng, h p lý v n còn chan ch y c m xúc. Câu ứa đầ
hỏi tu t “làm sao tan ra” đã th n băn khoăn trể hiệ ước khát vọng được hóa thân và nh ng
con sóng biển trên đ ng mênh mông đại dươ ể có th ng t n b t t n gi a bi n l n tình trườ
yêu. Bên cạnh đó ngh t đ p “con sông nh ” v i “bi n tình yêu” đã thệ thuậ ối lậ ển lớ ể hiện mong
ước của m t tâm h ồn thi u n c s ng trong h nh phúc b n v ng. Nhế đượ ưng tình yêu ấy
không làm cho em nh bé ích k mà trái l i tình yêu c a em s tranh hòa trong tình yêu c ủa
đồng bào xã h t lý tội. Đó là mộ ưởng đẹp có m t trái tim nhân h ậu.
Có m t nhà th ơ Nga đã từng viết:
Một gi t n c hòa vào bi ướ n c
Mãi mãi là s c s ng thanh xuân
Giáo s Phong lê t ng nh n xét bài th ư ơ sóng: “ở m p th cột tậ ơ ủa Xuân Quỳnh những
bài th t v tình yêu th l i nhi n t ng h n c i giơ viế ương để ều ấ ượ ơ ả”. Vớ ọng điệu h t s c th , hế ơ ết
sức t nhiên, bài th sóng t i hi n m ơ ột tình yêu sâu s c b i h i thao th n c trong gi ức đế ấc
mơ. Dù gian truân tr c tr ng tình yêu bao gi nhữ cũng đẹp cũng đ n đế ược h nh phúc, nh ư
sóng nh n v i b đế ở. Đúng là nh Xuân Quỳnh Đã thư thế n r t sâu s c cái nhìn c a mhiệ ột
người ph n v ới tình yêu, đó là tình yêu ch a đ ựng nhi u nh ng tr ạng thái đối l p nhau c ủa
người ph n khi yêu. M t tình yêu r ng l n v i b ản lĩnh kiên cường c a m t ng i ph n ườ ữ,
một n i nh da di ết khôn nguôi, m t t m lòng thu chung, m t ni ềm tin vĩnh hằng,.. t t c
đều được th hiện trong nh ng v n th nhàng mà sâu l ng. B ng cách k t h p th ơ nhẹ ế thơ
năm ch sóng đôi, cách ngữ v ới ảnh thơ ắt nh p linh ho o âm h ng nh ng con ạt đã tạ ưở ư nhữ
sóng bi n xô vào lòng ng c. Con sóng này ch ười đọ ưa qua thì con sóng khác đã đến hi n ra
trước m t. Tác gi đã sáng tạo hình nh qu n quýt song hành t n cu i: có lúc em là đầu đế
sóng sóng l i là em góp ph n b c l tình yêu c a ng i ph n ườ ữ. Xuân Quỳnh sử d ng t ngữ
mộc m c gi n d k t h p v i ngh thu t nhân hóa n d ế đối lập điệp c ấu trúc để mang đến
nhữ ơ ng vần th hết s c lay động lòng người.
ng câu th khép l i, nh ng có l nh p sóng v c i dNhữ ơ ư ủa đạ ương nh yêu đầy da di t vế ẫn
sẽ vang v ng trong lòng ng ng c m xúc c a ng i con gái khi yêu, khao ười đ c. Đó là nh ườ
khát đ n hoá thân được yêu và muố ể được s ng trong tình yêu. Bài th i trong ống vĩnh hằ ơ ra đờ
khi cu c kháng chi n ch ng M ế n ra gay go và ác li t, nhđang diễ ưng “ Sóng” vẫn tr thành
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
một n t nh c ngân xa l c nh p nh ng không h l u. Bài th ư ạc điệ ơ đã để l i trong lòng b ạn đọc
âm thanh c a c m xúc và nh ng giá tr tình yêu mà không l p l ại mình. Đúng như Anton
Pavlovich Chekho u tác gi không có l i nói riêng c a mình thì ngv đã t ng nói: “ N ế ười đó
không bao gi là nhà văn cả. N u anh ta kng có gi u riêng , anh ta khó tr thành nhà ế ọng điệ
văn thực thụ.”
Nguyễn Diệu Linh
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 2:
Tình yêu lâu nay đã luôn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca, nhưng không phải vì thế mà
nó thành đơn điệu và nhàm chán. Mỗi bài thơ, mỗi nhà thơ là một thế giới, một nhu cầu, một khao khát
riêng không ai giống ai. Chẳng thế mà ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn Việt Nam với chất men say tình
yêu nồng nàn, mãnh liệt, người tự cho mình là ‘‘kẻ uống tình yêu dập cả môi”, ta gặp Nguyễn Bính
“người nhà quê” chân thật da diết… và sẽ là một thiếu sót lớn khi không nhắc tới nữ thi sĩ với tâm hồn
dạt dào và say đắm trong tình yêu Xuân Quỳnh. Thơ tình yêu của Xuân Quỳnh chân thành, đằm thắm,
cháy bỏng nồng say, và những đặc sắc không thể lẫn vào đâu được ấy của chị đã được thể hiện qua một
tác phẩm thơ mà ắt hẳn nếu là độc giả Việt Nam thì ai cũng đã có lần đọc qua, đó chính là bài thơ Sóng.
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời kì chống
Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa
chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng”
được sáng tác m 1967. Đó những năm tháng dân tộc đang bước vào cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ và tay sai, là khi thanh niên trai gái ào ào ra trận, cho nên đặt bài thơ trong hoàn cảnh ấy mới
thấy rõ được nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu. được viết trong một chuyến đi thực Sóng
tế đến vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Đứng trước bờ biển rộng mênh mông với những con sóng ào
ạt xô vào bờ, trong lòng bà gợi lên nhiều suy tư, trăn trở và cảm xúc khó tả, và đó chính là nguồn cảm
hứng để bà sáng tác bài thơ này. Trước khi ra đời, Xuân Quỳnh đã phải nếm trải những đổ vỡ “Sóng”
trong tình yêu và hôn nhân, vậy nên Sóng không phải là lời tâm sự của một người con gái mới biết yêu
là những tâm tư, trải lòng của một người phụ nữ đã trưởng thành mang theo nhiều thâm trầm của
cuộc đời. Tác phẩm được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, tựa như một bông hoa xinh đẹp tươi tắn
giữa bức tranh toàn cảnh của cuộc kháng chiến lúc bấy giờ.
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ
diễn tả những cảm c của người con gái trong tình yêu luôn tha thiết, nồng nàn, chung thủy, muốn
vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người để làm cho tình yêu ấy trở n bất diệt.
Từ đó, ta thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.Viết về
sóng, biển thuyền để i lên tình yêu trai gái ta đã gặp trong thơ Xuân Diệu, với bài Biển... Ngay
trong Xuân Quỳnh cũng Thuyền và Biển… nhưng tìm một bài nói lên nỗi băn khoăn day dứt như
Sóng có lẽ chưa. Đến với , ta được gặp một Xuân Quỳnh nồng nàn, mãnh liệt, gặp con người Sóng
yêu tha thiết và cháy bỏng, luôn luôn muốn bứt mình ra để tìm đến một cái gì đó rõ ràng, cụ thể. Xuân
Quỳnh nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Những vần thơ của bà rất dung dị, nhưng lại diễn
tả chính xác những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người con gái khi yêu, khi có gia đình. Đó là nỗi
băn khoăn, khắc khoải, là tình yêu da diết, bùng cháy. Trong các thi phẩm của mình, ngay từ khi mới
ra đời, "Sóng" đã gây được tiếng vang lớn, với hình tượng sóng, tác giả đã góp phần thể hiện khát khao
tình yêu mãnh liệt, bền bỉ của người phụ nữ.
Trước hết, người phụ nữ ấy đã soi mình vào sóng để thấy được sự đồng điệu trong tâm trạng,
những cung bậc cảm xúc trong tình yêu. Có người đã từng nói "Một bài thơ hay, một ca khúc hay, khi
nội dung ta còn chưa nắm rõ thì âm điệu đã xâm nhập hồn ta tự bao giờ", tiếng sóng như thôi thúc từng
hồi vỗ vào lòng của người yêu văn chương bởi nhà thơ đã sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu tính nhạc và
được luân chuyển nhịp thơ rất linh hoạt:
"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể"
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Mở đầu bài thơ là cảm xúc trong tình yêu của một tâm hồn đang yêu, đang khát khao hạnh phúc mãnh
liệt. Xuân Quỳnh diễn tả một trạng thái khác thường, vừa phong phú lại vừa phức tạp qua cách tổ chức
ngôn ngữ một cách tương xứng, tương phản. Trái tim của người con gái khi yêu cũng giống như Sóng,
mang nhiều sự đối cực, trái ngược nhau, khi thì dữ dội, khi lại dịu êm, lúc thì ồn ào, khi lại lặng lẽ…Sóng
được miêu tả trong những trạng thái đối lập "dữ dội" "dịu êm", "ồn ào" "lặng lẽ". Tình yêu cũng luôn - -
bao hàm những cảm xúc đầy mâu thuẫn, thất thường nhất là đối với trái tim của người phụ nữ. Nhưng
lẽ, tình yêu cũng shài hòa thống nhất đến kì diệu của những mâu thuẫn ấy, những trạng thái
tưởng như đối nghịch kia nhưng lại chuyển hóa lẫn nhau. Dữ dội, ồn ào cũng là sóng mà dịu êm, lặng
lẽ cũng sóng. Và, người con gái trong tình yêu không chấp nhận những cái tầm thường, nhỏ hẹp,
luôn khao khát một tình yêu thực sự, một tình yêu chân chính. Nhà thơ đã mở rộng không gian của bài
thơ bằng cách sdụng hình ảnh Sông để chỉ không gian nhỏ hẹp, bó buộc, còn bể là một khung trời
mới rộng lớn với bao điều mới mẻ, đồng thời cũng nhấn mạnh khát vọng được tìm đến tình yêu của
người con gái không bao giờ vụt tắt, dù phải trải qua bao khó khăn. Người phụ nữ trong tình yêu cũng
luôn khao khát một tình yêu lớn lao và phóng khoáng, vượt lên mọi giới hạn bờ cõi để họ được là
chính mình, để tình yêu đúng nghĩa là tình yêu. Đây cũng chính là quan niệm mới mẻ về tình yêu mà
nhà thơ Xuân Quỳnh muốn gửi gắm đến bạn đọc, người con gái trong thời hiện đại đã không còn b
phụ thuộc, không còn cam chịu nữa, họ luôn có xu hướng chủ động vươn tới những tốt đẹp nhất dành
cho bản thân mình. Bi vậy mà hình ảnh Sóng trở nên táo bạo biết nhường nào khi "tìm ra tận bể".
Cõi đời vốn đã đầy cay cực, xáo động, Xuân Quỳnh lại sinh đúng vào những năm tháng không
yên, bản thân, ngay ttrứng nước đã đa mang một cõi lòng không yên định, đầy những lo sợ không đâu
như một thứ nghiệp dĩ. Thế mà, người đàn bà ấy lại coi hạnh phúc là yên lành và suốt đời cứ cố kiếm
tìm, vun trồng, gìn giữ cái yên trong một thế giới đầy nắng nôi dông bão, trong một thời buổi cơ hồ
chẳng có chút nào yên. Trong lòng mỗi người luôn hiện hữu một con sóng tình cảm ngập tràn, nhưng
chỉ đến khi nó được dâng lên và lan tỏa ta mới có thể cảm nhận được những thay đổi trong suy nghĩ và
nhận thức về tình yêu. Không gấp gáp, vồ vập, Xuân Quỳnh đã thay lời tất cả những trái tim trẻ bộc lộ
nỗi lòng mình bằng những trạng thái tình cảm khác nhau thông qua những con sóng. Khi dữ dội mãnh
liệt, khi dịu êm trầm lắng, khi ồn ào nhấp nhô, có lúc lại âm thầm lặng lẽ, những tình cảm tưởng chừng
như mâu thuẫn, đối lập nhau trong trái tim của người phụ nữ nhưng lại mang theo tất cả những đặc
điểm và trạng thái tâm lý đang khao khát tình yêu. Nhiều khi chính bản thân họ không thể định nghĩa
và gọi tên cảm xúc của chính mình, muốn tìm đến những định nghĩa riêng, tìm sự đồng điệu, hoà nhập
vào bể lớn tình yêu. Chính vì thế từ dòng sông bình lặng nhỏ bé trong tâm hồn, con sóng tình đã đi đến
những miền bể xa - nơi có tình yêu và nỗi khát vọng không khi nào ngừng tắt.
đi qua bao thăng trầm của thời gian thì khao khát về tình yêu với tuổi trẻ luôn luôn bồi
hồi, mãnh liệt nhất. Khi nhắc đến tuổi trẻ, bao giờ nó cũng đi đôi với tình yêu, bởi chính tình yêu đã
làm cho tuổi thanh xuân của con người trở nên có ý nghĩa biết bao. Đó có thể là những rung động đầu
đời, là những cảm xúc khác lạ mà con người không tài nào lý giải nổi, dù có lúc nó làm cho ta cảm thấy
đau đớn, nhưng vẫn luôn khát khao có được. Tình yêu là một thứ gì đó khó giải thích và có thể minh
bạch, nhưng bao đời nay con người vẫn luôn kiếm tìm, ước ao:
"Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Sóng được đặt trong cả quá khứ "ngày xưa" và tương lai "ngày sau" kèm với đó hai chữ "vẫn thế"
như một lời khẳng định rằng sóng luôn tồn tại vĩnh cửu và tình yêu cũng vậy, luôn bất diệt mặc kệ thời
gian. Nỗi khát vọng về hạnh phúc tình yêu đã có từ bao đời nay trong trái tim của những người đang
yêu, của người con gái. Tình yêu Xuân Quỳnh mang đến cho bạn đọc vẫn còn ẩn hiện những nét truyền
thống khi tác giả nhắc đến sự tuần hoàn chảy trôi của thời gian, và dường như thời gian cũng không thể
làm xoay chuyển những khát vọng ấy. Chỉ có trái tim trong lồng ngực của những người trẻ mới đủ chỗ
chứa đựng khát vọng ấy. Hình ảnh "ngực trẻ" khiến ta liên tưởng đến mặt biển tựa như vùng ngực trẻ
trung, còn những con sóng lại là những nhịp đập phập phồng với một niềm khát khao được yêu, được
hạnh phúc. Tình yêu khiến con người ta trở nên mơ mộng, bay bổng hơn và đó là những khoảnh khắc
sống trong nỗi trăn trở, bâng khuâng, người ta luôn sợ đánh mất tình yêu ngay trong lúc mình trân trọng
nó nhất. Cũng như sóng, tình yêu chính là khát vọng muôn đời của con người.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Trước cái chảy trôi vô hạn của thời gian "ngày xưa" "ngày sau" nhưng người còn gái ấy "vẫn
thế". Vẫn khao khát yêu đương, trái tim vẫn không thôi nhiệt huyết, cháy bỏng. Cũng từ đó, Xuân
Quỳnh bước đầu tìm hiểu, tìm cách cắt nghĩa lí giải về tình yêu. Đã từ ngàn đời nay người ta vẫn truy
nguyên, lí giải của tình yêu, ấy vậy nhưng đã có ai làm được, đã có ai truy nguyên được, tình yêu là gì.
Con sóng từ chỗ để cảm, đhiểu đã trở thành đối tượng để suy tư, triết lí. Mải miết để suy tư, để cắt
nghĩa về tình yêu, để rồi cuối cùng chính Xuân Quỳnh cũng phải tự thừa nhận: "Em cũng không biết
nữa/ Khi nào ta yêu nhau". Bởi tình yêu là như vậy, là sự ngự trị của con tim, là sự thúc đẩy của cảm
xúc, làm sao có thể chiết tự, thể cắt nghĩa rạch ròi. Nếu tình yêu như một bài toán có lẽ lúc ấy đã
không còn là tình yêu nữa, đúng như Pascal đã từng nói: "Trái tim có quy luật riêng mà lý trí không th
hiểu nổi".
Tình yêu luôn hiện hữu trong cuộc sống của mỗi người, giúp cho tâm hồn thêm nhạy cảm,
tinh tế và biết tin vào những điều tốt đẹp. Với Xuân Quỳnh, tình cảm ấy những con sóng lòng từ ngàn -
xưa đến nay và đến tận mai sau vẫn không bao giờ ngừng chảy, cũng như người phụ nữ trong tình yêu
không bao giờ ngừng trăn trở về nguồn gốc của sóng và của tình yêu lứa đôi. Những sự tương đồng của
trái tim người phụ nữ đang yêu với sóng đã được nhà thơ bộc lộ rõ nét hơn cả qua khổ thơ thứ ba:
"Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?"
Đứng trước cái mênh mông của biển, cái trùng điệp của sóng, "em" nghĩ về anh, về em, về biển lớn và
nghĩ cả về cội nguồn của sóng tình yêu. Dường như Sóng hay chính em đang cố giải thích về -
nguồn gốc của tình yêu hay định nghĩa tình yêu của mình. Điệp từ "em nghĩ" được nhắc đi nhắc lại
càng làm rõ hơn sự suy tư, trăn trở trong lòng người con gái, đó là những thao thức,lo lắng, người con
gái đã đặt ra nhiều câu hỏi và nóng lòng muốn biết được nơi bắt nguồn của tình yêu, chứ không phải
chỉ quen bồng bềnh, quen si mê, đến chỉ yêu và đơn thuần là yêu. Tình yêu là một thứ gì đó rất tự nhiên
như sóng biển gió trời, nó có thể bất chợt ập đến mà con người ta không thể nào chống đỡ kịp, rồi cũng
có thể biến mất mà chẳng cần một lí do gì để giải thích. Quy luật tự nhiên là sóng gió, nhưng còn tình
cảm giải thích từ đâu... Mọi câu hỏi đặt ra đều tha thiết tìm được nơi khởi nguồn, nơi "bắt đầu" của sự
vật. Có như vậy nỗi lòng em mới hết chơi vơi.
Câu hỏi tu từ cuối khổ thơ đã thể hiện những suy tư, trăn trở, những khao khát khám phá về
tình yêu, về cuộc đời. Đây cũng là một câu hỏi từ bao đời nay được đề ra nhưng rồi cũng bỏ ngỏ ở đó,
người ta đi kiếm tìm nguồn gốc của tình yêu để định nga nó, để rồi cuối cùng vẫn không thể tìm được
câu trả lời, như Xuân Diệu đã từng phải thừa nhận rằng:
" Đố ai định nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu.”
Tựa như gió, như mây, độc chiếm tâm tư của con người để rồi người ta ngẩn ngơ nghĩ về nó đến muôn
đời mà vẫn không nắm bắt kịp. Xuân Quỳnh đã lí giải nguồn gốc về tình yêu theo cách riêng của mình
rất đáng yêu, hồn nhiên và nữ tính, và cuối cùng cũng chẳng thể tìm ra một định nghĩa về tình yêu, đến
rồi đi, tình yêu khó hiểu và luôn mang nhiều bất ngờ, bí ẩn:
"Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau"
Một câu trả lời được đặt xen giữa hai câu hỏi đầy suy tư. Câu trả lời là sự bất lực của lí trí con người,
không thể lí giải về cội nguồn của sóng, cũng như chẳng thể hiểu được sự bắt đầu của tình yêu. Những
câu hỏi, những câu trả lời như đan xen trong tiềm thức của thi nhân, tình yêu đã khiến con người ta thay
đổi, làm con người ta thổn thức khôn nguôi. Con người chẳng thể hiểu nổi mình trong tình yêu, cũng
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
như chẳng thể hiểu được tình yêu là gì? Người ta yêu nhau vì cái gì? Ánh mắt, nụ cười, giọng nói hay
điều khác? Hay giống như nàng kiều yêu chàng Kim chỉ sắc ngựa tuyết in, pha màu áu
(Truyện Kiều). Mọi thứ cũng chẳng còn quan trọng nữa bởi chỉ cần hai người thuộc về nhau, bên cạnh
nhau, yêu nhau là đủ. Tình yêu luôn vượt thoát ra khỏi sự kiềm tỏa của lý trí, nó luôn bí ẩn, bất ngờ và
có quy luật riêng. Đoạn thơ sử dụng cấu trúc đảo: đáp trước, hỏi sau khiến câu thơ trở nên duyên dáng
như một cái lắc đầu. Tình yêu là thế, giản dị, hồn nhiên nhưng lại vô cùng lớn lao và đẹp đẽ vô cùng.
người đã phải thốt lên rằng "có gì lạ quá đi thôi" khó quá! Nhưng tình yêu là thế. Làm sao thể
cảnh giác được trong tình yêu. Nó đến lúc nào ta đâu có biết và chiếm ta lúc nào ta chẳng hay. Bất chợt
ta gặp câu thổ lộ:
"Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau"
Một câu hỏi rất con gái, nhẹ nhàng, bối rối lẫn chút đắm say, ngọt ngào, nũng nịu. Nói thế, không
nghĩa là khổ thơ chỉ đơn thuần và cảm xúc, con người chỉ đơn thuần là yêu say đắm bên tình yêu bên
sự nồng nàn còn là sự nghĩ suy, tìm tòi đòi hỏi một câu trả lời ít thôi nhưng phải có... Nhưng cuối
cùng câu hỏi vẫn để đó, nhà thơ bất lực... làm sao mà có thể đáp nổi... Một ánh mắt bâng quơ, một câu
nói vô tình nhiều khi cũng làm cho người ta tương tư chứ huống chi lại có một khoảng thời gian dài nỗi
khát vọng tình yêu cứ bồi hồi, cứ xao xuyến trong ngực trẻ. Cái giây phút giao duyên của đôi lứa: "Khi
nào ta yêu nhau" tìm được một câu trả lời thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm
khó có thể cắt nghĩa được. Bởi vậy trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagore đã viết rằng:"Trái tim
anh cũng ở gần em như chính đời em vậy/Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu". Tình yêu là sự
sống muôn đời nơi "vườn trần" nhưng "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu". Câu thơ "Khi nào ta yêu
nhau" diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đắm. Cái giây
phút "thắm lại" của lứa đôi trong mối tình đầu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể
quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là "cái thuở ban đầu lưu luyến" cùng đắm đuối và thiêng
liêng. Trong khi người con gái cố đi tìm cội nguồn tình yêu thì tình yêu trở thành trò chơi ú tim, không
tài nào nắm bắt được. Và thế là, muôn đời tình yêu vẫn là sự bí hiểm. Tình yêu của "Em" giờ đây trở
thành nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó choán đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bề rộng, nó trải
dài trong mọi thời gian. Phạm Đình An đã nhận xét: "Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng lại
ở mức độ yêu buổi đầu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào, mà là tình yêu hnh phúc, tình yêu gắn bó
với cuộc sống chung vi nhiều đòi hỏi ở chiều sâu tình cảm, với nhiều chứng minh của thử thách, mang
đậm dấu ấn trách nhiệm". Chính vì thế mà tình yêu của người "Em". Ở đây có thể nói không còn bồng
bột mà rất chín chắn, có sự can thiệp của lý trí, có ý thức về mặt tình cảm.
Nỗi nhớ biểu hiện của tình yêu khi xa cách. Nỗi nhớ ấy được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh
liệt, thường trực cả mọi lúc, khi thức cũng như khi ngủ. Những tình cảm chôn chặt trong lòng, tình cảm
tràn ngập trong tim muốn bộc lộ nhưng không thể nói lên thành lời, chỉ biết tìm đến trong nỗi nhớ mãnh
liệt, cồn cào da diết. Như những con sóng cuồn cuộn, triền miên, tận, nỗi nhớ ấy đã chảy vào từng
nhịp sống, trong cả tiềm thức là những giấc mộng đêm về. Sóng khao khát tới bờ, còn em thì khao khát
đến với anh. Tình yêu của người con gái lúc thiết tha, mãnh liệt nhưng vô cùng nữ tính, ý nh và sâu xa,
chân thành.Trái tim của người phụ nữ đang yêu không chi soi vào sóng để thấy được nét tương đồng
mà còn thông qua sóng để bộc lộ những cung bậc cảm xúc của tình yêu:
"Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức"
Xuyên suốt bài thơ vẫn là hình ảnh sóng được nhắc đến trong bài thơ hơn mười lần, mỗi lần
là một sắc thái, một cảm xúc khác nhau. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao, như lời tâm sự, bộc bạch chân
thành nhất từ cuộc đời của chính thi nhân. Nhịp thơ dồn dập với những từ ngữ trùng điệp gợi ra hình
ảnh con sóng như gối chồng lên nhau. Nỗi nhớ bờ của sóng tràn ngập không gian, "dưới lòng sâu", "trên
mặt nước", đầy ắp cả thời gian "ngày" "đêm". Nhà thơ tiếp tục sử dụng những hình ảnh tương phản,
tương xứng với nhau để làm nổi bật những trạng thái, tình cảm của người con gái trong tình yêu. Đó là
những thương nhớ khắc khoải của một tình yêu chân thành, thắm thiết. mong ước luôn được hòa
nhập, đưc sống trong tình yêu. Sóng ở đây cũng như Em có một tình yêu thật nồng nàn và thủy chung.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Bài thơ được sáng tác năm 1967, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang trong giai đoạn ác
liệt, vì vậy người ta thường hay nhắc đến sự chia ly và xa cách mà ở đó con trai, con gái ra trận với khí
thế hào hùng của cả một dân tộc. Đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh của sự xa cách, chia ly, ta mới càng
hiểu thêm đưc những nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu. Yêu và nhớ chính là hai mặt của
tình yêu. Yêu say đắm thì nhớ thiết tha. Khi phải xa cách nhau, điều đọng lại duy nhất trong con người
ta chính là nỗi nhớ. Khi yêu nỗi nhớ là thường trực canh cánh trong lòng của người đang yêu. Một trái
tim đang yêu là một tâm hồn đang nhớ. Cũng đã có không ít các nhà thơ viết về nỗi nhớ trong tình yêu
dưới nhiều phương diện biểu đạt khác nhau, đâu đó nỗi nhớ ấy như một căn bệnh mà Nguyễn Bính đã
từng viết trong bài "Tương tư": "Gió mưa là bệnh của trời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng". Hay
Xuân Diệu ông hoàng thơ tình cũng đã từng viết:- "Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh/ Anh
nhớ em, anh nhớ lắm. Em ơi!"
Với Xuân Quỳnh, có những nỗi nhớ cồn cào da diết thì chị gọi đó là những "Con sóng trên
mặt nước". Còn những nỗi nhớ phải kìm nén trong lòng không tài nào bật ra được thành tiếng chính là
"Con sóng dưới lòng sâu". Có sự đối nghịch, tương phản giữa dưới lòng sâu và trên mặt nước nhưng
giữa chúng lại vô cùng thống nhất bởi đó chính là nỗi nhớ mong trong tình yêu, luôn hướng về người
mình yêu dù có bộc bạch hay che dấu ở trong lòng. Ta cũng thấy sự độc đáo ở khổ thơ khác với những
khổ khác là khổ này có sáu câu thơ, trong khi các khổ thơ khác chỉ có bốn câu. Bởi theo thi nhân, nếu
chỉ viết một khổ gồm bốn câu có lẽ không đủ bày tỏ nỗi nhớ của người con gái trong tình yêu.
Nhịp thơ của đoạn dào dạt, hăm hở, đằm thắm nhất tựa như tiếng sóng vô hồi vô hạn thể hiện
tiếng lòng của một trái tim tràn ngập nỗi nhớ. Đó là một nỗi nhớ thường trực ngay cả khi thức, khi ngủ,
bao trùm lấy không gian, thời gian. Sóng và em nhập vào nhau để bổ sung, đắp đổi cho nhau nhằm diễn
tả sâu sắc hơn tình yêu, nỗi nhớ và sự chung thủy của người con gái khi yêu. Nỗi nhớ đi vào ngay cả
trong giấc ngủ, giấc mơ tưởng chừng như mơ hồ, ảo ảnh nhất: "Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn
thức"
Đó nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu của thi sĩ. Mạnh mẽ, mãnh liệt đến nỗi đi xuyên qua
không gian, giữa cõi thực và cõi mơ chỉ để hướng về một người mà lòng ta yêu thương. Những đòi hỏi,
khát khao hướng về người mình yêu của người con gái được bộc lộ một cách giản dị nhưng đầy xúc
động và chân thành, sóng khao khát vỗ vào b như bản thân em luôn khao khát được gần anh, dù ngay
cả trong giấc mơ, trong tiềm thức. Bởi sóng vỗ là một quy luật của tự nhiên, chừng nào sóng thôi
không còn thao thức, không còn vỗ vào bờ nghĩa là lúc đó trái tim yêu thương mới ngừng nhịp đập,
ngừng nhớ. Mượn sóng để diễn tả về nỗi nhớ nhưng có lẽ là chưa đủ, người con gái ấy phải trực tiếp
xuất hiện để bộc bạch về nỗi nhớ của mình. Người con gái ấy không kiêu kì, không cao ngạo, mà bộc
bạch những tâm tư, tình cảm của mình một cách rất tự nhiên. Nỗi nhớ ấy da diết cồn cào đến mức "cả
trong mơ còn thức", dữ dội hơn cả sóng nhớ bờ. Bởi, sóng nhớ bờ chỉ trong cõi thực, còn em nhớ đến
anh tận cả trong cõi mộng, cõi mơ. trong nỗi nhớ ấy còn là những trăn trở, lo âu của một trái tim
đầy nhạy cảm. Thức không phải chỉ để nhớ, mà còn để nâng niu, gìn giữ mọi khoảnh khắc hạnh phúc
bởi trong lòng em luôn dự cảm về sự mong manh của tình yêu. Câu chuyện của biển là thế và dường
như sẽ không bao giờ dừng lại, biển không có sóng tbiển chết, tình yêu không có nỗi nhớ cũng sẽ tàn
phai, mai một.
Tình yêu của người con gái cũng vậy, trong sáng, giản dị, thiết tha và đầy thủy chung. Đây
có lẽ là đoạn thơ hay nhất trên diễn đàn thơ Việt Nam hiện đại. Ở đây ta thấy Xuân Quỳnh vừa kết hợp
được nét truyền thống với phong cách hiện đại, tấm lòng thủy chung, tha thiết đã có từ ngàn đời nay
trong người phụ nữ Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo để thể hiện nó bằng một cách rất hiện
đại, không hề dấu diếm khát vọng tình yêu sôi nổi ấy, sự hòa nhập ấy dường như làm người đọc bị ám
ảnh, trở đi trở lại khi đọc tác phẩm này chỉ duy nhất hình ảnh sóng trong tâm trí,tác giả còn muốn
để lại ít nhất một câu hỏi trong lòng người đọc: "Liệu con sóng tới được với bờ anh nó hằng
mong ước hay không"?
Khổ thơ được viết theo thể tăng dần, cảm xúc trong thơ được đun nóng đến tận cùng dào dạt...
nóng bỏng.Phải nói rằng, trong tình yêu Xuân Quỳnh yêu hết mình, yêu cuồng nhiệt, đắm say, cháy
bỏng, nồng nàn. Nhà thơ tha thiết tắm mình trong nguồn cảm hứng vô tận này. Yêu nồng nàn như vậy
nhưng trong Xuân Quỳnh vẫn có nét dịu dàng của con gái, vẫn biết yêu đến nát tan, nhưng không vồ
vập, ồn ào như Xuân Diệu. Càng đến cuối bài thơ Xuân Quỳnh càng tỏ ra mình là một con người sâu
sắc, thủy chung. Tình yêu của Xuân Quỳnh là tình yêu từ hai phía, ở đây, nhân vật trữ tình đã có đối
tượng để hướng tới chứ không vu vơ. Hơn nữa, tình cảm, tâm hồn của nhân vật trữ tình không phải
bi quan, chán nản mà tràn đầy hy vọng.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Tình yêu đến, tình yêu mang theo một nỗi nhớ bờ đến với "Em", choáng ngợp tâm hồn
"Em". Tình yêu đã trở nên đậm đà đến thế, và nỗi nhớ lại càng da diết miên man. "Có không gian nào
dài hơn chiều dài nỗi nhớ, có một khoảng mênh mông nào sâu thẳm hơn tình yêu…". Vâng! Làm sao
đong được nỗi nhớ, làm sao đo được tình yêu! Hình tượng sóng chân đến thế có lẽ cũng bởi nghệ thuật
sắp xếp ngôn từ của tác giả, chính điều này đã giúp cho bài thơ của Xuân Quỳnh trở nên độc đáo. Đến
gần cuối bài thơ, người ta vẫn thấy các cặp hình ảnh sóng đôi, tương xứng, tương phản nhau:
"Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương"
Những câu thơ đối lập, sóng đôi nhau đuổi bắt nhau toàn bộ tác phẩm, có xuôi thì ở dưới sẽ có ngược,
có Phương Bắc ắt sẽ phải nói đến Phương Nam. Đặt sóng trong sự xuôi ngược của khoảng cách địa lí,
Xuân Quỳnh muốn khẳng định rằng, mọi khoảng cách của không gian đều vô nghĩa trước sóng và tình
yêu. Bằng việc sử dụng những cặp từ trái nghĩa, tương phản "xuôi" "ngược", "Bắc" "Nam", nhà thơ - -
phần nào diễn tả được sự xa xôi, những thử thách của hành trình tìm đến với tình yêu đích thực của một
trái tim luôn khao khát hạnh phúc đời thường. Dẫu có cách trở xa xôi, gian khó trăm bề nhưng lòng em
vẫn hưng về anh, sóng vẫn hướng về bờ Cách sắp đặt ngôn từ thế này đã tạo ra sự nhấn nhá, luyến láy,
hô ứng trong toàn bộ tác phẩm. Bởi vậy mà sóng của Xuân Quỳnh mang rất nhiều đặc điểm. Mỗi kh
thơ lại là từng đợt sóng lớn với những hình ảnh được miêu tả khác nhau. Trong từng đợt sóng ấy lại có
hàng trăm con sóng nhỏ, gối đầu lên nhau, mải miết mang khát vọng hướng về bờ anh của nó. Âm điệu
của bài thơ cũng thế mà hối hả, thể hiện thành công nỗi niềm của người con gái vào tình yêu của
chính mình. Đến khổ thơ này, hình ảnh sóng lại tách Em ra để tự bộc bạch, thổ lộ nỗi niềm, tâm sự
riêng, không hề vòng vo hay úp mở mà bộc lộ tình cảm một cách trực tiếp. Lời khẳng định "Nơi nào
em cũng nghĩ / Hướng về anh một phương" đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt, bản lĩnh bất chấp mọi
trở ngại để đến được "bờ anh" của cuộc đời mình, gắn bó thủy chung sâu nặng như quy luật muôn đời
của đất trời. Niềm tin và lòng thủy chung son sắt là nét đặc trưng trong tâm hồn của người phụ nữ Việt
Nam.Đối với Xuân Quỳnh, tình yêu thật huyền diệu! Điều đáng nói là "Em" biết chủ động, biết gửi trao
nỗi nhớ về hướng xác định: Phương anh! Phương của tình yêu: "rợp trời thương ấy mấy màu x anh
suốt, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh, mà em nghiêng hết ấy mấy về phương anh…". Tình
yêu của người phụ nữ thật mãnh liệt nhưng cũng thật trong sáng, dung dị, một tình yêu thuỷ chung và
trọn vẹn.
Nếu tình yêu là quy luật luôn tồn tại trong cuộc sống thì sự thủy chung của em chính là quy
luật của tình yêu. nỗi nhớ ấy bất chấp vạn vật, khoảnh khắc gặp nhau, giao cảm giữa hai tâm hồn
không có giới hạn. Những người đang yêu, chỉ cần hướng về nhau là sẽ có thêm động lực để bước tiếp,
để có thể sống tốt hơn:
"Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở"
Trong khổ thơ, Xuân Quỳnh sử dụng rất sáng tạo cặp hình ảnh ẩn dụ "sóng bờ" ở đây được sử dụng
rất mới mẻ dù đã được nói đến nhiều trong ca dao, thơ cũ. Nếu trong ca dao, sóng/ thuyền/ đò là ẩn dụ
cho người con trai, bờ/ bến ẩn dụ cho người con gái; thì ở đây "sóng" lại là hình ảnh của người con gái,
"bờ" là niềm hạnh phúc sum vầy. Như vậy, trong khổ thơ, ta không chỉ thấy vẻ đẹp của một tình yêu
mãnh liệt, thủy chung mà còn thấy được sự chủ động đầy mạnh mẽ của người con gái khi yêu. Trải qua
bao trắc trở gian lao, bao biến cố ngược xuôi, khó khăn gian khổ, không gian địa lí ch trở, thời
gian xa xôi nhưng lòng người con gái vẫn "hướng về anh - một phương", không bao githay đổi. Điều
đó thể hiện được sự chân thành, chung thuỷ trong tình yêu của người phụ nữ, luôn gửi tình yêu của
mình đến một người, chỉ một người thôi nhưng đầy ăm ắp. Những con sóng đại dương bão tố vùi
dập nhưng vẫn trở về với bờ, hoà nhập vào miền cát ấm nóng. Và ở đây, cô cũng tự dặn lòng mình, hứa
với tình yêu của mình sẽ đến với bờ bến hạnh phúc dù có xa xôi.
Xuân Quỳnh đã tiếp tục mạch cảm xúc của mình bằng cách trả lời câu hỏi ám ảnh trong lòng
bạn đọc mỗi khi khép lại những trang thơ của mình, đó là liệu con sóng có thể tới bờ anh của nó được
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
hay không, thì câu trả lời ở đây là: Có. Nhưng lại là một câu trả lời đầy ẩn ý của tác giả. Tình yêu lãng
mạn, bay bổng là thế nhưng theo hiện thực của cuộc sống thì phải sóng gió mới làm nên tình yêu. Khát
vọng mãnh liệt, tình yêu chân thành sâu sắc nhưng trong trái tim trẻ kia vẫn ý thức được rằng đó là th
mong manh khó giữ, có thể trơn tuột khỏi tay. Vì thế, con sóng muốn tới được bờ của thì cần phải
có nghị lực, có niềm tin vào tình yêu và chính bản thân mình để có thể vượt qua được những thử thách,
những thử thách chỉ khiến tình yêu trở nên thăng hoa hơn, mãnh liệt hơn. Chỉ cần vượt qua những khó
khăn, thử thách thì nhất định con sóng nào cũng sẽ tới được với hạnh phúc bấy lâu nó kiếm tìm.
Cũng như Xuân Quỳnh, một người đã từng trải qua sự đổ vỡ trong tình yêu, nhưng chị luôn có niềm tin
phơi phới vào tình yêu, chị tin rằng hạnh phúc sẽ đến nếu chị niềm tin vào cuộc đời này, câu thơ
cũng chính là những lời an ủi chính bản thân chị vào một tình yêu lớn hơn và con sóng nhất định sẽ tới
bờ.
Tương lai và hạnh phúc dường như vẫn đang còn ở phía trước. Ý thức về thời gian tuyến tính,
chảy trôi không vì thế làm người con gái lo sợ, ngược lại đó chính là niềm tin vào sự bất diệt của tình
yêu:
"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa"
Thời gian trôi, cuộc sống vẫn tiếp diễn với những điều bất biến thuộc về tự nhiên. Vậy chẳng có lẽ
mà tình yêu phải nằm ngoài quy luật ấy. Cuộc đời và biển lớn đều thành hữu hạn trước dòng thời gian
vô thủy vô chung, giữa không gian mênh mông vô cùng tận. Nỗi âu lo của con người khi cảm nhận sự
hữu hạn của cuộc đời và tình yêu, của một con người luôn khao khát sự dài rộng và vĩnh cửu của không
gian và thời gian. Muốn vượt qua sự hữu hạn ấy, thì tình yêu chỉ có thể hòa tan vào với thiên nhiên để
thể vĩnh cửu đến hàng vạn năm sau, những con sóng của biển vẫn ca ngợi bài hát tình yêu bất diệt
của riêng nó.
Những suy nghĩ về tình yêu thông qua hình ảnh sóng như thôi thúc tác giả có những âu lo
chính đáng, bởi có thể ngọt ngào, thiêng liêng nhưng tình yêu cũng mong manh và khó giữ. Bởi vậy mà
tác giả luôn trăn trở đến mức cảm thấy bức bối. Khổ thơ cuối đã thể hiện một cách mạnh mẽ khao khát
mãnh liệt của người phụ nữ:
"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ"
Những bức bối, day dứt, âu lo ấy được chuyển hóa thành khát vọng được dâng hiến cho tình yêu. Khát
khao của người con gái là được tan ra thành trăm ngàn những con sóng nhỏ. Là khát khao cháy bỏng
muốn được hòa nhập với tình yêu to lớn của cuộc đời, muốn hòa nhập vào cuộc sống hạnh phúc, không
phải chỉ riêng Xuân Quỳnh, người con gái mà là ước muốn của toàn thể nhân loại. Câu thơ vừa mang
sắc thái của câu hỏi, nhưng cũng vừa như một lời cầu khiến tha thiết, mong mỏi một cách đầy thành
thực. Tình yêu bé nhỏ, đơn lẻ ấy giờ đây trở thành cái vĩnh hằng, vĩnh cửu và bất diệt khi con người ta
nguyện hiến dâng, hy sinh vì nó bởi cuộc đời tươi đẹp chính là cuộc đời được sống trong tình yêu. Chỉ
một chữ "tan", Xuân Quỳnh đã thể hiện một khát khao được sống hết mình, sống mãnh liệt với tình yêu.
Mong ước ấy vừa chân thành, vừa táo bạo nhưng cũng đầy nữ tính. Tác giả muốn được vĩnh cửu hóa
tình yêu để tình yêu được sống mãi, trường tồn và bất diệt. Xuân Quỳnh đã đặt nỗi trăn trở ấy trải dài
theo những con sóng tình cảm lo âu, để rồi trở nên thôi thúc, bùng lên thành khát vọng được trở
thành những con sóng mãi trường tồn, mãi dâng lên và tìm đến bến bờ của mình.
Tình yêu sẽ trưởng thành đằm thắm hơn và sẽ vĩnh hằng trong cái đẹp của tạo hoá. Bài thơ
kết thúc rồi mà nhịp điệu êm ái, nhnhàng của tình yêu vẫn còn vương đọng đâu đây. Bài thơ thành
công không chỉ trong việc miêu tả hình tượng "Sóng" mà còn bộc lộ một tình yêu thật sôi nổi, nỗi khao
khát tình yêu của một nhà thơ nữ. Đây chính là nét mới mẻ trong thơ ca hiện đại Việt nam. Trong rất
nhiều loài hoa thì bông hoa Xuân Quỳnh toả ra một hương thơm riêng, một cách cảm nhận riêng v
sóng biển trong tình yêu. Tình yêu như con sóng mênh mang, vô tận, song cái đích cuối cùng cũng là
một tình yêu thứ nhất, vĩnh hằng mãi mãi.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Bằng cách sử dụng thể thơ năm chữ đặc trưng, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt, tác giả đã thành công
tái hiện thật sinh động âm hưởng của những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù
hợp với việc gửi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn người phụ nữ
trong tình yêu. Xuân Quỳnh đã thực sự thành công trong việc xây dựng hình tượng sóng: hình tượng
sóng trở đi trở lại với nhiều cung bậc, gợi những trạng thái cảm xúc đa dạng trong cõi lòng người con
gái đang yêu.
Với hình tượng "sóng" giàu sức biểu cảm và trên cơ sở khám phá sự tương đồng giữa "sóng"
"em", Xuân Quỳnh đã diễn tả một cách chân thực đầy đủ nhất tình yêu của một người phụ nữ
thiết tha, nồng n, chung thủy, muốn vượt lên thử thách, bão giông của cuộc đời và sự hữu hạn của
đời người để sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu ấy vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa có những
nét hiện đại. Đọc tXuân Quỳnh, ta thường bắt gặp hình ảnh con sóng, chiếc thuyền nói hộ tình yêu…
Cũng vì lẽ ấy, suy cho cùng đây chỉ là những chất liệu dung dị, bình thường nhất trong cuộc sống song
lại chứa đựng biết bao là ẩn ý, biết bao là ẩn tình mà Xuân Quỳnh muốn bày tỏ. Chúng ta đã đến với
Sóng của Xuân Quỳnh để thưởng thức từng vị thương, vị nhớ của một người phụ nữ đang yêu. Người
ta thường ví rằng tình yêu là một bông hoa kì diệu! Quả đúng như thế, tình yêu chưa bao giờ đi theo
một hướng xác định. Cũng có lúc, người ta nhìn nhận tình yêu là cây đàn muôn điệu gảy lên muôn bản
nhạc tình, có khi trầm bổng thiết tha, có khi nghẹn ngào đau đớn, cũng có khi e ấp, nũng nịu, dễ thương.
Đọc thơ Xuân Quỳnh phần nào đó ta hiểu được con người chị. Nhà thơ Võ Văn Trực cũng đã
từng nói Thành thật, đây là cốt lõi tXuân Quỳnh". Với giọng điệu hết sức tự nhiên, "Sóng" của Xuân
Quỳnh đã khéo léo thể hiện được thứ tình cảm sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Tình
yêu là thế, dù mãnh liệt, dữ dội đến mấy cũng không thể vượt qua quy luật khắc nghiệt của cuộc đời.
Nhưng không thế mà tình yêu mất đi vẻ đẹp vĩnh hằng của nó mà qua năm tháng, càng nhiều thử
thách tình yêu ấy càng lớn lên, thắm thiết, sâu sắc hơn. Dù có thể, tình yêu ấy, như những con sóng
ngoài khơi xa không thể đến được bến bờ của hôn nhân, hạnh phúc nhưng đó cũng sẽ là một ký ức, kỷ
niệm đẹp trong đời của mỗi con người. Với những giá trị sâu sắc và mới mẻ đó nên dù đã ra đời cách
đây gần 30 năm nhưng độ nồng nàn, đắm say và giá trị của Sóng vẫn không hề phai mờ trong lòng
người đọc và nó vẫn luôn là một tác phẩm có sức sống bất diệt trong lòng bạn đọc, là một bài học đầu
đời về tình yêu cho lớp trẻ đến tận ngày hôm nay.
Nguyệt Hà
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 3:
Mỗi một nhà thơ tài hoa có thể xem như là một khách đa tình như Maxim Goocki đã nói: “Thiên
tài là ái tình”. Tình yêu ở thời nào cũng có, đặc biệt là tình yêu đôi lứa luôn là đề tài muôn thuở mà
bất kỳ thời gia nào, xã hội nào cũng đều có và nó trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca nghệ
thuật. Viết về tình yêu, nếu Thế Lữ viết về “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/ Nghìn năm hồ dễ để ai
quên” với sắc điệu êm đềm, nhẹ nhàng thì đến với tiếng thơ của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một khao
khát tình yêu chân thành nhưng cũng không kém phần cháy bỏng, vừa nồng nàn lại vừa da diết. Và
“Sóng” là một tác phẩm tiêu biểu cho tài thơ và tình thơ của Xuân Quỳnh, đó là lời tụ bạch của trái
tim người phụ nữ đang yêu, là minh chứng bất diệt cho tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ.
Đến với tiếng thơ của Xuân Quỳnh – một nhà thơ suất sắc của nền văn học hiện đại Việt
Nam, ta bắt gặp những lời thơ “chín đỏ trong cảm xúc” (Tố Hữu). Cô là nhà thơ của hạnh phúc đời
thường. Thơ Xuân Quỳnh thể hiện tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa
đằm thắm, chân thành và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị, đời thường. “Sóng” là bông
hoa xinh xắn, đáng yêu bậc nhất mà Xuân Quỳnh hái được nhân chuyến đi tới vùng biển Diêm Điền
tỉnh Thái Bình năm 1967, bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. “Bài thơ Sóng là một cuộc
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
hành trình khởi đầu từ sự từ bỏ cái chật chôi, nhỏ hẹp để tùm đến một tình yêu bao la, rộng lớn, cuối
cùng là khát vọng đưc sống hết mình trong tìn yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn
thưở” – Nguyễn Đăng Suyển.
“Hình tượng trong văn học không chỉ là một thế giới sống mà còn là thế giới biết nói”, và ở
bài thơ “Sóng” ta bắt gặp hình tượng sống là sóng và hình tượng biết nói là nhân vật trữ tình em. Sóng
chính là “ẩn thân” cho cái tôi của em để rồi có lúc phân đôi để soi chiếu sự tương đồng,khi lại hòa
nhập vào nhau để ngân vang ca khúc “cộng hưởng”, bổ sung và làm nổi bật cho nhau. Trái tim người
phụ nữ chính là những con sóng, có con sóng đang lao xao ngoài biển khơi, có con thì thổn thức
muốn vỗ vào bờ, có con thì bơ vơ nơi biểm xa rộng lớnđi tìm cho mình một bến đỗ bình yên. Để rồi
từ đó, Xuân Quỳnh muốn soi sáng cái khao khát muôn đời, cái khao khát vĩnh hằng của người phụ nữ
là khi yêu với những vẻ đẹp tâm hồn thật dễ thương.
Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ khi yêu là mang trong mình những cung bậc trạng thái đối
ngược, nhưng lại rất hài hòa. Trái tim con người thường có những lý lẽ riêng, khó có thể diễn tả được
thành ngôn từ, đặc biệt, điều ấy ở người phụ nữ lại càng kín đáo hơn bao giờ hết. Và có lẽ, chỉ có thể
mới có đủ sức “gõ cửa” những bí mật trong trái tim ấy, bởi “thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi
dừng chân của tinh thần”. Vậy nên, vẻ đẹp tâm hồn đầu tiên của người phụ nữ khi yêu ta tìm được
trong “Sóng” là những cung bậc cảm xúc đối cực nhau, nhưng lại rất hài hòa, cân xứng:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Mở đầu bài thơ rất tự nhiên với các cặp tính từ trái ngược “dữ dội” với “dịu êm”, “ồn ào” với
“lặng lẽ”. Những trạng thái mâu thuẫn này, đã dẫn người đọc đi lạc vào thế giới của đại dương bao la
với những con sóng biển đang nối tiếp nhau xô bờ. Nếu sóng “dữ dội”, “ồn ào”, sóng cuồn cuộn dâng
với cường độ dao động nhanh khi biển bão tố, phong ba rồi lại nhanh hóng trở về với vẻ đẹp hiền hòa
vốn có “dịu êm”, “lặng lẽ , thì qua những cập từ đối lập này, ta lại thấy có điều gì đó như rất giống
một tâm trạng cao xuyên của ai đó khi đã “chết ở trong lòng một ít”. Phải chăng, đó là con sóng lòng -
con sóng đang dội lên những cảm xúc cồn cào, mong ngóng, đứng ngôi không yên với những nhịp
đập bất thường... Nó thể hiện hơi thở thôn thức, lỗi nhịp cho một trái tim yêu! Dường như, khi yêu trái
tim con người rung lên cùng một lúc những trạng thái đối ngược ấy phải không? Có lúc bừng lên cồn
cào, dữ dội lắm! Nhưng cũng có khi lại nhẹ nhàng, đằm thắm, mà duyên dáng vô cùng! Quả thực,
Xuân Quỳnh đã có cách nói về tình yêu thật thú vị, thật độc đáo. Xuyên suốt, từ chữ đầu tiên đến chữ
cuối cùng ở khổ thơ thứ nhất, ta không hề thấy xuất hiện một chữ “yêu” nào, mà sao trong trái tim
này, vẫn thấy rung cảm một thứ tình yêu lạ kì. Có lẽ, phải như vậy, mới làm nên sự khác biệt, làm nên
vẻ đẹp tâm hồn riêng chỉ có ở người phụ nữ.
Xuân Quỳnh đã thú nhận nó, chị trải hết lòng mình một cách thật thành thực pề những cảm
xúc hỗn loạn của một trái tim khó hiểu khi đã yêu của người phụ nữ. Đây không phải là một kết luận
Đề tình yêu, mà là sự phơi trải thành thục những trạng thái khác nhau trong tâm hồn đầy ngổn ngang,
đầy tha thiết của con người, khi họ “đã biết yêu”, đã biết rung động bề một tình yêu chân thành. Nhà
phê bình văn học Lưu Khánh Thơ (em chồng nhà thơ Xuân Quỳnh) nhận xét về thơ Xuân Quỳnh:
“Đọc thơ Xuân Quỳnh, người ta không có cảm giác như tác giả cố ý làm thơ, mà thơ chị tự nhiên, nhẹ
nhàng; là tiếng nói chân thật từ sâu trong tâm hồn chứ không cố gắng gượng ép bản thân phải sáng tác
về những triết lý khô khan”. Quả đúng là như vậy, bởi khi ta chiêm nghiệm những trạng thái đối cực
của sóng hay những cung bậc cảm xúc khác nhau của người phụ nữ, tuy là trái ngược thật đấy nhưng
sao lại nghe rất hài hòa, cân xứng. Có lẽ, liên từ “và” đã gắn kết sự trái ngược ây lại, để chúng có thể
đặt trong cùng một câu thơ mà không thấy khập khiễng.
Cái vẻ đẹp trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu đó chính là sự ý nhị, bởi dù họ có bày tỏ trực
tiếp hay có nói thật cảm xúc của mình, thì những mong muốn ẩn sâu kia vẫn luôn là điều khó nói.
ở hai câu đầu, ta thấy một thế giới thầm kín là những mong mỏi về một chốn nương náu, như cánh
chuồn chuồn bay trong nắng nôi của dông bão. Điều đó được Xuâm Quỳnh thể hiện một cách thật đặc
biệt, khi chị kín đáo đặt các trạng thái mạnh (dữ dội, ôm ào) ở đầu câu và nhẹ (dịu êm, lặng lẽ) Ở vế
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
sau như muốn khẳng định: Dù người phụ nữ có phức tạp, có khó hiểu thì điều cuối cùng họ hưng
đến tâm là một chốn bình yên. Như trong bài “Xa cách của Nguyễn Bính, cũng có nói về thứ cảm xúc
phức tạp và rắc rối nhưng lại dễ thương vô cùng!
“Nhà em cách bốn quả đồi
Cách ba ngọn suối, cách đôi cánh rừng
Nhà em xa cách quá chừng
Em Dam anh đấy, anh đừng thương em.”
Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ nên nét nữ tính là điều hiển nhiên đã có, nhưng ở Xuân Quỳnh
cũng rất táo bạo và mãnh liệt. Trải qua bao biển cố, chị nhận ra rằng, có lẽ tình yêu sẽ không đến với
những người chỉ biết đứng yên, thụ động. Nên chị mượn hành trình vươn tới biển lớn của sóng để thể
hiện một quan niệm mới mẻ trong tình yêu: Yêu là tự nhận thức, là chủ động vươn tới những điều cao
cả, rộng lớn:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
“Sông” là không gian, là môi trường tồn tại của sóng. Nhưng “sống” lại không hiểu, không thấu cảm
được nỗi lòng cũng như những mong muốn thầm kín của sóng. Bởi không gian chật hẹp của sông làm
cho sóng bị giới hạn, sóng không thể thỏa sức cùng vẫy như ở ngoài đại dương bao la. Cũng vì kín,
nên môi trường của sông dễ nhàm chán, đơn điệu. Với sức sống và khát vọng không lúc nào nguôi
ngoai, yên định, sóng quyết “tìm, “Bế” là “biển”, là biểu tượng cụ thể của không gian rộng lớn, không
của bão dông, của thách thức, của những con sóng bạc đầu. Tại đây, có thể thỏa sức vùng vẫy với
những khao khát phóng khoáng và mà tự do khảng định sức mạnh của mình vi tần số dao động mạnh
hơn.
Và khi đã mang một con sóng lòng rạo rực, một trái tim yêu nhiều cảm thì người phụ nữ cũng
không chịu sự gò bó, khuôn mẫu mà vỡ òa, phá tan rào cản, vươn lên khẳng định giá trị của bản thân
mình. Cái giá trị đó, nếu chỉ tồn tại ở không gian của sông thôi, thì sẽ không bao giờ biết đến sức
mạnh kia có thể vươn xa đến đâu! Cũng như sóng, khi “sống không hiểu nổi mình”, “sóng tìm ra tận
bể”. “Tìm ra” là chỉ sự chủ động, không chờ đợi; là sự bộc trực, bộc trực một cách mãnh liệt. Mà khi
đã quyết “tìm ra” thì phải tìm ra “tận bể” để không nhầm lẫn, không ngập ngừng, không quanh co.
duy ấy cho thấy, Xuân Quỳnh là một người phụ nữ vô cùng mãnh liệt, cháy bỏng trong tình yêu. Cách
nghĩ là cách yêu, cách thể hiện của chị cũng thật khác lạ. Chị không giấu diếm, không e dè, không
ngập ngừng.
Nếu những nhà thơ cùng thời, đã có phần nào chủ động, táo bạo, quyết liệt như cô gái trong
“Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn cũng có phần chủ động, mạnh dạn, táo bạo “sang nhà hàng
xóm” thể hiện tình yêu của mình:
“Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu”
Nhưng thật buồn, cô gái ấy đã chủ động thể hiện tình yêu, nhưng lại” thu đông” chờ người ta
ngỏ lời. Ở Xuân Quỳnh thì chị táo bạo hơn, chủ động hơn nhiều với nỗi lòng của mình. So sánh như
vậy, để ta càng thấy trâm quý hơn con sóng “tìm ra tận bể” của Xuân Quỳnh để hiểu hơn “tiếng nói -
bày tỏ trực tiếp những khao khát mãnh liệt của người phụ nữ khi yêu” trong thơ Xuân Quỳnh.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Sau hành trình “đi tìm” giá trị của tình yêu đích thực, trái tim người nữ ngưng lại thật nhiều
xúc động trước quy luật tự nhiên của sóng, sự đông ấy được thể hiện qua thám từ “Ôi” mà sự xúc -
động ấy cũng là cảm ác bất ngờ, khi Xuân Quỳnh nhận ra trong thế giới “tâm hồn” kia là một thao
khát luôn mong ngóng, luôn rạo rực một tình yêu mãnh liệt.
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau pẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Dù “ngày trước” hay “ngày sau”, hay ngàn năm sau thì sóng Dẫn hướng Để bỞ mà pới nỗi
nhớ thương dạt dào, trìu mến. Và những con sóng xa nay” pẫn cứ mãnh liệt vươn ra biển lớn để thỏa -
sức cùng pẫy cho những khát vọng của mình. Đứng trước từng lớp sóng nối tiếp nhau xô bờ, Xuân
Quỳnh rạo rực nhận ra: Sóng là chính hơi thở của đại dương, của vũ trụ bao la mà bí ẩn. Và tình yêu
chính là hơi thở của con người trong vũ trụ này. Biển thiếu sóng, khác nào biển chết, con người cũng
vậy, nếu thiếu đi tình yêu chẳng khác nào gỗ đá vô tri. Như vậy, tình yêu là khát vọng, là đích đến
cuối cùng của con người, đặc biệt là trái tim tuổi trẻ. Tình yêu, làm cho con người bồi hồi pới những
khát vọng, nồng cháy với những đam mê, khao khát đến mãnh liệt những cảm xúc loạn nhịp. Điều đó
thật dễ hiểu, bởi tuổi trẻ sinh ra là để yêu, tình yêu làm cho trái tim này phải cao xuyến, phải bồi hồi.
Hơn nữa, con người ta khi yêu, mỗi người một nỗi niềm thổn thức riêng, một nhịp đập giao hòa riêng.
Nghĩa là, cái cảm giác hạnh phúc không bao giờ lặp lại, nó luôn mới mẻ, luôn trinh nguyên, luôn có
cảm giác như lần đầu được yêu, được say đắm trong men tình vậy!
Xuân Quỳnh đứng trước những con sóng miên man xô bờ với tất cả sự say mê dâng hiến, chị
cũng ngập ngừng mà “lặng lẽ” chiêm nghiệm sự kì diệu của tình yêu. Đọc khổ thơ, ta không chỉ thấy
nhịp cỗ của sóng, mà còn thấy luôn cả tiếng nấc thổn thức trong trái tim bé bỏng này.
Tình yêu là như vậy, tự nhiên như hơi thở cần thiết như cơm ăn, nước uống 1 là tình yêu là gì
mà có sức quyến rũ đến như vậy thì chưa ai giải thích được. Làm sao có thể cảnh giác được tình yêu.
Nó đến lúc nào ta đâu có biết và nó chiếm hồn ta lúc nào đâu có hay. Trước một vấn đề khó lí giải
như vậy, em làm sao tránh khỏi băn khoăn trăn trở:
“Trước muôn trùng sóng bề
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Tự nơi nào sóng lên.”
Nếu như ở khổ thơ 1, 2 tình yêu tự giấu mình trong hình tượng sóng thì sang khổ 3,4 hình
tượng em đã xuất hiện một cách trực tiếp. Trước đại dương và những con sóng bất tận tinh suy tư, đi
tìm điểm khởi nguồn của sóng. Nhân vật trữ tình không dám khẳng định mà chỉ là phỏng đoán, hoài
nghi “Em nghĩ..., em nghĩ” về biên, về sóng, về điểm khởi nguồn của tình yêu. “Trước muôn trùng
sóng bể” của đại dương mênh mông, lớp lớp liên hồi, vô tận , thiếu nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của
sự sống, sự trường tồn của đại dương, nguyên nhân kì diệu nào mà có “sóng lên”. Rồi thiếu nữ bâng
khuâng nghĩ về mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “em” “anh”. Điệp ngừ: “Em nghĩ về…em
nghĩ về…” kết hợp với câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say
đắm, cảm xúc bâng khuâng triền miền dào dạt dâng lên. Câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên? khẳng
định sự sốt sắng, ráo riết của ngưO1 Phụ nữ đang đi lí giải, khám phá tình yêu nhưng tình yêu vốn
là 1 trạng thái tâm li đặc biệt, khoa muôn hình vạn trạng, đa sắc màu, cung bậc nên thật khó và không
thể lí giải băng khải không niệm và lí lẽ thông thường. Đã bao đôi lứa, thế hệ yêu nhau đã tự tìm
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
hiểu, cắt nghĩa về tình yêu như: Tình yêu là “Ông gì? Tình yêu bắt đầu từ đâu? Vì sao người ta yêu
nhau...? Nhưng đến nay chưa có 1 câu với ti trả lời đầy đủ hay khái niệm chung nhất cái điều mà thi sĩ
Xuân Diệu đã từng băn khoăn “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” thì nay đến lượt Xuân Quỳnh day
dứt và cố đi tìm lời giải đáp. Đại văn hào Nga Lép-tôn-xtôi đã nói: “Có bao nhiêu cái đầu thì có bấy
nhiêu cách suy nghĩ có bao nhiêu trái tim thì có bấy nhiều cách yêu đương”. Nghĩa là không có 1
chuẩn mực, khuôn mẫu nào dùng để cắt nghĩa cho tình yêu, cho trái tim.
Sự tồn tại của sóng là 1 mặc định của tạo hóa. Có đất, có trời, có biên là có sóng Vì. vậy, có
con người thì phải có tình yêu và phải truy tìm nguồn gốc của tình yêu. Câu hỏi tu từ “Từ nơi nào
sóng lên?” ở khổ 3 hỏi về sóng thì ngay sau của khổ 4 5 , câu trả lời là “Sóng bắt đầu từ gió”. Nhưng
sang khổ thơ này câu trả lời nằm giữa 2 cái hỏi, trả lời cho 2 câu hỏi, chơi với, bí ẩn. Hỏi về nguồn
gốc của “sóng” thì câu trả lời là “gió” nhưng khi hỏi về nguồn gốc của “gió”, của tình yêu thì câu trả
lời là “không biết nữa”. Câu trả lời cho cả gió và tình yêu đều bí ẩn, không thể cắt nghĩa, không có lý
là không có quy luật, mà nếu có thì là lí lẽ riêng, quy luật riêng của tình yêu:
“Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau.”
Cấu trúc câu hỏi – đáp: Hỏi trước rồi đáp sau và có chung câu trả lời là “Em cũng không biết nữa”.
Hỏi về gió thì hỏi trước đáp sau, còn hỏi về tình yêu thì đáp trước hỏi sau. Câu trả lời chung cho gió
và tình yêu nó giống như một nụ cười, vừa bối rối, vừa hạnh phúc, một cái lắc đầu nũng nịu của trái
tim em. Tình yêu đích thực thì không cần cắt nghĩa, không cần mọi lí lẽ, tình yêu luôn lớn hơn mọi lí
lẽ và bất chấp hết mọi quy luật trong cuộc đời. Người phụ nữ băn khoăn về khởi nguồn của tình yêu
và bộc bạch một cách hồn nhiên,chân thành sự bất lực không lí giải được câu hỏi muôn đời nghịch
trong tình yêu: “Em cũng không biết nữa/Khi nào ta yêu nhau”. Đây là một lời thú nhận rất dễ
thương, một cách cắt nghĩa vô vungc nữ tính, rât trực cảm. Nó xuất phát từ mọt nhận thức, một quy
luật của tự nhiên. Người phụ nữ ít khi triết lí trong tình yêu, họ yêu bằng cả trái tim luôn nồng cháy,
mãnh liệt và khám phá đến tận cùng, tuyệt đỉnh.
Tình yêu mà tìm đưc cội nguồn thì đấy không còn là tình yêu nữa. “Em cũng không biết
nữa” đó là lời thú nhận nhưng đồng thời cũng là lời bày tỏ tình cảm chân thành nhất, nồng thắm
nhất.Nữ thu sĩ đang thú nhận rằng: Mình đang yêu, yêu rất nhiều, yêu đến mức không biết nữa. Em
không biết vì sao ta yêu nhau, yêu từ bao giờ...bởi lẽ tình yêu không bao giờ có quy luật, lí lẽ mà nếu
có thì đó là 1 quy luật rất riêng, rất tuyệt vời, rất diệu kì của tình yêu. Đó là quy luật của không có quy
luật. Và tình yêu nó mạnh hơn mọi thứ lí lẽ, quy luật ở trên đời, nó giống như câu nói của Pa-scan:
“Trái tim có những quy luật riêng mà lí trí không hiệu nổi”. Lí giải được ngọn nguồn của sóng thì dễ,
bởi “Sóng bắt đầu từ gió” nhưng để hiểu “Gió bắt đầu từ đâu” thì thi nhận lại ấp úng “Em cũng không
biết nữa”. Cũng như tình yêu của anh và em nó đến rất bất ngờ và tự nhiên bởi “Tình yêu đến trong
đời không báo động.” Câu thơ “Em cũng không biết nữa” như một cái lắc đầu nhè nhẹ, bâng khuâng
và phân vân. Đến câu hỏiKhi nào ta yêu nhau thì đúng là nữ sĩ đang bâng khuâng và băn khoăn. Kì
lạ quá, diệu kì quá, em và anh yêu nhau bao giờ nhỉ? Câu hỏi này muôn đời không ai lí giải nổi nhất là
những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa.
Ngay đến Xuân Diệu người được mệnh danh là “Ông hoàng của thơ tình yêu”, một con người luôn -
khát khao giao cảm với đời, say đắm với tình yêu mà cũng bất lực:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng năng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Chính vì không thể lí giải rõ ngọn ngành nền tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho
muôn người đi tìm và khám phá. Tình yêu không có tuổi cũng như “xuân không ngày tháng”. Tình
yêu là một ẩn số giữa hai thế giới tâm hồn chứa đầy bí mật.
“Dù tin tưởng chung một đời một mộng
Anh là anh mà em vẫn là em
Có thể nào qua Vạn Lý Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.”
(“Xa cách”-Xuân Diệu)
Sóng là hình tượng xuyên suốt, đồng hành cùng hình tượng em. Hình tượng sóng không chỉ
tạo ra lớp nghĩa ẩn dụ độc đáo mà còn cho thấy cái nhìn tinh tế của Xuân Quỳnh khi nhận thấy sự
tương đồng giữa sóng và em. Phải là người nhạy cảm và có nhiều tâm tư mới có thể có những hình
dung liên tưởng thú vị đến thế. Hình tượng sóng tiếp tục được sử dụng thành công và tạo ra nhiều giá
trị nghệ thuật trong ý thơ:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước”
“Sóng” được lấy làm nhan đề cho bài thơ và cũng chính hình tượng được nhà thơ sử dụng
xuyên suốt tác phẩm. Ở đoạn thơ trên, sóng không còn là một thực thể tự nhiên mà được xem như một
sinh thể có hồn được tách ra từ lòng đại dương. Nhà thơ không gọi sóng là “ngọn sóng” hay “gợn
sóng” mà lại ưu ái gọi nó là “con sóng”. Trước hết từ “con sóng” gợi ra sự sinh động. Ngoài ra “con
sóng” còn thể hiện được, nó không phải là một hiện tượng tự nhiên cô thức mà có hồn, có tâm tư và
có tình cảm. Cách sử dụng từ ngữ độc đáo đó đã khoác lên cho hình tượng sóng ý nghĩa thật đặc biệt.
Điệp ngữ “con sóng” được lặp đi lặp lại hai lần như muốn nhấn mạnh hơn tới đối tượng được nhắc
tới. Chưa dừng lại ở đó, nhà thơ vận dụng linh hoạt phép đối “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước” tạo
nên giá trị biểu đạt cao. Hình ảnh thơ trên gợi cho chúng ta liên tưởng tới mặt nước không ngừng vận
động. Tuy nhiên, nếu chỉ như vây thì chưa đủ để “giải mã” tư tưởng mà nữ sĩ Xuân Quỳnh muốn gửi
gắm tới độc giả. Phải chăng “con sóng dưới lòng sâu” chính là ẩn dụ để chỉ nỗi lòng của em luôn
được dấu kín trong lòng. Bao nhiêulớp sóng cũng chính là bấy nhiêu nỗi nhớ được gửi gắm sâu thẳm
trong lòng. Còn con sóng trên mặt nước chính là những tình cảm có thể nhìn thấy, được biểu lộ ra.
Qua cách nói ẩn dụ đầy độc đáo như thế ta càng thấy được tài năng quan sát của Xuân Quỳnh. Nhà
thơ đứng trước biển rộng lớn mênh mông, hóa thân vào những con sóng để rồi thấy được tâm hồn
mình ở đó. Qua đó càng làm ngời sáng hơn vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Dù cất lên
thành lời hay chôn chặt trong tim thì tiếng yêu ấy vẫn một lòng một dạ hưng về anh.
Nếu như sóng ở câu thơ trên được miêu tả như một sinh thể có hôm thì hai câu thơ tiếp theo
càng khẳng định hơn cho điều đó:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Sóng không còn thẹn thùng dấu kim tình cảm nữa mà bộc lộ một cách trực tiếp. Thám từ “ội”
như một cách biểu đạt táo bạo của nhà thơ khi nói về trạng thái cảm xúc của sóng. Dường như sóng
đã cố giấu mình nhưng chính nỗi nhớ bờ khiến sóng bật lên đầy tha thiết: “Ôi con sóng nh bờ”. Sóng
và bờ là hai đối tượng một mực hướng về nhau. Động từ “nhớ” như sợi dây kết nối sóng pới bờ,
nhưng đồng thời cũng chính sợi dây ấy đã tạo ra khoảng cách giữa sóng và bờ. Hình tượng sóng được
nhân hóa và gắn cho những đặc điểm của con người. Nhưng nó sẽ càng thêm sinh động hơn khi nỗi
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
nhớ ấy được cụ thể hóa: “Ngày đêm không ngủ được” Trạng từ chỉ thời gian “ngày đêm” làm cho tính
chất nỗi nhớ được đẩy lên cao. “Ngày đêm” chính là thời gian tuần hoàn của một ngày, diễn tả nỗi
nhớ từ ngày sang đêm, tàn ngày đêm này sang ngày đêm khác. Chính cách diễn đạt đấy đã làm cho
chúng ta cảm nhận rõ hơn nỗi nhớ bờ của sóng. Đó là một nỗi nhớ thường trực, động sâu, luôn luôn
hiện hữu. Nỗi nhớ ấy cứ dâng trào mãnh liệt khiến cho sóng “không ngủ được”. Một nỗi nhớ cồn cào
đến thổn thức và đợi vong. Hình tượng sóng chính là đòn bẩy để nhà thơ gợi ra mỗi nhớ của em:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.”
Mọi sự khắc họa về hình tượng sóng cũng chỉ để hướng tới việc thể hiện tình cảm cho hình
tượng nhân vật em. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng đã từng nhận định rằng: “Văn học và cuộc
sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Dù Xuân Quỳnh có hướng tới miêu tả
hình tượng sóng nhưng cái đích cuối cùng mà nhà thơ hướng đến vẫn là con người, trái tim của người
phụ nữ. Và cũng vì thế mà “thơ là sự hiện thân cho những gì thầm kín nhất của con tim, thiêng liêng
nhất của tâm hồn con người” cũng vì lẽ đó! Nói tới hình tượng sóng chính là cách nói ẩn du để chỉ
hình tượng em. Nếu như sóng nhớ bờ đến mức “không ngủ được” thì nỗi nhớ của em dành cho anh
cũng không kém phần “thổn thức”. Nó cũng da diết như thế! Nó cũng cứ cồn cào mãi không yên! Nỗi
nhớ bồi hồi ấy cũng chính là một trong những vẻ đẹp của tình yêu. Ca dao đã từng có câu:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống rơm”
Nay trong thơ Xuân Quỳnh nỗi nhớ ấy lại được tái hiện một lần nữa. Cũng như sóng và b, em và anh
cách nhau bởi một nỗi nhớ. Nỗi nhớ chính là trạng thái cảm xúc thường trực chảy trong sâu thẳm trái
tim em s - uốt hành trình. Tới đây, hình tượng em không dấu. mình sau hình tượng sóng nữa mà trực
tiếp bộc lộ cảm xúc. Dường như nỗi nhớ ấy quá mãnh liệt khiến em không thể kìm lại mình mà bày tỏ
hết lòng mình với sóng, với biển cả bao la cà pới anh. Một nét tương đồng nữa giữa em và sóng được
nhà thơ gợi ra. Nếu như sóng nhớ bờ cả ngày lẫn đêm, thì em nhớ đến anh “cả trong mo con thức”.
Vẫn là nỗi nhớ thường trực, ông C nỗi nhớ ấy dường như được miêu tả mãnh liệt hơn. S07. được còn
em thì nhớ anh tới nỗi bị cả trong mơ cảm nho được biết rất tinh nhưng lại thể hiện được nỗi nhớ sâu
30 nhạy cảm và mang nhiều khát vọng tình yêu, Xuân Quỳnh nhớ ấy thật sâu sắc.
Nhớ thôi thì chưa đủ gia vị của tình bêu. Tình yêu sẽ càng một thiết tha hơn khi nơi đó tồn tại tấm
lòng sắt son, chung thủy:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
Vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ khi yêu không chỉ có nỗi nhớ mà. Con có tấm lòng sắt son,
một lòng một dạ với người mình yêu. Vẻ đẹp này càng làm cho hình ảnh người phụ nữ càng lung linh
lấp lánh hơn. Viết về vẻ đẹp sắt son của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương cũng đã từng viết trong bài
thơ “bánh trôi nước”:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Vẻ đẹp ấy tiếp tục được thể hiện trong thơ Xuân Quỳnh. Cũng giống như thơ Hồ Xuân Hương, vẻ đẹp
sắt son của người con gái đẹp hơn khi trải qua muôn trùng thử thách. Cặp từ trái nghĩa “xuôi” –
“ngược” gợi ra sự khó khăn, cách trẻ trong tình yêu. Chưa dừng lại ở đó, cặp từ “phương Bắc -
phương Nam” càng gợi ra sự xa xôi, cách trở hơn. Tuy nhiên dẫu cho muôn trùng ch xa, dẫu cho
khó khăn thì em vẫn một lòng một dạ hướng về anh:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
ở bất cứ không gian, thời gian nào thì tình yêu em dành cho anh vẫn luôn thường trực và
cháy bỏng. Đó vừa nét đẹp vừa là khát vọng trong tình yêu của Xuân Quỳnh nói riêng trái tim
người phụ nữ nói chung. Vốn có nhiều khát khao trong tình yêu nhưng duyên số lại đưa đẩy khiến tình
duyên của nàng thật lận đận. Những nỗi lòng ấy, nay được nhà thơ gửi trọn vào những vần thơ, bởi gi
“Thơ phát khởi từ lòng người”. Thơ dính màu cuộc đời Xuân Quỳnh, nên những vần thơ ấy càng tạo ra
sức đồng cảm lớn cho người đọc. Đứng trước sự xa xôi, muôn trùng của vũ trụ bao la, nhưng nơi
em hướng đến duy nhất vẫn chính là “phương anh”. Số từ “một” như một lời khẳng định tấm lòng sắt
son thủy chung của người con gái khi yêu. “Một lòng một dạ” với tất cả những khát vọng mãnh liệt,
người con gái luôn sống trọn vẹn với những cung bậc cảm xúc tuyệt vời. Sóng mượt hành trình xa xăm
để tìm vvới bờ còn em vượt muôn vàn cách trở để đến bên anh. Tình yêu ấy thật nồng nàn và ngọt
ngào, “Dù có những gian truân cách trở nhưng tình yêu bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng hạnh
phúc giống như con sóng nhớ đến với bờ xa”.
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Trên đại dương mênh mông có biết bao con sóng và có biết bao trắc trở nhưng trăm ngàn con
sóng vẫn cứ tới bờ. Mượn quy luật tuần hoàn của tự nhiên : sóng vỗ bờ. Khổ thơ như lời tự hát của
tình yêu. Tình yêu đẹp nhưng bản thân nó chứa biết bao khó khăn gian khổ, hãy cố gắng vượt qua, sẽ
đến được bến bờ hạnh phúc. Một niềm tin thành thật đến tuyệt đói. Cũng như cố nhân xưa thường
nói :
“Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”
Một tình yêu đẹp, một tình yêu trong sáng là những người yêu nhau phải biết cùng nhau vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, biết đấu tranh bảo vệ những ước mơ khát vọng chân chính, biết tin
tưởng vào tương lai của cuộc sống, tin tưởng vào hạnh phúc của cuộc đời. Khổ thơ còn mang đến cho
chúng ta một triết lí chung trong cuộc sống: cuộc sống không chỉ có hoa thơm và trái ngọt, có muôn
vàn khó khăn gian khổ nhưng nếu chúng ta có nghị lực, lòng quyết tâm, có niềm tin, chắc chắn chúng
ta sẽ thành công! Trên đời này không có gì là dễ dàng, đối mặt với những khó khăn gian khổ đó cũng
là ý nghĩa của cuộc sống. Có thể khi viết “Sóng”, chưa hẳn nhà thơ đã có ý định đề cập đến vấn đề
này, nhưng văn học luôn giúp cho người đọc vượt ra khỏi cái giới hạn của ngôn từ, để đồng sáng tạo
với nhà văn, nhà thơ. Đó chính là quá trình tiếp nhận văn học mà mỗi người chúng ta cần vươn tới.
Khi đọc khổ thơ này, tôi lại nhớ tới lời của một ai đó “Nếu có phải đi trên con đường cát bụi, xin hãy
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
tin hạnh phúc ở phía cuối con đường”. “Văn học là nhân học”. Văn học đã mang một ý nghĩa nhân
sinh sâu sắc là như thế. Phải chăng chính vì điều này mà sang khổ thơ thứ tám, Xuân Quỳnh lại tiếp
tục suy ngẫm.
Khát vọng hòa nhập Người phụ nữ nuôi trong mình khát vọng về một tình yêu vĩnh hằng,
khao khát sự thủy chung và hướng lòng mình tới những suy nghĩ khác về tình yêu. Giọng thơ trong
khổ thơ này có vẻ trầm xuống, để thổ lộ những nỗi lo lắng thường tình của một người đang yêu trước
sự hữu hạn của thời gian:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Nhà thơ đã sử dụng những cặp phạm trù đối lập và kiểu cấu trúc câu thơ “tuy vẫn”; “dẫu- -
vẫn” để thể hiện những triết lý về sự vĩnh hằng, trường cửu của vũ trụ bao la đối lập với sự hữu hạn
của thời gian, sự nhỏ bé của con người. Cũng giống như Xuân Diệu, Xuân Quỳnh cũng là người rất
đỗi nhạy cảm với những bước đi của thời gian và sự nhạy cảm ấy thường dẫn chị tới tâm trạng lo âu,
khắc khoải. Trong những tác phẩm khác của mình, Xuân Quỳnh đã bộc lộ khá rõ điều này:
“Tình yêu mỏng manh như màu khói
Ai biết tình anh có đổi thay?”
Thế nhưng đến với “Sóng”, Xuân Quỳnh đã vưt qua quy luật đó, để tìm thấy sự lạc quan
chính mình, chị lựa chọn lối sống tích cực, không chán nản, tuyệt vọng, sống hết mình cho mỗi phút
giây trôi qua để tình yêu không trở thành vô nghĩa, can đảm, mạnh mẽ vượt qua những bão tố phong
ba của cuộc đời. Nhận thức được sự hữu hạn của cuộc đời, Xuân Quỳnh khao khát được hóa thân, để
tình yêu của mình còn mãi:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Cái tôi cá nhân mong muốn được hóa thân, đưc tan ra thành trăm ngàn con sóng nhỏ, được
hòa vào đại dương để vĩnh viễn hát mãi khúc ca ngàn năm. “Biển” ở đây là biển lớn của tình yêu,
“sóng” là khát vọng hóa thân cho cái tôi cá nhân; “trăm ngàn” là con số ước lệ chỉ sự vô cùng, vô tận.
Nhận thức được sự hữu hạn của đời người, người phụ nữ muốn được tan mình ra trở thành những con
sóng để hòa nhập cùng với biển lớn tình yêu, khao khát về một sự đồng điệu tuyệt tích vô biên, phá
vỡ mọi giới hạn, mọi khoảng cách cách xa để sống trọn vẹn với tình yêu trong từng hơi thở nồng nàn.
Khát vọng ấy – khát vọng được sống với tình yêu vĩnh hằng của Xuân Quỳnh không chỉ xuất hiện ở
độ tuổi 25 căng tràn nhựa sống, mà sau này, khi đi qua biết bao những bão giông trong cuộc đời,
những đổ vỡ của tình yêu để đến với hạnh phúc đích thực, Xuân Quỳnh đã thổ lộ :
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Những biết yêu anh cả khi chết đi.”
Tôi cứ phân vân mãi khi đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh và cũng giật mình nhận ra trong những
năm tháng chiến tranh có một “bông hoa nở dọc chiến hào” đẹp đẽ và ngát thơm đến thế. Khát vọng
của Xuân Quỳnh thể hiện qua khổ thơ cuối này, cũng là khát vọng được hòa nhập tình yêu cá nhân
nhỏ bé của mình vào tình yêu quê hương đất nước để làm cho tình yêu ấy càng trở nên có ý nghĩa
hơn, không chỉ với bản thân mình mà còn cho tất cả mọi người.
Nếu ví nội dung của một tác phẩm như một cánh diều, thì nghệ thuật chính là phương tiện cho
nh diều ấy bay cao, bay xa. Sự thành công của “Sóng” không chỉ đến từ sự mới mẻ, hiện đại nhưng
cũng đầy những giá trị truyền thống, mà còn ở việc nhà văn xây dựng hình tượng mới mẻ (hình tượng
sóng). Thể thơ năm chữ dễ dàng diễn tả và bộc lộ cảm xúc như tiếng sóng biển xô bờ, dạt dào thật
đấy, rung cảm thật đấy và da diết nữa! Có thể nói Xuân Quỳnh đã căng mình ra trước biển khơi xa,
huy động triệt để các giác quan và kho cảm giác phong phú để tìm ra “những chữ xá đáng nhất có khả
năng lay động người đọc nhiều” nhất. Thứ ngôn ngữ đa sầu đa cảm mà giàu những triết lý của tình
yêu là tiếng nói của trái tim và cả trí tuệ sắc sảo. Những thanh âm ấy đan xen, quyện hòa tạo nên
“Sóng” làm xôn xang bao trái tim độc giả cho đến tận ngày hôm nay.
“Cá ếi k t tinh c a m i v ần thơ và mu i b
Mui lng ô n ng b ề, thơ đọ u”
Xuân Qu tỳnh đã ạo ra cho độc gi mt th i l ng trong l ng v m t t nh c m d mu ắng đọ ò ì t
dào, m t n i nh tràn qua c b ngôn t, m t n i nh m nh li t m ngay c nh ng con s ã à óng t nhiên
du c tha thió ết đến đâu cũng không th m nh li t b ng con s ng trong l ã ó òng em. Đó còn là nhng con
sóng n u s n trong tâm h n ch , ch ng d n l Xuân Qu n l n c a thi á úng đã soi đườ ối để ỳnh vươn ra biể
ca để tr thành mt nh à thơ có tên tui, có sc s ng m nh li ã ệt trên thi đàn thơ ca Việ ện đạt Nam hi i.
Đó ũ c ng là lí do m và ào năm 2001, Xuân Quỳnh đượ ải thưởc tng Gi ng Nh c và nướ văn học ngh
thut.
Nguyễn Sơn T
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Bài làm 4:
Phân tích bài thơ “ Sóng” Xuân Quỳnh
Bài làm
Đại thi hào văn học Macket đã từng nói rất hay về tình yêu: “Con bướm phải mất 180 năm mới cất cánh
bay được. Con người phải mất bằng ấy năm mới biết khóc, biết cười và biết chết cho tình yêu”. Tình
yêu là một cảm xúc đặc biệt mang đến những cảm xúc vui buồn, giận hờn.Bởi vậy mà mỗi người
nghệ sĩ lại có một cái nhìn độc đáo riêng về tình yêu. Một trong số đó phải kể đến bài thơ “ Sóng” của
nữ thi sĩ Xuân Quỳnh. Bà luôn có những rung cảm tình yêu rất đời thường mà rất riêng đến với bài thơ
“Sóng” ta bắt gặp tình yêu nóng sôi bỏng cháy, dịu dàng chân thành:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn từng nói: “ lẽ thế, thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn
bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời… Cánh chuồn bé bỏng mong manh ấy
bay ra từ những ẩn ức của một đứa trẻ côi cút, chơ vơ giữa cõi trần ai đầy bất trắc, trôi nổiđịnh này.
Nó quá nhạy cảm với bão tố, mang tin bão về, để rồi chẳng tìm đâu ra một chốn nương náu, chở che."
Quả thật Xuân Quỳnh có cuộc đời bất hạnh, luôn khát khao tình yêu, mái ấm gia đình và tình mẫu tử.
Hầu hết những sáng tác của Xuân Quỳnh đều hướng về những chủ đề như: Kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu
gia đình,… Hồn thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khát khao hạnh phúc
đời thường, bình dị nhiều âu lo, day dứt trăn trở trong tình yêu.Được sáng tác năm 1967 trong chuyến
đi thực tế tại vùng biển Diêm Điềm. Bài thơ là sự cảm nhận về tình yêu từ hình tượng sóng với tất cả
những sắc thái, cung bậc cả khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu của một tâm hồn phụ nữ luôn chân
thành, khát khao hạnh phúc. Hình tượng sóng được Xuân Quỳnh dùng xuyên suốt trong cả bài thơ
không chỉ là trung tâm mà còn mang một hình tượng ẩn dụ. Hình tượng trung tâm là hình tượng nghệ
thuật của cả bài thơ, nó giúp nói lên chủ đề tác phẩm và tư tưởng của tác giả. Ẩn dụ là một hình ảnh
mang ý nghĩa biểu tượng. Ngoài nghĩa chân thực, sóng còn là hình ảnh ẩn dụ về em. Người phụ nữ nhờ
sóng đã bộc lộ tình cảm, tâm trạng yêu thương của mình.
Hình tượng bao trùm bài thơ chính là hình ảnh sóng. Một bài thơ chân chính luôn chạm đến tâm hồn
người đọc bằng giọng điệu của nó. Người đọc chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh đã bị giọng điệu lấn át,
hay nói cách khác, giọng điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Giọng điệu của một bài thơ luôn là sự
giao hòa tuyệt đối giữa tình cảm thơ và nhịp điệu của ngôn ngữ. Vì vậy, giọng điệu chứa đựng tính chất
của cảm xúc thơ. Ẩn chứa trong âm điệu là cái hồn, cái thần của cảm xúc thơ. Vì những lý do này, điều
đầu tiên và khó nhất khi đọc thơ là nghe và hiểu giọng điệu của nó. Hình ảnh Sóng chân thực như va
đập vào trong lòng người đọc với âm điệu của tiếng sóng xuyên suốt cả bài thơ, bởi có người đã từng
nói “Một bài thơ hay, một ca khúc hay, khi nội dung ta còn chưa nắm rõ thì âm điệu đã xâm nhập hồn
ta tự bao giờ”, tiếng sóng như thôi thúc từng hồi vỗ vào lòng của người yêu văn chương bởi nhà thơ đã
sử dụng thể thơ ngũ ngôn liên hoàn giàu tính nhạc và được luân chuyển nhịp thơ rất linh hoạt, có đoạn
là nhịp 2/3:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Nhưng có đoạn lại là nhịp1/4:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Trong bài thơ có hai hình tượng trung tâm đó là hình tượng sóng và em. Sóng trước hết là một sự vật
thiên nhiên, nhưng hình ảnh này không chỉ mang nghĩa thực còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đó
không chỉ là sóng biển mà còn là sóng tình yêu trong biển khơi tâm hồn người phụ nữ. Tác giả mượn
sóng để nói lên những cung bậc cảm xúc trong lòng người con gái đang yêu. Hình tượng “em” sự
hóa thân của cái tôi Xuân Quỳnh. Nữ đã trải lòng mình trên những trang thơ, giãi bày những cảm
xúc, suy tư trong tình yêu.Sóng em vừa song song tồn tại vừa soi chiếu lẫn nhau và có lúc lại hòa
nhập vào làm một.
Đoạn thơ “Dữ dội và dịu êm….Khi nào ta yêu nhau”. Đây là những câu thơ đầu trong bài thơ “Sóng”
mà thi sĩ đã khắc họa hình tượng sóng và hình tượng em để nói lên những tiếng lòng của nhà thơ. Hai
câu thơ đầu tác giả nêu lên những trạng thái cảm xúc đối lập của sóng: lúc thì dữ dội, mạnh mẽ xô bờ
khi thì chảy trôi lững lờ, dịu êm. Đó cũng là những cảm xúc của người con gái khi yêu. Trong tình yêu,
lúc thì người con gái cuồng nhiệt, đắm say nhưng cũng có khi e ấp, dè dặt. Những trạng thái đó mâu
thuẫn nhưng lại thống nhất với nhau. Hai câu thơ trên được tổ chức theo phép đối tạo nên một cấu trúc
cân xứng, hài hòa, làm nổi bật các thuộc tính đa dạng mà nhát quán của sóng.tác giả đặt những tính từ
“dịu êm”, “lặng lẽ” ở cuối câu thơ vì đây là con sóng nữ tính. Puskin từng viếtt:
“Em bảo: "Anh đi đi"
Sao anh không đứng lại ?
Em bảo: "Anh đừng đợi"
Sao anh vội về ngay ?
Lời nói thoảng gió bay
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Mà sao anh dại thế
Không nhìn vào mắt em
Mà sao anh dại thế
Không nhìn vào mắt em
Không nhìn vào mắt sầu
Không nhìn vào mắt sâu ?”
Trong tính yêu luôn có những sắc thái đối lập, những xúc cảm riêng suy cho cùng, sau tất cả những
hỉ, nộ, ái, của cuộc đời, những trái tim ấy vẫn thuộc về trọn vẹn tâm hồn phái yếu. Chuyển đến hai
câu thơ tiếp theo, ta nhìn
thấy sự mới lạ trong tứ thơ của Xuân Quỳnh:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Phép nhân hóa đã thổi hồn vào sóng để biến nó trở thành một con người. Sóng không chấp nhận giới
hạn chật chội, khi không được sóng hiểu, khi không tìm thấy được sự đồng điệu, nó tìm ra đại dương
mênh mông. Trong tình yêu, người phụ nữ cũng không chấp nhận những gì tầm thường, chật hẹp mà
thường hướng tới những điều cao cả, lớn lao, thường muốn vươn đến những khát vọng vô bờ. Cái mở
mẻ của Xuân Quỳnh đây chính là sự chủ động của người con gái trong tình yêu. Nếu như “sông”
không thể hiểu nổi mình, “sóng” sẵn sàng tìm ra biển lớn - tìm đến vi tình yêu đích thực của đời mình.
mình. Có thể thấy rằng, đây cũng chính là một trong những nét hiện đại trong thơ Xuân Quỳnh, cũng
góc nhìn, một quan niệm mới mẻ về người phụ nữ hiện đại, dám đấu tranh tình yêu, ợt qua
những thứ lễ giáo phong kiến để đến với hạnh phúc đích thực của cuộc đời mình. Nếu như trong bài
“Hương thầm” nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn từng viết:
“Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cô gái ngượng ngùng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Bên ấy có người ngày mai đi xa”
đi qua bao thăng trầm của thời gian thì khao khát về tình yêu với tuổi trẻ luôn luôn bồi hồi, mãnh
liệt nhất. Khi nhắc đến tuổi trẻ, bao giờ nó cũng đi đôi với tình yêu, bởi chính tình yêu đã làm cho tuổi
thanh xuân của con người trở nên có ý nghĩa biết bao. Đó có thể là những rung động đầu đời, là những
cảm xúc khác lạ mà con người không tài nào lí giải nổi, lúc nó làm cho ta cảm thấy đau đớn,
nhưng vẫn luôn khát khao được nó. Tình yêu một thứ đó khó giải thích và thể minh bạch,
nhưng bao đời nay con người vẫn luôn kiếm tìm, ước ao:
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
"Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"
Trong đoạn thơ tiếp theo,tác giả thông qua quy luật của sóng để nói về quy luật của tình yêu. “Ôi con
sóng ngày xưa…Bồi hồi trong ngực trẻ”. Con sóng đã vỗ bờ từ ngàn xưa cho đến bây giờ và mãi mãi
về sau này. Đó là quy luật bất biến của tự nhiên. Tình yêu cũng vậy, trước đây, hiện nay và mãi mãi về
sau nó vẫn khơi lên những khát khao bồi hồi, rạo rực. Chừng nào còn con người trên cõi thế gian thì
chừng ấy tình yêu còn tồn tại như món quà kì diệu mà thượng đế ban tặng cho nhân loại. Tình yêu luôn
hiện hữu trong cuộc sống của mỗi người, giúp cho tâm hồn thêm nhạy cảm, tinh tế biết tin vào những
điều tốt đẹp. Với Xuân Quỳnh, tình cảm ấy những con sóng lòng từ ngàn xưa đến nay và đến tận mai -
sau vẫn không bao giờ ngừng chảy. Quá khứ của ngày xưa, tương lai của ngày sau mãi vẹn nguyên một
nỗi khát vọng bồi hồi về tình yêu trong trái tim của người phụ nữ trẻ khao khát xa xôi. Giờ đây, đứng
trước bể lớn mênh mông, cảm nhận mình nhỏ lọt thỏm trong cảm giác tình yêu mênh mông, người
con gái ấy nghĩ về bản thân mình, về người yêu, về biển lớn và tự hỏi chính bản thân mình: "Từ nơi
nào sóng lên?". Tình cảm ấy xuất phát từ nơi nào, từ chính bên trong mỗi người hay từ cuộc sống muôn
màu muôn vẻ bên ngoài? Khi yêu, ai cũng như ai, đều muốn phân tích và định nghĩa từng trạng thái
tâm lí, từng biểu hiện cụ thể để đi đến định nghĩa và giải thích về nó. Tình yêu cũng như con sóng, vẫn
vĩnh hằng với thời gian và tuổi trẻ. Xuân Diệu đã từng nói:
"Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu"
Những trạng thái đối cực của sóng gợi liên tưởng đến trạng thái khác thường vừa phong phú vừa
phức tạp trong trái tim người con gái đang yêu:
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên”
Và cũng như sóng, trái tim ấy không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn
lao có thể đồng cảm, đồng điệu với mình.Con sóng với nhịp đập vô hồi, vô tận tượng trưng cho khát
vọng tình yêu. Đó cũng là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Qua
hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hoà hợp giữa , bài thơ diễn tả tình sóngem
yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thuỷ. Từ đó thấy được tình yêu là một tình cảm cao
đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.Nghệ thuật: sử dụng phép ẩn dụ: sóng là hình tượng ẩn dụ
cho tình yêu. Sóng và cái tôi trữ tình của nhà thơ tuy hai mà một, khi phân đôi ra xưng để làm rõ em
sự tương đồng, khi hoà nhập để tạo sự âm vang, cộng hưởng.Thể thơ 5 tiếng với những dòng thơ
không ngắt nhịp, vừa mô phỏng nhịp điệu của sóng biển vừa diễn tả tinh tế những trạng thái cảm xúc
của tình yêu.Giọng thơ tha thiết, chân thành, lúc dịu dàng, đằm thắm, lúc sôi nổi, đắm say.
“Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa
chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường”. Quả đúng là
như vậy , Xuân Quỳnh là một tâm hồn sống trong tình yêu , sống bằng tình yêu ,suốt đời trăn trở tìm
kiếm một tình yêu lí tưởng. “Sóng” không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguội yên,
“Sóng” còn là một nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho thế hệ sau qua mỗi
tiếng thơ của mình. Thơ Xuân Quỳnh đã đi vào tâm hồn người đọc và làm rung động những trái tim
con người cũng bởi lẽ đó “Sóng là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách của
Xuân Quỳnh.Qua hình tượng sóng, trên cơ sở sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn
tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
và sự hữu hạn của đời người. Bài thơ cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc
lớn lao của con người.”
Khuất Phương Thảo
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
IV. Đất Nước
Bài làm 1:
“Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông
Hai tiếng “ Đất nước” nhỏ bé thôi, nhưng mỗi khi nó vang lên làm rạo rực biết bao trái tim của người
thi nhân. Chính vì thế, “Đất Nước” đã đi vào thơ ca , trở thành cảm hứng bất tận, Đất Nước trong thơ
Nguyễn Đình Thi là “ những cánh đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ
nặng phù sa” lớn lao và đẹp đẽ. Nhưng “ Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là những hình ảnh gần
gũi đến lạ, với những khía cạnh hết sức thân thuộc, bình dị thông qua bản trường ca mang tên “ Mặt
đường khát vọng” mà tiêu biểu là trích đoạn “ Đất Nước” trong chương thứ năm. Với hình tượng
trung tâm là đất nước, thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính
luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thưc, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất
nước của thế hệ trẻ trong những năm kháng chiến đầy gian khổ.
Trường ca "mặt đường khát vọng "được tác giả sáng tác và hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên vào năm
1971. Tác phẩm dường như đã mang đến sự thức tỉnh cho tuổi trẻ miền Nam vùng đô thị tạm chiếm,
thức tỉnh về sứ mệnh của thế hệ mình xuống đường đấu tranh để giải phóng đất nước.Đoạn trích “đất
nước” thuộc chương V của bản trường ca này. Đoạn trích là suy nghĩ của tác giả về đất nước được
nhìn trên nhiều khía cạnh, với tư tưởng chủ đạo "đất nước của nhân dân". Thơ của Nguyễn Khoa
Điềm giàu chất suy tư cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của một người trí thức, tích cực tham gia vào
cuộc chiến đấu của nhân dân. Có lẽ vì vậy mà tư tưởng “đất nước của nhân dân“ được nhà thơ gửi
gắm một cách sâu sắc trong đứa con tinh thần của mình.
Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là những hình ảnh gần gũi đến lạ, đó là ảnh tượng miếng trầu
miệng bà nhai, là câu chuyện cổ tích hằng đêm mẹ thường kể, là búi tóc của mẹ..... là những hình ảnh
quá đỗi bình dị, thân quen thường nhật đến lạ.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”
mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Để lý giải cho cội nguồn đất nước, Nguyễn Khoa Điềm ngay từ khi mở đầu bài thơ đã đưa ra một lời
khẳng định chắc chắn:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có từ bao giờ không ai trong chúng ta biết cả, chỉ biết rằng từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi
nhận thức được thế giới xung quanh thì đất nước đã và đang tồn tại. Mở đầu bài thơ đó là cách xưng
hô “ta” vang lên một cách tự hào. Tác giả đã đại diện cho cả một thế hệ có ý thức, có trách nhiệm đi
tìm hiểu cội nguồn của đất nước. Câu thơ được viết dưới hình thức khẳng định, kết hợp với cụm từ
“đã có rồi” thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy nghìn năm lịch sử.
Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định trong “bình ngô đại cáo”:
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
“Như nước đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Vì vậy khi ta lớn lên đất nước đã có rồi, hiện diện xung quanh chúng ta với những gì yêu thương nhất.
Bằng việc khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước, Nguyễn Khoa điềm đã mở ra không gian cổ
tích, nơi có tiếng đồng vọng về một thời xa xưa bằng một lời kể "ngày xửa ngày xưa" trong câu
chuyện cổ tích của mẹ:
“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…
mẹ thường hay kể".
Tác giả đã nhắc đến cụm từ chỉ thời gian “ngày xửa ngày xưa”. Đó là thời gian trừu tượng mơ
hồ ,không ai biết từ bao giờ chỉ biết nó đã rất xa xôi. Chắc chúng ta không còn xa lạ với cụm từ ấy
nữa. Bởi cụm từ này là mở đầu của những câu chuyện cổ tích, vẽ lên trong tìm thức của người đọc:
hình ảnh của cô Tấm bước ra từ quả thị, chàng Thạch Sanh tốt bụng cứu người, Thánh Gióng kiên
cường bất khuất ... những câu chuyện ấy đã trở thành một dòng nước mát tưới đấm lên tuổi thơ của
mỗi người. Đó là một buổi đêm thanh bình của làng quê, là tiếng võng kẽo kẹt, là âm thanh của tiếng
quạt mo đong đưa, mà dịu dàng hơn là tiếng kể chuyện cổ tích của bà, của mẹ đã đưa con vào giấc
ngủ. Những câu chuyện đó là luồng gió mát nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người. Chính vì thế nhà thơ
Lâm Thị Mỹ Dạ có viết:
Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu sa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
Đất nước là tiếng đồng vọng từ hàng nghìn năm lịch sử, nhưng để tồn tại qua ngần ấy năm thì đất
nước cũng “bắt đầu”, cũng “lớn lên” kiên cường bất khuất:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Để khẳng định nền văn hóa lâu đời của đất nước tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật đối lập “bắt
đầu” với “bây giờ”. “Bắt đầu” là quá khứ, “bây giờ” là hiện tại tạo nên mối quan hệ chặt chẽ, tạo nên
khoảng thời gian liên tục tiếp nối nhầm khẳng định tập tục ăn trầu đã có từ xa xưa và vẫn duy trì cho
đến ngày nay. “Miếng trầu là đầu câu chuyện” là biểu tượng của sự bắt đầu trọn vẹn, suôn sẻ, là vật
không thể thiếu trong bất kỳ lễ hội đình đám, lễ nghi. “Đất nước” hiện lên là ảnh to lớn kỳ vĩ nhưng
lại được cảm nhận từ một miếng trầu nhỏ bé bởi miếng trầu có vai trò ý nghĩa quan trọng trong đời
sống tinh thần của con người Việt Nam. Miếng trầu đã nhắc người đọc gợi nhớ đến một câu chuyện
được coi là cổ xưa nhất của Việt Nam “sự tích trầu cau”.Hơn nữa “miếng trầu” xuất hiện trong những
dịp lễ tết trọng đại trong thờ cúng tổ tiên. Nó cũng là sợi tơ để kết nối tình yêu đôi lứa:
“Miếng trầu ăn ngọt như đường
Đã ăn lấy quả thì thương lấy người”
Tác giả đã cảm nhận đất nước từ một hình ảnh nhỏ bé nhưng nó là hiện thân của phong tục đẹp đẽ đã
từ lâu đời của con người Việt Nam.Một đất nước chỉ thực sự vững bền khi trải qua quá trình dựng
nước và giữ nước, trải qua quá trình chiến đấu gian lao, vất vả. Với hình tượng cây tre gắn bó lâu đời
với người dân Việt Nam từ ngàn xưa:
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tác giả đã nói đến sự trưởng thành và phát triển của đất nước trải dài 4000 năm lịch sử qua nghệ thuật
ẩn dụ đất nước “lớn lên”. Tác giả đã mượn hình tượng của cây tre để nhắc nhở cho người đọc về một
truyền thống vô cùng quen thuộc đối với người dân Việt. Trong đời sống sinh hoạt, xe làm đồ dùng
gần gũi, khi có chiến tranh: cây tre chất phác giản dị ấy là biểu tượng cho tinh thần kiên cường bất
khuất của dân tộc ta. Vì thế tre được ca ngợi: tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng giữ
nước giữ mãi nhà tranh, giữ đồng lúa chín,....tre anh hùng lao động! tre anh hùng chiến đấu! Hơn nữa
hình tượng cây tre đã nhắc nhớ cho người đọc về truyền thuyết Thánh Gióng đánh đuổi giặc ân, về
quá trình bảo vệ tổ quốc. Đó cũng là truyền thống ngàn đời của dân tộc yêu nước chống ngoại xâm.
Cây tre là nhân chứng lịch sử cho biết bao trận đánh oai hùng, cho biết bao máu, nước mắt và mồ hôi
của dân tộc ta trên chặng đường gìn giữ độc lập.
Đất nước của Nguyễn Khoa điểm hiện lên với muôn vàn khía cạnh của cuộc sống đời thường. Khép
lại quá trình chiến đấu gian lao của dân tộc, tác giả tiếp tục đưa người đọc tiếp cận với những hình
ảnh vô cùng giản dị:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Tác giả đã đề cập đến một tập tục buổi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt Nam cho gọn gàng để tiện
cho lao động sản xuất, lâu dần trở thành một nét đẹp thanh lịch dịu dàng của người phụ nữ. Hình ảnh
buí tóc gọn gàng sau gáy mẹ những buổi bẻ bắp, làm nương, những ngày xay gạo nuôi quân, là hình
tượng của người phụ nữ, là hậu phương vững chắc cho gia đình. Trong ca dao cũng từng xuất hiện
hình ảnh này:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho bối rối dạ anh”
Và đó là lý do vì sao mà tình cảm vợ chồng của những con người sống
trên mảnh đất ấy lạnh nồng nàn chung thủy đến vậy:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Bằng câu ca dao thân thương “gừng cay muối mặn”, cuộc sống gia đình của những con người sống
trong đất nước hiện lên thật đẹp đẽ. Đó là gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt. Nó còn là vị
thuốc chữa bệnh cho người bình dân. Thành ngữ ấy được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ
vừa nhẹ nhàng ,vừa thấm thía. Muối tất nhiên phảimặn, gừng chắc chắn cay, chúng đều là những sự
thật hiển nhiên, những chân lý không thể thay đổi được, cũng như tình cảm thủy chung trời bể của đôi
ta, không biết đến khi nào phai nhạt. Tác giả đã lấy vị mặn của muối ,vị cay của gừng để nói đến tình
cảm thủy chung son sắt tình nghĩa vợ chồng. Đó cũng chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Chính vì thế, hình ảnh ấy không còn xa lạ trong ca dao Việt Nam:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hẵng còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Đóng lại trang thơ về những tình cảm thuỷ chung mặn nồng, Nguyễn Khoa Điềm đã mang độc giả
tiếp cận với phong tục đặt tên và cuộc sống lao động sản xuất của con người nơi đất nước:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Với quan niệm đặt tên con không bao giờ đẹp sẽ bảo vệ chúng khỏi sự hủy phá của ma quỷ, những
người làm cha làm mẹ đã mượn hình tượng cái kèo cái cột đầy thân quen. Hơn hết người Việt có
phong tục tập quán đặt tên cho con bằng những sự vật cần gũi gắn bó trong đời sống hằng ngày.Cái
kèo cái cột là biểu tượng cho sự bền vững của máy ấm gia đình mà gia đình ấy lại là những phân tử
nhỏ của xã hội. Theo người Việt xưa họ dùng cái kèo cái cột giằng vào nhau giữ cho ngôi nhà thêm
bền chặt.
Thực vậy, sự phát triển của đất nước luôn gắn liền vi sự phát triển quá
trình lao động sản xuất . Với nền văn minh lúa nước lâu đời, những người dân nơi đây “bán mặt cho
đất, bán lưng cho trời”, một nắng hai sương trải qua xay, giã ,giần ,sàng mới ra hạt gạo trắng ngần
thơm ngát:
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Qua nghệ thuật liệt kê một loạt các động từ xay ,giã ,giần ,sàng, đã diễn tả được cụ thể quá trình làm
ra hạt gạo. Hòa trong âm điệu dồn dập mạnh mẽ của quá trình lao động sản xuất là tiếng cối vang lên
đều đặn, là những giọt mồ hôi rơi trên hạt gạo trắng ngần. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ s
khó khăn vất vả. Câu thơ đã diễn tả một cách sinh động sự khó khăn, vất vả của người nông dân, khi
làm ra những hạt cơm ngọt bùi. Thấm trong từng hạt gạo nhỏ bé là vị mặn của mồ hôi, vị cay của sự
nặng nhọc và vất vả. Chính vì thế câu thơ phảng phất lời nhắn nhủ của cha ông xưa:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Câu thơ cuối vang lên ngắn gọn súc tích, kết luận và khẳng định một cách chắc chắn đất nước đã có từ
lâu đời:
Đất Nước có từ ngày đó…
Khổ thơ được viết theo cấu trúc tổng phân hợp đã làm nên chất trữ tình chính luận trong thơ của
Nguyễn Khoa điềm.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm giầu chất trữ tình chính luận. Với lối thơ vừa lãng mạn, vừa suy tư ấy, tác
giả khi cảm nhận về bản chất của đất nước cũng đem đến cho ta nhiều cảm xúc mới.:
“Đất là nơi anh đến trường
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tác giả đã sử dụng điệp cấu trúc theo khoảng định nghĩa: đất nước là, nước là, đất nước là,. Từ đó
giúp tác giả trình bày quan điểm cách nhìn cảm xúc mới mẻ về “đất nước”. Hơn thế nữa đất nước
đượcsử dụng chiết tự từ độc đáo, tách “đất nướ”c ra làm hai thành tố để định nghĩa rồi sau đó gộp lại.
Đất nước là nước, là đất, là muôn hình vạn trạng của đời sống nhân dân, và rồi lại hài hòa trong một
chỉnh thể thống nhất là tổ quốc, dân tộc. “Đất là nơi anh đến trường”: đó là không gian quen thuộc
của anh, là nơi hằng ngày anh đến trường để tiếp thu tri thức làm chủ cuộc sống gắn bó với những kỷ
niệm thời ấu thơ. “Nước” là không gian riêng tư là dòng sông em tắm mát, gợi lên ảnh thân thuộc đẹp
đẽ. Qua cách diễn giải ấy khiến cho người đọc hình dung cụ thể đất nước là nơi ta lớn lên, sinh hoạt
và học tập. Nhưng khi tách ra, đất nước lại gắn bó với những kỷ niệm riêng tư của mỗi con người.Còn
khi gộp lại đất nước là không gian chung của anh và em: nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn
trong nỗi nhớ thầm. Đất nước hòa nhập là một trở thành không gian hò hẹn là nơi chấp cánh cho tình
yêu đôi lứa. Câu thơ ấy đã phản phất trong ca dao của cha ông xưa:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai”
Hay ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm có sự gặp gỡ với những cảm nhận đầy sâu sắc của nhà thơ Phan
Thị Thanh Nhàn:
"Nếu anh đi với người yêu
Chỉ xin anh nhớ một điều nhỏ thôi
Con đường ta đã dạo chơi
Xin đừng đi với một người khác em
Hàng cây nay đã lớn lên
Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau
Hai ta ai biết vì đâu
Hai con đường sẽ xa nhau xa hoài
Nếu cùng người khác dạo chơi
Xin anh hãy tránh nẻo vui ban đầu" .
(Con đường)
Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lý giải:
"Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Câu thơ đã đưa người đọc đi theo mạch cảm xúc để đến với những không gian đất nước thân thương.
Đó là hình ảnh của con chim phượng hoàng, hình ảnh con cá ngư ông, hình ảnh hòn núi bạc, nước
biển khơi. Tất cả đều mang âm hưởng dân gian gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Đất nước
không chỉ được đo bằng chiều dài lãnh thổ mà còn được đo bằng cả khúc ca ngọt ngào, bằng sự ngân
vang của câu hát. Đất nước ta là đất của rừng vàng, là nước của biển bạc. Từ đó tác giả đã cảm nhận
không gian địa lý của đất nước là rừng vàng biển bạc ,là núi sông bờ cõi rộng lớn hùng vĩ giàu có.
Bên cạnh đó còn là niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về non sông gấm vóc quê hương, thật trù phú,
tươi đẹp, yên ả, thanh nh.
Sự trù phú giàu đẹp đó gắn liền với thời gian đằng đẵng:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Tác giả đã sử dụng thành công hai từ láy “đằng đẵng”, “mênh mông”. “ Đằng đẵng” là chỉ thời gian
dài vô tận , liên tục, bền bỉ, mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, xương máu để xây dựng, bảo vệ bờ cõi
đất nước thành dải đất hình chữ S cho nhân dân mình đoàn tụ trong yêu thương tự hào. Còn “mênh
mông” gợi lên một không gian bao la rộng lớn trù phú của rừng vàng biển bạc, của núi non bờ cõi. Từ
đó tác giả đã cảm nhận đất nước qua chiều dài thời gian và chiều rộng không gian. Không chỉ vậy đất
nước còn là nơi dân mình đoàn tụ. Cách gọi “dân mình” vang lên thật tự nhiên nhưng không kém
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
phần thân thương,trìu mến yêu quý và tự hào. Chính vì thế đất nước là không gian sinh tồn của biết
bao cộng đồng thế hệ người dân Việt:
"Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng".
Ở đoạn thơ này những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như chim, rồng, Lạc
long Quân, Âu Cơ, bọc trứng cùng tụ về trong một trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm
bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: tác giả đã nhắc đến truyền thuyết, nguồn gốc của con người Việt
Nam là được mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc tram trứng nở ra trăm con.Năm mươi con theo cha xuống biển làm
nghề chài lưới, năm mươi con theo mẹ làm nghề trồng rau, nuôi tằm. Mặc dù ở cách xa nhau nhưng
vẫn gắn bó làm tròn bổn phận với non sông đất nước. Đó là một nét đẹp tạo nên bản sắc văn hóa của
con người Việt. Để từ đó tất cả các dân tộc trong đất nước đều là anh em trong mối quan hệ ruột thịt.
Đọc khổ thơ chúng ta thấm thía một lời nhắn nhủ về tình non sông đất nước, về cội nguồn truyền
thống của ông cha ta.
Đất nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa điềm không khô khan, mà tươi rói cảm xúc. Bởi đất
nước không chỉ là sự thống nhất của c yếu tố lch sử, địa lý, văn hóa, phong tục, mà đất nước gắn
liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện, là sự tiếp nối của các thế hệ:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Qua cách sử dụng điệp ngữ kết hợp điệp cấu trúc nghệ thuật đối những “ai đã khuất” với “những ai
bây giờ” để khẳng đnh những thế hệ nối tiếp nhau. Tác giả đã liệt kê một loạt những động từ: yêu
nhau, sinh con đẻ cái, gánh vác, dặn dò,.... Từ đó nhà thơ đã cụ thể hóa những trách nhiệm, nhiệm vụ
to lớn thiêng liêng với đất nước. Đặc biệt trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng
vinh quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề của cha ôngđể lại, vừa
phải dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần, chu đáo để có thế hệ sẽ tiếp tục đưa đất nước
đi xa đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh:
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nh ngày giỗ Tổ.
Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn lập nghiệp ở bất cứ đâu. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của
mỗi chúng ta đều mang dòng máu Việt. Trong những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó
với quê hương đất nước lại trỗi dậy nồng nàn. Từ “hằng năm” mở đầu hai câu thơ đã khẳng định thời
gian lặp lại, liên tiếp. Câu thơ phảng phất lời dặn dò của cha ông ta:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Hai chữ cuối đầu trong câu thơ đong đầy sự thành kính, thiêng liêng, đem đến cảm nhận: dường như
mọi thế hệ người dân Việt, từ những ai đã khuất đến những ai bây giờ còn sống và làm việc đều im
lặng cúi đầu hướng về nguồn cội tổ tiên. Đó là truyền thống uống nước nh nguồn của dân tộc ta, một
truyền thống tốt đẹp quý báu.
Từ sự gắn bó sâu sắc của nhân dân với đất nước, nhà thơ đã phát hiện một chân lý giản dị mà sâu sắc:
đất nước là sự thống nhất của nhiều yếu tố, cái riêng và cái chung, cá nhân và cộng đồng, cái hằng
ngày và cái vĩnh hằng. Đất nước luôn có trong mỗi con người, là trách nhiệm của cả công dân đất
nước:
"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước"
Nhà thơ sóng Hồng từng nhận xét: “thơ là tình cảm, lý trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ
thuật. Tình cảm ấy và lý trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong
sáng vang lên nhạc điệu khác thường.” Qua những dòng thơ trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy
ở đó không chỉ đơn thuần là những vần thơ mà còn là tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của tác giả. Tác giả
đã gửi gắm tâm tư của mình vào đất nước, “đất nước trong anh và em hôm nay”.Đặc biệt hơn đó là
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
cách xưng hô “anh em” ngọt ngào tha thiết với một giọng thơ thủ thỉ ,tâm tình. “Bên kia sông đuống’
của Hoàng Cầm cũng đã sáng tạo ra một đối tượng như vậy để giãi bày khi nghe tin quê hương kinh
Bắc bị tàn phá:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông đuống”
Vì sao trong anh và em lại có một phần đất nước ?Đất nước có trong mỗi con người, sự gắn bó không
thể tách rời. Bởi đất nước là nơi ta sinh ra, là nơi ta lớn lên cánh bó với những kỷ niệm tuổi ấu thơ.
Đất nước nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người. Vì vậy đất nước hiện hữu trong mỗi cá nhân. Chúng ta
cũng đã gặp tư tưởng ấy trong tác phẩm “quê hương” của Giang Nam:
“Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần máu thịt của em tôi”
Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật điệp cấu trúc theo kiểu đối xứng “khi.... Đất nước...”. Từ đó
giúp tác giả có thể bộc lộ được sự cảm nhận về đất nước trong mối quan hệ toàn diện khác nhau, kết
hợp với động từ “cầm tay” được điệp lại hai lần. Khi hai người cầm tay nhau là lúc thấu hiểu được
nhau, yêu thương, san sẻ mọi khó khăn ngọt bùi với nhau. Nói cách khác khi anh và em cầm tay là đó
có sự giao thoa cảm xúc, giao thoa giữa tình yêu đất nước sự hai trái tim. Đó là mối quan hệ cá nhân
gắn bó yêu thương. Còn động từ cầm tay xuất hiện lần thứ hai thể hiện một mối quan hệ cộng đồng
dân tộc đó là sự đoàn kết thân thiết. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng tính từ “hài hòa nồng thắm” và
“vẹn tròn to lớn”, vừa thể hiện được tình cảm riêng tư lại vừa thể hiện được tình cảm lớn lao tình cảm
của đất nước của dân tộc qua nghệ thuật tăng tiến. Qua những câu thơ trên tác giả tiếp tục khám phá
những điều mới mẻ về đất nước, tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước: khi vòng tay
rộng mở, đất nước không chỉ là sự kết nối giữa cá nhân với cá nhân mà là sự kết nối giữa cộng đồng
dân tộc. Từ thế giới của anh và em nhỏ bé họ đã vượt qua để đến với cái ta chung với tình cảm hữu ái,
đoàn kết.
Sau khi nêu nhận thức về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
đã thể hiện niềm tin trọn vẹn của mình vào thế hệ tương lai, những mầm non của đất nước. Ước
về thế hệ sau, thế hệ tương lai sẽ mang đất nước đi xa, kế tục phát huy tinh hoa văn hóa nưc nhà
điều bất cứ ai cũng mong muốn:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
“Mai này” là thời gian của tương lai, “con ta” là con của tác giả hay đó là thế hệ mai sau, thế hệ tương
lai. Chỉ hai từ đó thôi đó thể hiện đưc tình cảm yêu thương trìu mến, hy vọng và tin cậy vào thế hệ
trẻ. Còn “lớn lên” là sự phát triển là sự trưởng thành cả về mặt thể chất tư tưởng và suy nghĩ. Khi
chúng lớn chúng sẽ “mang đất nước đi xa”. Động từ “mang” kết hợp với “đất nưc” khiến cho người
đọc hình dung, “Đất nước” không chỉ là khái niệm trừu tượng mơ hồ, mà đất nước trở nên hữu hình
gắn bó với bổn phận, trách nhiệm của mỗi con người. Nhưng đất nước ấy còn đi xa hơn nữa. Đó là ẩn
dụ sự phát triển của đấtớc ra thế giới ra năm châu bốn bể, để có thể sánh vai với các cường quốc.
Có lẽ cụm từ “những tháng ngày mơ mộng” được đặt ở cuối câu, thể hiện những ngày tháng tươi đẹp
hoà bình, hạnh phúc. Chắc tác giả đang nhắc nhở về trách nhiệm của thế hệ mai sau phải phát triển đất
nước, đồng thời đó là niềm tin vào tương lai tươi sáng của cả một dân tộc.
Ngoài ra, đó cũng là lời nhắc nhở về ý thức trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nước:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Giọng thơ tha thiết, sâu lắng với cách gọi “em ơi em” như một hình thức tâm tình của đôi lứa yêu
nhau tạo những lời thơ bay bổng, thấm thía mà cũng chính là lời tự nhủ, lời tự dặn mình. Nguyễn
Khoa Điềm tạo thơ hóa những vấn đề chính trị, khiến cho tính chính luận không hề khô khan, không
còn mang màu sắc giáo huấn mà là lời tự nhủ, tự dặn chân thành xuất phát từ trái tim. Tác giả lại đưa
ra những cảm nhận u sắc, mới mẻ về đất nước trong câu thơ: “đất nước là máu xương của mình”.
Có những tượng đài bất tử về đất nước xuất hiện trong thi ca nhưng khi nói đất nước về đời người thì
có lẽ chỉ có Nguyễn Khoa Điềm. “Máu, xương” là hai thành tố không thể thiếu trong sự sống của mỗi
con người. Như vậy đất nước gắn bó máu thịt, đất nước có vai trò ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá
nhân. Bởi như Chế Lan Viên đã từng viết:
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như cha mẹ ta như v như chồng
Tiếp đến tác giả đã nhấn mạnh khắc sâu và ý thức và trọng trách của mỗi con người qua điệp cấu trúc
câu cầu khiến kết hợp với điệp ngữ “phải biết”. Tác giả đã liệt kê một loạt các động từ mạnh theo
chiều tăng tiến: gắn bó, san sẻ, hóa thân. “Gắn bó” là chúng ta phải dành cho đất nước một tình yêu
tha thiết sâu nặng và chung thủy. Còn “san sẻ” là mỗi người phải biết chia sẻ gánh vác trách nhiệm
với sự khó khăn của đấtớc. Phần cuối cùng “hóa than” là mức độ cao nhất, sẵn sàng hy sinh, dâng
hiến tuổi xuân để làm nên mùa xuân của đất nước . Đúng như trong lời ca của Trương Quốc Khánh:
“Là người tôi nguyện chết cho quê hương”
Từ đó lời thơ như từng đợt sóng xô vào lòng người đọc, từng đợt từng đợt, để khắcu trách nhiệm
của mỗi cá nhân vi đất nước. Tác giả đã viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết khiến cho lời thơ thấm
thía đi vào lòng người đọc không b khô khan, cứng nhắc. Từ đó nhà thơ nhắc nhở mỗi con người
phải biết góp sức mình để làm nên sự trường tồn của đất nước. Đặt trong hoàn cảnh khi bài thơ ra đời,
đoạn thơ có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, động viên khơi dậy tinh thần trách nhiệm, đặc biệt là thế
hệ trẻ cùng cống hiến cho đất nước. Tới đây, ta chợt nhớ đến tình cảm của Xuân Diệu, một tình yêu tổ
quốc đến tột cùng tồn tại nơi " dòng huyết chảy":
Tình yêu tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảy
Nguyễn Khoa điềm đã có một sự phát hiện và đóng góp mới mẻ vào tư tưởng đất nước của nhân dân:
tư tưởng đất nước của nhân dân trên bình diện địa lý không gian. Nhà thơ đã gửi ánh nhìn của mình
vào tất cả các danh lam thắng cảnh của đất nước, mà mỗi địa danh đều có những câu chuyện riêng,
những tâm hồn riêng:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê một loạt các địa danh: núi Vọng Phu, hòn trống mái, đất tổ Hùng
Vương, ông đốc, ông Trang, bà đen, ba điểm,. Tất cả những địa danh ấy được sắp xếp từ Bắc xuống
Nam, được liệt kê một cách dày đặc. Tất cả đều là những địa danh nổi tiếng, những cảnh đẹp, những
kỳ quan thiên nhiên của đất nước. Từ đó tác giả đã vẽ lên một bức tranh khiến cho đoạn thơ như một
bản đồ địa lý giúp người đọc hình dung được sự rộng lớn, giàu đẹp của đất nước. Từ đó thể hiện niềm
tự hào của tác giả, đặt trong bối cảnh đế quốc Mỹ đang tìm cách xâm lược và chia rẽ nước ta, đoạn
thơ còn có ý nghĩa khẳng định về sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Không chỉ thế tác giả còn sử dụng
điệp từ “góp” đến bảy lần, nhằm nhấn mạnh được vai trò tầm quan trọng của người dân bình thường
trong việc hình thành nên dáng núi hình song, diện mạo hình hài của đất nước. Có lẽ thông thường
các danh lam thắng cảnh là do bàn tay của kiến tạo tự nhiên. Nhưng trong thơ của Nguyễn Khoa
Điềm, từ thời ông cha ta đã phủ lên những danh lam thắng cảnh ấy, những câu chuyện huyền thoại.
Chính cuộc đời số phận của người dân đã tạo nên danh lam thắng cảnh, và tư tưởng ấy được phát triển
một cách đọc viết trong thơ của Nguyễn Khoa điềm:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Núi Vọng Phu, hòn trống mái không chỉ là những địa danh góp nét đẹp cho dáng núi, hình sông mà
chúng tự bao giờ đã hóa thành những câu chuyện trong thơĐNguyễn Khoa điềm: hình ảnh người vợ
chờ chồng đến hoa đá tạo thành núi Vọng Phu ở lạng Sơn, câu chuyện những cặp vợ chồng yêu nhau
làm nên hòn trống mái, làm nên đất nước nồng thắm, nhân tình. Đó là truyền thống thủy chung tình
nghĩa son sắt vợ chồng.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Trong thơ Nguyễn Khoa điềm, đất nước còn hiện lên cùng những truyền thuyết những hình ảnh của
người anh hùng Việt Nam:
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Hai câu thơ đã giúp chúng ta liên tưởng đến khí phách của con người Việt Nam: got ngựa Thánh
Gióng, chín mươi chín con voi. Hình ảnh thấm đậm tinh thần yêu nước đã được tác giả sử dụng kết
hợp với các động từ: đi qua, để lại, góp mình tạo nên một nét tự hào rất riêng, rất thiêng liêng, sông
núi, về khí phách, và sức mạnh đậm chất Việt Nam và tự hào cả và truyền thống văn hóa. Đó là truyền
thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc ân, gota ngựa sắt để lại ao đầm. Đây là truyền thống yêu
nước chống ngoại xâm từ hàng ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, câu thơ thứ hai đã
gọi lên một huyền thoại: xung quanh ngọn núi hy Cương nơi có các đền thờ vua hùng có chin chín
ngọt đồi. Đó là chín mươi chín con voi quây quần chầu mình về đất tổ. Đây là truyền thống uống
nước nhớ nguồn, luôn hướng về nguồn cội với một tấm lòng thành kính thiêng liêng.
Tiếp đến tác giả đã nhắc về một truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam:
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Nguyễn Khoa điềm đã khéo léo nhắc lại thời sự tích của tháp Bút, non Nghiên, nhắc lại người học cho
nghèo nên núi Bút, non Nghiên để làm rõ truyền thống hiếu học truyền thống văn hiến lâu đời của dân
tộc. Đó là biểu tượng của vẻ đẹp trí tuệ, đạo đức và cả đời sống tâm linh của con người Việt Nam.
Con cóc con gà những con vật tưởng chừng như nhỏ bé, bình thường này cũng góp một phần hồn cho
vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của đất nước. Và từ bao giờ trên đất nước ta mọc lên vô vài ngọn núi mang
tên bà Đen, bà Điểm, ông Trang, ông đốc hay mang tên của những người dân khác nữa đó là những
con người hòa thân tạo nên đất nước hôm nay:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Đoạn thơ được viết theo kết cấu quy nạp làm nổi bật chất trữ tình trong thơ chính luận của Nguyễn
Khoa điềm. Câu thơ thứ nhất dường như khái quát về mặt không gian đó là tất cả mọi nơi trên đất
nước. Dù đi về đâu ta cũng có thể thấy được những cuộc đời đã hóa núi sông, mỗi nơi đều là một địa
chỉ văn hóa được tạo nên bởi nhân dân. Qua nghệ thuật liệt kê kết hợp với điệp từ một tác giả đã
khẳng định tất cả mọi nơi đều có sự hiện hữu của nhân dân.Tiếp đến thán từ “ôi” đã vang lên thể hiện
một tình cảm trào dâng mãnh liệt không thể kìm nén được mà bật lên thành lời. Bởi có lẽ đây là niềm
tự hào khi đất nước đã trải qua một thời gian lịch sử dân tộc vô cùng dài: bốn ngàn năm:
“Hỡi sông Hồng khúc hát bốn ngàn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng
Có lẽ tác giả đã khẳng định chính cuộc đời, số phận, tính cách, tâm hồn của nhân dân đã làm nên đất
nước. Đó là sự hóa thân là sự góp hồn cho những địa danh đưa chúng vào đời sống dân tộc tự bao giờ.
Sau khi bày tỏ những suy tư về quan điểm đất nước của nhân dân thì nhà thơ tiếp tục nhìn vào chiều
dài lịch sử trong bốn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đầy niềm tự hào, hạnh phúc. Ở chín
câu thơ tiếp theo, nhà thơ nhấn mạnh từ những con người vô danh, không tên, không tuổi nhưng đã
tạo dựng nên đất nước bình yên như hôm nay:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã sử dụng loại gọi đầy tâm tình “em ơi em” như đi vào cảm xúc của tất cả
mọi người. Em là nhân vật trữ tình không xác định, có thể hiểu đây là sự phân thân của tác giả thể độc
thoại với chính mình. Nhà thơ đang nhìn vào lịch sử bốn nămtự hào về những cô gái, chàng trai
xung phong ra mặt trận mặt thời nào cũng có. Năm tháng nào cũng người người “lớp lớp” ấy là minh
chứng cho những cũng hiến trực tiếp của biết bao thế hệ đi trước, những con người bình dị, vô danh,
những tuổi thanh xuân kiên cường, anh dũng.
Cụm từ chỉ thời gian không xác định "năm tháng nào" kết hợp với từ "lớp lớp" chỉ số nhiều,
các danh từ chung "con gái, con trai" tạo nên những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi cảm. Nhân
dân các thế hệ từ lớp này đến lớp khác đã nối tiếp nhau đứng lên giữ gìn quê hương, xứ sở bằng mồ
hôi, công sức và xương máu của mình:
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Câu thơ ấy khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của những người phụ nữ kiên cường , dũng cảm
thời kháng chiến. Đó là Hai bà Trưng đã vùng lên đập tan chính quyền đô hộ của nhà Đông Hán, hay
bà Triệu đã đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn,..đó cũng có thể là chị Võ Thị Sáu nữ anh h- ùng
lực lượng vũ trang trẻ nhất,… Nhưng khi thời bình, họ lại là những người phụ nữ âm thầm, lặng l
làm hậu phương vững chắc cho chiến sĩ ngoài mặt trận. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước,
nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của
những con người vô danh:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước: "Họ giữ và truyền
cho ta hạt lúa ta trồng". Trong hạt lúa bé nhỏ ấy có mồ hôi công sức lao động của những người nông
dân vất vả dãi dầu một nắng hai sương, có sự kết tinh của Đất và Nước, của bão giông, nắng lửa.
Không chỉ thế, trong hạt gạo nhỏ bé ấy còn là mồ hôi, nước mắt và cả những sự hi sinh thầm lặng cho
lao động. Đất Nước ấy hiện lên là đất nước của lao động sản xuất, của những con người cần cù, chịu
khó, của những cánh đồng lúa bao la, rộng lớn: "Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu
trời đẹp hơn/Cánh cò bay lả dập dờn/ Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều". Nhân dân đã gữ và
truyền cho ta những nét đẹp trong lao động và văn hoá như thế. Hơn hết họ còn “chuyền lửa qua mỗi
ngôi nhà”, “ từ hòn than qua con cúi”. Họ chính là những người gìn giữ ngọn lửa nồng đượm hơi ấm
của tình làng nghĩa xóm. Câu thơ ấy dường như chứa đầy sự suy ngẫm, sự trải nghiệm về vai trò của
nhân dân ẩn sâu trong từng câu chữ. Tất cả đều làm nên một truyền thống quý báu của dân tộc. Đó là
truyền thống hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau được hình thành từ ngàn đời xưa.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Nhân dân còn “ truyền giọng điệu cho con mình tập nói”. Theo dòng chảy không ngừng của
thời gian, ông bà, cha mẹ đã truyền cho con tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc. Bởi ngôn ngữ là một tài sản
vô giá của một quốc gia. Nó là vật báu, là tiếng nói tâm hồn, là kết quả của quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Đó là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước: Trong một nghìn
năm nhân dân ta sống dưới thời Bắc thuộc, Trung Quốc luôn tìm cách đồng hóa dân tộc ta. Nhưng với
ý thức và lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nhân dân ta vẫn giữ được ngôn ngữ, tiếng nói của dân tộc mình.
Có thể nói, tiếng nói là tấm lụa bạch hứng vong hồn của biết bao thế hệ đã qua, là tiếng nói tinh thần,
tâm hồn của ông cha ta từ ngàn đời truyền lại cho con cháu. Tiếng Việt của ta rất giàu và đẹp "tiếng
tha thiết nói thường nghe như hát/ Kể mọi điều ríu rít bằng âm thanh". Những người mẹ truyền giọng
điệu mình cho con tập nói cũng là truyền cho con tình yêu với ngôn ngữ, văn hóa, bản sắc dân
tộc .Từng ngôn từ, câu chữTiếng Việt đã tạo nên sự gắn kết của cả một cộng đồng quốc gia, dân tộc:
"Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối
chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời”. Không có nhân dân, đất nước ta
không thể có kho tàng ngôn ngữ diệu kì đến thế.
Nhân dân còn là người "gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân". Câu thơ gợi nhắc lại
những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt trong công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước. Họ đã phát bờ, mở cõi, khai hoang, lấn biển để dựng xây phát triển đất nước như ngày hôm nay.
Không chỉ là gìn giữ, xây dựng đất nước, mà những con người tưởng chừng như bình dị ấy lại
ngày đêm chống ngoại xâm và diệt nội thù:
"Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại"
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh đầy đau thương và anh dũng “ Từ Triệu Đinh Lí
Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Chính
vì thế, điệp từ “ có… thì” đã cho thấy một sự tự nguyện dâng hiến cả tuổi xuân để làm nên mùa xuân
của đất nước. Họ hết mình ra trận vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Từ “ họ” được lạp lại nhiều lần
đứng ở những đầu câu thơ đã khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân trong lịch sử, và gợp lên
những lớp người nối tiếp thay nhau lao động, xây dựng và bảo vệ giữ gìn độc lập dân tộc.
Tất cả đều khép lại trong mạch cảm xúc trào dâng, tất cả đã minh chứng cho một chân lí mà Nguyễn
Khoa Điềm đã khám phá:
"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".
Hai câu thơ là định nghĩa về đất nước giản dị mà sâu sắc. Những cảm xúc, suy ngẫm của nhà
thơ cứ dồn tự dần để rồi cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi: "Đất Nước này là Đất
Nước Nhân dân" vì nhân dân là người chiến đấu, xây dựng, bảo vệ đất nước này bằng mồ hôi, xương
máu của mình. Không có nhân dân sẽ không có phong tục, tập quán, truyền thống, lối sống nghĩa tình,
thủy chung, cao đẹp . Chính những người dân bình thường ấy đã làm nên một đất nước thấm đẫm bản
sắc văn hoá dân tộc: Yêu nước, cần cù, hiếu học, chung thuỷ,… Hơn nữa đất nước của “ ca dao thần
thoại” bởi chính nhân dân đã phản ánh đời tư, tình cảm, lưu giữ tiếng nói tâm hồn qua những sáng tác
biến động thăng trầm của lịch sử.
Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn
Việt ,của bản sắc văn hóa đất nước:
"Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"...
Ca dao có câu:
"Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru".
Nguyễn Khoa Điềm đã viết thật dung dị : "Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi" để ca ngợi
tinh thần say đắm trong tình yêu của người dân Việt. Người Việt "Đã yêu, yêu đến tận cùng/ Đã
thương thương đến nát lòng vì nhau". Họ biết quý trọng những sản phẩm của lao động, của những khó
khăn vất vả. Đối với người dân Việt, công sức, tình nga mà con người dành cho nhau còn quý giá
hơn vàng. Đó cũng là một nét đẹp trong tinh thần dân tộc.Hơn hết, họ có lòng kiên nhẫn, “ trồng tre
đợi ngày thành gậy”. Họ luôn nung nấu ý chí kiên cường, bất khuất để đánh đuổi kẻ thù xâm lược
giành lại bờ cõi nước Việt : “ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Tất cả đã khép lại, đó là vẻ đẹp của dòng sông và câu hát:
Ôi những dòng sông bắtớc từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.
Đó là vẻ đẹp hiền hoà, thơ mộng. Một đất nước mang vẻ toàn diện làm xiêu lòng người: Đó là một
dòng sông vĩnh cửu, vô tận chảy xuyên lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Nó đã và đang và
vẫn sẽ chảy dọc theo hành trình phát triển của đất nước. Dòng sông luôn luân chuyển để chứng kiến
sự tồn tại, hưng thịnh để góp phần tô đẹp trên bức tranh toàn cảnh đất nước. Để rồi nó làm nền cho
hình ảnh con người lao động với tiếng hát cất lên đầy lạc quan, yêu đời âm vang những mài sắc văn
hoá của Việt Nam, khiến nao nức trái tim của mỗi độc giả.
Hay như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì
không có lịch sử dân tộc”. Đúng là như vậy, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm khép lại, nhưng âm
vang của lịch sử hào hùng, của vẻ đẹp bình dị, đỗi quen thuộc vẫn trở thành một điểm sáng, một nốt
nhạc du dương thức tỉnh mỗi thế hệ trẻ về trách nhiệm cao cả đối với đất nước và khẳng định một
quan niệm mới mẻ “ Đât nước của nhân dân” được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện : lịch
sử, địa lý, văn hoá,..Từ Đất Nước được lặp lại nhiều lần và viết hoa ,giọng thơ tâm tình, tha thiết trầm
lắng góp phần thể hiện chủ đề đất nước trong bút pháp chính luận trữ tình. Nhà thơ đã vận dụng vốn
ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca
dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của
toàn bài để từ đó khẳng định: Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu. Hơn hết,thành công nghệ
thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư
duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân
gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự
bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ
qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do.
Sự đời thương hải tang điền , rồi một ngày kia dòng sông năm tháng sẽ cuốn trôi đi tất cả
những thành quách ,lâu đài , những kì quan của tạo hóa . Nhưng những gì là giá trị đích thực thì vẫn
còn mãi với tháng năm . Cũng như những vẻ đẹp của “ Đất Nước” trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm
sẽ sống mãi trong hành trình phát triển của nhân loại. Nó sẽ như một nốt nhạc du dương trong bản
tình ca để nhắc nhở thế hệ trẻ phải biết gìn giữ và nâng niu những giá trị mà cha ông ta để lại.
-Trợ giảng lớp văn thầy Nhật : Nguyễn Diệu Linh-
Bài làm 2:
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con
người. Đất ớc đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca
mượt những vần thơ sâu lắng, thiết tha rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp mt
hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi
đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một
cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy
đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ
kết hợp giữa những cảm xúc và suy tư, cảm hứng trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức,
tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng
chiến chống Mĩ cứu nước.
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ trong nền thơ ca kháng chiến chống Mỹ cứu nước cùng
thời với Trần Đăng Khoa, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật… Thơ của Nguyễn Khoa
Điềm lấy chất liệu từ văn học Việt Nam và cảm hứng từ quê hương, con người, và tình thần chiến đấu
của người chiến sĩ Việt Nam yêu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy
sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam. Trong kháng chiến chống Mỹ, thơ
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ được những vẻ đẹp của con người nước ta và bản chất anh hùng
bất khuất của chiến Việt Nam, vì thế, thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính
luận. Chúng ta đều biết tới những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khoa Điềm như: Đất ngoại ô (1973),
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986),…. Và Đất nước cũng là một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong
lòng bạn đọc Trong hoàn cảnh những vùng đô thị tạm chiếm miền Nam, có một số thanh niên quên đi
nỗi nhục mất nước không phân biệt được đất nước là gì, đang sống vì ai và cho ai, xu hướng lãng quên
và vùi mình trong rượu và ma túy. Ngược lại cũng có nhiều phong trào đấu tranh xuống đường và đòi
giải phóng quê hương. Nằm trong bối cảnh đó , những phong trào như “Tôi hát cho đồng bào tôi nghe”,
những bài thơ, bài hát được ra đời, “trường ca mặt đường khát vọng” cũng nằm trong dòng chảy đó, tác
phẩm viết về sự thức tỉnh cho thanh niên ở vùng tạm chiếm miền nam về non sông đất nước.Từ đó xác
định cho mình sứ mệnh và ý thức về thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa mình vào cuộc chiến đấu
chung trước Mỹ của dân tộc.
Trích đoạn đất nước được xem như phần hay nhất của thơ văn hiện đại.Nét mới mẻ làm
nên thành công trong bài đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là sức người sức của mà còn
tinh thần trong công cuộc đấu tranh, bài thơ là sự thức tỉnh tuổi trẻ về non sông đất nước.Trong bề dày
của lịch sử văn học Việt Nam chúng ta cũng đã từng có những khúc hùng ca như “Nam Quốc Sơn Hà”
hay “Bình Ngô Đại Cáo”, những áng thơ ca ngợi về vẻ đẹp non sông như chùm thơ Thu của Nguyễn
Khuyến hay Hương Sơn phong cảnh ca của Chu Mạnh Trinh.Hay trong thơ ca hiện đại ta có Việt Bắc-
Tố Hữu hay đất nước của Nguyễn Đình Thi…Ta có thể sử dụng những tác phẩm để đối chiếu để bài
viết trở nên sâu sắc hơn. Khi người trẻ hiểu được đất nước là gì, thế nào là tình yêu đất nước, thế hệ trẻ
sẽ có sự chuyển biến tích cực và hướng tới.
Bài tĐất nước lấy cảm hứng chủ yếu xoay quanh những câu hỏi : Đất nước là gì? Đất nước
có từ bao giờ? Và do ai làm nên? Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm
tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà chính là những gì rất gần gũi,
thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình trong câu chuyện cổ
tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ … một đất nước Việt Nam
bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống
quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm
đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc. Đất nước đã tồn tại từ rất xa xưa, rất lâu, cũng đã có trong mỗi chúng
ta. 7 câu thơ sau là bằng chứng lí giải đất nước có từ bao giờ? Nhà thơ lần lượt minh chứng. Ngày xửa
ngày xưa là cụm từ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích thần kỳ. Theo cách cảm nhận của tác giả đất
nước khởi nguồn từ trong những câu chuyện cổ tích, hiểu rộng ra đó là khát vọng, ước mơ, phẩm chất
đẹp của ngưi Việt Nam ( Tấm Cám , Thạch Sanh, Cây tre trăm đốt,…v…v) như kiên trì dũng cảm,
giàu tình nhân ái. Đất nước không đâu xa ngay trong những ước vọng, phẩm chất của con người Việt
Nam chúng ta. Câu thơ “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự
tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm,
tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung. Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác gicòn gợi lại
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
những phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua Hùng dựng nước
và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre
đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen
thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Như vậy, thể thấy rằng Đất Nước hình thành từ nền tảng tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế
nhưng Đất Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, được lòng dũng cảm,
kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi tnhững u chuyện cổ tích, những truyền
thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ
tục.
Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc
tròn, thấp sau gáy của c bà, các mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương
Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca
Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững
sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại
diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng
lại càng trở nên thương yêu và gắn kết bền chặt với nhau hơn. Chưa dừng lại ở đó, Đất Nước có từ rất
lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong cuộc sống đời
thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ
nhân dân ta đã bắt đầu chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng
cho mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, ng”, ta cũng thấy được từ chỗ nhân
dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh, thì người Việt Nam đã bắt đầu
biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống.
Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại
bằng câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày
chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là ngày con người
Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua
các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi,
thân thuộc và bình dị, để lại trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình tượng Đất
Nước ở câu hỏi “Đất c là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo cách của các nhà khoa học
là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự, tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và
“Nước” để mà định nghĩa, giúp người đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm
Đất Nước.Về phương diện địa lý, Nguyễn Khoa Điềm ví ““Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em
tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời thường. Rồi “Đất Nước
là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.Tác giả đã hợp hai thành
tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và
Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Nước trở thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế “Đất là
nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc...
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên
ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng v
kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự
mênh mông, rộng lớn của biển khơi.Và cuối cùng dù đi đâu về đâu thì phượng hoàng cũng phải về núi,
ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất ớc.
Như vậy có thể tóm gọn lại Đất Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nh ngày giỗ Tổ”
Về phương diện thời gian, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng một cái nhìn bao
quát suốt chiều dài lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước
thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống
nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời, Nguyễn Khoa Điềm còn gợi nhắc về
truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều
đại vua Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha thiết, phải
biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ gìn non sông gấm vóc, và luôn
nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính, trân trọng.
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con
người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp
vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước nơi ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con
người phải trách nhiệm xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng
thắm”. Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”, phải nối
vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên một “đất nước vẹn trong to
lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương
đùm bọc lẫn nhau.
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ
vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu
cho cả dân tộc cả Đất Nước. Con sẽ đưa Đất Nước đi xa, sánh vai cùng với các cường quốc trên thế
giới, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp vững mạnh gấp nhiều lần hôm nay. Sau khi đã định nghĩa một
cách rõ ràng Đất Nước cả về không gian và thời gian, cả về địa lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm
đã chốt lại bằng những câu thơ rất tha thiết về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước:
“Em ơi em Đất Nưc là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Lời thơ như là lời tâm tình của người anh với người em, lời tâm tình của chàng trai đối với một người
con gái,là lời lay tỉnh của nhà thơ, của thế hệ trước với thế hệ sau, cũng là lời lay tỉnh của cách mạng
đối với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, những con người đang ngủ quên trong cuộc sống
hưởng thụ. Đất Nước là một khái niệm trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh “máu
xương của mình” thì đó lại là một khái niệm cụ thể, hữu hình. Đây cũng phần nối tiếp trong ý thơ
“trong anh em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, thì ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ rõ Đất
Nước là máu xương của mỗi con người, đã là phần căn cơ cốt yếu trong mỗi cá nhân, ai cũng phải có.
Điệp từ “phải biết” là biểu hiện của một mệnh lệnh, xác định trách nhiệm cho mỗi người, yêu nước
không phải là một khái niệm chung chung, một tư tưởng trừu tượng mà yêu nước phải thực hiện bằng
hành động. Mỗi con người cần phải biết “gắn bó san sẻ”, đặc biệt phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ
sở”, dâng cả sự sống, thanh xuân cho Đất Nước, coi trọng Đất Nước hơn cả hạnh phúc riêng của bản
thân mình.
Sau những dòng thơ nêu nên sự hình thành phát triển của Đất Nước tNguyễn Khoa Điềm
bắt đầu đi vào nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, bằng cách đi trả lời cho câu hỏi Đất Nước
do ai làm nên:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Trên phương diện không gian địa lý, tác giả đã cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng
cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ. Đặc biệt những
địa danh này vốn đã trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam và gắn liền với những cổ tích, những
thần thoại trong văn hóa dân tộc, mục đích để gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương,
đất nước. Không chỉ vậy, sâu xa hơn nữa việc Nguyễn Khoa Điềm liệt kê các địa danh như vậy cũng
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
nhằm kể tên các vùng đất tương ứng trên dải đất hình chữ S, ví như “núi Vọng Phu” ngự ở Lạng Sơn,
và còn ở rất nhiều nơi khác, gợi nhắc về hình ảnh những người vợ ch chồng đi đánh giặc trên khắp Tổ
quốc. Rồi “hòn Trống Mái” thì Thanh Hóa, “trăm ao đầm” mà gót ngựa Thánh Gióng đi qua thì rải
rác khắp mọi miền đất nước, “đất tổ Hùng Vương” là vùng Phú Thọ, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng
Ngãi, “Hạ Long” Quảng Ninh, “ông Đốc, ông Trang, Đen, bà Điểm” là những địa danh ở mảnh
đất miền Nam.
Thêm nữa, việc nhắc đến các vùng đất khắp Tổ quốc như vậy còn là để nhấn mạnh việc đất
nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà
của nhân dân ta. Đồng thời những danh lam thắng cảnh ấy cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt,
đó đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm
của dân tộc Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống
hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm nên thắng
cảnh cho quê hương. Ngoài ra việc sử dụng cấu trúc thơ độc đáo, một bên là con người, sự vật sự việc
dung dị đại diện cho hình ảnh của nhân dân, một bên những địa danh, những thắng cảnh kỳ vĩ, lớn
lao đại diện cho nh ảnh của Đất Nước được nối với nhau bằng những từ “góp”, “góp tên”, “góp
mình”,... Đã khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bi Đất Nước là do nhân
dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Sau khi diễn giải tưởng Đất Nước của nhân dân các chi tiết, thì Nguyễn Khoa Điềm
chuyển sang nâng ý thơ lên tầm khái quát. Khẳng định tầm vóc kỳ của Đất Nước vĩ ở phương diện địa
qua hình ảnh “khắp ruộng đồng gò bãi” để mở ra một không gian lớn lao cao rộng, sau đó khẳng định
sự trường tồn, vĩnh hằng của Đất Nước ở phương diện lch sử “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”. Từ đó
dẫn dắt, khẳng định nhân dân chính là người đã tạo ra Đất Nước vừa kỳ vĩ, vừa bề dày lịch sự ở
những ý thơ rất hay “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/Chẳng mang một dáng hình, một ao ước,
một lối sống ông cha” cùng với “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy/Những cuộc đời
đã hoá núi sông ta…”. Rất tha thiết, nồng đượm yêu thương khẳng định Đất Nước đã được tạo nên bằng
chính cuộc đời của các thế hệ cha ông, bằng các dáng hình, những ước mơ, những phong tục tập quán
đã in hằn trên dáng vẻ của Đất Nước.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân tiếp tục được khẳng định thông qua phương diện thời gian
lịch sử. Trong suốt 4000 m nhân dân đã chăm chỉ cần cù để xây dựng Đất Nước, khi có chiến tranh
thì người con trai lập tức ra trận bảo vệ Đất Nước. Còn người con gái trở thành người chèo chống gia
đình, nuôi con cái, thế nhưng mang trong mình dòng máu Bà Trưng Triệu, họ cũng trở nên mạnh
mẽ kiên cường cả trong chiến đấu.Sự anh dũng của ông cha ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm
đã khiến họ trở thành những người anh hùng lưu danh sử sách, thế nhưng bên cạnh những con người
hữu danh thì người ta thấy nhiều hơn những con người vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên”. không
ai nhớ mặt đặt tên, thế nhưng những thế hệ sau vẫn luôn trân trọng, yêu quý bởi họ chính là người làm
ra Đất Nước hoà bình cho ta sống hôm nay.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vĐất Nước mà nhân dân còn là người làm
nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh
thần. Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu
ngọn lửa sáng ngời sau bao năm tháng sống trong tối tăm, lạnh lẽo. Truyền cho con thứ ngôn ngữ tiếng
nói của riêng dân tộc mình, giữ cho mình cái văn hóa làng, xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ s
vật chất, đất đai để cho các thế hệ kế tiếp phát triển trên mảnh đất ấy.
“Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm cũng chỉ ra những nét đẹp riêng của tâm hồn Việt, của văn
hóa Việt. Vì “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” thế nên khi nhìn vào kho tàng
văn học dân gian đều thấy hiện lên diện mạo văn hóa của Đất Nước, thấy được hình bóng của nhân dân
những con người mang đậm nét truyền thống của dân tộc. Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để
gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Việt nói chung. “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm trong
tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.
Tiếp theo là câu “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ đó
thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm thường. Cuối cùng
câu tục ngữ “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Kết lại đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng thì tác giả đã nêu lên những
cảm nhận rất tinh tế về vẻ đẹp của quê hương, của Đất Nước. “dòng sông” dù có bắt nguồn từ đâu thì
khi chảy đến mảnh đất quê hương cũng đều mang giọng hát của Đất Nước, mang đậm bản sắc của dân
tộc. Mỗi con người Việt Nam, trong công cuộc mưu sinh, lao động trên cái dòng chảy ấy lại có những
cách ứng xử khác nhau rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn
hiến.
Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước với giọng văn chính luận trữ tình đã bộc lộ suy
nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết của mình đối với đất nước trên nhiều bình diện, địa lý,
lịch sử, và bình diện văn hóa với tư tưởng bao trùm xuyên suốt ấy là tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Đoạn trích được viết theo lối quy nạp, biểu hiện nội dung chính luận một cách trữ tình bằng cách mượn
các chất liệu văn hóa dân gian thân thuộc, mượt mà, êm ái, mang đến cho người đọc những xúc cảm
thẩm mỹ độc đáo. Giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình tình, tha thiết, sâu lắng như
giọng điệu của đôi lứa yêu nhau làm cho nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào
thấm sâu vào lòng người.
Tuy đoạn trích “Đất Nước” thuộc trường ca “Mặt Đường khát vọng” đã khép lại nhưng những
dư âm vẫn luôn gợi mở nhiều suy tư trong mỗi chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm từ tình cảnh nước nhà đã
viết nên bài thơ để thức tỉnh ý thức của tầng lớp trẻ miền Nam. Ông đã đưa vào bản trường ca, đặc biệt
là đoạn trích Đất Nước những gì đẹp nhất và tinh túy nhất của nghệ thuật, của nội dung và giá trị về
tưởng. Đó quả thực là quá trình lao động miệt mài dày công sức và đáng trân trọng. Văn học Việt Nam
sẽ còn ghi tên Nguyễn Khoa Điềm, như một trong những người đầu tiên đem tư tưởng Đất Nước - Nhân
Dân đến với tất cả thế hệ người đọc sức ảnh hưởng mạnh mẽ, một hồn thơ nặng lòng với Đất
Nước, một cây bút tài hoa cùng những khám phá sâu sắc mới mẻ về tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân đã
làm những áng văn của Nguyễn Khoa Điểm trở thành kiệt tác nghệ thuật bất hủ.
Nguyệt Hà
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 3:
Phân tích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài làm:
Đất Nước là một đề tài muôn thuở của thi ca và nghệ thuật. Hình hài đất nước cũng được
khắc tạc muôn hình với nhiều vẻ đẹp từ những góc nhìn khác nhau. Nếu như Tố Hữu thấy đất nước
trong bóng dáng anh hùng. Chế Lan Viên “tìm hình của nước” trong vị cha già Hồ Chí Minh. Hay
Nguyễn Trãi tự hào về triều đại “Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”. Thì với Nguyễn
Khoa Điềm –một nhà thơ thời chống Mỹ, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình
diện khác nhau về một đất nước của nhân dân trong bài thơ “Đất Nước”. Hình hài của non sông gấm
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
vóc từ khi được sinh ra cho đến khi trải qua bao sóng gió của chiến tranh được tái diễn thông qua một
hồn thơ tinh tế, đậm chất trữ tình, chính luận, Nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình
cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm thấy ấy.
Nguyễn Khoa Điềm là thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Với
phong cách viết được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng,
thi sĩ đã thu hút người đọc theo một mạch riêng, mà theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đánh giá:
“Thơ ca Nguyễn Khoa Điềm chứa đựng nhiều chất liệu văn học và văn hóa dân gian. Câu thơ dù ở thể
truyền thống hay tự do bao giờ cũng phảng phất phong vị của ca dao, tục ngữ. Chất hiền minh của t
tuệ dân gian thấm đẫm trong từng từ ngữ”. Có thể khẳng định, chưa bao giờ “trường ca” lại nở rộ đến
thế nếu thiếu vắng cái tên Nguyễn Khoa Điềm.Chính ông đã đưa thể trường ca nói chung và trường ca
“Mặt đường khát vọng”nói riêng đến với nhiều người. Đoạn trích “Đất Nước” được trích từ chương V
của bản trường ca này. Tác phẩm ra đời năm 1917, tại chiến khu Trị Thiên,lúc cuộc kháng chiến -
chống Mỹ đang bước vào giai đoạn vô cùng ác liệt. Với lòng yêu nước nồng nàn và trách nhiệm công
dân, ông nhận thấy tuổi trẻ đang xa rời với hiện thực Tổ quốc mà viết tác phẩm như để thức tỉnh họ
quay về với dân tộc, với đất nước.
Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài
quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Đoạn trích “Đất Nước” là
sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà
thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
i kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Mở đầu đoạn thơ, tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu rồi, khi mà
con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.”
Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng
nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ. Đất nước trước hết không phải là
một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của
mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng
chúng ta khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một phần kí
ức tốt đẹp khiến ta không thể quên. Những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lý làm người, ước
mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng được gửi gắm vào câu ca dao đó đã góp phần tạo nên Đất
nước đa dạng về văn hóa như hiện nay.Truyện cổ được hình thành từ thuở xa xưa như vậy mà Đất
Nước có trước cả sự ra đời của truyện cổ tích nên mới có thể xuất hiện trong lời mẹ kể “ngày xửa
ngày xưa”, điều này gi ý niệm Đất Nước đã có từ rất rất lâu, rất xa xưa.
Tiếp theo là những truyền thống tốt đẹp, có từ xa xưa mà ông bà ta đã cất công gìn giữ:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Ngoài việc có từ rất xa xưa, Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn được thể hiện ở nét sống
giản dị nhưng đậm đà bản sắc dân tộc của những người bà, người mẹ Việt Nam với tục ăn trầu. Hình
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
ảnh “miếng trầu” gi cho ta nhớ về câu chuyện cổ “Sự tích trầu cau” mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Tục ăn trầu cũng từ đó mà nên. Hình ảnh ấy còn là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho sợi dây tơ
hồng kết duyên đôi lứa, là biểu tượng của hôn nhân, của sự gắn kết mối quan hệ vợ chồng và cũng là
biểu tượng tâm linh của người Việt, tượng trưng cho tấm lòng con cháu dâng lên cho các bậc tiền bối
đã khuất. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng từ đó mà ra đời: “Những cô hàng xén răng
đen/Cười như mùa thu tỏa nắng”. Và một đất nước không thể nào thiếu đi truyền thống, mà một trong
những truyền thống quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giăc giữ nước. Từ những năm tháng
trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên
khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh
nhổ cả lũy tre giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt
Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những
ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, của một
đất nước con người ý thức được về đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý thức về việc phải có trách
nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.
Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những
hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mỹ tục giản dị của con người Việt Nam :
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với mái tóc dài, được búi gọn gàng ngay
sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, ngưi mẹ, ngưi chị, của một người con gái Việt Nam mộc
mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng. Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối
mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở
trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với
nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm còn nêu lên
truyền thống lao động sản xuất của người dân:
“Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo thì phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào
nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia
đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên
làng, xóm và Đất nước. Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp
của cải dồn thành sự phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai
sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay giã
dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra đưc hạt gạo, người nông dân phải trải
qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong
hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. Thành quả ngọt
ngào này không chỉ giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa nước mà khi
nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam; không chỉ dừng lại ở đó, nền văn minh này đã giúp cho
nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt Nam.
Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
“Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng
ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá
riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục
búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục
ngữ cùng các thành ngữ… cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ
tâm tình và điệp từ “Đất nước”, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
mới mẻ về cội nguồn của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của
truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng đất nước của nhân dân.
Đoạn thơ thứ hai là những cảm xúc suy tư sâu lắng và sự cắt nghĩa khái niệm đất nước đầy
mới mẻ, cụ thể của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm từ nhiều phương diện khác nhau: không gian sinh
hoạt đời thường, không gian tình yêu đôi lứa, không gian địa lý, văn hóa và lịch sử. Đến với 6 câu thơ
đầu tác giả giải thích về đất nước theo lối tự từ cái riêng đến các chung, bằng cách lúc thì tách đất
nước thành hai yếu tố riêng biệt lúc lại góp trong lại thành một chia tách rời quy họp lại, nhà thơ suy
xét ở nhiều mặt nhiều mặt nhiều chiều để khám phá đất nước thêm phần sâu sắc hơn:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đất nước trong đnh nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm không phải là cái gì cao siêu, xa vời mà nó chỉ
đơn giản là không gian sinh hoạt gần gũi thân thuộc với mỗi người. Đất “là nơi anh đến trường”, là
con đường hàng ngày cho anh tới lớp, là nơi ghi dấu những kỉ niệm đầu đời cung cấp hành trang kiến
thức cho chúng ta tự tin hơn, hoàn thiện nhân cách hơn, để làm chủ cuộc sống. Còn nước “là nơi em
tắm”, là dòng máu trong em đều dòng sông trở lại phù sa làm tươi tốt hoa lá, vun bồi những cánh
đồng xanh mát, bãi mía, nương dâu. Đó còn là những giếng nước gốc đa cấp bởi quen thuộc là ao làng
tam giác ngọt lành của quê hương. Hình ảnh liên tưởng độc đáo, gợi tả thú vị. Định nghĩa đất nước
bằng những không gian quen thuộc, gần gũi. Đất là nơi anh lớn lên, nơi có những con đưng anh hàng
ngày đến trường. Còn nước lại là kỉ niệm gắn bó nơi tuổi thơ em, những kỉ niệm dịu dàng như những
dòng sông em thường tắm mát. Tất cả những rung cảm, những kỉ niệm bình dị ấy hợp lại thành linh
hồn “đất nước”. Đây là nơi “ta hò hẹn". Khi cả anh và em lớn lên, tình yêu giúp những cá nhân trở
thành những mảnh ghép khăng khít chẳng thể tách rời. Như “Đất nước” vậy, chẳng còn tách riêng lẻ,
anh và em cũng như “đất” và nước”, hoà hợp với nhau. Và tình yêu bắt đầu cũng chính là bắt đầu của
tình yêu đất nước. Để rồi “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” Nỗi nh ấy
như gắn kết thêm tình yêu, nuôi lớn tình yêu đất nước, gắn kết cả đất nước thành một khối khăng khít,
bền chặt. Để rồi dẫu có rời xa, trong tim mỗi anh và em đều có nỗi nhớ tình yêu, có nỗi nhớ đất nước.
Hình ảnh ẩn dụ độc đáo “chiếc khăn”. Chiếc khăn thể hiện bao cảm xúc, rung cảm tươi đẹp qua câu
ca dao:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt”
Mang chất liệu ca dao vào lời thơ tạo nên sự sống động, giàu hình ảnh liên tưởng cho người
đọc. Nhà thơ tiếp tục say sưa với những định nghĩa về đất nước. Ông lý giải sâu sắc hơn về đất nước
trên phương diện không gian địa lý. Đó là không gian tráng lệ, mênh mông, rộng lớn của một vùng
lãnh thổ. Không chỉ mượn hình ảnh ca dao dân ca thân thuộc, nhà thơ còn tiếp tục sử dụng những câu
dân ca Huế sâu lắng, ý nhị hư "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc", "con cá ngư ông móng n
nước biển khơi" để nêu lên quan niệm về đất nước. Bên cạnh đó hình ảnh "con chim phượng hoàng"
với "hòn núi bạc" gợi cho ta liên tưởng về dãy núi Tng Sơn hùng vĩ, còn "con cá ngư ông" với
"nước biển khơi" gợi nhắc về biển Đông mênh mông rộng lớn. Cách nói này giúp ta hình dung về dải
đất cong cong hình chữ S là một đất nước không chỉ giàu tài nguyên thiên nhiên, nhiều rừng vàng,
biển bạc mà còn là một đất nước huy hoàng hùng vĩ và giàu đẹp.
Đất nước gắn với không gian sinh tồn thiên nhiên của dân tộc là chiều dài thời gian:
“Thời gian đằng đẵng
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Không gian mênh mông,
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.”
Đó là quãng thời gian "đằng đẵng" với bao thế hệ cha anh thay nhau nằm xuống gìn giữ và bảo vệ tổ
quốc. "Không gian mênh mông" ở đây có thể hiểu là núi sông, bờ cõi, là 3 miền Bắc - Trung - Nam 1
dải. Hai từ láy "đằng đẵng", "mênh mông" cùng cụm từ "nơi dân mình đoàn tụ" đã lột tả được một
đất nước có truyền thống từ lâu đời. Câu thơ nhằm ngợi ca người dân mình đã gắn bó đoàn kết dựng
nước và giữ nước, bảo vệ từng tấc đất quê hương và 4.000 năm lịch sử. Vốn là người trí thức suy tư
sâu lắng cách lý giải của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước có lẽ không hề giản đơn trong ngữ
nghĩa đến vậy. Bởi đất nước ta trải qua bốn nghìn năm lịch sử hết chia cắt rồi lại hợp tan. Phải chăng
cách bóc tách đất nước thành hai yếu tố để định nghĩa rồi lại quy hợp lại, cũng là dụng ý của nhà thơ
khi khẳng định cho việc Đất Nước ta dù bị chia cắt thì sau cùng vẫn sẽ là một quần thể thống nhất trên
bản đồ thế giới với hai tiếng Việt Nam hoa vang.
Vẫn theo dòng cảm xúc suy tưởng, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cắt nghĩa khái niệm
Đất Nước ở phương diện lịch sử, cội nguồn văn hóa dân tộc, đó là sự tiếp nối giữa các thế hệ từ quá
khứ, hiện tại đến tương lai:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Nhà thơ nhấn mạnh dân tộc Việt Nam là nơi “đất lành chim đậu”, nơi có rồng thiêng “thăng
long” ngự trị, có cội nguồn lâu đời, gắn vi truyền thuyết dân gian mà không một ai trên mảnh đất
hình chữ S thân thương này không nhớ. Đó là truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên”, Lạc Long Quân
và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong cái bọc trăm trứng. Điều đó nhằm lý giải nguồn gốc của người Việt,
tất cả đều là anh em một nhà,dù có lên rừng hya xuống biển thì cội nguồn từ xa xưa vẫn được đẻ ra từ
trong một “bọc trứng”. Qua đó, nhà thơ thể hiện một niềm tự hào sâu sắc về mảnh đất “địa linh nhân
kiệt”, tự hào về mình là con Rồng, cháu Tiên.
Đất Nước ở đây còn là sự tiếp nối giữa các thế hệ: quá khứ, hiện tại và tương lai:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”
“Những ai đã khuất´là những người trong quá khứ, những con người sống giản dị chết bình tâm,
những con người đã có công dựng nước và phát triển đất nước. “Những ai bây giờ” là những người ở
hiện tại, đang sống và chiến đấu. Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh: “Yêu nhau và sinh con đẻ cái”
để bảo tồn và duy trì nòi giống. Thế hệ sau nối tiếp thế hệ đi trước “gánh vác phần” họ đã để lại, đó là
nét văn hóa gắn với những quan niệm, phong tục. tập quá kết tinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân.
Hai câu thơ cuối là nét văn hóa gắn với những quan niệm, phong tục, tập quán kết tinh vẻ đẹp
tâm hồn của nhân dân:
“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nh ngày giỗ Tổ”
Đọc hai câu thơ trên gợi nhắc ta về truyền thống đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước
nhớ nguồn”, nhà thơ khéo léo dặn dò thế hệ sau phải có ý thức về tổ tiên và cội nguồn của dân tộc với
ngày lễ Quốc giỗ của Việt Nam được tổ chức hàng năm vào ngày mồng mười tháng ba âm lịch tại
Đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Bởi như Bác Hồ đã từng nói: “Các vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Vậy nên:
“Hằng năm đi đâu làm đâu
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Cũng phải biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Câu thơ vận dụng sáng tạo câu ca dao:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”
Hãi chữ “cúi đầu” thể hiện sự thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông.
“Cúi đầu” để hướng về lịch sử,hướng về thế hệ đi trước đã góp công dựng nên nhà nước Âu Lạc mà
nay là nước Việt Nam hùng cường, tự tin sánh vai cùng các cường quốc m châu. Người Việt mình
dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh mỗi người đều luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó
chính là quê cha đất Tổ.
Xuất phát từ trái tim chân thành và tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, nhà thơ đã mang
đến những khái niệm rất mới mẻ, rất cụ thể nhưng cũng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi con người
Việt Nam. Thành công của đoạn thơ là sự vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa, vawn hocj dân gian
khiến cho hình tượng Trái Đất trở nên gần gũi giàu sức gợi cảm. Điểm nổi bật nhất là nghệ thuật giải
thích bằng cách tách danh từ Đất Nước thành hai thành tố riêng, khi hợp lại để trở nên chặt chẽ, khiến
cho việc lý giải càng trở nên sâu sắc, cụ thể, khái quát hơn bao giờ hết. Đọc đoạn thơ, ta như được trở
lại với từng không gian gần gũi của miền quê thanh bình, cùng hòa mình,thả hồn vào những câu ca
dao ngọt nào, sâu lắng, được đắm mình trong lời ru của mẹ, của bà, biết và hiểu thêm về các phong
tục, tập quán, về gốc gác, để rồi tự hào về quê hương Việt Nam.
Đoạn trích thể hiện suy nghĩ của nhà thơ Nguyễn. , Khoa Điềm về trách nhiệm của chúng ta
ngày nay cá đối với Đất Nước, về mối quan hệ riêng chung, quan hệ cá nhân cộng đồng, sự tiếp nối - -
của các thế hệ trong một đất nước, một dân tộc. Nhà thơ Sóng Hồng đã từng viết: “Thơ là tình cảm, lý
trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lý trí ấy được diễn đạt bằng những
hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường". Và qua những dòng
thơ đầy trăn trở của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy ở đó là những vần thơ không đơn thuần chỉ
là câu chữ mà là tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của tác giả. Do đó có sức lay động tâm tư người đọc.
Nếu như ở đoạn thơ trước đó, tác giả nhìn nhận Đất Nước từ bề dày văn hóa dân tộc hàng
nghìn năm, thì ở đây lại là những suy nghĩ về Đất Nước từ cuộc sống hiện tại trong các mối quan hệ
riêng chung, cá nhân - cộng đồng, sự tiếp nối giữa các thế hệ. Trước hết, Đất Nước gắn liền với tình
yêu đôi lứa, với mỗi cá nhân:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất quê hương, Tổ quốc, dân tộc... luôn là những
khái niệm trừu tượng. Nhưng Đất Nước là nơi ta sinh ra, nơi ta lớn lên, nơi cho ta môi trường sinh
hoạt và học tập. Đất Nước là chủ quyền lãnh thổ, là núi sông bờ cõi do máu xương của bao lớp người
gầy dựng nên; Đất Nước là hơi thở, là máu thịt thiêng liêng của ta. Song, cái mới ở khổ thơ Nguyễn
Khoa Điềm là Đất Nước ở trong ta chứ không phải ngoài ta, trong mỗi một con người, trong anh và
em, trong mỗi trái tim người dân nước Việt. Đó là một nhận thức mới như một niềm tự hào đầy kiêu
hãnh của tuổi trẻ về Đất Nước. Nhận thức ấy được nêu ra để dẫn dắt đến một ý tứ khác: từng cá nhân
phải làm gì cho Đất Nước? Bốn dòng thơ kế tiếp mở rộng ý ban đầu:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Những câu thơ được viết theo cấu trúc câu điều kiện: “Khi... Đất Nước...” kết hợp với điệp
ngữ "cầm tay” đã mang đến những ý nghĩa cao đẹp, nó thể hiện một tình cảm đẹp: Khi hai đứa “cầm
tay” là khi hai đứa hiểu nhau, yêu thương nhau và Đất Nước từ đây cũng như đẹp hơn, hài hòa hơn,
“nồng thắm” hơn. Khi chúng ta cầm tay mọi người, là một sự vươn xa, sự lớn dậy của cái tôi cá nhân.
thế “anh và em” đã mở rộng tình yêu đến “mọi người”. Nhất là trong giai đoạn Bắc Nam chia cắt -
thì cái “cầm tay” của mọi người thật ý nghĩa biết bao. Đất Nước vì vậy mà trở nên “vẹn tròn to lớn”.
Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay diễn tả sự thân thiết,
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ: “hài hòa”, “nồng
thắm”, “vẹn tròn”, “to lớn"... Tất cả đều tập trung thể hiện cho mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng, giữa một con người với đất nước.
Từ hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc suy nghĩ về Đất Nước ở tương lai. Nhà thơ hướng
vai hệ tương lai thế hệ mầm măng sẽ mang Đất N, sánh vai với các cường quốc năm châu:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nưc đi xa ng
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Đất Nước không ch có ngày hôm qua và hôm nay, trong quá khứ hay ở hiện tại, mà Đất
nước phải hướng tới ngày mai, hướng tới tương lai tươi sáng. Từng thế hệ kế tiếp sẽ làm cho đất nước
trường tồn mãi mãi. Khi đặt những câu thơ đầy khắc khoải này của nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm vào
bối cảnh lịch sử, những năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống đế quốc đang bước vào giai đoạn
ác liệt ta mới thấy: Ước mơ về thế hệ sau, thế hệ tương lai sẽ “mang
Đất Nước đi xa”, kế tục truyền thống, làm rạng danh quê hương đất nước là điều mà bất cứ ai yêu
dân tộc này đều mong muốn. Lời nhắn nhủ tha thiết như một ” khát vọng cháy bỏng: Hãy đưa đất
nước tiến về phía trước, đến với “những tháng ngày mơ mộng”, những tháng ngày hòa bình, tự do và
hạnh phúc. Đó không chỉ là niềm mong mỏi của riêng nhà thơ, mà còn là ước mong của hàng chục
triệu trái tim người dân Việt Nam.
Bốn câu thơ cuối, nhà thơ nêu trách nhiệm của cá nhân đối với Đất Nước:
“Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: “Đất Nước là...” nêu lên một tiền đề. Từ tiền đề ấy,
“phải biết... phải biết... để làm nên ". Câu thơ giàu chất suy luận nhưng không khô cứng mà trở thành
lời nhắn nhủ tha thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: “máu xương”, “gắn bó , “san
sẻ”, “hóa thân , dáng hình”, “muôn đời”… Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về Đất Nước, đến đây nhà
thơ khẳng định Đất Nước là máu xương của mình. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì với “máu
xương”, bởi nó biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là Đất Nước tồn tại
như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hy sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con
người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết
“gắn bó” và “san sẻ”. Gắn bó” là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ “gắn bó” ấy mới có thể
“san sẻ”, san sẻ về trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. “Hóa thân” cũng có nghĩa
là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho Tổ quốc. Thời chiến, người ta dâng
hiến cả sự sống của mình. Sự “dâng hiến” ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là một cuộc hóa thân. Bóng
dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương, xứ s, đất nước. Không có sự “hóa thân” kia làm
sao đất nước trường tồn, làm sao có được Đất nước muôn đời!
Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài “Đất Nước”. Nhà thơ đã thể hiện
những suy nghĩ mới mẻ của mình về Đất Nước bằng một giọng thơ trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyện
về Đất Nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng liêng, cao cả, cũng vừa
gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dân tộc, hắn chúng ta phải
biết làm gì cho Tổ quốc, cho giang sơn. Ngày nay, đất nước đã sạch bóng quân thù nhưng trách nhiệm
của mỗi công dân đối với đất nước vẫn rất cần đặt ra thường xuyên, bởi đó là câu chuyện không bao
giờ cũ.
Đến với 12 câu thơ tiếp, ta sẽ thấy được tư tưởng Đất Nước của Nhân dân với cái nhìn có chiều sâu
và phát hiện mới mẻ. Đó là phát hiện mới từ không gian địa lý: Thiên nhiên đất nưc trở nên thiêng
liêng, gần gũi hơn khi có sự hóa thân của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nưc mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”
Tảm câu thơ đầu nói về tượng hình Đất Nước, một Đất Nước hùng vĩ, một giang sơn
gấm vóc. Khắp nơi trên mọi miền Đất Nước ta, ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh. Núi Vọng
Phu, hòn Trống Mái đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn khám phá,
nhân văn. Núi ấy, hòn ấy là do “những người vợ nhớ chồng”, hoặc “cặp vợ chồng yêu nhau” mà đã
“góp cho”, đã “góp nên làm đẹp thêm, tô |h điểm thêm Đất Nước:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái.”
Núi Vọng Phu Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là
vẻ đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Vợ có “nhớ
chồng”, cặp vợ chồng có “yêu nhau” thì mới “góp cho Đất Nước”, mới “góp nên” những núi Vọng
Phu, hòn Trống Mái ấy. Tình yêu lứa đôi có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì Đất
Nước mới có tượng hình kỳ thú ấy. Tác giả đã vượt lên lối liệt kê tầm thường để có một cách nhìn,
một cách diễn đạt mới mẻ, nhân văn.
Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Cái “gót ngựa
của Thánh Gióng” đã “để lại cho Đất Nước ta bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. 99 núi con Voi ở
Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”. Các từ ngữ: “đi
qua còn...để lại”, “góp mình dựng” đã thể hiện một ca
ch bình dị mà tư. hào về sự thiêng liêng của Tổ quốc, về khí phách anh hùng sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc của nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Nước:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương.”
Đất Nước ta có núi cao, biển rộng, sông dài. Có sông Hồng Hà “đỏ nặng phù sa”. Có sông Mã “bờm
ngựa phi thác trắng”. Và còn có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”
Rồng “nằm im” từ bao đời nay mà Nam Bộ mến yêu có “dòng sông xanh thẳm” cho quê hương nhiều
nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa. Phải chăng nhà thơ trẻ qua vẻ đẹp
dòng sông Chín Rồng để ca ngợi giang sơn gấm vóc, con người Việt Nam rất đỗi tài hoa?
Quảng Nam, Quảng Ngãi quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng,...có núi Ấn sông Đà, có núi Bút non Nghiên. Ngăm núi Bút non Nghiên, Nguyễn Khoa Điềm
không nói về “địa linh nhân kiệt” mà nghĩ về người học trò nghèo, về truyền thống hiếu học và tấm
lòng tôn sư trọng đạo của nhân dân ta:
“Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non nghiên”
“Nghèo”mà vẫn “góp cho” Đất Nước ta núi hình Bút, non hình Nghiên, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại
Việt. Nghèo vật chất mà giàu trí tuệ tài năng.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Hạ Long trở thành kỳ quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”.
Và những tên làng, tên núi, tên sông như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…ở vùng cực Nam
Đất Nước xa xôi đã do “những người dân nào đã góp nên tên “, đem mồ hôi, xương máu bạt rừng, lấp
biển, đào kênh, bắt sấu, bộ hổ…làm nên? Nhà thơ đã có một cách nói bình dị mà thấm thía, ca ngợi
đức tính cần cù, siêng năng,dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta, khẳng định nhân dân
vô cùng vĩ đại, người chủ nhân đã “làm nên Đất Nước muôn đời”:
“Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm.”
Tám câu thơ với bao đa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nói để thể hiện niềm tự hào
và biết ơn Đất Nước cùng nhân dân. Các thi liệu, hình ảnh: Người vợ, cặp đôi, gót ngựa, 99 con voi,
con rồng, người học trò nghèo, con cóc, con gà, những người dân nào…dưới ngòi bút của Nguyễn
Khoa Điềm mang ý nghĩa tượng trưng cho tâm hồn trung hậu, cho trí tuệ, tài năng, đức tính cần
cù,dũng cảm,…của nhân dân ta qua trường kì lịch sử. Chính nhân dân vĩ đại đã “góp cho”, “góp nên”,
“để lại”, “góp mình”,… đã làm cho Đất Nước ngày thêm tươi đẹp, phát triển.
Bốn câu thơ cuối đoạn, giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào. Từ cụ thể, thơ được nâng lên
tầm khái quát, tính chính luận kết hợp hài hòa với chất trữ tình đằm thắm:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
“Ruộng đồng, gò bãi” là hình ảnh của quê hương đất nước. Những tên núi, tên sông, tên làng,
tên bảng, tên ruộng, tên gò bãi…bất cứ ở đâu trên đất nước Việt nam thân yêu đều mang theo “một
ng hình, một ao ước, một lối sống ông cho”. Hình tượng đất nước cũng là điệu tâm hồn, phong
cách, ước mơ hoài bão của ông cha ta, tổ tiên câu thơ rất hay, rất đẹp ngợi ca tâm hồn Việt Nam, nền
văn hóa Việt Nam. Chữ “một” được điệp lại ba lần , chữ “ta” nhắc lại hai lần, kết hợp với từ cảm thán
đã tạo nên những vần thơ du dương, nhạc điệu, nồng nàn, say đắm tự hào. Vừa đĩnh đạc hào hùng,
vừa thiết tha lắng đọng, vẻ đẹp nhân văn chan hòa trên những vần thơ tráng lệ. Tầm vóc của Đất
Nước và dân tộc được thể hiện một cách sâu sắc rộng lớn không chỉ trên bình diện địa lí mênh mông
mà còn ở dòng chảy của thời gian và lịch sử 4000 năm dài đằng đẵng.
Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Câu thơ mở rộng
đậm chất văn xuôi, yếu tố chính luận và chất trữ tình, cảm xúc hòa quyện, làm cho chất thơ dạt dào,
ngọt nào, ý tưởng sâu sắc, mới mẻ. Đài nước hùng vĩ, nhân dân anh hùng, cần cù, hiếu học, ân nghĩa
thủy chung...được nhà thơ cảm nhận với tất cả lòng yêu mến tự hào.Chất liệu văn hóa dân gian đưc
tác giả vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ca ngợi tâm hồn Nhân Dân, khẳng
định bản lĩnh nói giống và dáng đứng Việt Nam. Thiên nhiên Đất Nước đã được Nhân Dân sáng tạo
nên. Nhân Dân là chủ nhân của Đất Nước. Thơ đích thực khơi gợi hồn người trở nên trong sáng,
phong phú và cao thượng. Đoạn thơ như một tiếng nói tâm tình, dịu ngọt. Nhà thơ như đang đối thoại
cùng ta về Đất Nước và Nhân Dân. Đọc lại đoạn thơ, lòng mỗi chúng ta bâng khuâng, xúc động nghề
hai tiếng Việt Nam thân thương. Ta cảm thấy hãnh diện và lớn lên cùng Đất Nước.
“ Ôi! Việt Nam! Yêu suốt một đời...”
(Tố Hữu)
Nhân dân vốn là chủ thể của lịch sử, chính họ đã làm nên bao điều kỳ diệu cho đất nước ngay từ thuở
đầu sơ khai dựng nước và giữ nước cho đến nay. Nhưng thời xưa, đất nước thuộc quyền sở hữu của
những người đứng đầu, như trong “Nam quốc sơn hà” hay “Bình Ngô đại cáo” ta có thể hiểu được v
trí quan trọng của vua đó là người gây dựng nên đất nước và đất nước này thuộc về vua, do vua và vì -
vua. Đến với “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, thì vai trò của nhân dân đối với
đất nước cũng đã được thể hiện một cách rõ ràng hơn. Lần đầu tiên, hai chữ “nhân dân”, vị trí của
nhân dân được thể hiện một cách “sang trọng như thế”. Nhưng nó vẫn là một điều gì đó thật mờ nhạt,
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
và mãi đến cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân mới được trả về đúng vị trí của mình -
Là chủ nhân của đất nước. Và sau đó, Nguyễn Khoa Điểm cũng đã thể hiện rất rõ tư tưởng: “Đất
Nước của Nhân dân”, và nhân dân chính là những người đã làm nên đất nước:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Ngay mở đầu đoạn trích, là một tiếng gọi: “Em ơi em” thật gần gũi, thân thương, và đó cũng -
là một câu thơ cảm thán mang đến những giây phút ngưng đọng cảm xúc với những ý thơ sau đó.
Không vẽ ra một tương lai tương sáng, với vị thế của nhân dân, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đưa ta.
quay ngược về quá khứ với “bốn nghìn năm đất nước”, để thấy được nhân đâm ta đã cùng nhau xây
dựng, bảo vệ và tạo nên những trang sử vàng của dân tộc như thế nào! Dân ta. Đốn hiếu hòa, vẫn
mong một cuộc sống bình yên. Thế nhưng ngay từ những buổi đầu dựng nước, đã có bao thế lực lâm
le xâm lược, hàng nghìn nó ngựa thay phiên nhau dày xéo. Vì thế mà “năm tháng nào cũng người
người lớp lớp”, bao thế hệ tuổi trẻ, con gái con trai đã cùng nhau “cần cù làm lụng” lao động sản xuất,
rồi lại “ra trận” chiến đấu hết mình vì độc lập của dân tộc. Những người con trai sức dài vai rộng ý
thức được trách nhiệm của mình mà họ đã tình nguyện lên đường xung trận để bảo vệ từng tấc đất của
quê hương. Ở quê nhà, những người mẹ người bọ trở thành hậu phương vững chắc, một tay chèo
chống, vừa gánh vác việc nhà, vừa tham gia đánh giặc. Bởi chiến tranh không phải là một trò đùa, k
thù không những có mặt trên mặt trận mà chúng còn xuất hiện khắp mọi nơi để vơ vét, bóc lột sức lực
và của cải của nhân dân ta. Chính vì thế, những người phụ nữ cũng cùng lên đánh lại. Đây là một hình
ảnh không mới lạ, vì từ xa xưa, chúng ta đã được biết đến với tinh thần “giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh” như Bà Trưng, Bà Trắc, Bà Triệu...
Để làm nên thiên sứ càng ngày hôm nay, không thể không nhắc đến công lao của những
người anh hùng, có người đã được lưu tên tuổi, và ai trong chúng ta cũng biết. Tuy nhiên bên cạnh đó
vẫn có những người “không ai nhớ mặt đặt tên”. Bởi họ là những con người cô danh, họ đã xả thân hy
sinh cho đất nước và có rất nhiều người như vậy. Và ta gọi họ là những anh hùng thầm lặng. Tất cả họ
đã góp phần xương máu của mình để tạo nên “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ” mà mỗi khi nhắc
đến ta lại thấy tự hào:
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất trên đời”
(Lê Anh Xuân)
Anh hùng nào, vốn xuất phát điểm cũng từ những con người bình thường nhưng trong hoàn cảnh đất
nước lâm nguy, từ những người bình thường họ đã trở nên phi thường. Điều đáng trân quý là lúc sống
trong đời thường như thế nào thì lúc ngã xuống cũng như thế ấy:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm”.
Hẳn không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ đã làm nên đất nước. Đó cũng là một truyền thống tốt
đẹp và đáng trân trọng của dân tộc ta
Làm nên giá trị của một đất nước không thể không nhắc đến những phong tục tập quán,
những giá trị vật chất và tinh thần. Những điều ấy không ai khác ngoài nhân dân, họ là người gìn giữ
và lưu truyền:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Tác giả đã sử dụng điệp cấu trúc để làm nổi bật lên vai trò của người dân. Từ bao đời nay
nước ta vốn là một nước công nghiệp và lúa chính là nguồn lương thực chính. Để có được hạt lúa đến
hạt gạo rồi đến những hạt cơm trắng dẻo thơm trên mâm cơm của người Việt ta, người nông dân đã.
phải trải qua bao tất cả và công đoạn “ xay, giã, giần, sàng...” như Bác Hồ đã ca ngợi:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông”
Ông cha ta từ xưa đã có cách giữ và truyền lửa từ hòm tham quan. com củi. Phải chăng lửa là
chất truyền hơi ấm và sự sống? Và có thể nói, một trong những thứ làm nên bản sắc của quê hương
chính là giọng điệu. Chính vì thế đi đến đâu họ cũng muốn giữ điều đó và cũng muốn cho con họ
cũng giữ được bản sắc của quê hương mình. Và khi phải di dân đến một vùng quê khác, họ cũng
mang theo tên xã, tên làng của mình như một hành trang cần thiết để lưu giữ và nơi đi cảm giác xa xứ.
Họ cũng đã dạy cho thế hệ sau biết đạo lí “uống nước nhớ nguồn” khi thưởng thức những trái thơm
quả ngọt. Tất cả những điều đó đã tạo nên một nội lực cho cả một dân tộc để khi có nội thù bà ngoại
xâm, họ đều rất sẵn sàng đứng lên chống trả. Có như thế đất nước này mới đúng là “Đất Nước của
nhân dân”:
“Để đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân , Đất Nước của ca dao thần thoại”
Hai câu cuối của đoạn như một lần nữa lại khẳng định cho tư tưởng “Đất Nước của Nhân
dân”. Hơn thế nữa đất nước này còn là của những lời ca, tiếng hát, là những thần thoại mang đậm bản
sắc dân tộc mà mỗi khi truyền đến thế hệ sau, nhân dân ta đều rất đỗi tự hào vì những gì mình đã sáng
tạo và gìn giữ nay lại tiếp tục được bảo vệ và phát huy.
Và khi nói đến “Đất nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về nguồn phong phú
đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca do đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu
hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba
phương diện quan trọng ngô truyền thống nhân dân, dân tộc:
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý nghĩa
của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyên Khoa Điểm nhấn mạnh về
tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở
trong nôi/Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”. Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang
yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió
thoáng qua, không phải là lời của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật. Ý thơ đã khẳng đnh
được một tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu
thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của Nguyễn
Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần
cù chịu khó, bất khuất kiên cường. Còn ở đây tác giả lại ngợi ca vẻ đẹp trẻ trung lãng mạn trong tình
yêu, những mối tình từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.
Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu
sắc, ca dao đã “dạy anh biết” sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết quý công cầm vàng
những ngày lặn lội”. Câu thơ ấy lấy ý từ ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc tiếc
công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc
ngà...Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần
giá trị vật chất.
Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến nhân
đấu “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao
cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Từ thuở
lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do
nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí dan, 5 hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân
dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi được 1 đến 100 năm đô hộ giặc Tây...thử hỏi nếu không có sự
kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu
khó khăn gian khổ, mất mát hy sinh để đến ngày toàn thắng.
Bốn câu thơ cuối: Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cát cao tiếng hát là một biểu
tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất Nước đi tới
một ngày mai vô cùng tươi sáng:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đầu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi...”
Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến
từ bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn
Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca
Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha
thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê
hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54
dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng “trăm màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự đa dạng
và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một
đất nước đậm đà bản sắc dân tộc.
Với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình đã giúp đoạn thơ vừa là
lời tâm tình, vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải nhận thức Khoa đúng vai trò to
lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn hóa của đất. Từ ý nưc bằng chính lòng
biết ơn của mình. Và bài thơ khép lại trong những suy ngẫm và nhà thơ cảm nhận tinh tế của Nguyễn
Khoa Điềm về vẻ đẹp thơ mộng của non sông đất nước.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Nhà thơ Chế Lan Viên trong cuốn sổ tay của mình từng nói về sự ngưng đọng của thơ: “Cái
kết tinh của mỗi vần thơ và muối bể/ Muối lắng ở ô nề, thơ đọng ở bề sâu”, và bài thơ Đất Nước cũng
như muối bể, nó lắng ở trong lòng người đọc và cứ thế mặn mọi qua năm tháng. Dưới ngòi bút cảm
xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng cùng thể thơ tự do như cách nói chuyện đời thường. Bằng giọng thơ
vừa nhẹ nhàng vừa tha thiết nhưng cũng đầy tự hào kết hợp sử dụng chất liệu văn hóa, văn học dân
gian để bất cứ ai trong chúng ta cũng cảm nhận được Đất Nước có từ rất lâu và hình thành rồi phát
triển như ngày hôm nay, nhắn nhủ các thế hệ mai sau về việc giữ gìn và xây dựng đất nước.
Nhờ vào tài năng của mình mà Nguyễn Khoa Điềm đã góp vào kho tàng văn học nước nhà
thêm một “Đất Nước” vô cùng bình dị đời thường nhưng lại rất đáng trân quý. Qua đây mỗi người sẽ
càng thêm tự hào hơn về nhân dân ta, về thế hệ anh hùng của ông cha ta để rồi trở nên gắn bó và nỗ
lực học tập rèn luyện hơn vì quê hương, vì quốc gia của mình. Từ đó ta càng vững niềm tin vào sức
mạnh của dân tộc:
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
(Những người đi tới biển – Thạch Thảo)
Nguyễn Sơn T
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 4:
Có mối tình nào hơn
Tổ quốc?”
(Trần Mai Ninh)
Đất Nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả, trang trọng, vừa xiết
bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết bao hồn thơ cất cánh. Văn học
kháng chiến 1945 – 1975, trong mạch chảy ngầm dạt dào, mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt
được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật
nên thơ, cao đẹp.Đối với những người con đất Việt họ luôn mang trong mình một tình yêu Tổ Quốc
thiết tha nhất. Mang hết ca một dáng hình Việt Nam vào một bài thơ “Đất Nước" nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về Đất Nước của tuổi trẻ thành thị miền
Nam trong thời chống Mỹ. Trên nền văn hoá dân gian vững chắc, tác giả đã hướng sự tìm tòi, suy
ngẫm tới nhiều bình diện như lịch sử, địa lý, phong tục,…để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân
Dân và gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người trước vận mệnh của Đất Nước. Nguyễn Khoa Điềm
viết:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó....
…..... sông xuôi....."
Khi nói đến Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể
quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn
người đọc
bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí
thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong
những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
nước” thuộc chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” được tác
giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974. -
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của
nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện:
chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử và chiều sâu văn
hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi “Đất nước này
là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời? Để trả lời cho
những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình
để đi tìm về cội nguồn của đất nước. 9 câu thơ đầu đó là sự lý giải Đất nước có từ bao giờ :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình
dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn
màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập
quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với cách vào
đầu rất tự nhiên ấy, nhà t khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta
lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”.
Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước
và giữ nước.Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước. Nói về lịch sử mấy
ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông
dùng lối kể đậm đà của dân gian:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có
tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt
trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ.
Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại,
truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt
lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của
truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Đến với câu thơ thứ hai nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc
phong tục ăn trầu của người Việt .Đất nước không đâu xa ngay trong những ước vọng, phẩm chất của
con người Việt Nam chúng ta “bắt đầu” sự xuất phát điểm, miếng trầu rất cụ thể gần gũi nhưng cũng
rất xa xưa, tục ăn trầu, nhưng cũng không thể nhận biết chính xác từ bao giờ. Khẳng định về quá khứ
xa xưa. Đó là tục lệ trong cưới hỏi, ma , chay,…các lễ hội, gợi cho ta nhớ đến sự tích trầu cau, bài ca
về tình nghĩa vợ chồng , anh em yêu thương nhau, tình cảm thủy chung. Bắt đầu và bây giờ, cách
nhau 3 từ nhưng cho thấy quá trình phát triển của đất nước, bền bỉ theo thời gian, chưa bao giờ mất đi
và mãi mãi tồn tại. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng
tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
Đất nước phát triển, trưởng thành qua cụm từ “lớn lên” trong quá trình bảo vệ và chống giặc ngoại
xâm.Tác giả mượn lại truyền thuyết Thánh Gióng, nằm trong tín ngưỡng tôn kính của người Việt về
chàng trai làng Phù Đổng và truyền thống yêu nước chống quân xâm lược.
Đất nước còn hiện lên qua những thói quen, tập tục lâu đời, tóc mẹ bới sau đầu, hình ảnh người phụ
nữ miền Nam, nhưng hóa ra cách làm đẹp ấy lại là cả một quá trình.Nét đẹp đảm đang, khéo léo,
chăm chỉ giỏi giang của người phụ nữ. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng,
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ
Việt Nam kiên cưng, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn
Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận,
lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã
khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời
sống mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến chúng ta
nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ VN truyền thống.
Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa giãi
nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao
những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những
lo âu của mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Đó là
chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, là
lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.
Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” nói đến tục đặt tên con xấu
cho dễ nuôi.
Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ 8“Hạt gạo phải một
nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt
gạo một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống,-
cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con
tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho
con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.
Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của
đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả
nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó...”, ta không biết ngày đó là ngày
nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ lúc
những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tuc
tập quán, từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc
đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước. Đất nước có trong hạt gạo ta ăn hàng
ngày, vẻ đẹp hạt gạo và nghệ thuật liệt kê chỉ ra đó là biểu tượng của đất nước với nền văn minh lúa
nước.Một hình ảnh đơn sơ ta cũng thấy được quá trình lao động của người nông dân ta.Cũng là Tác
giả đang thể hiện quá trình hình thành phát triển của đất nước.Đất nước có từ ngày đó như một lời
khẳng định đất nước có từ xa xưa nhưng không xa xôi trừu tượng mà hiện hữu thân thương gần gũi,
trong cuộc sống của chúng ta.Khi trả lời câu hỏi đất nước có từ bao giờ, nhà thơ đã vận dụng các yếu
tố của văn học dân gian như truyện cổ tích, truyền thuyết, thành ngữ, tục ngữ, ca dao nhằm tái hiện
hình ảnh đất nước thân thương dễ hình dung dễ tưởng tượng, khác hẳn cái nhìn về đất nước của các
nhà thơ xưa và nay.
Đất Nước không phải ở đâu xa, mà nó gắn với những k niệm riêng tư của mỗi chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm
Nhà thơ dùng phép chiết tự tách đôi khái niệm đất nước thành hai vật thể hữu tình “Đất là..”, “Nước
là…”. Bằng cách ấy, cái khái niệm trừu tượng xa xôi kia trở thành cụ thể và gần gũi. Thì ra đất nước
gắn bó với máu thịt của từng con người. Đất là con đưng hàng ngày anh vẫn đến trường, Nước là thứ
hàng ngày em vẫn tắm ở bến quê. Đất Nước làm cho tình yêu của anh và em đẹp hơn. Ngược lại tình
yêu của anh và em làm cho đất nước thêm sinh sôi nảy nở.
Cứ như thế, từ cái riêng, nhà thơ nâng lên thành cái chung:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
nhủ tha thiết, ở đây có những từ tượng trưng rất đáng chú ý: máu xương, gắn bó, san sẻ, hóa thân,
dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khẳng định Đất
Nước là máu xương của mình. Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì với
máu xương, bởi nó biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất nước tồn tại
như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hy sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con
người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết
gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ gắn bó ấy mới có thể san sẻ,
san sẻ về trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau.
Đất nước do ai làm nên Nguyễn Khoa Điềm từng viết: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất
Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh[9]
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Ôi những dòng sông bắtớc từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”
Chính những con ngưi vô danh bình thường làm nên.
Tất cả hình sông thế núi đều là do những con người bình thường làm nên, thậm chí vô danh. ( cảm
nhận qua hai phương diện là địa lý và lịch sử )
Theo tư tưởng của những người am hiểu về địa lý, đất nước là những địa danh,dân cư, vùng miền, dân
tộc.Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm lại khác, ông quan niệm đất nước là do nhân dân làm ra không
phải do thiên tạo.
( trầm tích, huyền thoại của người dân Việt Nam )
Tác giả lựa chọn 8 địa danh, 8 tên gọi nổi tiếng mang tính chất biểu tượng. 1 là yêu thương tình nghĩa,
2 tinh thần hiếu học, 3 là cần cù chăm chỉ.
Những danh lam thắng cảnh được sắp xếp theo trình tự từ bắc vào nam đại diện cho ba phẩm chất.
Hình ảnh của nàng Tô Thị ở Lạng Sơn, chờ chồng hóa đá, trong cuộc sống đời thường có nhiều những
người mẹ , người chị, em gái, người yêu chờ chồng, chờ người yêu trở về.Trong 4000 năm ấy là 4000
năm giữ nước với những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm ( núi Vọng Phu ).
Những ao đầm để lại không phải do thiên tạo, do tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm của Thánh
gióng năm nào. Đất nước còn được tạo nên bởi lao động xây dựng xóm làng và tinh thần hiếu
học.Hóa ra núi hình bút non, non nghiên không phải do tạo hóa mà là do những người học trò nghèo
về vật chất nhưng lại chăm chỉ cần cù, kiên trì học tập hóa thân thành những núi bút non nghiên ở
Quảng Ngãi.Hạ Long một trong những kì quan của thế giới hóa ra được hình thành bởi những con
người vô danh và con vật bé nhỏ.Con cóc con gà, những con vật đầu tiên họ nhìn thấy khi khai hoang,
cũng có thể hiểu những hòn đảo nhỏ này mang hình ảnh con cóc con gà.
Cũng có những tên gọi được tạo bởi lao động , người đặt tên cho đất : núi bà Đen, núi bà Điểm, huyện
Châu Đốc…
Ở góc nhìn lịch sử, tư duy của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khác với thơ ca xưa.Trong thơ xưa,
Nguyễn Trãi nhìn về lịch sử theo hưng của những người nghiên cứu về lịch sử, sự tiếp nối của các
triều đại phong kiến:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần
Bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán , Đường, Tống , Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Còn với Nguyễn Khoa Điềm ông nhìn về 4000 năm dựng nước và giữ nước. Đó là biết bao những thế
hệ người Việt Nam ra trận và ngã xuống để biết bao những thế hệ lại vùng đứng lên mà ta không hề
nhớ mặt đặt tên (cũng không đề cập tới những anh hùng dân tộc) Chính nhân dân vô danh đã bảo vệ
quê hương bằng máu xương của mình.
Với 5 câu thơ bắt đầu với một chủ ngữ duy nhất là từ “Họ”
Một lần nữa tác giả chỉ ra những cống hiến thầm lặng của nhân dân trong quá trình bảo vệ , gìn giữ và
phát triển đất nước.
Từ hạt gạo dẻo thơm ta ăn hàng ngày là nhân dân truyền lại, cho đến ngọn lửa ẩn dụ cho nền văn
minh mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam được lặng lẽ gửi gắm từ thời kì này qua thời kì khác.
Tiếng mẹ đẻ là đặc điểm của một dân tộc, là đặc trưng của quốc gia cũng đưc nhân dân bảo vệ và gìn
giữ. Đất đai dịa lý có được cũng do nhân dân đi khai hoang mà thành. Tất cả đều là sự đóng góp ,
cống hiến thầm lặng của nhân dân, bảo vệ quê hương trong suốt 4000 năm chống thù trong giặc
ngoài.
Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định
để khẳng định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức
tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn của nhân dân.
Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta
cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không
giấu nối lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ
đại của nhân dân. Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo
lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn
năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn
ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng
thành đồng chí chung u quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp
sức của người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước,
nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập
trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày
và trong suốt cuộc đời họ:
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt
Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ
đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh
tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng
nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù
trong giặc ngoài. Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng
những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo
ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa,
văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu,
không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại
vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ
qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể
nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả,
tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm
của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận
với trữ tình, giữa suy tưởng với cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần
gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí
tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm
lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào vể Đất Nước Việt Nam 4000 năm
lịch sử. Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá,
“Đất nước này là của nhân dân”, sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ
muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chưng cất, lắng ủ và lên men
trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi
liệu văn hóa văn học dân gian.
Khuất Phương Thảo
Khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
V. Ai đã đặt tên cho dòng sông
Bài làm 1:
Đề bài: Vẻ đẹp của con sông Hương qua "Ai đã đặt tên cho dòng sông" Hoàng Phủ Ngọc Tường
Bài làm.
''Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình''
(Tố Hữu)
Nhắc đến Huế ai cũng nhớ đến một vùng đất mộng mơ vương nét thoáng buồn từ ngàn
đời xưa đến nay. Một thành phố với nhịp chảy chậm rãi êm đềm và điểm xuyến trong bức tranh bình
yên đó là dòng sông Hương thơ mộng. Dòng sông không chỉ là biểu tượng cho xứ Huế mà còn là nét
vẽ hoàn mĩ mềm mại cho bức tranh Huế vốn đã nên thơ càng trở nên trữ tình. Có lẽ chính vì vậy mà
sông Hương luôn là nguồn cảm hứng bất tận của các thi nhân thi sĩ. Nằm trong dòng chảy cảm xúc
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng để lại trong kho tàng văn học Việt Nam một dòng sông Hương biệt lập
khác lạ. Với ngôn từ hoa lệ giàu sức biểu đạt cùng với vốn hiểu biết sâu rộng Hoàng Phủ Ngọc Tường
đã khắc họa một dòng sông Hương không chỉ nói về vẻ đẹp mà còn là địa lý, lịch sử, văn học. Là tác
phẩm có thể xem như tái hiện thành công nhất về vẻ đẹp của sông Hương một biểu tượng cho văn -
hóa và tâm hồn của con người xứ Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong
sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, nghị luận sắc bén với tư
duy đa chiều và vốn kiến thức sâu rộng. Là nhà văn với lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm mà
tài hoa. Và tiêu biểu nổi bật cho phong cách sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tác phẩm "Ai đã
đặt tên cho dòng sông" một bút kí xuất sắc được viết tại Huế ngày 4 1981 in trong tập sách cùng -1-
tên. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn gắn bó với Huế từ khi sinh ra cho đến hết cuộc đời của mình,
đó là nền tảng cơ sở để hình thành tình yêu với mảnh đất quê hương, ông cũng thấm nhuần dáng vẻ
Huế, con người Huế rất đỗi dịu dàng mang đậm phong cách nghệ thuật riêng biệt của nhà văn.
Pautopxki:"Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở
cái đẹp" vậy nên Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đưa người đọc đến thăm dòng sông Hương mang lại cho
mảnh đất cố đô Huế một chất thơ nhẹ nhàng, trầm lắng và hài hòa trong nét đẹp của chiều sâu văn
hiến. Trước hết, sông Hương là "bản trường ca của rừng già" gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng
vĩ. Con sông toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt, bản trường ca bất tận của thiên nhiên:" rầm rộ
giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như con lốc vào những đáy vực
bí ẩn" rồi lại trở nên "dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên
rừng. Câu văn dài như dư vang của bản trường ca với hay sắc màu trái ngược. Với liên tưởng thú vị
độc đáo và phép nhân hóa táo bạo nhà văn đã nhận ra "giữa lòng Trường Sơn, sông hương đã sống
một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di g khoáng và man dại". Có lẽ rừng già đã hun đúc -gan phón
nên bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do, dòng sông như một người con gái đầy cá tính hoang dại đầy
tình tứ. Dòng sông không còn là vật vô tri vô giác mà trở thành cô gái mạnh mẽ, quyến rũ tràn ngập
mê say.
Sông Hương là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Khi đi ra khỏi rừng "sông
Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ". Từ một "cô gái" sông Hương đã được
nhân hóa thành "người mẹ" bởi sự đằm thắm phì nhiêu, màu mỡ của đồng bằng châu thổ. Người mẹ
đã bồi dưỡng đưa con cố đô thân yêu bằng phù sa ngọt ngào và những nét văn hóa lâu đời. Hoàng Phủ
Ngọc Tường đã khắc họa sông Hương trở nên có lòng yêu thương, biết hi sinh và đặc biệt là mối quan
hệ mẫu tử thiêng liêng giữa dòng sông Hương và thành phố Huế. Vậy nhưng dường như dù có sôi nổi
nhiệt huyết đến đâu sông Hương cũng vẫn muốn giữ lại cho riêng mình một điều gì đó bí ẩn, thu liễu
lại tính khí để trở nên trang nghiêm cổ kính giấu trọn trong rừng già "đóng kín lại ở cửa rừng và ném
chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng". Chỉ có người yêu vẻ đẹp của thiên nhiên
đến da diết, ham muốn được tận hưởng trọn vẹn cảnh sắc của thiên nhiên hay cũng có thể hiểu ông
yêu cảnh đẹp của Huế, yêu dòng sông của Huế và yêu luôn lịch sử hình thành của Huế mới muốn tìm
tòi khám phá những điều mà sông Hương vẫn giấu kín. Đó là hành trình đòi hỏi tâm huyết, tâm hồn
tinh tế nhạy cảm và kiên nhẫn của người làm nghệ thuật.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Vượt ra khỏi lòng Trường Sơn, sự lột xác của con sông khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường
liên tưởng đến "người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại". Với
vốn hiểu biết sâu rộng về địa lý cùng năng lực quan sát tinh tế nhà văn đã gợi ra những dáng hình của
dòng sông "chuyển dòng một cách liên tục", "uốn mình theo những đường cong thật mềm" cái mượt
mà ấy khiến người đọc liên tưởng đến người con gái e ấp dịu dàng cũng không kém phần chủ động
mãnh liệt. Nhà văn miêu tả dòng sông như một sự rượt "một cuộc tìm kiếm có ý thức, hàng loạt các
động từ mạnh "liên tục", "đột ngột" để miêu tả sự đổi dòng đầy bất ngờ thể hiện sự trăng trở của sông
Hương khi chưa tìm thấy "người tình mong đợi". Sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng vẫn dư
vang của Trường Sơn, trôi qua "giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách" để gợi lên sự hùng
mạnh mẽ của thiên nhiên thì sông Hương lại trở nên mĩ miều với sắc nước "sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím". Khác với con sông Đà của Nguyễn Tuân thay đổi sắc nước theo mùa thì dòng sông Hương
như hiện thân của xứ Huế với sắc tím đặc trưng của không gian Huế.
Khi sông Hương lững lờ chảy ngang qua những lăng tẩm của ông hoàng bà chúa khi xưa
nó lại mang một vẻ đẹp trầm mặc, cổ thi tựa như bức tranh thủy mặc, dường như con sông đang t
tấm lòng thành kính, là những hoài niệm về kinh thành Huế vẻ vang.
"Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên"
Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương như triết lý, như cổ thi một vẻ đẹp đặc trưng của miền -
đất cố đô cổ. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ đã đánh thức con sông ra khỏi dòng hoài niệm, gọi nó về
với sự hồn nhiên vui tươi "những bãi biển xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long" tựa như đứa con
thấy đường về nhà một cảm giác an tâm và yên bình. Đến đây tài văn chương của ông lại có dịp được
thăng hoa khi chảy vào đến thành phố Huế ta không còn bắt gặp những cảm xúc băn khoăn trăn trở
"đổi dòng, uốn mình" liên tục mà là "kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông
Bắc". Không còn cảm thấy lạc lõng bơ vơ sông Hương đã tìm thấy "người tình" được ôm ấp trong
lòng của một cố đô cổ kính. Nổi bật trên nền xanh của sông Hương là "chiếc cầu trắng của thành phố
in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một chiếc vành trăng non". Nhà thơ Nguyễn Bính đã có câu thơ
lục bát để nói vẻ đẹp của cầu Tràng Tiền xứ Huế:
"Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài máu tóc cung Nga buông hờ"
Khác với sự so sánh câu cầu với chiếc lược ngà của Nguyễn Bính, Hoàng Phủ Ngọc
Tường lại thấy cầu Tràng Tiền như một vành trăng non- một hình ảnh tinh khôi trong ngần cũng có
thể hiểu đó là tuổi đẹp nhất của người con gái độ tuổi đương thì đang làm dáng làm duyên "làm cho
sông như mềm hẳn đi, một tiếng "vâng" của tình yêu". Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối
quan hệ tương quan của dòng sông và người con gái cố đô dịu dàng duyên dáng mà nết na ý nhị.
Cố đô Huế luôn được nhớ đến với thành phố của nỗi buồn trầm mặc bởi vậy khi tiến đến
hẳn vào Huế sông Hương lại được ví như "một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế". Bởi tác giả
đã tinh tế nhận ra khi tiến đến gần Huế dòng chảy sông Hương bỗng chậm rãi rất nhiều tựa như "mặt
hồ yên tĩnh". Câu văn êm đềm tựa như tiếng nhạc chậm rãi, du dương làm con người chìm vào
khoảng không gian bình yên trữ tình hiếm hoi. Đặc biệt trình độ văn hóa uyên bác Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã so sánh sông Hương với những con sông lớn trên thế giới như sông Nê va của- -nin-grat,
sông Xen của Pa ri, sông Đa nuýp của Bu- - -đa-pét để làm nổi bật nên vẻ độc đáo của sông Hương vào
ban đêm "lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chà". Nhà văn đắm say trong điệu chảy lững
lờ của sông Hương qua thành phố Huế, nhớ lại dòng sông Hương thân yêu dịu hiền trong lòng xứ Huế
mộng mơ.
Khi rời khỏi thành phố Huế sông Hương vẫn luyến lưu, bịn rịn "ngập ngừng như muốn đi
muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng". Thế nên sông Hương "đột
ngột đổi dòng rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao vinh xưa
cô". Nhà văn đã nhân hóa dòng sông biết nhung nhớ tiếc nuối vương vấn.
Vẻ đẹp lịch sử của Huế là điều không thể phủ nhận và bàn cãi, suốt bao nhiêu năm lịch sử
đế đo chứng kiến bao thăng trầm của thời nhà Nguyễn triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. -
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói:" Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên thành phố Huế, thành phố
tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc". Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt
để bảo vệ biên giới phía Nam tổ quốc. Mọi sự kiện lịch sử trọng đại nào cũng diễn ra ở kinh thành
Huế. Sông Hương là "dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi dưới màu cỏ lá xanh biếc". Với
những sự kiện lịch sử trọng đại, những biến cố thay đổi sông Hương cũng âm thầm khắc ghi cất giấu
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
như một nhà sử gia với vốn hiểu biết tường tận sâu rộng mà kín tiếng. Dù đã trải qua những mấy ngàn
năm lịch sử chịu tác động trực tiếp bởi chiến tranh nhưng tâm hồn dòng sông Hương chưa bao giờ già
nua héo úa. Đâu đó vẫn là hình ảnh cô gái Di gan hoang dại cá tính, hay dáng vẻ yêu kiều của cô gái -
tuổi đôi mươi đang kiếm tìm hạnh phúc. Mặt khác sông Hương là cuội nguồn của thi ca nghệ thuật, có
biết bao thi nhân thi sĩ rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố
Hữu. Mỗi nhà văn nhà thơ đều đem đến cho người đọc một dòng sông Hương mới mẻ khác lạ song
đều đẹp đến say đắm lòng người. Như Hàn Mặc Tử so sánh sông Hương như dải sông trăng vô tận.
" Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay"
Hay Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ mà bâng khuâng:
"Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"
Nhà văn Nguyễn Tn đã từng nhận xét rất hay về phong cách bút kí của Hoàng Phủ
Ngọc Tường:" Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa" bởi lẽ ông đã đặt toàn bộ tình
cảm yêu xứ Huế mộng mơ để khiến cho độc giả thấy yêu thành phố cổ xưa mà trầm lắng, yêu dòng
sông Hương thơ mộng. Với ngòi bút tài hoa và vốn hiểu biết sâu rộng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể
hiện rõ nét vẻ đẹp của con sông Hương êm đềm lững lỡ ôm trọn Huế. Phải trân trọng đến nhường nào
ông mới vất vả nghiên cứ tìm tòi sông Hương từ thượng nguồn từ rừng già đến những điều mà dòng
sông muốn giữ riêng mình. "Ai đã đặt tên cho dòng sông" không chỉ tìm hiểu về vẻ đẹp dòng sông
Hương mà còn về địa lý, lịch sử, văn hóa xứ Huế, con người Huế. Tổng hòa những điều ấy đã tạo nên
một tuyệt bút xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác và nghiên cứu văn học của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
-Trà My-
Bài làm 2:
Đề bài: Phân tích “Ai đã đặt tên cho dòng sông” – Hoàng Phủ Ngọc Tường
Đất nước có một dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương để nhớ. Ta đã từng bắt gặp
con sông Vàm Cỏ ngọt ngào như dòng sữa mẹ trong thơ Hoài Vũ hay con sông Đuống nằm nghiêng
nghiêng trong kháng chiến trường kì trong thơ Hoàng Cầm nhưng trong số đó ta không thể nào không
nhắc tới con sông Hương ngọt ngào, mộng mơ trong kinh thành Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đã
từng có nhà thơ ngợi ca vẻ đẹp của dòng sông trữ tình, ngợi ca vẻ đẹp non sông đất nước:
“Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc nên tranh họa đồ
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn như thế. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được
tổng hợp từ vốn hiểu biết sâu rộng của mình. Là người yêu quê hương đất nước, gắn bó sâu sắc với xứ
Huế mộng mơ cho nên Hương Giang là đối tượng mà Hoàng Phủ Ngọc Tường không thể bỏ qua. Vẻ
đẹp của Hương giang đã được nhà văn nhìn nhận qua nhiều khía cạnh khác nhau: Từ phương diện địa
lý, văn hóa, thi ca đến chiều dài của thời gian và chiều sâu của không gian. Và dù dưới góc độ nào t
sông Hương vẫn rất tươi đẹp và nên thơ.
Tác phẩm bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào
năm 1981 được in trong tập cùng tên mang đậm chất sử thi về thiên nhiên qua đó bộc lộ sự gắn bó với
quê hương đất nước. Trong tác phẩm, nhà văn thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần dân tộc với truyền
thống văn hóa lịch sử lâu đi của dân tộc – những điều ông đã dày công tìm tòi, nghiên cứu và tích lũy
cả một đời. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc tái hiện lại vẻ đẹp sông Hương
như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách diệu kì trong không gian
và thời gian qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm
Mở đầu bài kí, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hạ bút viết câu “Trong những dòng sông đẹp ở các
nước tôi thường nghe nói đến hình như chỉ sông Hương thuộc về một thành phố duy nhất” có
nghĩa là sông Hương đã gắn bó vi cố đô Huế mộng mơ với nhiều góc độ khác nhau: không gian – địa
lý, văn hóa, lịch sử. Nếu tác giả tách sông Hương khỏi thành phố Huế thì sông Hương cũng chỉ là một
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
con sông vô tri, vô giác nhưng khi sông Hương nằm trong thành phố Huế nó trở thành một dòng sông
mang một vẻ đẹp rất riêng so với các dòng sông khác trong tổ quốc. Với câu văn “Chỉ sông Hương là
thuộc về một thành phố duy nhất” đã thể hiện được niềm tự hào của tác giả với dòng sông xứ Huế -
dòng sông thi ca đất mẹ. Đó một trong những đặc điểm riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường so với các
nhà văn khác.
Đến với vẻ đẹp thơ mộng của sông Hương dưới góc độ địa lý, sông Hương tới bốn ng
chảy khác nhau địa điểm khác nhau với những nét đặc sắc khác nhau không trùng lặp với mỗi
đoạn chảy khác. Nhưng trước tiên nhà văn muốn giới thiệu đến người đọc khung cảnh Hương Giang ở
thượng nguồn. Hình ảnh Hương giang ở thượng nguồn mang đến cho chúng ta điểm nhìn trầm mặc, cổ
kính xưa, uy nghi, hùng vĩ, dữ dội. Đó là một vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính, sông Hương được ví “như một
bản trường ca của rừng già”, đó là một cách so sánh độc đáo, dễ hiểu của tác giả bởi sông Hương
dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn hùng vĩ ẩn khuất trong mây bầu trời.
Tuy vây, dòng chảy của sông Hương lại hiện lên với những nét tính cách khác nhau, không phải sông
Hương lúc nào cũng dữ dội, mãnh liệt và bí ẩn “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” hay “mãnh liệt qua
những thác ghềnh, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn” mà cũng có lúc Hương giang trở
nên nhẹ nhàng, dịu dàng, ngọt ngào được thể hiện hình ảnh “nó trở nên dịu dàng say đắm giữa
những những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Có lẽ hoa đỗ quyên rừng chính là hình
ảnh đại diện của sông Hương trên thượng nguồn mà tác giả đã gửi gắm chăng ? Nó là hình ảnh đẹp
nhất, tươi sáng nhất, màu “đỏ chói lọi” một gam màu đầy hoang dại ấy mới toát lên được vẻ đẹp
đầy sức sống ám ảnh nhưng lại rất đỗi bình dị của Hương Giang. Ta cảm giác trên khúc thượng
nguồn dữ dội đó có điểm xuyết một vài bông hoa đỗ quyên rừng chói lọi, nó sẽ làm mờ đi cái dữ dội,
hùng vĩ mang vẻ trầm mặc của Hương giang trên khúc thượng nguồn của dòng sông.
-Giữa lòng Trường Sơn hùng vĩ đó, dòng sông đã được nhà văn nhân hóa như “một cô gái Di
gan phóng khoáng và man dại”. Với ngòi bút sắc sảo, đậm chất suy tư đa chiều ta thấy được sự phóng
khoáng, tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi ông đã lấy hình ảnh của một gái Di gan dân tộc -
man dại, xinh đẹp để miêu tả Hương giang. Phải chăng tác giả đang muốn cho mọi người thấy được
khúc thượng nguồn của dòng sông cũng man dại, cũng kiêu hãnh như cô gái Di gan man dại hay chăng ? -
Thế nhưng vừa mới ra khỏi rừng già “sông Hương lại nhanh chóng mang một màu sắc đẹp dịu dàng và
trí tuệ, “trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.Không ai khác, chính rừng già đã hun
đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
Để kết thúc hành trình vượt núi tìm về kinh thành Huế nhà văn đã đưa ra quan điểm của chính
mình để bàn luận “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không
hiểu một cách đầy đặn bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã trải qua”.
Lời tâm sự đó của tác giả như thể nhà văn đang muốn giải thích, thanh minh cho nàng “Sông Hương”,
lại vừa toát ra vốn am hiểu sâu sắc hành trình gian truân, gian khổ của dòng sông thơ mộng của nhà bút
tài năng. Nhưng lẽ cô gái Di gan man dại đó vô cùng khó hiểu, khó đoán nàng không chỉ mang -
trong mình những nét tính cách khác nhau: Lúc thì mãnh liệt, dữ dội, lúc lại dịu dàng đắm say. Rồi khi
ra khỏi rừng già nàng khóa chặt tâm hồn “không muốn bộc lộ” bằng cách “đóng kín lại ở cửa rừng và
ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” và tiếp tục cuộc hành trình của mình
bằng thứ tâm trạng “tươi vui”. Đọc đến đây độc giả mới thấy được sự am hiểu sâu sắc về mọi ngóc
ngách trên dòng sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường người am hiểu văn hóa, yêu thiên nhiên
quê hương đất nước. Có lẽ đối với ông sông Hương – cố đô Huế như một quê hương thứ hai của ông,
gắn sâu sắc với sông Hương nặng lòng, ta có cảm giác tình yêu xứ Huế của nhà văn Hoàng Phủ
Ngọc Tường có chút đồng điệu với nhà văn Tô Hoài gắn bó nặng lòng mảnh đất Tây Bắc trong lời tâm
sự “Mảnh đất Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, không thể và không bao giờ quên mảnh đất
đau thương mà nhiều hy sinh ấy”. Bằng thứ ngôn từ “lóng lánh bụi vàng”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã làm rõ bản sắc của sông Hương. Đó không chỉ là một dòng chảy tự nhiên hình thành từ cấu
trúc địa hình mà còn là một dòng sông được như con người với vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm, đầy nữ
tính.
Nếu như trong thơ Hoàng Cầm hình ảnh sông Đuống hiên ngang, hùng vĩ
“Sông Đuống trôi đi
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Một dòng sông lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”
Thì lẽ Hương Giang đối với Hoàng Phủ Ngọc ờng dòng sông ngọt ngào, dịu dàng, đắm say.
Sau hành trình vạn dặm xa xôi, người tình mong đi đã đến “đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ
màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoang dại”. “Người con gái dịu dàng của xứ Huế” đã gây ấn
tượng mạnh bằng ch “chuyển dòng liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những
đường con thật mềm”. Cái cách chuyển dòng đột ngột của Hương giang này độc giả mới thấy được sự
mềm mại, uyển chuyển đến nhịp nhàng. Tác giả cảm nhận như “Một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới
nơi gặp thành phố tương lai của nó”. đây dòng chày của nàng Hương giang không tuân theo một
quy luật nhất định nào cả: Lúc thì nó chảy theo hướng Bắc Nam qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trảm,
lúc thì lại đột ngột chuyển sang hướng Tây Bắc “vòng qua đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán” rồi đột
ngột “vẽ một vòng cung thật tròn về phía Đông Bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”.
Cứ mỗi điểm sông Hương chảy qua là một lần độc giả được mở mang tầm mắt được hiểu biết
thêm về những khu vực địa lý của vùng đất đỏ. Quả đúng như những gì nhà thơ Tố Hữu xúc động ghi
lại
“Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ lên một bức tranh bằng ngôn từ hoàn mĩ, hoàn hảo đến từng chi tiết,
từng góc độ của Hương giang đến vậy. Dòng sông ấy vừa “mềm như tấm lụa đào, với những chiếc
thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi” lại thêm màu nước đa sắc “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.
Hương giang lấp lánh, đẹp đẽ là vậy khi màu nước thay đổi theo thời gian trong ngày, khác hẳn với con
sông Đà nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả thì Đà giang thay đổi màu nước theo mùa nhưng chính
những điều đó độc giả lại càng cảm nhận được rõ nét hơn về thiên nhiên tổ quốc Việt Nam đẹp đẽ tới
muôn màu. Chúng ta không còn phải chờ đến mùa xuân để ngắm màu “xanh ngọc bích”, cũng không
phải chờ đến mùa thu ngắm màu ” nữa mà chỉ trong một ngày cũng đủ để lưu lại những “lừ lừ chín đỏ
gam màu khác nhau của sông Hương.
Có lẽ xứ Huế sẽ không là “mảnh đất cố đô” nếu thiếu đi vẻ cổ kính trầm mặc của “những lăng
mộ vua chúa triều Nguyễn trong lòng rừng thông u tịch và kiêu hãnh”. Bởi sự trầm mặc của dòng sông
như nét đẹp văn hóa của người Huế, họ vốn coi trọng yếu tố tâm linh và nhất là sự thành kính với các
bậc tiền nhân đi trước.
Sau khỉ chảy qua lòng đồng bằng thì giờ đây Hương giang đang chảy qua lòng thành phố để
ngắm nhìn vẻ đẹp cố đô. Kinh thành Huế chính là của sông Hương – đó là nơi “người tình mong đợi”
nàng muốn đắm chìm ở đó lâu nhất đó một cách lâu nhất. Chính vì thế khi tạm biệt ngoại ô
Kim Long, sông Hương đã Từ “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam Đông Bắc”.-
đây sông Hương rạng rỡ như một gái trẻ đang vui tươi ngắm nhìn cố đô. Chảy tới Giã Cồn Viên
“nàng uốn một đường cong mềm hẳn đi”. Câu văn miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về tới thành phố
Huế nghe thật nhẹ nhàng, lãng mạn và tình tứ như một bản nhạc “slow” tình cảm. Những đường nét mê
đắm mềm mại của nàng khiến cho tất cả những ai khi đọc bài bút này cũng đều cảm thấy ngỡ ngàng
say đắm trong tình yêu để một lần nào nghe được tiếng “vâng” ngọt ngào đến mức nào ! Đối với
sông Hương, cố đô như một người yêu cho nên dòng sông có xu hướng muốn gắn chặt, hòa quyện cùng
thành phố lâu hơn nữa cho nên dòng chảy của Hương giang “chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là mặt hồ
yên tĩnh” như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế vậy.
Một lần nữa sau lần khẳng định nồng nàn ở đầu thiên tùy bút, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại đầy
tự hào khi so sánh sông Hương với các con sông trên thế giới như: sông Đa Nuýp của Bu – da pét
hay sông Nêva của Nga vì chúng cùng chảy trong lòng thành phố. Nhưng trải qua bao thăng trầm của
đất nước, qua các sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc nàng Hương vẫn luôn ngẩng đầu kiêu hãnh bởi
“trong tổng thể nàng vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bên sông”.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Nếu như sông Hương chảy trong lòng thành phố với tâm trạng phấn khởi, vui tươi, bịn rịn mãi
không rời thì khi rời khỏi thành phố Huế nàng lại mang một tâm trạng lưu luyến không muốn rời xa.
Bởi vậy nên nàng chảy thật chậm theo hướng “chếch về phía Bắc, vòng một ôm lấy đảo Cồn Hến quanh
năm mơ màng trong sương khói giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau” – cảnh thôn
Vĩ đẹp như trong tranh đã từng được Hàn Mặc Tử miêu tả
“Sao anh không về chơi thôn
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá chúc che ngang mặt chữ điền”
Cảnh đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh làm cho sông Hương đã lưu luyến, bịn rịn thì nay lại càng quấn
quýt, lưu luyến, bịn rịn hơn nàng nhớ “sực nhớ lại một điều gì đó chưa kịp nói” liền đột ngột đổi hướng
“rẽ ngoặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố một lần cuối ở góc Bao Vinh xưa cổ”. Khúc quanh
bất ngờ y, tác giả đã so sánh như “Một nỗi vấn vương cả một chút lẳng kín đáo của tình yêu”.
Hương giang lãng mạn là thế nhưng với khúc quanh bất ngờ, đột ngột để gặp lại người u của sông
Hương thì nó phải được ví như “Nàng Kiều quay trở về tìm Kim Trọng để nói lời thề trước khi về biển
cả” thì mới đủ diễn tả sự vấn vương, luyến tiếc đến xúc động của Hương giang. Đó là tất cả những gì
sông Hương thể dành tặng cho Huế, dâng hiến cho vùng đất cố đô để khẳng định tấm lòng thủy
chung, sắt son của mình – người tình mà nàng suốt đời hướng về. Để đáp lại tình cảm của sông Hương,
người dân xứ Huế đã hát lên những câu da dân gian với những vang lên, tỏa vọng khắp lưu “điệu hò”
vực sông Hương.
Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp sông Hương dưới góc độ lịch sử thì ta có thể khẳng định rằng Hoàng
Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hóa xứ Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở hiện tại, ngày ngày
mang phù sa vun đắp cho cánh đồng Châu Hóamang nguồn nước ngọt ngào trao tặng cho ngưi dân
xứ Huế, mà ông còn nhìn sông Hương như khởi nguồn cho những giá trị tinh thần, cho những hào
hùng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Từ thời các vua Hùng. Sông Hương đã “một dòng sông
biên thùy xa xôi của đất nước” trong sách địa của Nguyễn Trãi, sông Hương từng mang tên Linh
Giang, “chiến đấu một cách oanh liệt để bảo vệ vùng biên giới phía Nam của tổ quốc”. thế kỉ
XVIII XIX “Nó đã vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, “nó
sống hết lịch sử bi tráng của dân tộc với những cuộc khởi nghĩa đẫm máu” . Không dừng lại ở đó trong
hai cuộc kháng chống Pháp và chống Mĩ, nó đã chứng kiến những cuộc chiến long trời lở đất hào hùng
của cả dân tộc thời Cách mạng tháng Tám 1945 hay nó hứng chịu sự tàn phá khốc liệt của đế quốc Mĩ
năm 1975. Sự mất mát mà sông Hương đã trải qua hay chính thành phố Huế hứng chịu nói riêng và của
đất nước nói chung “cũng giống với sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh Châu Âu khi một số công
trình của nền văn minh Hi Lạp và La Mã”. Như vậy sông Hương không chỉ là một dòng sông cảm xúc
nữa, mà nó còn là một chứng nhân lịch sử ghi nhận lại toàn bộ tội ác của kẻ thù, ghi lại những chiến
công hiển hách vang dội của quân và dân ta trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, mịt mù.ng
Hương cứ tồn tại mãi mãi như “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh
biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó trở về cuộc sống
bình thường, làm một người con gái dịu dàng”.
Không phải ngẫu nhiên mà “ca Huế” trên sông Hương lại được UNESCO công nhận là di sản
văn hóa phi vật thể quốc gia, ở đó là “cả một nền âm nhạc cổ điển được hình thành và phát triển
song hành với những sinh hoạt âm nhạc cung đình từ đời các vua chúa thời Nguyễn Trãi, trài dài suốt
mấy thế kỉ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường thật tài tình khi khắc họa sông Hương như “một người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya”, một hình ảnh vừa đẹp vừa bí ẩn, âm vang của sông Hương dưới cái khoảnh
khắc trùng của sông nước, vừa thể hiện vẻ tài hoa, sâu lắng của mảnh đất cố đô, tâm hồn của con người
nơi đây. Một lần nữa, bằng ngòi bút tài hoa của mình cùng với sự rung cảm mạnh mẽ của con người
yêu thiên nhiên, quê hương đất nước, bóng dáng của nàng Kiều năm nào lại xuất hiện “bao năm lênh
đênh trên quãng sông với một phiền trăng sầu. Và từ đó những bản đàn đi suốt đời Kiều”. Đây quả
đúng là một cách liên tưởng độc đáo đến kì lạ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Ngoài ra sông Hương còn đi vào trong thi ca, văn chương nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đặt chân đến
Huế đều một khám phá riêng về sông Hương để nhận xét một cách công bằng thì “dòng sông ấy
không bao giờ tự lặp lại trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Trong cái nhìn của Tản Đà từ xanh biếc
thường ngày nó bỗng biến thành màu Trong hồn thơ của bà Huyện “Dòng sông trắ lá cây xanh”.ng –
Thanh Quan là “Nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng làng”. Hàn Mặc Tử cũng tôn vinh, ngợi ca
vẻ đẹp của Hương giang như một ngân hà giữa chốn nhân gian
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?”
trong bất cứ trang văn nào của người nghệ thì sông Hương cũng mang một vẻ đẹp khiến người
khác phải ngỡ ngàng và say đắm không rời.
Bằng vốn hiểu biết sâu rộng về vốn kiến thức địa lý, văn hóa, lịch sử, nghệ thuật kết hợp hài
hòa với cảm xúc trí tuệ của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc họa sông Hương đa phương tiện, đa màu
sắc trên thi đàn văn chương Việt Nam bằng bút pháp miêu tả, nhân hóa, so sánh, liên tưởng độc đáo
hòa quyện cùng giọng văn mượt mà, nhẹ nhàng. Dòng sông khiến cho ai đi qua đây cũng đều muốn
một lần đặt chân tới xứ Huệ mộng mơ, để được đắm mình vào cái nên thơ của mảnh đất cố đô.
Sông Hương không chỉ hiện ra với những cái nhẹ nhàng, ngọt ngào, tinh tế góp phần làm cho
xứ Huế trở thành một bức tranh sơn thủy hữu tình. Hơn thế nữa sông Hương còn là dòng sông của lịch
sử, của thi ca, nghệ thuật. Qua những trang văn tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường ta đã thấy được
một công trình thiên nhiên ở xứ Huế mộng mơ. Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã được viết lên
từ một tình yêu thiên nhiên, đất nước da diết của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Với những suy tư đa chiều
Hương Giang trong mắt Hoàng Phủ Ngọc Tường là một công trình mỹ lệ mà thiên nhiên ban tặng cho
xứ Huế mộng mơ để rồi bất kì ai cũng muốn đặt chân tới thả hồn vào cái nên thơ xứ Huế ngọt ngào.
HOÀNG ANH
VI. Người lái đò sông Đà
Bài làm 1:
Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để xây
dựng lại một miền quê của Tổ Quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực hiện quá trình lột xác để
đến với cách mạng. Tiêu biểu trong đó là Nguyễn Tuân, 1 “nhà bác học” uyên thâm với tâm hồn nghệ
sĩ của làng văn chương, một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, sáng tạo, nâng niu và ôm ấp cái đẹp.
Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tùy bút đặc sắc in
đậm hình ảnh con ngưi lao động nghệ sĩ và hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc vừa hung bạo, vừa trữ tình.
Nhưng bức tranh về hình ảnh của một con sông Đà thơ mộng, trữ tình đã để lại dấu ấn khó phai trong
lòng người đọc.
Tiếp xúc với văn chương của Nguyễn Tuân, ta bắt gặp ẩn tàng trong những trang văn là “ cảm
xúc mạnh, là hơi thở nồng”( Nguyễn Đăng Mạnh). Chính vì thế, Nguyễn Tuân đã thả hồn mình vào
sông Đà Tây Bắc để thoả mãn khao khát tung hoành và xê dịch. Tùy bút “người lái đò sông đà” được
in trong tập tùy bút Sông Đà (1960) , gồm mười 5 bài tùy bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác
phẩm được viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi
thực tế của nhà văn đến Tây Bắc sau kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc.
Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo và
cho ra đổi thiên tùy bút để lại ấn tượng với độc giả.
Viết về Sông Đà, Nguyễn tuân xoay ngòi bút của mình hướng về những vẻ đẹp đời thực. Hay
nói cách khác là người nghệ sĩ này đang đi tìm chất vàng mười trong chính vẻ đẹp đất nước và tâm
hồn nhân dân Việt Nam. Dòng Sông Đà của Nguyễn tuân trong tác phẩm bên cạnh vẻ đẹp dữ dội
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
hung bạo như kẻ thù số một của con người, cũng có lúc hiện lên rất bay bổng mơ màng, có nét chữ
tình của một con người nồng nàn cảm xúc bằng cảm hứng ngợi ca, tự hào, hình tưng Sông Đà được
nhấn mạnh bởi đặc điểm riêng có: “ Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” Nguyễn Tuân chắc hẳn
phải mê đắm lắm những thi hứng trên sông nước của Broniewski vì ông sẽ còn mượn tiếp ý thơ của
nhà thơ người Ba Lan khi miêu tả dòng sông tuyến. Câu thơ mượn cấu trúc cảm thán để bộc lộ cảm
xúc mãnh liệt đang trào dâng trong lòng. Điều gì đã khiến thi sĩ sửng sốt mà cất lên “đẹp vậy thay”,
vế thơ sau đã giãi bày nguyên do của lời ngợi ca ấy: “tiếng hát trên dòng sông”. Sông nước mênh
mông nên thơ hữu tình đã làm say đắm bao trái tim nghệ sĩ để rồi trở thành một địa chỉ lớn của nhạc
họa văn thơ. Xưa Broniewski mượn thơ để bày tỏ tiếng ca ngưỡng mộ của mình trước dòng sông say
đắm lòng người. Nay Nguyễn Tuân mượn chính ý thơ đó để cất tiếng hát say mê, lời hoan ca, phấn
khích khi đứng trước vẻ đẹp của Đà giang.
Đến với mảnh đất văn chương và tâm hồn thi sĩ của Nguyễn Tuân, giáo sư Nguyễn Đăng
Mạnh từng có quan niệm rằng: “mỗi khi cầm bút dường như lại đặt mình trong yêu cầu: phải chứng tỏ
được cái tài hoa, uyên bác hơn đời của mình. Ông có thói quen nhìn sự vật ở mặt mĩ thuật của nó, cố
tìm cho ra ở đấy những gì nên họa, nên thơ. Đồng thời mỗi đối tượng quan sát của ông là một đối
tượng khảo sát đến kì cùng”. Vì vậy, nếu như ở đoạn văn miêu tả sự hung bạo, dữ dội của sông Đà
nhà văn đã sử dụng rất nhiều kiến thức về quân sự, võ thuật, hãy nhiều động từ mạnh thì ở đoạn văn
miêu tả vẻ đẹp trữ tình của con sông, ông hoàn toàn sử dụng con mắt tinh tế để quan sát cùng ngòi bút
lãng mạn để vẽ lại con sông Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông nhiều góc nhìn khác nhau
để có một cái nhìn toàn diện. Từ trên cao nhìn xuống sông Đà như “ cái dây thừng ngoàn ngoèo” uốn
quanh núi rừng Tây Bắc mềm mại, uyển chuyển. Sông Đà như ca dao xưa ví cong cong uốn lượn như
hình con long trên núi. Dòng sông bỗng mềm đi, uyển chuyển, nhẹ nhàng thả mình trôi quanh những
dãy núi, triền đê. Vẻ đẹp ấy của Đà giang khiến văn nhân dường như không tin vào mắt mình. Đến
đây tất cả sự dữ dằn của con thủy quái cuồng nộ với ông đò, con sông dữ dội trong câu đồng dao “Núi
cao sông hãy còn dài Năm năm báo oán đời đời đánh ghen” dần biến mất. Hơn thế nữa, sông Đà
không còn mang hình ảnh hung bạo dữ dội, ngày đêm đe dọa con người, mà giờ đây hiện lên trước
mắt người đọc những áng văn đầy thơ mộng về hình ảnh của con sông hiền hòa “ con Sông Đà tuôn
dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình đầu tóc chân tóc như đang ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban hoa gạo mù khói núi mèo đốt lương Xuân” . Câu văn như một lời nhạc êm ái, lại như một
bức tranh thủy mặc mang đến cho tâm hồn người đọc những rung động tinh vi, những cảm xúc nh
nhàng. Câu văn dài chỉ với dấu chấm duy nhất kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài”, đã gợi tả sinh động độ
dài của dòng sông, vừa đem lại cảm giác về sự liền mạch bất tận của một dòng sông chảy từ vùng núi
cao Tây Bắc chảy xuống đồng bằng lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi thiết tha đổ ra biển. Hơn thế nữa
sự xuất hiện của những thanh bằng liên tiếp ở câu văn gợi sự êm à thanh bình cho dòng sông khúc hạ
nguồn. Tác giả đã so sánh Sông Đà “như một áng tóc trữ tình” đã góp phần miêu tả được sự mềm mại
đằm thắm duyên dáng của dòng sông, tạo nên vẻ đẹp kiêu sa hiếm có. Nó như một kiệt tác dành riêng
cho vùng đất thiêng liêng này. Bởi có lẽ mái tóc dài từ lâu đã trở thành một chuẩn mực không thể
không nhắc đến của một người thiếu nữ dịu dàng và đằm thắm. Còn nhớ trong “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” nhà cầm kí Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về sự phóng khoáng, mam dại của Hương
giang đã lấy “cô gái Digan” làm chuẩn mực. Thiên tính nữ ấy không chỉ hiện về ở Linh giang mà
trước đó đã từng ẩn mình trong sông Đà. Nguyễn Tuân đã mang hình ảnh liên tưởng độc đáo lạ
thường khi trên mái tóc trữ tình ấy được cài thêm hoa ban hoa gạo và mù khói núi mèo đốt nương
xuân .Bức tranh hiện lên đẹp đẽ thơ mộng trữ tình huyền ảo đưa người đọc vào chốn bồng lai vừa
thực vừa mộng.
Với tình cảm trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách tinh tế màu sắc của dòng
sông biến đổi theo từng mùa.. Sự quý trọng nhà nghiệp khiến ông dấn thân sâu hơn vào cuộc đời,
ngụp lặn sâu hơn trong đời sống, phải dụng công nghiên cứu kĩ lưỡng để miêu tả được hai mùa nước
đẹp nhất trên sông Đà. Xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà, ông thấy
dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bào màu sắc biến đổi diệu kì “ mùa
xuân dòng xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm và sông Lô”.
“Xanh ngọc bích” là màu xanh trong trẻo gợi cảm trong lành. Thật tài hoa và thật trữ tình bởi dó gợi
lên sắc nước, của núi, của trời. Không chỉ thế, để làm nổi bật vẻ đẹp của màu nước Sông Đà vào mùa
xuân Nguyễn tuân đã đặt trong bình diện đối lập với màu nước của sông Gâm và sông lô.Từ đó chúng
ta thấy sự am hiểu của Nguyễn tuân và đặc biệt là tình cảm yêu mến của nhà văn dành cho Sông Đà.
Còn vào mùa thu, nước Sông Đà “ lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội mỗi độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “ lừ lừ chính
đỏ như da người bầm đi vì rượu bữa” chắc chỉ có một mình Nguyễn Tuân. Bên cạnh đó,từ láy” lừ lừ”
kết hợp với tính từ “chín đỏ” tác giả đã miêu tả được dòng chảy của sông đà nặng nề chậm rãi của
một dòng sông chở nặng phù sa. Nhà thơ Trần Quang Quý trong thi phẩm “Sông Đà” đã cất lời ngợi
ca vẻ đẹp màu mỡ ấy:
“Sông Đà dâng lên những quả đồi đất đỏ trung du
tôi ôm dòng sông nghe giai điệu bè trầm ngàn xưa
kể chuyện
gác lên sông những lườn cong nhớ
môi phù sa khép bóng hoàng hôn
mãi khuấy trong tôi nhịp những con thuyền”.
("Sông Đà", Trần Quang Quý)
Dòng phù sa nặng nề đang chảy. Phù sa ăm ắp sông Đà đã đang và sẽ đổ đi khắp ruộng lúc, bờ dâu,
bãi mía…để góp phần tô điểm cho sự trù phú của Tổ quốc. Nhưng có lẽ hình ảnh so sánh phía sau:”
con người bất mãn, bực bội mỗi độ thu về” không chỉ giúp người đọc hình dung một cách cụ thể màu
sắc đặc trưng của nước Sông Đà vào mùa thu, mà nó còn chứa đựng tiềm ẩn những đe dọa của một
dòng sông “năm năm báo oán đời đời đánh ghen” với con người.
Nguyễn tuân lại một lần nữa cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng của Sông Đà ở trong một hoàn
cảnh đặc biệt: tác giả đi rừng lâu ngày và thèm một chỗ thoáng rồi đột ngột đổ ra sông đà. Hoàn cảnh
ấy đã bộc lộ được tình cảm của tác giả và sự hứng thú chúc vẻ đẹp của con Sông Đà dưới góc nhìn từ
trong rừng ra. Nguyễn tuân không chỉ nhìn dòng sông ấy như một con người, mà còn hơn thế, một
con người có một tâm hồn nghệ sĩ. Chính vì vậy Nguyễn tuân mới coi dòng sông đà như một vị cố
nhân, trong nhiều tác phẩm nhà văn họ Nguyễn đã thể hiện tình yêu với những con người tài hoa
những thiên nhiên mỹ lệ. “Cố Nhân” là một người bạn tri âm tri kỷ, là một người bạn lâu ngày không
gặp (hiểu mình hiểu người). Làm sao có thể không yêu cho được lối viết đầy thi vị của Nguyễn trọng
đoạn ông “nhìn sông Đà như một cố nhân”. Sự nhân hoá đó làm cho con sông gần gữi hơn. Như Tản
Đà cũng từng viết:
“ Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
Chính vì thế Nguyễn tuân mang trong mình sự am hiểu đối vi dòng sông đà lại “lắm bệnh lắm
chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Thế nhưng khi được gặp
lại “cố nhân”, văn sĩ lại trào dâng một cảm giác “đằm đằm, ấm ấm” của nắng xuân cứ thế thấm thía
thêm niềm hạnh phúc trong lòng mỗi người. Phải chăng bởi con sông kia quá gợi cảm và quyến rũ
như một “người tình nhân chưa quen biết”, dù rất quen nhưng cũng rất mới, khiến người ta khao khát
được ngắm nhìn, được làm thân.Mải bám gót anh liên lạc trở về, để rồi khi nhìn thấy con sông Đà
hiện ra bao nhiêu ký ức và kỷ niệm lại ùa về và ngòi bút của Nguyễn Tuân một lần nữa thực sự thăng
hoa. Đó là những cảm xúc vui sướng và hạnh phúc khi gặp lại một cố nhân được bộc lộ cảm xúc một
cách trực tiếp “ Vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm” và “ vui như nối lại bao chiêm bao đứt
quãng” Niềm vui ấy được so sánh thật tinh tế và độc đáo dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, khi lấy
niềm vui để so sánh với những điều được mong đượi tưởng chừng như khó xảy ra. Theo hành trình
khám phá vẻ đẹp thơ mộng của sông Đà, Nguyễn Tuân đã mở ra một bức tranh tràn ngập cảnh sắc của
Đà giang. Trong khoảnh khắc ấy, văn nhân ngẩn ngơ khi thấy dải nước sông Đà “lóe lên một màu
nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.Trong cái nhìn của ông, đó là một
công trình nghệ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt vời của tạo hoá và một công trình nghệ thuật tuyệt đỉnh, tuyệt
vời của con người, trở thành biểu tượng của trạng thái nhân sinh. Không chỉ thế, Nguyễn Tuân còn
miêu tả cảnh sắc phong phú không kém phần lãng mạn qua nghệ thuật liệt kê và điệp từ “ bờ sông Đà,
bãi sông đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông Đà”. Sông Đà ở góc độ này đã gom nhặt tất cả
những gì là đẹp đẽ nhất với những nét đẹp đa dạng khác nhau cũng không kém phần cổ kính của đất
trời Tây Bắc.
Một sông Mã gầm khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến
với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền
hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “ Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.Với
điệp vần “tôi”, “trôi” bắt vào nhau văn nhân như đẩy con thuyền đi, không cần chèo chồng gì, lững lờ
đi về một miền yên ả, một cõi hoang sơ. Vẻ đẹp ấy còn thể hiện ở đôi bờ sông “ cảnh ven sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Hình như từ đời Trần, đời Lý đời Lê quãng sông ấy cũng lặng tờ đến
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
thế mà thôi. Từ đó, tác giả đã miêu tả được sự tĩnh lặng êm đềm của dòng sông qua cái thăm thẳm, xa
xăm của thời gian. Con sông bây giờ không hẳn là của hiện tại mà nó trôi ngược về quá khứ xa xưa
với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả “ B sống hoang dại như một bờ tiền sử” Tác gỉa
đang hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước để làm nổi bật vẻ nguyên sơ của
dòng sông Đà. Hơn nữa dòng sông ấy còn hiện lên trong trẻo êm đềm,nguyên sơ thuần khiết vừa
hoang dại như một thời lịch sử xa xăm qua cách liên tưởng và so sánh phong phú “bờ sông hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích cổ xưa”. Câu truyện cổ tích ấy đã làm sông Đà hiện lên như những gì trong
trẻo, là cội nguồn nuôi dưỡng tắm mát cho tầm hồn mỗi con người. Càng đọc, ta càng có cảm giác
như tác giả đã nhập thân làm mọt vi cỏ cây sông nước, như say sưa mê đắm với không gian nơi đây
để hiện dần trước ống kinh bao vẻ đẹp sinh động “ Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”hay
“ nương ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”. Hình ảnh ấy khiến chúng ta liên tưởng đến một
mùa xuân cũng xanh mướt tràn đầy sức sống trong thơ của đại thi hào Nguyễn Du:
“ Cỏ non xanh tận chân trời”
Bằng tất cả tài nằng và tâm huyết của mình, dòng sông dữ dội đã mờ phai, chỉ còn hình ảnh của dòng
nước nhẹ nhàng, cũng có những rung động yêu thương “ dòng sông quãng này lững lờ như nhớ
thương những hòn đá xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc.” Dù được tái hiện góc độ thiên
nhiên nhưng Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào sông Đà những cảm xúc tinh tế của một người nghệ sĩ tài
hoa. Qua nghệ thuật nhân hoá đầy sinh động “ nằm im như lắng nghe giọng nói êm êm của người
xuôi, Sông Đà hiện lên như một con người đa sầu đa cảm, nó cũng biết nhớ biết thương.
Không chỉ là sự uyên bác cùng vốn hiểu biết sâu rộng của Nguyễn Tuân trong nhiều lĩnh vực
như : văn học, lịch sử, địa lí,.. Mà còn là lối viết tài hoa qua cách sử dụng từ ngữ, các biện pháp tu từ,
hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo chính xác và cách tiếp cận đối tượng ở phương
diện thẩm mĩ. Tất cả đều được hoà quyện để vẽ lên dòng sông Đà lãng mạn, thơ mộng, trữ tình đẹp
đẽ, dòng sông như một công trình mang vẽ đẹp tuyệt mĩ của tạo hoá. Từ đó thể hiện tình yêu say đắm
của nhà văn với dòng sông và rộng hơn là tình yêu đất nước.
Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của Nguyễn Tuân
được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mĩ. Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước, một tâm hồn
nhạy cảm với văn chương Nguyễn Tuân đã mang đến cho độc giả hình ảnh của một con sông Đà độc
đáo, khác lạ và chưa từng lặp lại mình trong bất kì trang văn nào. Có lẽ bởi “ Văn chương cần sự độc
đáo hơn bất kỳ một lĩnh vực nào khác ” . Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc
vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa…
Nguyễn Diệu Linh
Học sinh khóa văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 2: Cảnh vưt thác
Bng ngò úi b t t i hoa v quan ni m duy m v c p Nguy n Tuà à ái đẹ ân đã xây dng thành
công h nh t ng ng i l s m t h nh t ng ngh thu o h p d n. ng kh ch sì ượ ườ ái đò ông Đà ì ượ ật độc đá Ô á ông
Đà à tu i ngo i 70 nh ng th n h nh r n ch c nh m t b c t ng c m thư â ì ư ượ ch: ng y nh ng c nc ông đầ âu
thương t ch tr n chi n tr ng S m Nguy n Tu n g l í ê ế ườ ông Đà à â ọi đó à “huân chương lao động si u hê ạng”,
tay ng l u ngh u nh c i s o, ch n ng khu nh khu nh; nh n gi ng cao v i v i, gi ng ng ô ê ê ư á à â ô i ô ô nh ư
tiế ướng thác tr c ghnh. Miêu t người l nh v y Nguy n Tuái đò ư ân đã phn nà o kh c h c vọa đượ
đẹ p c a con người lao động gn bó vi chiến tr ng s ng nườ ô ước. H nh t ng ngì ượ ười lao động không ch
khc h a qua ngo i h nh m c c kh ì à òn đượ c h a qua t nh c ch v í á à tr thí ông minh. ng xem sÔ ông Đà như
mt thi n anh h ng ca v thu c l ng s , thu c t t cê ù à ò ông Đà lung l ch; n c binh ph p c a th ắm đượ á n
sông th . Ch nh v v y trong tr n th y chi y binh h ng t ng m nh, ph n th ng v n thu c v ần đá í ì ến đầ ù ướ
con ng i tr d ng v t i hoa. Nh ng tr i nghi m ch n th c v c nh s c h ng v , d d i nườ í ũ à à â ù ĩ ơi đây được
Nguyn Tu n kh c h a m t câ ách đậm nét qua cnh vượ á t th c c a ngư i l qua ba trái đò ùng vi th ch
tr thn. Tr n th y chi n n y gi a ng i l v con s c d c ế à ườ ái đò à ông Đà độ ó ượ ế g i là m t cnh t ng hi m
có v kh gà ó p li trên đời.
cung đoạn th nh ât, Nguy n Tu n d n h t b t l c v ế ú ào miê u t trùng vi th ch tr u ti n. ận đầ ê
ù tr ng vi th ch trn này thác đá ông Đà s đã chun b dà àn tr a s lận đị ẵn, đó a v i b n c a ttrận đị ,
mt c a sinh. y n c ph i h p v reo h l m thanh vi n; nh ng h b v , oai phong l đâ ướ ới đá ò à òn đá m
lit; m t h n y tr ng nh ò ô ư đang hất h m h i c i thuy n phà á i xưng t n tuê i tr c khi giao chi n v ướ ế à thách
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
thc c i thuyá n có gii th ì tiến g n v o. B à ng c c t ngá : reo h , bò v , oai phong l m li t, h t h m h i, à
thách th c... ng ười đọ ận được cm nh c không kh n chi n n ng b ng gay c n hí tr ế ó i h p, kch tính. Đó
chính l t t i ph thu n ng c a Nguy n Tu n. Th s c nh n h a nh nh ng k à bi à ù ngô â ác đá ông Đà đượ â ó ư
rt nham hi m v kh à ôn ngoan. Ch ng kh ng ch nh tr n m t tr n gi p l c m c nh b ng c ú ô đá ê á á à à òn đá
ngh thut t m l chi n. Trâ ý ế ước đó úng đã ích “giọ ch dùng âm thanh ca thác khiêu kh ng gn mà chế
nhạo”. Còn gi đây chúng li nh “nướ àc thác l m thanh vi i b n t nh hung h n nh mện cho đá”. Vớ í ã ư t
loà á đãi thy qu i, sông Đà đánh ph đầ ườ ô ù óu ng i l vái đò i nh n thững đò ế v c ng hi m h c. S ông Đà
cy th quế ân đô ên đãng tướng mnh n “ùa v o m b g y c n chà à ã á èo”, liều mng vào sát nách mà đá
trái”, “thúc gi vào bng v hà ông thuy lền”, có úc ch i c thuyúng “độ n l t lo ng tên”. Mộ ạt độ được
Nguyễn Tuân huy động để miê u t cách đánh c a s l m ng c kh ông Đà à ười đọ ông kh i r ng m nh tr ù ì ưc
s hung b o c a thi n nhi n: a v o, b g ê ê ù à ãy, đá i, đội,... Tuy bị tấ trái, thúc g n công bt ng nhưng
người l v n b nh t nh. V i chi n thu t phái đò ì ĩ ế òng ng để dưỡng s c cho nh ng tr ùng vi s p t ới, “ông
đò hai tay gi mái chèo kh i b ht lên kh i sóng”; ông Đàc này s li chuyn thế bám ly thuyn và
s d n v m l y th t l ng ng l i l t ng a m cho ụng đò ật “tú ư ô ái đò đò ình ra”. Không để ông đò
có c h i xoay x , sơ ông Đà l i chuy n th đánh mi n hiếng đò ểm độ ất “cảc nh cái lu ướ ông n c v s bt
chí y b p ch t l y h bó người l nh mi n hi m, m ng hoa l n, t ng nhái đò”. Dí ếng đò t ô ê ưở ư “một ca
b đom đó ên đầ óng”. Đòn đau khiế ông đòm rng ùa xung châm la l u s n mt m o b l é ệch đi”. Đó à
cái m o bé ch v n do c i l nh c a n c l m nh n nheo l i th m mi á ướ à ă ê ếng đòn đau làm ông khách s ông Đà
mt nh t m t i, ng y d i. Phư í á â ép điệp động t nh h i l đá ùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn m v o â à ch hiểm”
gi l n c n d p, h nh h ngê ơn đau dồ à ườ ư ôi l . Nhái đò ng n ng ông đò én đau, giọ ng vn bình tĩnh, tnh
táo, s c l nh ch huy s u b á ơi ch o c n l i v t c a t v o c a sinh.è ò ượ à
Nếu n th nh đoạ t, Nguy n Tu n t â p trung mi u tê cuc vượt thác thế trn mt chi u t
sông Đà thì đoạn văn ti p theo nh v p trung mi u t c i t i tr cế à ăn t ê á à í a ông khách sông Đà s thông
minh, linh ho t v t i ngh v t th à à ượ ác dũng m nh, phi th ng. Chuy n t ã ườ thế trn ph ng ng , ng lò ô ái đò
chuyn thế ch động t n c ông. trùng vi th ch tr n th hai n y, s à ông Đà tăng cường một “tập đoàn
ca t c a sinh bử” trí l ch qua b h u ng n. So v i tr ng vi m t th ng vi n y kh kh n h n. ù ì trù à ó ă ơ
Nhưng kh ng vô ì thế ế mà ông đò nao núng. Vi kinh nghim mười năm chi n tr ng s ng n c, ngườ ô ướ ười
lái đò đã “nắm ch c binh ph p c a th n s ng th , á ô ần đá ông đã thuc quy lut ph c k ch c a l ng í ũ đá”. Ô
đò ũ c ng t tri t l v ế ý i mình “cưỡi l n th c sê á ông Đà l c n c ng nh l c i hà ưỡi đế ù ư à ưỡ ổ”, vì thế “không mt
phút ngh tay ngh mt ph i ph á luô òn v ng v y th hai vâ à i lu n chi n thu đổ ô ế ật”. Ở trn n y à ông đò đánh
ph đầu vi k hoế ạch đánh nhanh thng nhanh.
Như m t v ng vi a, m ch ận độ ên đua ngự ông đò “nắ ắc được cái bm s ng luóng đú ng r i, ông
đò ươ ghì c ng lái”, ông “phóng nhanh”, “lá ết”... tốc đội mi di chuyn mau l. Nh ng s cư ông Đà ũng
không phi d ng v a. Ch ng x nh n ú ô ra đị íu chiếc thuy n v o t à ập đoàn ca t . Ông đò đã cnh giác sn
nên “đứa thì ông tr nh m r o b i ch a th s n l n ch m ng ti ng loá à ơ èo”, “đứ ì đè ê ặt đôi ra để đườ ến”. t
độ ô ù ò ng t được huy độ ột động như m i quân ng n ng h ng h u h reo theo tng nhp tiến c a ông đò:
nm, gh , ph ng, l i, tr nh, r , ch nh nhì ó á á ảo, đè t...Chí s m ưu trí và t i n ng y v t qua h t cà ă ông đò ượ ế ác
ca t . M ùt tr ng vi vi bao c a t , ca sinh m v i ng ng l à ch à ón đòn ô ái đò đã đá nh sp v ng vò ây ca
lũ đá, đồ ọn đáng thi làm cho b phi thua cu c v i b m u, xanh l ặt “tiu nghỉ è tht vọng”. Qua đó để
thy ng i khườ ách s quông Đà th àt l Trí D ng song toũ àn.
Cu ườc chiến th ba c y kũng đầ ch tính, d ng nh sau m i th ch tr nguy hi m l i c ng ư ận độ à
tăng th thua tr n hai tr ng vi tr c cho n n con s ng y c ng hi u chi n v d d n, n êm, đã ù ướ ê ông Đà à à ế ế à ó
còn m t c ơ h i cu ối để th th ách ng i lườ ái đò. Tr ng vi n y ù à í t c a h n m b n tr i b n phơ à ê á ê ải đều l à lung
chết c , ngu n s ng th l i n m ngay gi ì a b họn đá u v. C ó th ó n i ln này sông Đà đã dùng th ế “trên
đe dướ úa” lài b m cho người l phái đò ải đối mt vi th n tho i lế “tiế á ưỡng nan”, nhưng chính trong ranh
gii gi a s s ng v cà ái ch t, ng c l c chế ười đọ ại đượ ng ki n tế ài ngh v chèo đò ượt th n tuy t vác đế i
ca ng i lườ ái đò, ông đã biến chi c thuy n s u b i ch o th nh m t m i t n c n ế á ơ è à ũ ê ò ông gi ng nh m t cung ư
th đã ng th ng thuy n ch c th ng c a gi a. Thuy n v t qua c c nh m , c nh kh p, v t v t, “phó ú ửa đá á á é ú ú
ca ngo i, c a trong l i c a trong c ng t a nh mà ù ư t m i t n tre xuy n nhanh qua h i n c, v a xuyũ ê ê ơ ướ ên
va t động lái được, lượn được. C ngườ i c thuyn nh bay l ng s ng nư ên cù ô ước Đà giang v i m t v
kiêu hùng, ng o ngh .
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Như v y b ng ki n th c uy n b c, kh n ng quan s t, li n t ng t ng t ng phong ph , s ế ê á ă á ê ưở ưở ượ ú
linh ho t c a ng i b t k t h p gi a mi u t , t s .. Nguy n Tu ò ú ế ê ân đã t i hi n l i m t cu c chiá ến đầy k ch
tính gia ng i lườ ái đò v con sà ông Đà, qua đó d t c m x c c a ngn d ú ười đọc đi t h i h p, lo l ắng đến
h h , th ch th v c m phê í ú à ục. Đây l chià ến thng hi n h ch c a con ng i tr c thi n nhi n, chi n th ng á ườ ướ ê ê ế
ca s ngoan c ườ ò ũ ng, l ng d ng c m, quyý chí ết t m v t qua khâ ượ ó à kh lăn để m ch thiên nhiên.
Nguyệt Hà
Học sinh khoá văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Bài làm 3:
Khám phá về con sông Đà với dòng chảy dữ dội của núi rừng Tây Bắc là một thành
công đặc sắc của Nguyễn Tuân. Chỉ có ông mới không nhọc công dò đến ngọn nguồn của lạch sông,
truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát ngyên của nó thuộc huyện Cảnh
Đông và thoạt kỳ thủy, dòng sông mang những cái Trung Hoa khá thơ mộng như: Ly Tiên, Bả Biên
Giang. Cũng chưa có một nhà văn nào trước Nguyên Tuân có thể kể tên vanh vách 50 trên 70 cái tên
của các con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu về đến chợ Bờ. Cũng chẳng có ai
như Nguyễn Tuân có thể hạ bút viết đúng ba câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay
ngang qua miền sông ấy. Nói đến sông Đà một con sông quê hương, nhà thơ Quang Lâm đã từng
viết rằng:
“Đẹp ngàn đời biển trời sông bát ngát
Cá dầm xanh, anh vũ nhảy theo mùa
Khi mùa lũ thác reo gầm dữ dội
Thu chớm lạnh sóng nước lặng lờ trôi”.
Dòng Đà giang qua cảm nhận của Nguyễn Tuân không chỉ là một sinh thể có hồn và tràn đầy sức
sống, mà hình ảnh con sông ấy vừa dữ dội nhưng cũng rất nên thơ nên họa. Lúc hung bạo nó như là
kẻ thù số một của con người, lúc trữ trữ tình nó lại đầy chất thơ và thân thiết với con người như một
cố nhân xa cách thì nhớ nhung lưu luyến. Cho nên hai câu đề từ có thể coi là đã thâu tóm được hình
tượng sông Đà: “ Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang
độc bắc lưu”. Mà nói như Nguyễn Tuân, đối với ông cái đẹp đó phải là “Đã dữ dội phải dữ dội đến
khác thường tột đỉnh và đã đẹp phải đẹp đến tuyệt mĩ giai nhân”. Bởi vậy mà khi đặt chân lên mảnh
đất Tây Bắc, nơi ấy có núi sông diễm lệ, có thung lũng lúa chín vàng, có đá chìm đá nổi, có gió cuốn
mây bay, có nắng vàng rực rỡ, nhưng nhà văn chỉ chọn sông Đà vì chỉ có con sông này mới hội tụ đầy
đủ những vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc. Viết về sông Đà, nhà văn sử dụng chủ yếu là thủ pháp nghệ
thuật nhân hóa. Ông không viết sông Đà chảy vào lãnh thổ Việt Nam, mà ông viết là “Sông Đà xin
nhập quốc tịch Việt Nam”, không viết sông Đà mở rộng dần ra mà viết “Sông Đà trưởng thành dần
lên”.
Không phải ngẫu nhiên mà trong văn giới cùng thời, họ gọi Nguyễn Tuân là “người có sợ tóc chẻ làm
tư”, ông xứng đáng là một nhà ngôn ngữ. Bằng những trang viết sinh động, bằng những câu văn, hình
ảnh độc đáo, gợi cảm, bằng ngôn ngữ đa dạng, phong phú, Nguyễn Tuân đã khắc họa được hình ảnh
một con sông Đà dữ dằn
và hung bạo làm sao! Ca dao có câu:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”.
Hung bạo ở chỗ đôi bờ xích gần nhau, làm cho lòng sông hẹp lại như cái yết hầu thắt giữa hai vách
đá dựng đứng hiểm trở. Hẹp đến nỗi mà “lúc đứng ngọ mới nhìn thấy ánh mặt trời”. Tác giả so sánh
vách đá dựng đứng với độ cao hun hút mây trời. Đúng ngọ là giữa trưa, lúc mặt trời lên cao và chiếu
những tia nắng vuông góc xuống mặt đất. Phải chăng, vách đá cao đến sừng sững, cao đến độ “chạm
trời” mà những tia nắng không thể chiếu xiên ngang, chỉ có thể hắt xuống từng giọt hiếm hoi xuống
lòng sông khi vào đúng ngọ. Hình ảnh ẩn dụ “vách thành” đem đến một ấn tượng trực tiếp cho người
đọc. Người ta biết đến “thành” như một khối kiến trúc quân sự vô cùng kiên cố: “thành cao hào sâu”.
Hình ảnh ẩn dụ này như khiến vách đá hai bên bờ sông Đà trở nên vững chãi hơn, cao và bí ẩn hơn
bao giờ hết. Nguyễn Tuân thật tinh tế, thật tài tình khi có những liên tưởng độc đáo, kiến trúc của
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
công trình mĩ thuật tự nhiên ấy cũng đúng như là sự sắp đặt với vách đá thì như thành cao, với dòng
nước phía dưới thì hào sâu hun hút, thăm thẳm. Ở đây, ta có thể “đứng bên này nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách”, có quãng“con nai con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia”, có chỗ “vách đá thành chẹt
lòng sông Đà như một cái yết hầu”, tác giả so sánh đá ở sông Đà như “cái yết hầu” gợi liên tưởng cảm
nhận qua chính xúc giác của người đọc. Động từ “chẹt” kết hợp với cách
so sánh, liên tưởng độc đáo của nhà văn gợi lên sự nguy hiểm của dòng sông, vách đá thành dựng
sừng sững, uy nghiêm chẹt từ hai bên của lòng sông hẹp tới mức như nghẹt thở, ngột nhạt. Ấn tượng
hơn nữa là việc “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình
như đang ở hè một i nghĩ mà ngóng vọng lên một khung cảnh cửa sổ nhà nào ở tầng nhà thứ mấy
vừa tắt phụt đèn điện”. Ở đoạn này, tác giả đã dùng tri thức ngược sáng của điện ảnh để cảm nhận, tạo
cho người đọc một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại. Cách so
sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng, cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận
kiệt cùng cái kho ấn tượng để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động đến hồn trí con người.
Nhờ chi tiết này mà độ cao của vách đá bờ sông cùng với dòng chảy nhỏ hẹp được tô đậm thêm, một
chi tiết tiêu biểu và lối liên tưởng bất ngờ, thiên nhiên hoang sơ gần với đời sống hiện đại của con
người. Những câu văn miêu tả, so sánh, liên tưởng đầy táo bạo mà không kém phần tinh tế của
Nguyễn Tuân làm cho dòng Đà giang đẹp, nhưng đẹp ở vẻ hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm. Chưa
dừng lại ở đó, nhà văn còn khiến người đọc bất ngờ khi miêu tả tính cách hung bạo , dữ dằn của
ghềnh sông với sự hp sức của gió, của sóng và của đá. Lại qua quãng Hát Loóng,
dài hàng cây số, gió phối hợp với nước, với sóng, với đá tạo nên những con xoáy thật kinh khủng:
“Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi
nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua quãng ấy”. Động từ “xô” được ngăn cách bởi
nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự trùng điệp, làm cho dòng sông đã hung bạo lại càng dữ tợn hơn,
tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to, của sóng lớn. Bằng lối
viết tài hoa, những câu văn được tác giả diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình
ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn, hung
hăng như lúc nào cũng muốn gây sự, chờ chực, giáng tai họa và tiêu diệt con người. Dòng sông như
một kẻ bất chấp tất cả để lấy đi tính mạng của những ai đi qua đây, bởi “ quãng này nếu khinh suất
không thận trọng tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Hung bạo hơn nữa là khi đến với quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La, người đọc như bị
choáng ngợp trước sự hung bạo của những cái hút nước. Trên sông bỗng có những “cái hút nước
giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu” xoáy tít tận đáy. “ Trên
những cái hút ấy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra
những âm thanh đưc nhân cách hóa “nước thở và kêu như cái cống bị sặc” do nước bên trong và bên
ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ọc ọc ghê sợ, có lúc lại nghe rờn rợn như tiếng
“rót dầu sôi”. Con sông đà không khác gì một loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn
khủng bố tinh thần và uy hiếp con người, nó còn là một con hung thú đi đến đâu là gieo rắc nguy
hiểm đến đấy, cho nên “không một chiếc thuyền nào dám men gần”. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm
của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”, ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích
thích trí tưởng tượng của người đọc. Nếu câu văn trên thiên về tả thì hai câu văn dưới đây thiên về kể:
“ Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những
thuyền đã
bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng
sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Cách so sánh, ví von, mô tả của tác
giả gây cảm giác rất mạnh làm cho ngưi đọc như nghe thấy, nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ của
sông Đà mà thót tim lại.
Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Trước hết là âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn,
hoang dã: “ Con sông Đà đã trở thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm. Còn xa lắm
mới đến cái thác dưới nhưng đã nghe thấy tiếng nước réo gần mãi lên, réo to mãi lên”. Ban đầu tác giả
miêu tả tiếng nước “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên
khúc nhạc của thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích, mạnh mẽ và man dại: “nó rống
lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá
tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Dưới chân thác “sóng bọt đã
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
trắng xóa một chân trời đá”. Những thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt
người lái đò. Nhờ sự liên
tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả
không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả
nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật. Tác giả đã huy
động rất nhiều biện pháp nghệ thuật cùng với việc sử dụng các động từ mạnh đã làm cho hình ảnh
sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật phản diện mang tâm địa hiểm ác với cái tính cách khôn khéo,
mưu trò, ranh ma.
Nguyễn Sơn T
Học sinh khóa văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
VII. Vợ chồng A Phủ
Đề 1: Cảm nhận về nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài”. Từ đó
nhận xét về giá trị nhân đạo mà Tô Hoài gửi gắm.
Trên chặng đường nghệ thuật Tô Hoài từng cho rằng “ Viết văn là một quá trình đấu
tranh để viết ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần
tượng trong lòng người đọc.” Chính vì thế ngay cả khi ông viết về miền núi, về những
chuyến đi thực tế thì những trang sách của ông vẫn mang theo những vốn hiểu biết sâu sắc
về nhiều vùng miền với vốn ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Từ những dòng ký ức không phai
khi trở về tuổi thơ với hình ảnh Dế Mèn, thì giờ đây ngòi bút của Tô Hoài hướng đến hiện
thực về số phận những người dân bị áp bức, bóc lột nơi miền núi qua tác phẩm “ Vợ Chồng
A Phủ.” Mà đặc sắc hơn cả là hình ảnh của A Phủ một chàng trai tự do của núi rừng với số -
phận bất hạnh.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với Tô Hoài đã để lại nhiều trầm trồ, thán
phục: “ Tô Hoài là nhà Hà Nội học.” bởi những kiến thức ông biết không có trong bất cứ một
cuốn sách nào, một thư viện nào. Đặc biệt hơn cả, ngòi bút của Tô Hoài luôn dành một sự
quan tâm lớn hướng đến những con người lao động đặc biệt là những con người lao động
nghèo có số phận bất hạnh ở vùng núi cao Tây Bắc. Tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” cũng là
một trong những tác phẩm đặc sắc như thế được Tô Hoài sáng tác sau chuyến đi thực tế tại
Tây Bắc năm 1952, như một cách để trả ơn nghĩa tình sâu nặng của đồng bào vùng cao.
Trong tác phẩm này tác giả đã xây dựng hìnhợng nhân vật A Phủ người nô lệ sẵn
sàng đi tìm sự tự do, đứng lên gỡ bỏ xiềng xích, ghét những bất công ngang trái,.. A Phủ đã
xuất hiện trong một hoàn cảnh đặc biệt, bất bình trước cái xấu đứng ra bảo vệ kẻ yếu qua
một loạt các động từ mạnh được tác giả miêu tả một cách sinh động: “chạy vụt ra” , “ xộc
tới” “ nắm cái vòng cổ”, “kéo dập đầu xuống”, “xé vai áo”, “ đánh tới tấp”,... Giọng văn dồn
dập khẩn trương đã hé mở tính cách của nhân vật mạnh mẽ ngang tàng, bướng bỉnh.
A Phủ là một chàng trai có số phận éo le, là nạn nhân của nhng hủ tục lạc hậu. A Phủ
là người Háng Bla. Cha mẹ anh chị em của A Phủ mất trong một trận dịch đậu mùa. Năm ấy
A Phủ 10 tuổi. Tuy còn nhỏ nhưng A Phủ đã mang trong mình một cá tính mạnh mẽ. Khi có
người làng bắt A Phủ bán cho người Thái dưới cánh đồng thấp.A Phủ ngang bướng không
cam chịu ở dưới cánh đồng thấp, rồi trốn lên núi cao rồi lưu lạc đến Hồng ngài. Qua đó, Tô
Hoài đã vẽ lên số phận của một đứa trẻ có tuổi thơ bơ vơ bất hạnh và chịu nhiều đau
thương.
Dù cuộc đời chịu nhiều sóng gió nhưng A Phủ là một con người có phẩm chất tốt đẹp, là
chàng trai tự do của núi rừng. Trước hết, A Phủ hiện lên là một chàng trai ngang tàng
bướng bỉnh không sợ cường quyền, ghét những bất công ngang trái. Từ khi còn nhỏ đã
dám một mình trốn lên cánh đồng cao để tìm ánh sáng của sự tự do. Trong một lần đi chơi,
vì sự bất bình, A Phủ dám đánh con quan làng khi A Sử phá đám những đám chơi những
cuộc chơi của trai gái ngày tết. A Phủ khác với tất cả những người khác, không sợ cường
quyền và sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu. Trong phiên sự kiện, A Phủ bị đánh đập tàn nhẫn nhưng
không hề khóc lóc van xin. A Phủ quỳ chịu đòn chỉ “im lặng như tượng đá”.
Không chỉ thế anh yêu lao động, giỏi giang và khỏe mạnh. Có lẽ a phủ lớn lên trong lao
động, một mình bươn chải kiếm sống, vì thế mà A Phủ biết đúc lưỡi cày, biết địu cuốc lại
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo. A Phủ chạy nhanh như ngựa, A Phủ đã trở thành niềm
khao khát của bao cô gái trong làng. Anh được nhiều người mê nhiều người nói đứa nào
lấy được A Phủ là bằng có được con trâu tốt trong nhà. Nhưng A Phủ nghèo nên không lấy
được vợ, vì vậy vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn
phóng khoáng hồn nhiên yêu đời yêu chính nghĩa tự do của tuổi trẻ. A phủ chỉ có độc một
chiếc vòng vía lần trên cổ, cũng chẳng có quần áo mới. A phủ cũng cứ cùng trai làng đem
sáo khèn, đem con quay vào quả pao, của yến đi tìm người yêu ở cái làng trong vùng. Có lẽ
A Phủ hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của con người lao động vùng núi.
A Phủ là nạn nhân của cường quyền và nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi của
bọn chủ nô phong kiến miền núi. Đau khổ hơn, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn
không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân, thấy thái độ hống
hách của A Sử, A Phủ đã ném con quay bằng gỗ vào mặt A sử rồi nắm cái vòng cổ, kéo
dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp... Hành động dữ dội của đó của A Phủ có nguyên
nhân sâu xa từ mối hận thù giai cấp, anh rất ghét cường quyền bạo ngược của bọn giàu có.
Có lẽ, đó còn do tính cách ngang tàng yêu lẽ phải, ghét bất công A Phủ đã đánh con
quan làng và sau đó bị cha con thống lý bắt về sự kiện. Trong phiên sự kiện, một không
gian như thời trung cổ dã man tàn bạo quái gở được hiện lên thật sinh động qua ngòi bút
miêu tả của Tô Hoài. Xử kiện bên bàn đèn thuốc phiện và bị cáo là A Phủ không được bào
chữa một lời nào. Thậm chí, A Phủ còn bị mọi người xô đến đánh suốt từ trưa đến đêm.
Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt chảy máu. Cuối cùng, A Phủ phải đền cho nhà thống
lý một trăm đồng bạc trắng và trở thành người ở gạt nợ của nhà thống lý pá tra. Chính sách
cho vay nặng lãi ấy đã biến chàng trai trẻ yêu tự do thành nô lệ với bản án chung thân suốt
đời. Đúng như lời tên Pá Tra đã nói: “ đời này, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế
bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ bị ngược đãi và phải gánh vác
những công việc nặng nhọc nguy hiểm như đốt rừng, làm nương, cuốc nương, săn bò tót,
bẩy hổ, chăn bò, chăn ngựa... A phủ đã bị bóc lột sức lao động và coi rẻ, tính mạng. Khi làm
mất con bò A Phủ đã bị thống lý trói vào cột cho đến chết. Tính mạng của A Phủ bị quyết
định bắt bàn tay tàn bạo của thống lý. Khi đó A Phủ ta đứng trên bờ vực của cái chết: cơ
chừng này chỉ đêm mai là người kia chết chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Qua đó,
hoài đã miêu tả cuộc sống khổ cực tủi nhục và đau thương của A Phủ nhầm tiện tình cảm
xót thương với số phận đau khổ của những người lao động miền núi. Từ đó, vạch trần bộ
mặt tàn bạo dã man của bọn chúa đất, chúa Mường đã vùi dập không thương tiếc cuộc
sống của họ.
Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt bản chất gan góc, bất khuất sẵn có, A Phủ không
cam chịu mà tìm mọi cách để tự giải thoát: đêm đến A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng
dây mây, nhích giãn dây trói một bên tay. Sau bao ngày bị bỏ đói, bỏ khát, A Phủ bị trói
đứng ở góc nhà chỉ đứng nhắm mắt và thần chết đã in dấu trên hai hóm má xám lại vì tuyệt
vọng và khổ đau của A Phủ. A Phủ đã nằm trên bờ vực của cái chết. Còn nỗi đau nào lớn
hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan
khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng. A Phủ đã khóc một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai họ má đã xám đen lại. Nhưng chính dòng nước mắt ấy đã làm động lòng đến
người thiếu phụ. Mị từ vô cảm nay đã đồng cảm với nỗi đau của A Phủ để rồi sau cuộc đấu
tranh nội tâm dữ dội, Mị đã cắt dây trói cứu sống A Phủ. Khi được Mị cắt dây cởi trói, A Phủ
khuỵu xuống vì đuối sức sau bao nhiêu bao nhiêu ngày bị đói, bị khát. Nhưng trước cái chết
có thể đến ngay, A Phủ quật sức vùng dậy chạy cùng với Mị, giải thoát cho cuộc đời của
chính mình. A Phủ đã được tự do, hai người trốn khỏi Hồng Ngài tới du kích ở Phiềng Sa
gặp cán bộ A châu. A Phủ và Mỵ lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng
quê hương.
Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật A Phủ chủ yếu được khắc họa qua hành động, tính
cách. Tô hoài đã sử dụng ngôn ngữ mượt mà bay bổng, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh với
nghệ thuật trần thuật linh hoạt hấp dẫn. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đậm chất núi rừng Tây
Bắc đã góp phần tạo nên thành công của Tô Hoài trong cách xây dựng nhân vật A Phủ.
Thông qua nhân vật A phủ nhà văn đã phản ánh cuộc sống khốn cùng của con người lao
động dưới ách thống trị của bọn chúa đất, chúa mường. Họ đã bị trói buộc từ những con
người tự do vào vòng nô lệ. Bên cạnh đó, ngòi bút của tô hoài đãớng đến giá trị nhân
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
đạo sâu sắc và tác động đến trái tim của độc giả. “Giá trị nhân đạo” là để thể hiện tình yêu
thương giữa con người với con người, là yếu tố cần có của một tác phẩm chân chính. Đó là
niềm cảm thông xót thương đối với số phận của những người dân bị bóc lột dưới ách thống
trị của bọn chúa đất, chúa mường. Từ đó trân trọng phát hiện ngợi ca phẩm chất tốt đẹp, ca
ngợi sức sống và khát vọng mãnh liệt ở họ. Và cuối cùng Tô hoài đã chỉ ra cho họ con
đường để giải thoát, tự giác đi theo cách mạng. Nếu trước cách mạng tháng 8, ngòi bút của
các nhà văn đều đưa nhân vật của mình đi vào ngõ cụt. Chúng ta đã từng biết một chị Dậu
phải bán con, bán chó, bán sữa mà cuộc đời của chị vẫn u ám, bế tắc không thể thoát khỏi
cái nghèo. Hay đó là những đứa trẻ luôn mong ngóng đoàn tàu chạy qua để thấy được
những tia sáng trong cuộc chúng và có thể nhìn thấy một cuộc sống đáng sống hơn trong
tác phẩm “ Hai đứa trẻ”. Thậm chí, nhân vật Chí Phèo, một con quỷ của làng Vũ Đại cũng
đã chết trên con đường tìm về với lương thiện. Nhưng đối với Tô Hoài, ngòi bút của ông đã
được giác ngộ cách mạng, những số phận của con người lao động nghèo trong trang văn
của ông không hề bế tắc, tuyệt vọng. Mà ông đã tìm cho họ một con đường giải thoát và đi
theo ánh sáng của cách mạng. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn cũng sáng lên ở đó. Tô
Hoài cũng đã khẳng định được một chân lí muôn đời : Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó
có sự đấu tranh.”, để chống lại áp bức, nhân vật A Phủ cũng đã tự dũng cảm tìm lại ánh
sáng của sự tự do.
Qua việc khắc hoạ số phận, phẩm chất, tính cách cùng sức sống tiềm tàng của nhân
vật A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã làm nổi bật hình ảnh vẻ đẹp của chàng trai Tây Bắc, khoẻ
mạnh có tài năng và cá tính mạnh mẽ, là một biểu tượng của chàng trai núi rừng mộc mạc,
chân chất. Qua đó, Tô Hoài đã tái hiện bức tranh hiện thực tăm tối của những người lao
động nghèo, nơi giai cấp thống trị có thể tự do áp bức, tước đoạt đi quyền sống, quyền
hạnh phúc của người dân. Nhưng cuối cùng, họ vẫn đứng dậy tìm lại con đường sống của
chính mình và đi theo ánh sáng của cách mạng. Đúng như nhà văn Nguyễn Minh Châu
từng nói: “ Nhà văn tồn tại trên đời là để bênh vực cho những con người không có ai để
bênh vực.”
Nguyễn Di u Linh
Học sinh khóa văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Đề 2: Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
N u ta b t gế p một Hoàng C m cả đời đ m đuối trong không gian Kinh B c, m ột
Nguyễn Trung Thành say mê tr i lòng v m ch t s thi, m t Hoàng Ph ới Tây Nguyên đậ Ngọc
Tường thì th m c tâm h t tr i, sông n c Hu thì Tô Hoài m ồn cùng đấ ướ ế ột nhà văn xuất sắc
của văn học Vi t Nam hi i, l ện đạ ại đam mê lựa ch n d o cao Tây B c hi m tr làm không
gian đ tung hoành, đ thăng hoa, đ ể g i g m nh i. Ông luôn ững ý nghĩa nhân sinh cu c đ
cuồng say vi t theo xu h ng hi n th c, vi ế ư ết để phản ánh nh ng s t cu c s thậ cuộ ống đời
thường trong nh ng trang vi t bình d y ch t th . Ông s h u m ế và đầ ơ t nhãn quan phong
tục đặc bi t nh y bén và s c s o v nhi u vùng đ t, vùng mi n. T t c k t h p bi tài ế ến đề
miền núi tr thành m ng sáng tác t t y u, quan tr ế ọng và vô cùng giá tr c a Tô Hoài. Tiêu
biểu nh t trong cho cách ấy là “Vợ ng A Phchồ ủ”, một thiên truyệ n đ y ch t th ơ th hiện sâu
sắc đồng th i c giá tr o và giá tr n th nhân đạ hiệ ực, c t ti ng nói lên án th l c phong ki ế ế ến
áp b c tàn b o cu ộc s ng ng i nông dân l ườ ương thiệ n, c m thông, trân tr ng, th ng xót s ươ
phận h và ng i ca khát v ng, ngh l c s ng mãnh li t c ủa h . Mà n tượng h n cơ là sức
sống ti m tàng c ủa nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.
Nhận định v nhân v t trong tác ph ẩm, nhà văn Tô Hoài đã viết: "Nhân v t là n i duy ơ
nhất t p trung h t th y, gi i quy t h t th y trong m t sáng tác." Nhân v ế ế ế ật văn học chính là
người ch ng, là hoá thân cho tinh th n và ti ng nói c a ng i ngh đườ ế ườ sĩ. Tô Hoài đã gửi
gắm trong từng trang văn là số n c a nh ng con ng ng nghèo nh ng luôn mang phậ ười lao độ ư
trong mình s c s ng mãnh li t âm cháy ch i th i c đợ ơ để vùng lên đòi lại ánh sáng c a s
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
tự do. Và Tô Hoài th c s ự thành công khi đã xây dựng m t nhân v ng trái tim ật làm rung độ
của biết bao độc gi - nhân v t M qua tác ph ẩm “ Vợ ng A Phchồ ủ”.
M là nhân v t trung tâm c a tác ph ng A Ph n là m t cô gái vùng cao ẩm “Vợ chồ ủ”, cô vố
trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa. Cô tài thổi sáo, th i lá, hi u th , có khát v ng t do ế ảo, chăm chỉ
và h nh phúc. Nh ng vì món n truy n ki p c a cha m , M ư ế ị một cô gái xinh đ p cũng không
thể thoát kh i ki p làm dâu g t n nhà th ế ống lí Pá Tra. Khi đó, Mị i s ng m t cu c s ng phả
bị a vđầy đọ c th xác l n tinh th n bị bóc l t s ức lao đ đã tộng. M ừng mu n cái ốn tìm đế
chế t v i nắm lá ngón trong tay. Nh ng M không th ư chết vì m t ch u. M hiế chấ p nh n
quay tr l i làm con dâu g t n , s ng ki i nô l , t i nh c, b t h ếp đờ ạnh. Mị càng ngày càng
trở nên sống d ng d ng, l nh lùng vô c m v i chính b n thân mình. Song song v i nét tính ư
cách y l i là tâm tr ng c a m t con ng i, yêu cu c s ng luôn mong mu n thoát ười yêu đờ
khỏi ngh ch c ảnh và tìm đến ánh sáng của s t do. Điều đó được th hiệ n rõ nh t trong đêm
tình mùa xuân. Chính vì th ng kh nh: cái kh cái nhế, Tô Hoài đã từ ẳng đị ục mà Mị phải gánh
chịu nh l p tro tàn ph khu t che l p s c s ng tiư ềm tàng trong lòng M ,. Và ch c n có m ột
luồng gió m s c th p cho tàn ngu i l nh ạnh đủ ổi đi lớ ấy thì đốm l y s bùng cháy và giúp ửa ấ
Mị v t qua cu c sượ ng đen t i của mình.
Sau khi tr thành ng i con dâu g t n , M ườ phải s ng nh ững ngày tháng đau thương, tủi
nhục, tăm tối. Rồi nh ng t ng áp b c bóc l t c a nhà th ống lí Pá Tra , Mị phải s ng ki p nh ế ư
con v t th m chí không b ng con v thì M t ật “ bây giờ ưởng mình là con trâu, mình cũng là
con ngựa” “ lúc nào cũng nh đi nh ớ l i nh ng vi ệc làm gi ng nhau, ti p nhau v ra m ế ỗi
năm, mỗi mùa, mỗi tháng làm lại làm đi làm l i. “ b giam hãm đ y đ a trong cái đ ịa ngục
khủng khi p c a nhà th ng lý, Mế ị đang chết dần, chết mòn theo năm tháng, tâm hồn l nh
lẽo, tr ng v ng. M ị bị tê liệ t c i, slòng yêu đờ ức s ng l n tinh th n ph n kháng, m ất h t ý ế
thứ c về th i gian, không gian: lâu trong cái kh M ị quen rồi, m i ngày M càng không nói,
lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
ng t ng r ng cu i c a M s mãi mãi nh ng không ph i vNhữ ưở ộc đờ ư thế như ậy. “Sức
sống tiềm tàng” là khát vọng s ng mãnh li c ti n bên trong tâm h n c a con ng ệt đượ ềm ẩ ười
và đây cũng là vẻ đẹp của Mị. Nó nh h t h t m m b vùi trong các b ng, chư i m t cđợ ơn
mưa là nả y m m thành cây đời xanh t i. S c s ng i dươ ấy đã trỗ ậy khát khao được gi i phóng
tự do trong M khi đêm tình mùa xuân ng Ngài đã đở Hồ ến.
Mùa xuân đã khơi g i t t c ng gì còn l i trong M nh ị, lúc này Mị đang hồi sinh bởi mùa
xuân là mùa c a cây c ối đâm hoa này l i hè đình đám, mùa cộc, mùa c a h ủa s g p g , hò
hẹn lứa đôi… có l đó cũng chính là m ột ph n trong ký c t p c a m . Mùa xuân H ng ươi đẹ
Ngài đ c nhà văn Tô ượ hoài miêu t m t cách sinh động và h p d n v i nh ững câu văn tràn
đầy màu sắc hình nh. Khung c nh mùa xuân t ươi vui tràn đầy s c s ng và ánh sáng qua
hình gianh vàng nh i l p hoàn toàn vảnh “ cỏ ửng”. Hình ả ấy đã đố ới không gian tăm tối của
mị. Đó là hình ảnh căn buồng kín mít v i cái c a s l vuông b ng bàn tay, M ngồi trong đó
trông ra lúc nào cũng thấy m m ng tr ng, không bi t là s ng hay là n ng. Gi a cái giá trắ ế ươ
rét của mùa đông những ng i dân H ng Ngài v n r c r ườ đón Xuân “ thấy hoa xòe nh con ư
bướm s c s y màu s c ph n ch n, náo n c. B c tranh mùa xuân không ch c miêu t ỡ” đầ đượ
bằng những đường nét hình nh mà còn là âm thanh c ủa đám trẻ đang cười ầ m đ y hồn
nhiên, t i vui. Không ch , ti ng sáo là âm thanh quen thu c c a vùng núi Tây Bươ thế ế ắc, là
tiế ng lòng đ m say c a trai gái Mèo g i b n tình nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài
để vọng vào mi n sâu th m trong tâm h n M ị, đánh thức s c s ng v n còn ti n trong cõi ềm ẩ
lòng ng i thi u n Tây B c này. Tiườ ế ếng sáo đang thiết tha, b i h i l ặp đi lặp l i trong tác
phẩm nhiề u l n qua sáu từ láy khác nhau: lấp ló, thi t tha, b i h ng, l l ng, dế ổi, văng vẳ ơ ập
dờn. Tô hoài đã rất tinh t khi miêu t ế tiếng sáo t xa đ n: ngoài đến gầ ầu núi l p ló v ng l ại
thiết tha b i h ổi, văng v ng đ ầu làng, l ng l bay ngoài đ ng, trong đư ầu M d ập d n ti ng ế
sáo. Chi ti y tr l i nhết ấ ư một ám ảnh, m i g i v ng v n, kh i g i ký c trong mươ ơ ị. Đó
hiện thân v đẹp của phong tục, nét đ p và văn hóa mi n núi,. Nó cũng là bi ểu t ng cho ượ
tiếng g i c a cu c s ng, kh i g i nh yêu và khát v ng h nh phúc trong M . T t c ng âm ơ nhữ
thanh màu s c, hình ảnh đã t c tranh mùa xuân đạo nên bứ ẹp th m ng, n ng nàn, r o rơ ực
tình yêu và tràn tr s c s ng.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Chính b c tranh xuân t i m i cùng âm thanh ti n nh ng bi ươ ếng sáo đã mang đế ến đổi âm
thầm nh ng mãnh li t trong tâm h n c a M . Ng nh lùng, d ng d ng vô cư ười đàn bà lạ ư ảm
nay không ch chú ý l ng nghe ti ng sáo t xa v ng l i mà còn hình dung ra bóng ng i l p ló ế ườ
ngoài đầu núi th i sáo g i b n tình. Không ch , M có nh n ra s thế ắc thái thi t tha b i hế ổi
của tiếng sáo:” Mị nghe ti ng sáo vế ọng lại thi t tha bế i h i”. Sau bao ngày tháng câm lặng, M
đã cất ti ng m c dù ch là âm thanh c a nh ng tiế ếng hát th m. B i su t m ấy năm tr c đó, ướ
Mị s ng mà nh t, su ư đã chế ốt ngày lùi lũi nh i bóng, lúc nào cũng cúi mư cá ặt, m i ngày càng
không nói, không nghĩ ng a, quanh năm suợi gì nữ ốt tháng ch làm nh ng vi c gi ng nhau:
quay s i gai, thái c a, d t v i, ch c ngự ủi, cõng nước t d ưới khe su i lên,...n i tiếp nhau v
ra tr c m t...Cô M chai s n, tê li t s c ph n mướ ản kháng đế ức kh n m đế ấy “cũng không còn
tưởng đ c ăn lá ngón tến việ ự t n ữa”. Tiếng hát cất lên là âm thanh của m t b n tình ca yêu
thương đầy xao xuy n, M i nh m theo bài hát:ế ngồ
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao ch a có con trai, con gáiư
Tao đi tìm người yêu
Lúc này M đã b t đ lòng mình đ ầu m đón nh n và hòa vào âm thanh n ng nàn c a tình
yêu g i trong ti ng sáo. Ti ng sáo c t lên t trái tim t ng ch ng nh chai s n c a M . Gi ế ế ưở ư
đây, ti ng sáo đã khiế ến tâm h n c ủa Mị đang thổn th c và b ng tình khi n cho M có ký ế ức
cuộc s ng ùa v ề.. Tiếp đ n, Tô Hoài đã tinh tế ế khi miêu t m ột nét đẹp phong t c t p quán
của con người vùng núi Tây Bắc. Là lúc này đây vào đêm tình mùa xuân M cũng u ống rượu
như bao người phụ n khác. Mị “lén lấy hũ rượu uống c t ừng bát”. Cách miêu tả tinh t , th ế
hiện chân thực nh ng bi i âm th m nh ng d ến đổ ư ữ d i trong tâm h n c ủa người đàn bà
tưởng ch ng nh ư đang nguội t t s c s ng y. Cách u c t ống “ự ừng bát” không phải là cách
uống c a ng ười thưởng rượu, cũng không phải cách u ng c a ng i thèm r u b u ườ ượ ởi đã từ
Mị không thèm khát r u n a r i. M uượ ng nh ư để say, đ quên, u ng nh n dùng men ư muố
say c a r ượu để dìm đi những nu i ti c, khát khao và ph n u ế ất đột ng t bùng cháy trong
lòng. Trong văn học, chúng ta không khó để tìm th y s t ương đ ng, đó là hình ảnh của
người ph n trong th c a H Xuân H ơ ương: “ Chén r ng đ nh” hay Lý ượu hươ ưa say l i t
Bạch thi tiên văn h c cũng đã gọc Trung Quố ửi g m trong nh ng v n th ng r u tiêu ơ: “ uố ượ
s sầu, s u v ẫn ầu”. Còn M ng đ n cái đ i đi cái đị d ng nh uườ ư ể mượ ắng c a r u làm v ượ ơ ắng
trong lòng. Cách u ng r u c a M báo hi u m ượ như ột hành động n i lo n, ch ng l i thân
phận mà chính M a ý th c rõ r t. Chính h i men c a r chư ức đượ ơ ượu đã đưa M v v i q trở
khứ ươ t i đ p. Và chính ti n v i nh ng hoài ni m: khi M còn là cô gái ếng sáo đã mang Mị đế
trẻ đẹp, tài hoa “ u c lá trên … có biốn chiế ết bao ng i mê, thườ ổi lá cũng hay như thổi sáo”. Mị
lịm m t ng y, s ng v ng ngày tr c v i khát v ng tình yêu, khát v i tr ồi đấ nhữ ướ ọng tuổ ẻ. Đặc
biệt hơn Tô Hoài đã rất tinh t khi dùng t ế “ s ng” ch i “nh ” , M ứ không phả thoát xác như
để tìm v những ngày xư a của s hạnh phúc và t do. Ảo giác quá kh mãnh li n m ệt đế ức
dường nh ng b t h nh c a hi n t i, khi n lòng M i ph i tr lư xoá đi nhữ ế “ phơ ại, lòng đột
nhiên vui s ướng”.
Quan tr ng h n, chính âm thanh, màu s ơ ắc, hay không khí ngày xuân đã tác đ ng đ ến
tâm h n c a ng i ph n t ườ lâu đã coi mình là ki p “ trâu” ki p “ ng a” trế ế ở v v i tu i tr
và ti ng g i c a s t do. M v n nh mình là m t con ng i, v n có cái quy n s ng c a mế ườ ột
con ng i. Vì th Mườ ế n ra Mnhậ ị vẫn còn trẻ. M i nh m t nhu c u thi t y u c muốn đi chơ ư ế ế ủa
bao nhiêu ng i ph n ườ khác vào đêm tình mùa xuân. Và lúc này chính b đã thoát ản thân M
khỏi s “ l m lũi” chai s ạn tâm h n ra bi k n c a bồn để nhậ ịch đau đớ ản thân. “ Mị và A S
không có lòng v i nhau mà v n ph v ải ới nhau” .Mị đã thực s c d y v i s thứ ức s ng ti ềm
tàng và c m th c v thân ph n c a chính mình. Có l đây là sự biến đổi âm th m nh ng vô ư
cùng mãnh li t d o nh ững thay đổi c a M trong nh ng ti ững hành độ ếp theo. Dù trước
mắt M là nh ng h nh phúc, là s t do c a tu ổi tr l i, nh ng trong M t n t đang trở ư ại đầy
rẫy nh ng mâu thu n. Lòng M phơ i ph i, nh ng b c chân c a M v n nh m t thói quen ư ướ ư
dẫn bước vào bu ng, ng i xu ng gi ng, trông ra l vuông m m ườ trăng tr , đắng. Có lẽ ối với
Mị n th c kh hiệ đau y cô đã quen, đã th n đ p nhơ chấ ến mức không t n cái chưởng đế ết
nữa, nay b ng tr nên phi lí không th p nh u có n m lá ngón trong tay lúc chấ ận đ c. “ Nượ ế
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Thông qua tình huống truyện éo le ấy, tác giả đã phản ánh chân thực bức tranh hiện thực của
làng quê Việt Nam trong nạn đói, thể sự đau đớn, xót xa, thương cảm đối với số phận rẻ rúng của con
người. Đó chính là hình ảnh xóm ngụ tràn ngập không khí của cái đói và i chết: đám người dắt
díu, xanh xám, dật dờ như những bóng ma…bên những người chết nằm còng queo chưa được chôn cất,
âm thanh tiếng khóc người chết, tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết, mùi ẩm thối của rác rưởi, mùi gây
của xác người, nhất là bóng tối lạnh lẽo, thê lương bao phủ cả xóm làng. Cái đói khiến hình dạng con
người tiều tuỵ, thê thảm. Đám trẻ con trong xóm ngụ cư ủ rũ như những ông già, người lớn mặt u tối,
hốc hác, người vợ nhặt mặc bộ quần áo rách tả tơi như tổ đỉa, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai
con mắt…. Sự đói khát đã bào mòn cả nhân cách con người, điều này thể hiện rõ ràng nhất qua nhân
vật thị, một người đàn bà đói mà phải vứt bỏ hết ý tứ, sĩ diện, những phép tắc xã giao chuẩn mực,
bấu víu vào một câu nói đùa cốt để lấy được miếng ăn, bỏ qua những lễ giáo, bám vào mấy câu đưa đẩy
tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc để theo không một người đàn ông xa lạ. Miếng ăn ngày đói thật
sự sức cám dỗ ghê gớm, chi phối cả những mối quan hệ thiêng liêng, chi phối cả nhân cách con
người. Tất cả những sự việc liên quan đến cuộc hôn nhân này đều bị hạ giá thảm hại. Cô dâu cắp chiếc
nón rách tàng, mặc bộ quần áo tả tơi như tổ đỉa về nhà chồng, 2 hào dầu đã là xa xỉ, hoang phí cho đám
cưới. Ngày đưa dâu chỉ có vỏn vẹn hai bóng người lủi thủi, âm thầm lặng lẽ đi về trên con đường khẳng
khiu trong buổi chiều ảm đạm, trong cái lạnh lẽo đầy âm khí, đêm tân hôn cũng phảng phất mùi đống
rấm từ những nhà có người chết. Bữa cơm thiết đãi nàng dâu cũng vô cùng thảm hại: “giữa cái mẹt rách
một lùm rau chuối thái rối một đĩa muối ăn với cháo, niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có
lưng hai bát đã hết nhẵn, để rồi sau đó, cháo cám đã trở thành cỗ cưới trong nỗi tủi hờn, ai oán của mọi
người.
Tuy nhiên, đặt con người vào lằn ranh của sự sống cái chết, tình huống truyện lạ lùng đã
giúp Kim Lân có những phát hiện cảm động về bản chất tốt đẹp của con người biết vượt lên trên cái
đói, cái thảm hại để sống và yêu thương. Nhà văn trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của
người nông dân: dù đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo nhưng họ vẫn luôn cưu mang, đùm bọc lẫn
nhau. Thậm c càng gieo neo, khốn khó lại càng yêu thương nhau. Đó là truyền thống cao đẹp đầy chất
nhân văn của người Việt “Thương người như thể thương thân”. Rộng sâu hơn, nhà văn đã viết bản bi
ca về niềm lạc quan, yêu sống, ham sống của con người. Đúng như nhà văn tâm sự khi viết truyện ngắn
này : “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả.
Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.
Đó khát khao hạnh phúc của anh Tràng. Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng
những câu bông lơn và bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn với hắn, thị theo hắn dường như để giải
quyết nhu cầu ăn no bụng. Những chuyện tưởng như rất thô kệch trơ trẽn nhưng dưới ngòi bút tài
tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp lánh tình người. Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương
lai của mình nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói kém đã đẩy đưa người phụ
nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của một mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương
lai dung d nhưng đầy cảm động. Chính vì thế, hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc
mình vừa có được. Lòng hắn chợt loé lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ,
vẩn vơ, khó hiểu – khao khát đổi thay.
Trong cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại sáng ngời lên tiêu biểu trong c
phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn tình thương con bờ bến
“vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm đăm vào người đàn bà đang
“cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông cảm sẻ chia. Tình thương con
bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã
vắt kiệt nước mắt người mẹ. không đủ để chảy thành dòng “rỉ” xuống như chết non một cách tức
tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa. Bằng ngòi
bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng màn đêm tối tăm, u ám, nhưng
rồi lại nhẹ nhàng ra một khe sáng lấp đâu đó khiến chúng ta hướng về vươn tới. Người dân
Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh
phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí bà là viễn
cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng
beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây niềm vui của gia đình hoà thuận, đầm ấm, niềm vui của
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Tràng được thấy xung quanh nh hôm nay có gì vừa thay đổi mới mẻ, khác thường. Niềm vui bất chợt
của gia đình làm ta cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta muốn tha thứ tất
cả, kể csự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh Tràng trong hoàn
cảnh nạn đói hoành hành lúc bấy giờ.
Cũng như bất cứ một nhân vật nào trong truyện, thị cũng khao khát sống, khao khát hạnh phúc
gia đình. Chính vì khao khát mãnh liệt ấy mà thị đã bán rẻ nhân phẩm của mình để theo Tràng về làm
vợ, thị một lần nữa đánh đu với số phận để tìm sự sống và hạnh phúc. Dù là mong manh và ít hi vọng.
Điều đẹp đẽ, có hậu như một niềm tin vào sự sống, o con người bởi sự thay đổi của Thị trong buổi
sáng đầu tiên về làm dâu. Thị bỗng trở thành một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, khiến chính Tràng
còn phải ngỡ ngàng trước sự thay đổi ấy: “Tràng nom thị hôm nay trông khác lắm, rõ ràng là ngưi đàn
bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Thị
tu chí làm ăn, và có ý thức cùng chồng vun vén, xây dựng gia đình. Hạnh phúc gia đình, sự cảm thông,
lòng yêu thương giữa con người với con người chính là bàn tay ấm kéo con người về với cuộc sống.
Bằng lối kể chuyện tự nhiên, mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ chọn lọc kỹ lưỡng, sử dụng nhiều từ
ngữ thông tục, gần gũi với khẩu ngữ, cốt truyện đan xen quá khứ và hiện tại, đặc biệt là cốt truyện éo
le độc đáo, Kim Lân đã lên án tội ác của bọn phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã gây
ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, đẩy dân tộc ta vào thảm cảnh người chết như ngả rạ. Tác giả xót xa
cảm thương với nỗi khổ của người dân lành, trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của họ
trong nghịch cảnh, dù đối mặt với cái đói, cái chết nhưng họ vẫn luôn giữ gìn những truyền thống tốt
đẹp “thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách”. Quan trọng hơn cả, nhà văn muốn ca
ngợi tinh thần lạc quan, niềm tin và sức sống của con người Việt Nam, bởi dù mấp mé bên bờ vực của
cái chết, người dân ngụ cư vẫn không hề tuyệt vọng hay buông xuôi, phó mặc cuộc sống của mình mà
vẫn giữ một lòng ham sống yêu cuộc sống tha thiết, đúng thật còn da lông mọc, còn chồi nảy
cây”.
Thông qua một tình huống truyện bất thường độc đáo, Kim Lân đã gợi lên biết bao điều.
Mỗi ý nghĩ của tình huống đều mang một giá trị nhân văn, thắm đượm tấm lòng nhân đạo bao la của
nhà văn. Chính vì thế, tác phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấm như một ngọn lửa nhỏ lấp loé mãi
trong cuộc đời. tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm bản chất nhân hậu đức hi sinh cao cả của
những người nông dân Việt Nam. Dù bản thân mình đang đứng giữa lằn ranh mong manh của sự sống
và cái chết thì vẫn cưu mang những người cùng khổ, vẫn giữ lại phẩm giá để làm người, để sống với hi
vọng, với tương lai. cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đoàn người đói khát đi phá kho thóc của Nhật
đâu chỉ mộng tưởng. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo sẽ làm sáng lên những
con người bình dị nhưng phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng và cô “vợ nhặt” tội nghiệp….H
sẽ viết tiếp vào truyền thống về phẩm giá con người Việt Nam trong tương lai.
Nguyệt Hà
Học sinh khóa văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Đề 3: Phân tích diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” (Kim Lân). Từ đó làm
nhận xét về giá trị hiện thực mà nhà văn gửi gắm
Trong một lần nói về truyện ngắn của mình, nhà văn Kim Lân đã phát biểu “Nạn đói năm 1945
thật khủng khiếp. Nhiều gia đình vừa có người chết đói vừa có người bỏ đi, dần dần mất hẳn. Tôi tận
mắt chứng kiến người chết đói nằm rải rác khắp nơi. Khi con người bị đẩy đến bờ vực cuối cùng của
cuộc sống thì toàn bộ số phận và tính cách con người họ sẽ biểu lộ ra hết. Chết đói là một thực tế khốc
liệt. Đó là cái chết từ từ, hao mòn dần, quằn quại dần. Tôi được biết nhiều chuyện qua năm tháng đó.
Cái đói hành hạ tất cả mọi người nhưng không át được sức sống đơn sơ của tâm hồn họ. Nó vừa đắng
cay vừa đau đớn, đồng thời loé lên những tia sáng về đạo đức và danh dự. Trong truyện ngắn Vợ nhặt,
có lẽ vẻ đẹp của “sức sống đơn sơ vừa đắng cay vừa đau đớn nhưng lại lóe lên những tia sáng đạo đức
và danh dự” mà Kim Lân để lại cho người đọc cảm động nhất chính là hình tượng nhân vật bà cụ Tứ -
một người mẹ nông dân chịu nhiều đắng cay thiệt thòi trong cuộc sống nhưng lại tiêu biểu cho vẻ đẹp
tâm hồn Việt với tấm lòng nhân ái, bao dung. Trong thời khắc khủng khiếp của nạn đói mà nói như thi
Bàng Bá Lân “Trên thân mình còn dính một chút da/Dù chưa chết đã bốc mùi tử khí”. Gia cảnh bà
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
cụ Tứ cũng chẳng khá gì, hai mẹ con chỉ sống dựa vào đồng phu xe ít ỏi của Tràng; cuộc sống đang
ngấp nghé bên bờ vực của cái chết. Việc con trai bà lấy vợ quả thật là khó tin, điều này gây nên sự xáo
trộn rất lớn trong tâm trí người mẹ. Miêu tả quá trình thay đổi tâm trạng của người mẹ ngòi bút Kim
Lân đã làm cho ngưi đọc xúc động mãnh liệt.
Kim Lân cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có những trang viết đặc sắc về nông thôn,
người nông dân, về phong tục và đời sống làng quê những thú chơi sinh hoạt văn hóa cổ truyền của -
người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là “những thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng”
như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,… Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống
người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ những con người gắn tha thiết với -
quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy
thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật
thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
sáng tác của Kim Lân chính là truyện ngắn “Vợ nhặt”. Truyện có tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư",
tác phẩm đưc viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng không may bị thất lạc bản thảo, cho nên sau
khi hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện ngắn "V
nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí". Truyện tái hiện lại bức tranh thê thảm của
nạn đói năm 1945, thông qua đó, tác giả thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với con người trong nạn đói
và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam vẫn luôn ngời sáng bất chấp nghịch
cảnh. lẽ một nhân vật tuy không phải nhân vật chính nhưng lại mang theo niềm lạc quan thắp
sáng cả tác phẩm chính là bà cụ Tứ, điều này được làm rõ thông qua những diễn biến tâm trạng của bà
xuyên suốt cả tác phẩm.
cụ Tứ không xuất hiện ngay phần đầu câu truyện. Nhà văn không có dụng ý xây dựng
thành nhân vật trung tâm. Nhưng nếu mất đi nhân vật này, chắc chắn truyện ngắn sẽ không còn cảm
động và hấp dẫn như thế nữa. Đặt nhân vật vào hoàn cảnh bất ngờ: con trai dẫn về một người đàn bà
làm vợ giữa nạn đói khủng khiếp năm 1945, cái chết đang rình rập, gõ cửa từng nhà, khai thác chủ yếu
từ diễn biến tâm trạng tạo nên những trang viết cảm động thấm thía. cTứ là điểm sáng cho tấm
lòng nhân ái tình yêu thương niềm tin bất diệt vào tương lai. Bà xuất hiện ở giữa thiên truyện với hình
ảnh một người mẹ đã già, ốm yếu. Trong cái u ám của ngày đói, cái chạng vạng của chiều hôm tê tái,
dáng đi “lọng khọng” và tiếng ho “húng hắng” của bà đã ám ảnh người đọc. Bà là một người mẹ nghèo
khổ, già nua, ốm yếu, còm cõi, luôn triễu nặng những lo toan về cuộc sống. Bà góa bụa, chồng và con
gái đều đã chết. Bà ở vậy nuôi con, gia cảnh thì nghèo khổ. Cái được gọi là nhà thực chất lại là túp lều
rách nát “nằm bên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Tràng anh con trai của không -
được như con nhà ngưi. Tràng vụng về, lại thêm xấu xí thô kệch.
Hơn nữa, còn một người mẹ nhân hậu, bao dung, giàu tình thương yêu với người đồng
cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy được Kim Lân miêu tả qua diễn biến tâm trạng của bà trong cảnh “đón dâu”. Chính
sự xuất hiện của ngưi đàn lạ trong nhà đã làm cho người mẹ ấy ngổn ngang bao tâm trạng, vừa
ngạc nhiên, vừa tủi thân, mừng vừa lo. Trước hết là tâm lý ngạc nhiên, không hiểu. Bà ngạc nhiên về
sự đon đả khác lạ của Tràng, ngạc nhiên vì người đàn bà lạ trong nhà. Bởi thế đôi chân bà cho con
cứ “đứng sững lại”, có lúc cứ “phấp phỏng”. “Phấp phỏng” nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn
khoăn, không biết điều gì đón đợi nh phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút “chn”
đã đi thẳng vào niềm vui, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng thì sau giây phút ngạc nhiên của bà
cụ Tứ lại là một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo đường cong. Căn nhà tuềnh toàng rách nát của
bà bấy lâu nay chỉ có bà và con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất hiện của người đàn bà lạ kia quả
là một sự kiện lớn. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn dồn dập trong óc bà “Quái! Sao có người đàn bà
nào đứng trong nhà mình thế nhỉ?/ Người đàn nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế
kia?/ Sao lại chào mình bằng U?/ Không phải con cái Đục mà ai đấy nhỉ?” Thực ra sự ngạc nhiên của
bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của biết bao người, từ xóm ngụ cư đến Tràng vẫn không tin nổi. Nhưng
thực sự mà nói, một người từng trải như bà sống mấy chục năm trên cõi đời này, bà là người giàu kinh
nghiệm. Hơn nữa việc con cái lớn lên, muốn yên bề gia thất thì không người mẹ nào lại không nhạy
cảm trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở đây ta thấy nạn nói đã làm cho người mẹ mất đi sự
nhạy cảm ấy. Chính vì vậy sự ngạc nhiên đó kéo dài, đến lúc bà không dám tin đó sự thật, bà khẽ
“hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình như nó lại nhoèn ra mãi”. Tuy nhiên thái độ của Tràng cùng
câu mở lời:“Nhà tôi nó mới về làm bạn vi tôi đấy u ạ” thì cụ mới hiểu ra sự, bà không ngạc
nhiên nữa cũng không giận dữ, lại càng không vui mừng mà lòng bà càng xuất hiện trăm mối vò.
Sau lời giới thiệu của con trai thì “bà lão hiểu rồi, lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao sự”…
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
bao nhiêu thấu hiểu, nỗi niềm của bà cụ Tứ trong cái “cúi đầu nín lặng”. Người mẹ nghèo khổ ấy
đã hiểu ra tất cả những uẩn khúc éo le trong việc nhặt vợ của con trai, hình dung ra cảnh ngộ của người
vợ nhặt nên không nỡ hỏi, sợ là người đàn bà xa lạ kia càng thêm tủi hổ, bẽ bàng.
Hiểu ra cơ sự rồi thì lòng người mẹ nghèo khổ ấy càng thấy “vừa ai oán vừa xót thương cho số
kiếp con mình” bất hạnh không được cha mẹ lo dựng vợ gả chồng tử tế, mở mày mở mặt phải đi
nhặt vợ một cách éo le, chua xót. Lòng người mẹ đa cảm ấy bỗng thấy xót xa, tủi thân tủi phận. Bà
buồn vì tự thấy mình chưa làm tròn bổn phận của người mẹ. “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho
con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”.
Nhà văn đã bỏ lửng suy nghĩ của bà bằng dấu ba chấm. Ba dấu chấm như những nốt lặng trong tâm hồn
người mẹ mà ở đó sự tủi thân tủi phận dâng trào hơn bao giờ hết. Càng xót xa lại càng lo lắng cho tình
cảnh của con: không biết chúng có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không. Nhà văn đã để
nhân vật của mình khóc: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai dòng nước mắt”, đó là dòng
nước mắt cơ cực của cuộc đời và cũng những giọt nước mắt đã cạn kiệt cuộc đời mẹ đã trả qua
bao tủi nhục, bà đã khóc quá nhiều và đến giờ không còn nước mắt để mà rơi nữa.
Từ đó tâm lý của bà cụ Tứ chuyển nỗi tủi thân thành lòng xót thương, đồng cảm. Từ chỗ xót xa
cho con trai, bà cũng đồng cảm, xót thương cho cảnh ngộ của người đàn bà xa lạ bây giờ đã thành con
dâu của mình. Không một lời phản đối hay tra xét, không thể xua đuổi, coi thường, khinh rẻ người đàn
bà quần áo tả tơi theo không con mình mà bà chỉ đăm đăm nhìn người đàn bà đang “vân vê tà áo rách
bợt”, mà lòng đầy thương xót. Đó không chỉ là cái nhìn bao dung, thấu hiểu mà còn gần như có một sự
hàm ơn với người vợ nhặt bởi “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con
mình. Mà con mình mới có vợ được”. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm đã hàm chứa sắc thái đối thoại, vừa
như bênh vực con dâu, vừa như cố an ủi chính mình. Trái tim nhân ái của người mẹ đã mách bảo
phải đồng ý cho cuộc tình duyên ấy. Khi ấy trong tâm tư bà đã mặc nhiên công nhận, đã bỏ qua những
lễ giáo thông thường, bỏ qua gánh nặng đói khát thêm chồng chất để đùm bọc một con người khốn khổ,
để vun vén hạnh phúc cho con trai. Tất cả những chi tiết về thái độ, cách cư xử, nói năng của bà cụ Tứ
càng toát lên tấm lòng nhân hậu cao cả. Từ cách bà “khẽ hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói”, đến “hạ thấp
giọng xuống thân mật”, bà dùng từ xưng hô: các con u để xưng hô với con dâu, giục con dâu: “ngồi -
xuống đây cho đỡ mỏi chân…” tất cả đều cách cư xử rất đỗi tinh tế, ý tứ của người mẹ nghèo làm
vơi bớt đi những căng thẳng, lo lắng cho con cái, vơi bớt những tủi hổ, bẽ bàng của người vợ nhặt kia.
Câu nói với nàng dâu: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng
hàm chứa sự bằng lòng và cả sự trân trọng với cuộc hôn nhân của các con, xóa tan đi mặc cảm theo
không của người con dâu. Câu nói đó còn bao chứa vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu
mang đùm bọc của bà dành cho người con dâu. Cố nén lại những xúc động, lo toan, an ủi cô con
dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp
nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng
mày lấy nhau lúc này u thương quá…” Những bộc bạch chân thành về gia cảnh, những lo lắng, thương
xót càng tô đậm tấm lòng nhân ái bao la cao thượng đó của người mẹ! Tới ba lần trong tác phẩm,
Kim Lân miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ, những dòng nước mắt buồn vui, tủi cực, nước mắt của
tình mẫu tử, của tấm lòng nhân hậu, bao dung, vị tha.
Trong ba nhân vật chính của truyện, bà cụ Tứ là người thể hiện rõ nhất niềm tin, hy vọng vào
tương lai. Không thể nén được tiếng thở dài lo lắng, xót xa trước cuộc hôn nhân, hơn một lần lòng người
mẹ nghèo khổ ấy khóc vì tủi nhục, lo lắng… vậy mà bà vẫn đồng tình với việc hoang phí của con trai:
thắp lên một tí cho sáng sủa. Đó không chỉ là sự trân trọng hạnh phúc của con trai mà còn bộc lộ một
niềm tin mơ hồ về một tương lai sáng sủa hơn của cuộc đời họ. Hình ảnh bà cụ Tứ lúi húi giẫy đám cỏ
dại vào buổi sáng sm hôm sau đã hoàn toàn khác với dáng đi lọng khọng của buổi chiều tối hôm trước.
Cùng với nét mặt nhẹ nhõm, tươi tỉnh, rạng rỡ, xăm xắn của bà vào sáng ngày hôm sau khi cùng con
dâu thu dọn quét tước sân vườn, nhà cửa càng giúp ta thấy rõ rệt hơn cuộc hôn nhân của con trai đã thổi
vào người mẹ gần đất xa trời ấy một nguồn sinh khí mới với những hy vọng mong manh về sự thay đổi
có cơ khấm khá hơn của gia cảnh.
Bà cũng là người chủ động mang lại nhiều nhất niềm vui và sự lạc quan cho bữa cơm ngày đói.
Bữa ăn ngày đói được Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trong thật thảm hại. Giữa cái
mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành”. Bữa cơm đầu đón nàng dâu không có sơn hào hải vị, không của ngon vật lạ mà chỉ có những gì
thê thảm nhất của sự khốn cùng: mẹt rách, rau chuối, muối, cháo… Nhưng sự thiếu thốn về mặt vật
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
chất ấy lại được bù đắp về mặt tinh thần bởi cả gia đình ấy đang có thêm một thành viên mới, một hạnh
phúc mới. Bởi vậy “cả nhà đều ăn rất ngon lành”.
Trong không khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, cụ Tứ đã thêm một lần truyền động
lực sống cho các con. Bao trùm không k bữa ăn vẫn dạt dào tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu từng chút
niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền
lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan ấy để các
con hướng về tương lai. “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. lão i toàn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”, chứng tỏ người mẹ ấy rất lạc quan, có niềm tin vào
tương lai tươi sáng. Đói khát không thể quật ngã được người mẹ nông dân có niềm tin sắt đá “ai giàu
ba họ ai khó ba đời” ấy. Đó cũng là lời động viên chí tình, chí nghĩa mà bà muốn nhen lên trong lòng
con sức mạnh vượt qua nạn đói. Câu chuyện đàn gà mà mẹ mang đến trong bữa ăn như một luồng sinh
khí mới làm bữa ăn càng trở nên đầm ấm: “Khi nào có tiền tao mua lấy đôi gà… Này ngoảnh đi ngoảnh
lại chả mấy có ngay đàn gà cho mà xem…” Từ “đôi gà” thành “đàn gà” là sự lạc quan, niềm tin
mãnh liệt của người mẹ vào tương lai. Sự dự tính của bà có thể là viển vông xa vời trong tình cảnh đó
nhưng lại gieo vào lòng người đọc niềm tin tưởng vào sự sinh sôi của sự sống slấn át cái chết.
cũng chính câu chuyện này đã thổi hồn vào cuộc đời của Tràng và người vợ nhặt một luồng sinh khí
mới, đưa họ vượt qua “ranh giới giữa sự sống và cái chết” để tiếp tục một cuộc đời mới trên cái nền u
ám của nạn đói.
Kim Lân đã miêu tả bà cụ Tứ bằng hàng loạt các hành động liên tiếp “lật đật chạy xuống bếp,
lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc hơi nghi ngút… đặt cái nồi xuống… cầm cái muôi vừa khuấy vừa
cười…đưa cho các con bát cháo cám…”, bằng tất cả thái độ ân cần, đon đả, nét mặt tươi cười, những
lời lẽ động viên cố ý tỏ ra vui vẻ: chè khoán đấy, ngon đáo để cơ. Tuy rằng đó chỉ là nồi cháo cám chát
xít, đắng ngắt nhưng lại được bà gọi bằng cái tên “chè khoán” mỹ miều, tất cả đều thể hiện sự lạc quan
của người mẹ nông dân khắc khổ ấy. Cho đến khi không thể giữ được không khí đầm ấm đầu bữa ăn,
không thể che giấu nổi sự cay đắng, sự thật phũ phàng đã hiện lên trong bát cháo cám đắng chát, bà
gắng gượng an ủi con: “xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”. Bản lĩnh, tinh thần lạc quan, tình yêu
thương con bao la của người mẹ đã khiến những thức ăn vốn dành cho loài vật trở nên thấm đẫm tình
người, thắp lên cho hai con ngọn lửa của niềm tin tưởng, lạc quan, yêu sống, giúp họ có động lực để
đối mặt với những khó khăn phía trước.
Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, bằng ngôn ngữ kể chuyện gần gũi, cách xây dựng
các cuộc đối thoại và độc thoại nội tâm tinh tế, Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động
về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945". Nhân vật bà cụ Tứ đưc khắc
họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động
của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng
hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần (Nam Cao) những người nông dân nghèo
nhưng luôn sống vì con, hết lòng yêu thương con.
Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trìu mến đối với tấm
lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa
cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng
beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà
nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái
chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người
thái độ lạc quan vào tương lai tươi sáng dù cho ch một tia hi vọng mong manh. Kim Lân đã khám
phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.
Nguyệt Hà
Học sinh khóa văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Đề 4: Cảm nhận về chi tiết nồi chè khoán trong truyện “ Vợ nhặt” của Kim Lân. Từ đó làm nổi bật tư
tưởng nhân đạo của nhà văn.
Nhà văn Nga Pauxtopxki từng nói: “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm”, chi tiết nghệ thuật
mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng, nhà văn lớn là nhà văn có tài năng nổi bật, có cá tính riêng
biệt, độc đáo. Đôi khi trong những tác phẩm lớn, người đọc sẽ không thể nào nhớ được hết các tình tiết
trong truyện mà họ chỉ nhớ đến một chi tiết đắt giá và ấn tượng nhất. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
nhà văn Kim Lân, hình ảnh nồi chè khoán đã trở thành một biểu tượng mà mỗi khi nhắc đến tác phẩm
này có lẽ bất cứ ai đã từng đọc qua cũng không thể quên được.
Kim Lân cây bút chuyên viết truyện ngắn. Ông có những trang viết đặc sắc về nông thôn,
người nông dân, về phong tục và đời sống làng quê những thú chơi sinh hoạt văn hóa cổ truyền của -
người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, được gọi là “những thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng”
như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà,… Ông viết chân thật, xúc động về cuộc sống
người dân quê mà ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của họ những con người gắn tha thiết với -
quê hương và cách mạng. Dù viết về phong tục hay con người, trong tác phẩm của Kim Lân ta vẫn thấy
thấp thoáng cuộc sống và con người của làng quê Việt Nam nghèo khổ, thiếu thốn mà vẫn yêu đời, thật
thà, chất phác mà thông minh, hóm hỉnh, tài hoa. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách
sáng tác của Kim Lân chính truyện ngắn “Vợ nhặt”. Truyện tiền thân từ tiểu thuyết "Xóm ngụ cư",
tác phẩm đưc viết ngay sau cách mạng tháng Tám nhưng không may bị thất lạc bản thảo, cho nên sau
khi hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết lại thành truyện ngắn "Vợ
nhặt". Tác phẩm được in trong tập truyện "Con chó xấu xí". Truyện tái hiện lại bức tranh thê thảm của
nạn đói năm 1945, thông qua đó, tác giả thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với con người trong nạn đói
và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam vẫn luôn ngời sáng bất chấp nghịch
cảnh.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống khổ cực, thê thảm của người nông dân trong
nạn đói lịch sử 1945. Điển hình cho những người dân trong thời kỳ này là gia đình anh Tng. Trong
hoàn cảnh nghèo đói đến vậy, việc anh lấy vợ đã gây nên sự ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi giữa cảnh
đói nghèo không lo được cho mình mà anh còn “rước cái của nợ ấy về”. Chính vì thế trong bữa cơm
đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người ta không khỏi xót xa thương cảm cho
những số phận khốn khổ. Qua chi tiết này, nhà văn muốn thể hiện tình yêu thương với con người
và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Trong khung cảnh nghèo đói của hội lúc bấy giờ, cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám.
Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên đã phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm
thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh
khốn khó ấy khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào với bữa cơm đón nàng dâu
thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa
muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ
anh và cả người đọc đều hiểu bữa cơm như vậy không hề ngon một chút nào nhưng ai cũng nén trong
lòng, không dám bộc lộ ra bên ngoài. Điều đáng nói hơn hết là trong bữa cơm ngày đói này, tâm trạng
của bà cụ Tứ khác hẳn, bà không ủ rũ như mọi ngày. Bà kể toàn chuyện vui, nói toàn chuyện hay. Đây
thể xem sự chuyển biến tâm đột ngột của người đàn bà nghèo khổ, tuy lam vất vả cả đời
nhưng vẫn luôn hết mực yêu thương con, vui mừng cho hạnh phúc mới của con chỉ nói những
điều gợi ra một tương lai tốt đẹp phía trước.
Hình ảnh nồi chè khoán của bà cụ Tứ hiện lên trong hoàn cảnh vô cùng ý nghĩa. Đó là nồi chè
bà đã cất công làm ra để thiết đãi cô con dâu mới – Thị vừa mới về làm dâu với anh Cu Tràng, con trai
cụ Tứ. Bà cụ Tbưng bát cháo ra với tâm trạng vui phơi phới, cố kiềm đi nỗi tủi cực của một
hoàn cảnh nghèo khó, mà vui vẻ nói: “chúng mày đợi nhá. Tao có cái này hay lắm cơ” rồi bà bưng ra
một cái nồi bốc khói lên nghi ngút, và lại vui vẻ nói tiếp: “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ” nhưng thực
ra đây đâu phải chè khoán? cố tình vui vẻ thế thôi, vui vẻ trước mặt cô con dâu mới, vui vẻ để
truyền niềm vui, lạc quan hi vọng vào các con. Thể hiện tâm trạng của một người mẹ nghèo trong nạn
đói Ất Dậu 1945. Hơn thế, đó còn là sự biểu hiện một tâm trạng vui mừng của bà cụ Tứ trong ngày
hạnh phúc của con trai mình. “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để cơ” lời nói trong vui mà có buồn, nỗi
xót xa như ứ đọng nhưng buộc phải vui để mà sống. Vì vậy ta càng cảm nhận hơn một trái tim ấm áp,
tấm lòng nhân hậu và vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng.
Là một chi tiết đắt giá trong truyện, hình ảnh “nồi cháo khoán” còn có ý nghĩa rất cao về nghệ
thuật. một trong những chi tiết tính thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa nét tính
cách, và tâm lí hành động của người mẹ nghèo nhưng rất thương con. Vượt lên trên nghĩa tả thực, bát
cháo cám còn làm ngời sáng lên tấm lòng, tình cảm của người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc
cháo vừa đùa vui “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ", nào phải bà không biết được cái chát xít, đắng ngắt
của cháo cám, đâu phải bà không hay về tương lai mù mịt của con mình. Người mẹ ấy chỉ đang cố nén
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
lại những nỗi lo cho hạnh phúc mới chớm của đôi trẻ, vượt qua mọi sự sượng sùng với người con dâu
vừa mới về nhà mình để nhóm lên trong gia đình một bầu không khí vui vẻ, lạc quan hơn. Ở tận cùng
nỗi xót xa, ta lại bất ngờ cảm động trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Hơn thế nữa, chẳng phải ngẫu
nhiên mà Kim Lân để cho người mẹ già đã gần đất xa trời chính là người nhen nhóm lên niềm hi vọng
trong thảm cảnh ngày đói, là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro sắp lụi
tàn, thấy mầm sống chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn mạnh mẽ
đâm ra từ những gốc cây cổ thụ ngàn năm. Không nghi ngờ gì nữa, ở trong món chè khoán ngày đói ấy,
tác giả đã gửi gắm tất cả niềm tin và khát vọng về hạnh phúc và sức sống của con người.
Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện khao khát hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh.
Ta hiểu thị nhắm mắt đưa chân không chỉ đơn thuần là vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia
cảnh bần hàn thảm hại của Tràng, nay ta càng thấu hiểu hơn i khát vọng một bến đỗ cho con thuyền
phiêu dạt, một tấm dừng chân, một nơi để vun vén hạnh phúc gia đình qua cử chỉ “điềm nhiên và vào
miệng miếng cháo cám". Cử chỉ và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam cộng khổ cùng
với gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy cần lắm những bàn tay ân cần vun vén
như vậy. Lời nói và hành động của bà cụ Tứ cũng như của người con dâu chính là cách những người
phụ nữ giữ gìn, bảo vệ, vun đắp cho niềm hạnh phúc mới chớm nở, giản đơn mà ấm áp.
Kim Lân đã vô cùng tài hoa khi xây dựng được một chi tiết có nhiều giá trị nghệ thuật và nội
dung đến như vậy. Thông qua đó, tác giả còn gửi gắm tấm lòng nhân đạo của ông dành cho con người,
luôn tôn vinh và ngợi ca họ dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốn cùng của kiếp người. Và nhờ chi tiết
độc đáo “nồi cháo khoán” đã cho ta thấy một tầm vóc lớn của một nhà văn giàu lòng nhân đạo. Chi tiết
đã nâng tầm của câu truyện lên và khiến cho ta về sau khi đọc lại, vẫn sẽ luôn nhớ mãi một chi tiết “nồi
cháo khoán” giản dị như một hơi ấm nhen lên giữa những ngày đau thương của dân tộc.
Nguyệt Hà
Học sinh khóa văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Đề 5: Phân tích v đẹ p khu t lấp của nhân vật Thị trong “ V nh t” của Kim Lân.
Sáng tạo nghệ thuật là sản phẩm tinh thần riêng của cá nhân người nghệ sĩ. Có những tác phẩm đọc
xong người ta quên ngay, đến khi cầm lại mới ngỡ mình đã đọc rồi. Cùng có những tác phẩm vừa
mới ra đời được chào đón rầm rộ, sau đó người đọc lãng quên nhanh chóng. Bên cạnh đó, vẫn ngời lên
những tác phẩm nghệ thuật đích thực, tựa như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng
khắc chạm trong m khảm. “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm văn học như thế. Làm
nên giá trị to lớn đó có nhiều do. Song một khía cạnh rất quan trọng chính là giá trị nghệ thuật của
tác phẩm. “Vợ nhặt” là một tác phẩm có tình huống truyện đặc sắc mang tính một không hai trên diễn
đàn văn chương Việt Nam. Nó bắt nguồn từ giá trị nhân đạo, tấm lòng luôn biết yêu thương, trân trọng
giá trị của con người ngay trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ta
thấy vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ được nhà văn thể hiện qua nhân vật thị trong tác phẩm.
Kim Lân là một cây bút nặng tình nặng nghĩa với người nông dân, Kim Lân đã nách sâu vào tâm lý
và cảnh ngộ của họ để lấy nguồn cảm hứng cho những trang văn của mình, bởi thế ông được coi là nhà
văn “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy nông thôn”. Nhắc đến Kim Lân
nhắc đến “con đẻ của đồng ruộng”. Ông chuyên viết về nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, ông mẫu
nhà văn “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, “viết kỹ lưỡng, viết từ gan ruột không chấp nhận sự nhạt nhẽo,
giả tạo”. Và truyện ngắn “Vợ nhặt” là tác phẩm ấn tượng của ông, truyện tiền thân tiểu thuyết
“Xóm ngụ cư” được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám, năm 1945. Do mất bản thảo, nên mãi đến
1954, nhà văn dựa vào phần cốt truyện cũ để viết nên thiên truyện “Vợ nhặt”.Tác phẩm biểu hiện cho
một tấm lòng khắc khoải và chân thành của người nghệ sĩ luôn hướng ngòi bút của mình về phía những
người nông dân nghèo khổ, về nơi có tình yêu thương.
Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã mở ra bức tranh xóm Ngụ Cư đầy u ám xám xt. Trong bức tranh ấy có
hình ảnh con người được miêu tả như những bóng ma giật giờ, những cái xác nằm cong queo bên đường.
Chỉ qua những câu văn miêu tả ngắn gọn như thế nhưng nhà văn Kim Lân đã vẽ ra bức tranh bao quát
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
hiện thực cuộc sống những năm đói 1945. Và cái khổ ấy được thể hiện qua nhiều nhân vật tiêu biểu,
trong đó có thị người vợ nhặt.-
nạn nhân của cái đói với hoàn cảnh không thể đáng thương hơn. Chị sống cuộc sống bấp bênh,
nay đây mai đó để kiếm kế sinh nhai. Trong suốt cả thiên truyện dài, ta nghe đến chị nhiều nhưng chưa
một lần đưc biết tên. chị là một số 0 tròn trĩnh: không tên, không tuổi, không quá khứ. Người vợ
nhặt xuất hiện theo một cách rất đặc biệt. Chị xuất hiện qua những lần hò chơi của Tràng. Lần thứ nhất,
ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi
cho đỡ nhọc, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” rồi “cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn,
nhưng lần đó, Tràng không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình
kém hấp dẫn hơn, chân dung gợi tả “những nét không dễ nhìn”, “áo quần tả tơi như tđỉa”, “khuôn mặt
lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Đời không chỉ tàn hại nhan sắc chị, mà còn tính
hại cả tính cách, nhân phẩm thị nữa. Cái đói đã làm chị “chao chát”,”chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong
cớn”, “sưng sỉa” khi nói chuyện. Cái đói đã khiến chị quên việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người
con gái. Khi đưc cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bán bánh đúc liền chẳng
truyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình lên trên cả nhân cách.
Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người vợ nhặt lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng
ý theo Tràng để được sống chứ không phải lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được tồn tại. Khi
Tràng đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”, thì người đàn kia lại im
lặng sau câu đùa ấy. Nói đúng hơn là thị đồng ý mà không hề do dự. Thị có biết Tràng là ai, tốt xấu thế
nào đâu? Phải chăng chỉ vì miếng ăn mà thị bám theo Tràng về. Cận kề cái chết, người đàn bà không
hề buông xuôi, từ bỏ hi vọng để sống. Trái lại, thị vẫn vươn lên trên cái khó để dựng xây mái ấm gia
đình.
Tưởng chị là người phụ nữ vô duyên nhưng thực chất cũng cùng duyên dáng. Trên đường về nhà
chồng, chị cắp cái thúng Tràng mua cho: rón rén, e thẹn “đầu hơi cúi, cái nón rách nghiêng nghiêng che
khuất nửa mặt”. Nàng dâu mới khi bị trêu chọc cũng e thẹn như bao nàng dâu mới khác, thị ngượng
ngịu “chân nọ bước díu cả vào chân kia” trước cái nhìn săm soi của người dân xóm ngụ cư. Về đến nhà
chồng, chị “đảo mắt nhìn xung quanh, thấy ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn
nhổn những búi cỏ dại”, thị nén một tiếng thở dài vì sợ Tràng buồn. Nhà văn Kim Lân đã rất tinh tế khi
miêu tả biểu hiện thất vọng của thị trước gia cảnh nhà chồng. Tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng
cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách không kém. Trong
tiếng thở dài ấy vừa là sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả lo âu và trách nhiệm của mình khi
mới về nhà chồng. Đó chẳng phải là thị đã ý thức được trách nhiệm của mình đối với việc cùng chồng
chung tay xây dựng gia đình.
Vào trong nhà, thị ngượng nghịu “chỉ ngồi mớm ở mép giường”. Khi gặp mẹ Tràng, thị cung kính,
lễ phép, chào đến hai lần sợ mẹ Tràng không nghe rõ. Lúc Tràng thưa chuyện thì “thị cúi mặt, tay
vân vê tà áo đã rách bợt” và bộ mặt lộ rõ vẻ mặt đầy lo lắng. Chắc có lẽ thị nghĩ về cuộc sống mới của
hai vợ chồng, rồi cuộc đời của thị sẽ đi đến đâu, người mẹ ấy có đồng ý việc có thêm một thành viên
trong gia đình lúc khốn khổ này không…Mãi đến khi cụ Tứ bảo ngồi xuống, thị mới “khẽ nhúc
nhích, vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Tất cả những hành động của thị cho thấy, chị là người rất
biết nhẫn nhục. Khi đã quyết định theo về làm vợ Tràng thì cuộc sống sau đó có thế nào, thị vẫn bằng
lòng chấp nhận.
Thị cũng là một người đảm đang, hiền hậu và biết vun vén cho gia đình. Ngay cả buổi sáng hôm sau,
thị đã dậy sớm cùng mẹ chồng “dọn dẹp, quét tước, thu dọn nhà cửa cho gọn gàng, sạch sẽ. Thị hôm
nay không còn vẻ chua ngoa, đanh đá, chao chát như những lần trước nữa.Đến chính Tràng cũng còn
phải ngạc nhiên trước sự thay đổi đó “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiện
hậu đúng mực”.
Trong bữa cơm đầu ở nhà chồng, thị vui vẻ ăn một cách ngon lành dù bữa cơm ngày đói thật ảm đmạ,
một “lùm rau chuối thái rối một đĩa muối” ăn cùng với “niêu cháo lõng bõng nước, mỗi người
được lưng hai bát đã hết nhẵn”. Thậm chí lúc cầm bát cháo mẹ chồng đưa, “mắt thị tối sầm lại” nhưng
sau đó thị “điềm nhien và vào miệng”. Sự tương phản rõ nét ở hành động cho thấy sự cam chịu và tấm
lòng trân trọng sự sống, trân trọng tình cảm mẹ chồng. Khi nghe tiếng thúc thuế, thị ngạc nhiên. “Ở đây
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
vẫn phải đóng thuế cơ à?”, rồi tiếp: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế
nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Cho thấy thị người
phụ nữ thông minh, quan tấm đến vấn đề chính trị của đất nước. Sự hiểu biết ấy đã đem đến cho Tràng
một khát khao, hi vọng về con đường cách mạng với hình ảnh “đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp,
phía trước có lá cờ đỏ to lắm!”
Cái tài của Kim Lân là miêu tả nhân vật nhẹ như không, ngòi bút ông luồn lách tận sâu nơi đáy của
hồn, bắt người đọc phải cùng cười, cùng khóc với nhân vật. Nhà văn đã miêu tả thật sâu sắc tâm lí ấy
qua một hệ thống ngôn từ giản dị nhưng giàu sức gợi, thể hiện từng lời nói, cử chỉ, hành động. Ngôn
ngữ, lời thoại mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách của nhân vật. Phải là nhà văn có vốn hiểu biết
phong phú, thấu hiểu và cảm thông, yêu mến và trân trọng cuộc sống thì Kim Lân mới có thể viết nên
những trang văn có sức lay động hồn người đến vậy. Ông đã để lại một ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp của
người phụ nữ trong thời kì khó khăn ở tấm lòng người đọc.
Thành công của Kim Lân khi thấu hiểu và phân tích được những trạng thái khá tinh tế của con người
trong hoàn cảnh đặc biệt. Và vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của con người nghèo khổ
luôn hi vọng về một tương lai tươi sáng hơn. Điều đó đã tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo cảm
động của tác phẩm. “Hãy biết sống cả những khi cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”-Coocsaghin.
Và Kim Lân đã biến “Vợ nhặtthành một bài ca về tình người ở những kẻ nghèo khổ, đã biết sống cho
ra người ngay giữa chốn địa ngục trần gian.
Nguyễn Sơn T
Học sinh khóa văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
IX. Chiếc thuyền ngoài xa
Khuất Phương Thảo-
Học sinh khóa văn 2020 lớp văn thầy Nhật-
Đề1: Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn Minh Châu. Từ đó nhận xét tính triết lí trong câu chuyện.
Nhà văn Pautopxki từng nói “ Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm”. Quả thật một chi tiết
cũng có thể tạo nên những ấn tượng mạnh cho người đọc ng như làm câu chuyện trở nên thay đổi.
Một trong số đó phải kể đến tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu với những chi
tiết độc đáo làm thay đổi cả câu chuyện. Nguyễn Minh Châu – một người nghệ sĩ mang trong mình mối
quan hoài sâu sắc trước những vấn đề của đời sống, của con người. “Nghệ thuật không cần phải là ánh
trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp lầm than”. Vì vậy, văn chương không chỉ được tạo nên bởi sự miều với những gtrị
tuyệt đích mà phải là những tác phẩm mang đến cho người đọc một nội dung ý nghĩa có tính thông điệp,
và hơn hết phải làm rung động hàng triệu tâm hồn, có chỗ đứng qua thời gian và năm tháng. Từ chính
những điều giản dị, đời thường mà tác đã đã khai thác mọi khía cạnh và phản ánh cuộc sống đa chiều,
muôn màu muôn vẻ, từ đó khơi sâu làm hiện lên cả những góc khuất của đời sống xã hội, của bản
chất con người đặc biệt là nhân vật người đàn bà hàng chài.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu được mệnh danh là vị khai quốc công thần của triều đại văn học mới,
“người mở đường tinh anh tài năng”. Sinh thời, ông từng quan niệm rằng: “Thiên chức của nhà
văn là suốt đời đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nếu trước năm 1975,
nhà văn đi tìm hạt ngọc ấy trong chất sử thi anh hùng với những tác phẩm tên tuổi như“Mảnh trăng cuối
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
rừng”, “Dấu chân người lính”, “Cửa sông”,…thì sau năm 1975, bằng tâm huyết và tài năng, bằng khát
vọng sáng tạo chân chính bản lĩnh ng cảm, ông vẫn tiếp tục hành trình tìm kiếm không ngừng
nghỉcủa mình vcảm hứng thế sự với những vấn đề về đạo đức, nhân sinh, để tđó khám phá ra v
đẹp của những “hạt ngọc ẩn giấu” trong những con người đời thường lam lũ, nhọc nhằn. truyện
ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện tài năng tấm lòng của Nguyễn Minh
Châu một người nghệ sĩ mang trong mình mối quan hoài sâu sắc trước những vấn đcủa đời sống,
của con người.
Chiếc thuyền ngoài xa bắt đầu bằng một tình huống độc đáo và bất ngờ. Nếu nói mạch cảm xúc và
cấu tứ là cái để người ta vịn vào tìm hiểu nội dung của một văn bản thơ, thì tình huống truyện chính là
một khởi điểm chắc chắn để khai thác, tìm i những cái đặc sắc của một tác phẩm văn xuôi. Đó
những sự kiện éo le, bất ngờ, khác lạ để mở ra một câu chuyện dài phía sau, theo như ý của
Nguyễn Minh Châu thì tình huống truyện là “cái tình thế ở đó sự sống hiện ra một cách đậm đặc,
cái khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”. Từ tình huống truyện, tính cách, số phận của nhân vật
được gợi mở, cũng từ tình huống truyện mà chủ đề cũng như những giá trị mà tác giả xây dựng được
hé lộ một cách tinh tế và độc đáo.
Nghịch lý cuộc đời bắt đầu từ đây, khi chiếc thuyền tiến gần vào bờ, hình ảnh một cặp vợ chồng
đang rời thuyền, họ lội qua một quãng bờ phá, nước ngập tới tận đầu gối. Trong giây lát tiếng người
đàn ông cất lên văng vẳng quát tháo những đứa con đang ở trên thuyền. Hình ảnh cặp vợ chồng lam lũ
bước ra từ chiếc thuyền vốn đẹp như thiên đường, người chồng cao to, thô lỗ, vẻ mặt dữ tợn, còn người
đàn bà khuôn mặt thô kệch toát lên đầy sự mệt mỏi.
Tác giđã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về ngoại hình người đàn bà hàng chài có thân hình
xấu xí tàn tạ “trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những
đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt dường
như đang buồn ngủ”. cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau kh làm cho diện mạo chị đã xấu giờ
trở nên thô kệch. Không những thế tác giả còn tập trung miêu tả ánh mắt của người đàn bà: “Chị đưa
mắt nhìn xuống chân,… nhìn ra ngoài bờ phá”. Cách miêu tả của nhà văn không chỉ cho thấy sự tủi cực,
vất vả của người phụ nữ ấy mà còn hé mở những đau kh tinh thần đang giày xéo tâm can.
Người đàn bà hàng chài bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình tạo hóa mang lại
mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường
xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh
bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổ hị như định mệnh đã vậy chị lại còn có khuôn mặt rỗ là hậu quả i c
của trận dịch đậu mùa nên không ai thèm để ý, suốt từ khi còn nhỏ. Rồi chị có mang với một anh hàng
chài đến mua bả về đan lưới và thành vợ chồng.
Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn ấy là ai, tác giả đã gọi một
cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. như một sự
xóa m nhằm đậm thêm số phận của chị. Khi người đàn này xuất hiện tòa án huyện để gặp
chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho
người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị
một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là ngườ i
vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm
gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chỉ mình người đàn bà
đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như th. Nhân vật
người đàn bà hàng chài ít nhiều cũng làm ta nhớ đến nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim
Lân. Phải chăng vẫn là những số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự sống thật mong
manh. Cảm thương thay cho số phận những con người.
Cứ ngỡ tưởng một cuộc sống gia đì sẽ hạnh phúc m êm. Nhưng cuộc sống mưu sinh nh thì
trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị
chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con
thú với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Quả thực, người
đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đó i,
thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy
bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Chỉ bằng một vài câu văn miêu tả ngoại hình tác giả phần nào đã khiến cho người đọc vỡ mộng,
đằng sau vẻ hào nhoáng kia của chiếc thuyền thì con người lại hiện ra chân thực, chẳng hề mang vẻ đẹp
hoa mĩ nào. Nhưng nghiệt ngã hơn chính là cảnh bạo hành vợ của gã đàn ông thô bạo kia, hắn rút ra
“một chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa”, chẳng ai nói với nhau lời nào, hắn trút cơn giận như lửa
cháy dùng hết sức lực quật tới tất vào lưng người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, răng nghiến ken
két. Mỗi một nhát quất xuống hắn lại cất lên những câu chửi nguyền rủa bằng cái giọng “rên rỉ, đau
đớn”: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Người đàn vẫn ngồi im
“cam chịu, nhẫn nhục”, không một lời van xin hay oán trách, chẳng chống trả cũng không hề chạy trốn.
Sự việc xảy đến quá nhanh, quá bất ngờ đến nỗi nghệ Phùng không thể tin vào chuyện gì đang
diễn ra trước mắt. Anh bàng hoàng, sửng sốt trong mấy phút đầu chỉ biết “đứng há mồm ra mà nhìn”.
Thằng Phác từ đâu lao đến nhanh hơn cả mũi tên, giật lấy chiếc dây lưng quất vào “tấm ngực trần vạm
vỡ cháy nắng” của cha nó. Cảnh tượng người chồng đánh đập vợ dã man, người vợ cam chịu, đứa con
đánh lại cha trái ngược hoàn toàn với vẻ đẹp của con thuyền ngư phủ.
Tác giả đã vẽ nên bức tranh hiện thực cuộc sống ẩn sau vẻ đẹp hào nhoáng bằng một hiện thực
nghiệt ngã. Qua những gì được chứng kiến, Phùng như được giác ngộ về những nghịch lí vẫn còn tồn
tại trong cuộc sống. Từ chiếc thuyền ngoài xa rất đẹp, rất thơ mộng, cho đến khi con thuyền tiến lại gần,
khi khoảng cách không còn nữa, bản chất cuộc đời mới được biểu hiện một cách rõ ràng và chân thực.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã xây dựng hình nh người đàn hàng chài hiện lên một nạn
nhân khốn khổ của bạo hành gia đình. Đó là một người đàn bà không tên, lẫn vào trong đám đông vất
vả, lam lũ, khốn khổ của đời sống hiện thực, một con người không hề cá biệt, một cuộc đời tiêu biểu
cho nhiều cuộc đời khác. “Người đàn trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn
vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch” với khuôn mặt rỗ đầy mệt mỏi.
Chân dung người đàn bà hàng chài một chân dung rất khác với các nhân vật nữ trong c tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu trước sau 1980. Những người phnữ trong tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu nhìn chung thường mang vẻ đẹp thánh thiện, trong sáng. Đó là Nguyệt trong Mảnh trăng
cuối rừng Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, là Quỳ trong , … Bước vào thế giới ấy, chân dung
người đàn bà hàng chài là một d biệt. Chị vốn dĩ đã không đẹp ngay từ nhỏ, lại phải chịu di chứng của
trận đậu mùa với vô vàn nốt rỗ trên gương mặt xấu xí. Ngoại hình ấy còn tiều tuỵ thêm cuộc sống
lam lũ, vất vả, phải đối mặt với phong ba bão táp hàng ngày trong khi họ chỉ có một con thuyền nghèo
túng, chật chội mãi thêm vì đàn con ngày một đông đúc. Không chỉ có vậy, người đàn bà ấy còn phải
chịu đực những trận đòn thô bạo như cơm bữa của lão đàn ông hàng chài độc dữ. Tất cả những nét chân
dung ấy đã hé mở cho người đọc về một cuộc sống nghèo đói, lam lũ, một thân phận đàn bà khốn khổ,
nhọc nhằn.
Không chỉ qua nét chân dung về ngoại hình, nhà văn Nguyễn Minh Châu còn khắc hoạ nỗi đau của
người đàn hàng chài qua hành động, cử chỉ của chị khi bị chồng đánh. Trước những trận đòn trời
giáng của người chồng, người đàn bà không hề kêu than, không hề chạy trốn, cũng không hề chống trả
mà chquỳ xuống cầu xin. Phải chăng vì đòn roi nhiều quá, phải chịu đựng nhiều quá khiến chị u mê,
hay phải chăng do thất học mà chị không hiểu quyền sống của mỗi người? Với chồng là vậy, còn với
con, chị cũng những hành động thật trái với lẽ thường: “người đàn ngồi xệp xuống trước mặt
thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Tâm trạng của
người đàn bà hàng chài được thể hiện rõ nhất qua “những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ
chằng chịt”. Dòng nước mắt ấy như được chắt ra từ những vết thương đau đớn trong tâm hồn chị, đó là
những giọt tủi thân, tủi phận. Chỉ khi khóc, chị mới thấm thía cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần.
Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn hàng chài này,
cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng
giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu
cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt
Nam.
Song ẩn bên trong người đàn hình dáng bên ngoài xấu xí, thô kệch, chịu bao cay đắng, nhọc
nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị
coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời nh. Chị chấp nhận, không kêu
van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của
mình.
Mặc dù là một nạn nhân khốn khổ của nạn bạo hành gia đình nhưng thực chất, ẩn sâu bên trong vẻ
bề ngoài xấu xí ấy là một người phụ nữ trải đời sâu sắc, giàu lòng vị tha và đức hi sinh. Đó chính là một
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
“hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” được nhà văn khám phá qua hành trình nhận thức
của Phùng và Đẩu. Khi bị đưa về toà án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc hôn nhân
không hạnh phúc ấy, vậy mà chị chỉ xin quan toà: “Quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng
được, đừng bắt con bỏ nó". Đến tận cùng nỗi đau, thế nhưng, khi được quyền lựa chọn giải thoát khỏi
số kiếp ấy, chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại
dột.
Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ
nữ ấy. Cái nhìn của người đàn hàng chài như lời minh oan cho lão đàn ông, rằng lão cũng là một nạn
nhân, một số phận khốn khổ khác. Bản tính của lão không xấu, lão hiền lành, chất phác, nhưng cái
nghèo đã khiến lão trở thành một con người vũ phu, cộc cằn. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời,
thấu hiểu lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng người phụ
nữ thân gái dặm trường cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người
cha để dựa dẫm. Những con người lênh đênh bốn bề là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của
miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy
xót xa cho môt người phụ nữ.
Đối với con cái, người đàn bà tự nhận thiên chức của mình sinh ra để đẻ con, nuôi con. Người
đọc dường như hiểu vì sao người đàn bà phải gửi thằng Phác lên bờ. Chị gửi con đi, một phần đói
nghèo, phần nhiều vì đó là đứa chị yêu thương nhất trong đàn con của mình. Chị gửi con đi vì mơ hồ
nhìn thấy trước tai hoạ, rằng nếu cứ để nó trên thuyền thì những điều tồi tệ nhất cũng có thể xảy ra. Hơn
nữa, chị không muốn làm tổn thương con, không muốn con mang những ấn tượng xấu về gia đình, về
người cha, không muốn điều gì ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của con. Với chị, niềm vui
nhỏ bé nhà được nhìn đàn con ăn no, dù cho mình có bị đánh đập tàn nhẫn đến thế nào, chị vẫn cam
chịu. chân dung ngoại hình khác với những nhân vật nữ trong các sáng tác của Nguyễn Minh
Châu, người đàn bà hàng chài vẫn người phụ nữ muôn thuở mang vẻ đẹp mẫu tính sâu đậm. Đó
người sinh ra với thiên chức của người mẹ.
Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển không có người đàn ông: thuyền
xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông,
chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. ⠀⠀⠀⠀⠀⠀
Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Với người đàn
này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ
chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn
phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí
do chị đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi mười đứa con. Thì ra sự
sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu.
Tình yêu thương của người mdành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục:
“Đàn thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được”.
Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình
đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh chị còn chủ động xin chồng
thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh”.
Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như
một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này.
Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.
Không những thế, đây còn người phụ nữ vị tha thánh thiện. Không chỉ yêu thương, hi sinh đến
quên mình đàn con, người phụ nữ này còn một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng.
Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái
nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục nh nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập
tôi”.
Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo.
hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo.
Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân
mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải
người đàn ông để chèo chống khi phong ba”.
Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo.
cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con,
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh
cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.
Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi, đời
thường. Đó những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm
hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn. Niềm vui lớn nhất của chị là “lúc ngồi nhìn
đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Với những kiếp đàn nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ,
nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ.
Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ
chợt ửng sáng lên một nụ cười”. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc
của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.
Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái
khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ
phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu
rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của
mình cũng chỉ nghèo đói, ít học. Thậm chí còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên
nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ. Đây quả người phụ nữ cái nhìn sâu sắc, đa
chiều, bao dung, độ lượng với chồng.
Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu thương,
đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp thoáng bóng
dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời.
Bằng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh tính cách, giữa ngoại h
ình tâm hồn, đi sâu vào thế
giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn
Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ông đã khai thác số phận cá nhân và thân phận
con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm thường, lam lũ. Cả đời
ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”.
Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng
đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự
tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch của cuộc sống. Chính số phận của người đàn
hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận
mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và
cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà Nguyễn Minh Châu chính là vị "khai
quốc công thần của triều đại văn học mới".
Trong cuộc đời cầm bút của mình, điều mà Nguyễn Minh Châu đau đáu nhất là khai phá vẻ đẹp ẩn
sâu trong tâm hồn con người. Và trong Chiếc thuyền ngoài xa, “hạt ngọc” ấy được tìm thấy giữa vô vàn
những lấm láp, những gồ ghề, gai góc. Tất nhiên, một phát hiện như vậy không thể đến nếu người nghệ
sĩ chỉ đứng ngoài mà quan sát hời hợt, vồ vập và chụp những bức ảnh hiện thực bề ngoài. Vượt lên tất
cả, đó sự dấn thân, lòng trắc ẩn, niềm đau đáu với số kiếp con người của một người cầm t
chân chính.
Nhân vật người đàn bà hàng chài để lại ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là bởi
những vẻ đẹp tâm hồn. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời
nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi
việc mình b đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đờ ình. Chị chấp nhận, không u i m
van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của
mình. Chị hiểu cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không người đàn ông:
thuyền xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề còn để đối mặt với những ngày phong
ba bão tố. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của
người đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.
Chiếc thuyền ngoài xa: triết lý nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu Trong sáng tác của Nguyễn Minh
Châu, tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể.
Chiếc thuyền ngoài xa Con người trần trụi đời thường “Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
tiểu thuyết hay truyện ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập
trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm dồi
dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống, bút pháp chân thực một giọng văn trữ tình trầm
lắng ấp áp”. Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi khám phá trong
văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau
đáu đi tìm câu hỏi cho những phận người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh
thần quyết liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện
thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn
Minh Châu còn muốn thể hiện một quan niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người,
với muôn mặt phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến
đấu, một người lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường
cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động khoẻ khoắn tươi rói của những con
người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn
chỉnh . Thế nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra một
sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ: “Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng
phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm
giềng không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất
nào”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một câu chuyện đơn
giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa quan niệm văn chương hướng về con
người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh
sáng cách mạng sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người.
Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách mạng không phải giải quyết bi kịch trong
một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý
giải về con người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân tộc phải trải
qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức. Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ
đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng,
hướng người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua khuôn hình ánh sáng,
tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh
đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa
tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức
chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một
người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước,
và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng
lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân
vùng biển ấy hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ khoắn, những con
người gặp gỡ thật đáng yêu…Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất
hiện của chiếc - thuyền – ngoài xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh
nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay
vào người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc
sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người,
sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho
sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát.Bản thân anh
nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu
mặt rkia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn
công đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng
nào ra ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh bằng bàn tay rắn sắt của một người
lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh
trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà,
cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của
người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách
mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái
việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn
ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng
kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hđơn giản : người đàn ông kia cục súc nhưng trên
chiếc thuyền phải lúc đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên
chiếcthuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm
ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận
đòn tàn khốc thể làm cho người đàn kia gục ngã bất cứ c nào… Thế nhưng trong cuộc sống
nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn
bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm
đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố
huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc,
về lòng nhân ái, sự khoan dung… mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của
Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người.
Nếu như trước kia, trong văn học 1945 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà
văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của
xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con ngưi, các
nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi
sinh tâm hồn. Cách minh họa tưởng ấy không tránh khỏi phần giản đơn phiến diện. Nguyễn
Minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã nói về những
nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự
hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả
bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn
đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại
trên đời có lẽ trước hết thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng
đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả
tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người vhà cuộc
đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng
ấy được thể hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm lòng hướng về
con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối
quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn là nơi sản sinh ra cái
đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có
một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên
trong thân phận con ngưi và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống
cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Minh -
Châu).
truyệ Nguyễn Minh Châu, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng đều là những người có nhận thức rất sâu
sắc và tinh tế về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Nam Cao từng thốt lên rằng “Chao ôi, ngh
thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng
kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than…”, còn Nguyễn Huy Tưởng viết trong Vũ N
rằng: “Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi”. Nguyễn
Minh Châu cũng đồng những quan điểm vậy, ông sâu sắc nhận ra rằng “Ngọc lành có vết, việc đời đa
đoan”, làm chi đâu có cảnh toàn bích, toàn mỹ, chẳng qua ấy chỉ là bề nổi, ẩn u sau đó là những hiện
thực phũ phàng. Mà từ đó người nghệ sĩ phải dùng một đôi mắt đa diện, thấu hiểu để nhìn nhận những
vẻ đẹp đạo đức và nhân văn, chớ nên chạy theo những vẻ đẹp dẫu hào nhoáng mà trống rỗng, vô hồn.
Đề 2: Phân tích tình huống truyện độc đáo mà Nguyễn Minh Châu đã tạo dựng trong tác phẩm
“ Chiếc thuyền ngoài xa”.
Bài làm
Nam Cao đã từng có một quan điểm nghệ thuật rất hay sâu sắc rằng: “Chao ôi! Nghthuật không
cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là ánh trăng lừa dối nghệ thuật chỉ có thể những
tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Và nhà văn không được trốn tránh sự thật mà phải
đứng trong lao khổ mở hồn ra để đón lấy những tiếng vang động của đời”. Quan điểm ấy của nhà văn
Nam Cao đã cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, mà
thể tổng kết bằng mấy chữ ngắn gọn “nghệ thuật vị nhân sinh”. Cùng với quan điểm ấy, nhà văn -
Nguyễn Minh Châu trong các sáng tác của mình đã thể hiện rất rõ lập trường của bản thân khi liên tục
tạo ra các tác phẩm làm rõ khởi nguồn của nghệ thuật thông qua số phận có phần bất hạnh của các nhân
vật. Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, mối quan hệ giữa nghệ thuật mà cuộc đời cũng như giá trị
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
nhân văn của tác phẩm đều xuất phát từ tình huống truyện đặc sắc, được tác giả xây dựng vô cùng ấn
tượng.
Nhan đề bao gồm đối tượng quan sát là “chiếc thuyền", cự li quan sát là “ngoài xa”, người quan
sát nghệ nhiếp ảnh Phùng. Phùng quan sát và ng ngàng chớp lấy hình ảnh một cánh buồm mờ
nhòa trong màn sương huyền ảo vào buổi sớm mai trên mặt biển xa, vẻ đẹp hài hòa, toàn bích, cái đẹp
tuyệt đỉnh của ngoại cảnh khiến nhiếp ảnh Phùng bàng hoàng xúc động trong cảm nhận: Cái đẹp chính
là đạo đức!
Như thế, chiếc thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thuật, là thứ nghệ thuật đạt tới
sự hoàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh
lọc. Thế nhưng, chiếc thuyền khi vào gần thì đó chính hiện thực, hiện thân của cuộc đời lam lũ,
khó nhọc, thậm chí là của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.
Khi vào gần tới bờ, chiếc thuyền lại hiện hữu của một không gian sống đầy bi kịch của những
người dân chài bị cầm từ bởi nghèo đói, tăm tối bạo lực – một thực tế khiến người nghệ sĩ kinh hoàng
và phẫn nộ.
Sự đối lập tàn nhẫn giữa ngoại cảnh và hiện thực cuộc sống ở những cự li và góc độ quan sát
khác nhau đã khiến Chiếc thuyền ngoài xa trở thành một biểu tượng giàu ý nghĩa. Chiếc thuyền nghệ
thuật thì ở ngoài xa nhưng hiện thực thì lại ở rất gần. Đó chính là quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu. Người nghệ sĩ cần những khoảng cách nhất đnh để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp
đích thực của nghệ thuật nhưng cũng cần bám sát vào hiện thực cuộc sống để có thể phát hiện ra những
sự thật.
Sự tự nhận thức đầu tiên có lẽ bắt nguồn từ anh chàng nhiếp ảnh gia tên Phùng. Anh được cấp
trên giap cho nhiệm vụ chụp ảnh cảnh biển vào buổi sớm, thực chất chính tác giả Nguyễn Minh Châu
cũng là một người con của miền biển nên câu chuyện của ông được kể và miêu tả khá sinh động, chi
tiết và có phần mặn mòi. Hiện thực của “Chiếc thuyền ngoài xa” không phải bức tranh hoành tráng của
mảnh đất chiến trường xưa ghi lại tội ác kẻ thù cũng như bao chiến công lừng lẫy từng đi vào lịch sử.
Sau bao nhiêu ngày trở về chiến trường xưa, lang thangbãi xe tăng hỏng, Phùng đã phát hiện
ra vẻ đẹp của bức tranh thời cổ mà anh chụp được, đó chính là hình ảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang
được tưới thẫm lên bằng màu của sương khói. Đó là một bức ảnh “đắt” như được ông trời ban cho vậy.
Bức ảnh mang nét tráng lệ thời cổ “bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét
mơ hồ lòe nhòe vào mầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lẫn trcon ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum”. Toàn bộ
khung cảnh “từ đường nét cho đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản toàn
bích”.
Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối, và
“trong trái tim như cái bóp thắt vào”. Bức ảnh đã khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động,
cảm xúc thẩm mỹ đang cháy lên trong lòng anh. Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn “Khám phá
thấy cái chân lí cựa toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nguyễn Tuân
đã từng nói “Cái đẹp cảm hóa lòng người” và cũng không phải ngẫu nhiên, ông được mệnh danh một
người cả đời đi tìm cái đẹp. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, anh đã cảm thấy cái
chân, cái thiện của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa, trong trẻo, tinh khôi. Phùng bấm
liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim để có thể thu lại khoảnh khắc tuyệt đỉnh của chiếc thuyền
ngoài xa.
Tất cả những hình ảnh tuyệt vời ấy có lẽ sẽ không b phá vỡ và Phùng có lẽ cũng sẽ không kinh
ngạc khi con thuyền trở vào gần bờ và bắt đầu xuất hiện những tiếng quát tháo. Bước ra từ chiếc thuyền
ngư phủ đẹp như mơ ấy một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi “Người đàn trạc ngoài bốn mươi, ...
cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụn rỗ mặt…” và người đàn ông to lớn dữ dằn “Tấm lưng rộng
cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn,
hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ…”. Một cảnh tượng thật tàn nhẫn: Gã
chồng đánh đập vợ một cách thô bạo “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật
tới tấp vào lưng người đàn bà, vừa đánh lão vừa thở hồng hộng, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi
lần quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày
chết hết đi cho ông nhờ!”
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
“Mâu thuẫn được đẩy lên rõ nét khi người đàn kia bị đánh không hề chạy trốn, cũng
không kêu van nửa lời. Đứa con vì thương mđã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai ngã dúi
xuống cát. Ta nhận thấy đứa con trong gia đình này được miêu tả chẳng khác nào một viên đạn, nó đập
vào hình ảnh của người cha và đâm xuyên qua trái tim của người mẹ. Ta đã nhận ra khoảng lặng của
tác phẩm khi thấy sự trăng trở của người nghệ sĩ. Có lẽ ít ai hình dung và tưởng tượng được rằng không
hiểu sao cảnh tượng phũ phàng ấy lại xảy ra khi con người ta đang xây dựng cuộc sống mới trong thời
đại mới, thời đại mà Tố Hữu đã từng viết: “Người yêu người, sống để yêu nhau”
Nhiếp ảnh gia Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến
mức trong mấy phút đầu tối cứ đứng há mồm ra nn”. Người nghệ sĩ như chết lặng. Những điều
bất công xảy ra trước mắt người chiến sĩ từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng
con người đã bùng lên một cơn giận dữ. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia là một kẻ độc ác, tàn
nhẫn nhất thế gian, còn người đàn ba kia là nạn nhân đáng thương nhất trong nạn bạo hành gia đình. Sở
Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa kia lại
có cái ác, cái xấu đến mức không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp
chính là đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng xót xa khi nhận thấy cái xấu xa, ngang trái,
bi kịch trong gia đình người dân chài đã làm cho bức ảnh của anh chụp được như nhuốm màu đau
thương ghê sợ! Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai mà
che đi nỗi đau thương ghê rợn, khiếp người kia.
Qua hai phát hiện của Phùng, Nguyễn Minh Châu muốn người đọc nhận thức mối quan hệ giữa
nghệ thuật đời sống. Nghệ thuật không nên chdừng lại vẻ đẹp ngoài, nhất i tuyệt vời thơ
mộng, mà còn phải nhìn vào bề sâu, bề sâu của cuộc đời không hề đơn giản, mà tâm điểm chính là số
phận con người đa đoan, với mọi nhọc nhằn và khổ đau, không hiếm những ngang trái bi kịch. Cuộc
đời đâu phải chỉ toàn màu hồng, cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều, mà còn chứa đựng nhiều nghịch
lí. Cuộc sống luôn luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn giữa đẹp xấu, thiện , … ác
thế mà nhà văn có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước mắt như là vỏ bọc bên ngoài để
hòng che giấu bản chất thực của đời sống bên trong. Nhà văn khẳng định: Đừng nhầm lẫn hiện tượng
với bản chất, giữa hình thức bên ngoài và nội dung bên trong vì không phải bao giờ chúng cũng thống
nhất. Đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ
đẹp của nó. Bởi xuất phát của văn chương và đích đến của nó là cuộc đời con người. Từ đó ta còn thấy
được Nguyễn Minh Châu muốn nhắn gửi đến những người cầm bút viết văn chân chính, nhiệm vụ của
họ là phải kéo nghệ thuật ở ngoài xa kia để lại gần hơn với cuộc sống. Và không phải ngẫu nhiên
chính ông đã từng nói rằng: “Văn chương và cuộc sống là những vòng tròn đồng tâm, tâm của nó chính
là con người”
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng là một người có lòng tốt, không thể chấp nhận những bất công nhưng
anh đã quá đơn giản khi nhìn nhận cuộc sống để rồi đi đến tình huống vỡ lẽ thứ hai trong tác phẩm này.
Chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập dã man không lí do như thế, nghệ sĩ Phùng đã đánh
nhau với gã chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương, vết thương trên mặt đã lên da non nhưng vẫn sẽ
để lại những dấu tích. Người đàn bà bị mời đến tòa án huyện để giải quyết công việc gia đình, từ đây
đã có một cuộc tranh luận giữa ba người là Phùng, Người đàn bà và Chánh án Đẩu.
Được mời đến tòa án huyện lần này là lần thứ hai, “chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chỗ chốn
công đường để ngồi”, tuy không phải lần đầu nhưng chị ta có vẻ rất sợ sệt và lúng túng, “Dáng vẻ thì
nhấp nhổm, mụ xoay người trên ghế như bị kiến đốt”, cái sợ sệt mà ta không hề thấy có khi chị ta bị
chồng đánh ở bãi xe tăng. Chị thấy sợ hãi khi phải đối diện với một không gian lạ, chị ta thật tội nghiệp,
cái dáng vẻ ngồi “nép vào mép ghế” và cố “thu người lại”, để có thể tự về dù Đẩu đã nói những lời rất
thân mật, chia sẻ và cảm thông.
Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà
hàng chài. Ban đầu, khi nói chuyện và tiếp xúc với chánh án Đẩu, chị còn xưng “Con” với “quý tòa”
có lúc đã van xin “Con lạy quý tòa, quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con
bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục mặt bỗng người đàn bà hàng chái ngẩng lên,
nhìn thẳng và lại đổi cách xưng hô thành “chị’” và “các chú”. “chị cảm ơn các chú…Lòng các chú tốt
nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người làm ăn
lam lũ khó nhọc” Cái vẻ sợ sệt cũng không còn, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho Phùng và Đẩu
hết sức ngạc nhiên.
Người đàn hàng chài đó không hề đơn giản như Phùng Đẩu nghĩ. Mới bước vào cuộc
tranh luận thì ta nhận thấy nhân vật người đàn bà hàng chài có vẻ đáng trách, rung túng cho bạo lực gia
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
đình diễn ra một cách thường xuyên “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước ta không
có người nào như hắn”. Thế nhưng đọc kĩ và ngẫm nghĩ lại thì đó lại là những điều mà Phùng và Đẩu
phải vỡ lẽ ra. Đẩu vốn là một chánh án, được mệnh danh là Bao công phố huyện vùng biển, là người có
kiến thức về luật pháp còn Phùng người hiểu biết về nghệ thuật, chuyên săn lùng cái đẹp vậy
cũng đã bị người đàn bà thuyết phục hoàn toàn. Người đàn bà hàng chài với lời lẽ thuyết phục ấy đã lộ
ra cái sắc sảo của mình, người đàn bà không tên này càng ngày càng thể hiện mình là một người từng
trải, hiểu biết về cuộc sống. Thì ra, cái nghề hài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênh không thể
thiếu bàn tay, sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại
mà làm quần quật để nuôi một đàn con mà nhà nào cũng trên dưới chục đứa ý chính người đàn bà còn
khẳng định người chồng của chị ta vốn là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, nhưng chỉ
hoàn cảnh khắc nghiệt, đói nghèo anh ta trở n phu, tàn nhẫn và ích kỉ. Đó cả một câu
chuyện về kế sinh nhai, về những người làm ăn lam lũ khó nhọc.
Trong câu chuyện kể về cuộc đời mình của người đàn bà hàng chài, người đàn bà khẳng định
chị ta sống cho những đứa con chứ không phải cho mình. Ở đây lẽ đời đã chiến thắng, Người lao động
lam lũ, nghèo khổ không uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời
cũng một thứ uy quyền có sức công phá lớn. Nó đã làm cho nghệ Phùng và Đẩu vỡ lẽ ra nhiều
điều, nhận ra nỗi nhọc nhằn vất vả của cư dân vùng biển, nhận ra mối quan hệ giữa bản chất và hiện
tượng bên ngoài, cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận nghịch cảnh, những ngang trái và người
đàn bà không chịu đòn roi một cách vô lí.
Cả Đẩu Phùng đều chua chát nhận ra rằng: Trên thuyền cần có một ngưi đàn ông… dù hắn
có man rợ, tàn bạo, thì vẫn cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp. Và cái
bản chất ở đây là cuộc sống sinh nhai, không thể một mực áp dụng luật pháp, kiến thức sách vở được
mà đôi khi đó phải những sự trải nghiệm và hiện thực cuộc sống phản ánh lại. Họ còn nhận thức được
rằng, với người phụ nữ, với người đàn bà kia họ vẫn luôn tìm thấy cho mình niềm vui, hạnh phúc dẫu
rất nhỏ nhoi trong cuộc sống còn đầy rẫy những khó khăn, vẫn luôn tin vào một sự lạc quan và tình yêu
cuộc sống. Hành trình kiếm tìm hạnh phúc với họ không đơn giản nhưng họ vẫn thấy hạnh phúc khi
nhìn thấy những đứa con của mình được ăn no. nh yêu thương gia đình của người đàn bà đã khiến
cho “Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị bao công phố huyện vùng biển này”. Đó là sự vỡ lẽ về quan
niệm tình yêu, hạnh phúc, lòng nhân ái và sự khoan dung mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh, không còn phải đương đầu với quân xâm lược nhưng người Việt
Nam lúc bấy giờ cần phải tổ chức lại nhịp sống của mình, khôi phục lại kinh tế và hàn gắn vết thương
chiến tranh, đây không phải công việc có thể thực hiện một sớm một chiều. Dù là một người đàn bà ít
học, suốt ngày lênh đênh trên biển, chỉ là một nhân vật luận đề am hiểu về cuộc sống cũng khiến cho
Phùng và Đẩu vỡ lẽ. Ta biết rằng lí thuyết sách vở luôn đúng nhưng cuộc sống cũng sẽ có những lí lẽ
riêng của nó. Những kết hợp ấy mang lại cho tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cái nhìn đa diện về số
phận con người.
Kết thúc truyện, người đọc vẫn không biết tên của người đàn bà hàng chài. Sở dĩ đây cũng là
dụng ý nghệ thuật của tác giả để ông có thể bộc lộ được hết ý tưởng của mình. Không có tên là bởi lẽ
hình ảnh người đàn bà hàng chài ấy tượng trưng cho biết bao người phụ nữ khác nơi vùng biển xa, số
phận của những người phụ nữ làng chài sẽ còn mãi bị phụ thuộc nếu như cuộc sống mưu sinh còn nhiều
vất vả, nhưng ở họ luôn luôn toát lên một tưởng về tình yêu gia đình, tình u cuộc sống của tình
mẫu tử thiêng liêng cao quý, là động lực để họ vươn lên ngay cả khi không thể chịu đựng được nữa,
những con người từng trải, cam chịu nhẫn nhịn. Tác giả muốn bạn đọc có i nhìn đa diện, nhiều
chiều, để có thể đối chứng các vấn đề lại với nhau từ đó rút ra bài học cho riêng mình.
“Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc
lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng không có, quê hương bản quán cả chục cây
số trời nước chứ không cố kết vào một khoảnh đất nào”. Đã có những bi kịch tiềm ẩn khiên con người
ta phải ngỡ ngàng.
Một câu chuyện đơn giản nhưng chưa đựng nhiều những phát hiện mới mẻ bởi tình huống nhận
thức làm ló ra những chân lí về đời sống, chân về nghệ thuật hướng đến con người. Nếu chỉ suy nghĩ
một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng sẽ khiến người dân lao động đổi
đời, sẽ xóa tan những bi kịch đè nặng lên kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ ra rằng:
Cách mạng không thể giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn phải đối diện với bi
kịch và dung hòa với nó. Cách lí giải của Nguyễn Minh Châu còn chứa đựng suy ngẫm về số phận dân
tộc phải trải qua khổ đau để đối diện với hiện thực còn nhiều thách thức. Điều thống nhất trong hành
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
trình sáng tạo của Nguyền Minh Châu luôn vẫn là “nỗi lo âu sao mà lớn lao và đầy khắc khoải về con
người” về cuộc sống. Đây cũng là lí do mà Nguyễn Minh Châu một đời cầm bút với hi vọng. “Văn học
sinh ra đời để gìn giữ trong từng con người một cái gì hết sức mong manh và luôn luôn run rẩy... một -
cái gì đó thật là như vậy, nhưng thiếu nó trong con người thì y rằng con người ấy không thể sống giữa
quần thể loài người được, và trở thành một tại họa cho loài người (Nhật kí Nguyễn Minh Châu).-
Nếu như trước kia, giai đoạn văn học 45 75 khi viết về con người bao giờ các nhà văn cũng -
nói về sức sống mãnh liệt để vượt qua nghịch cảnh, của tác động môi trường, xã hội như ta tìm thấy ở
anh Cu Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân, hay anh Chí Phèo của Nam Cao bị tha hóa cả nhân hình lẫn
nhân tính vẫn trải qua sóng gió để thể trở về chết trên con đường lương thiện… Khi diễn tả con
người các nhà văn thường đi theo hướng ch cực, vượt lên hoàn cảnh hồi sinh tâm hồn thì những
minh họa ấy trở nên phiến diện cùng trong thời đại đổi mới. Nguyễn Minh Châu đã không đi theo
con đường mòn ấy, trong Chiếc thuyền ngoài xa, tác giả khẳng định nghịch lí xuất hiện như một điều
hiển nhiên trong cuộc sống con người.
Trước sau, Nguyễn Minh Châu vẫn người đi săn tìm cái đẹp, tìm cái hạt ngọc ẩn sâu trong
tâm hồn con người. Đó phải chăng là ý nghĩa của những biểu tượng như “mảnh trăng cuối rừng”, “chiếc
thuyền ngoài xa”? Có sự đổi thay trong cách nhìn của nhà văn bởi thực tế và tâm thế sáng tạo của nhà
văn đã khác trước, bởi cuộc sống hòa bình khác với cuộc sống chiến tranh. Bằng thái độ cảm thông và
những hiểu biết sâu sắc về con người, kết hợp với điểm nhìn nghệ thuật sắc sảo, đã diện ông đã cung
cấp cho bạn đọc cái nhìn toàn diện về cuộc sống khi đi từ bề nổi đến bề sâu. Nguyễn Minh Châu là một
nhà văn luôn hướng về con người và có khả năng giải mã tất cả những gì phức tạp nhất của cuộc đời.
Bức tâm thư về mối quan hệ giữa nghệ thuật cuộc sống chính nhận thức thấm thía nhất: “Cuộc
đời vốn dĩ nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ
thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật, và
nếu muốn khám phá những bí ẩn đằng sau thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc
đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời” (Lê Ngọc Chương)
Với cách xây dựng tình huống truyện đặc sắc, độc đáo có ý nghĩa khám phá kết hợp với lời văn
giản dị, đầy tính dư ba, Nguyễn Minh Châu đã làm nổi bật chủ đề của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
Từ câu chuyện về bức ảnh nghệ thuật và sự thật về cuộc đời tác giả đã mang đến bài học đúng đắn về
cách nhìn nhận cuộc sống, cách phát hiện ra bản chất thật sâu vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Chiếc
Thuyền Ngoài xa sẽ mãi là tuyên ngôn nghệ thuật của tác giả với những nhà văn cùng thời.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã vượt qua được cái nhìn đơn giản, dễ dãi để đem đến cho ta một
truyện ngắn có chiều sâu nhận thức và có giá trị phát hiện bằng những nghịch lí của đời thường. Chiếc
thuyền chỉ đẹp khi nó ở ngoài xa trong sương mù bồng bềnh huyền ảo, nhưng khi nó đến gần thì bên
trong lại bộc lộ những cái thật xấu xa của cuộc sống con người trong cuộc sống bất hạnh của
người đàn bà khốn khổ kia vẫn ánh lên những nét đẹp của người phụ nữ lao động cho dù đó là những -
nét đẹp của sự âm thầm nhẫn nhục cam chịu không đáng và không nên có của người phụ nữ trong
thời đại ngày nay. Đó chính là cuộc sống thật đang diễn ra đâu đó trên đất nước ta - một cuộc sống trần
trụi, gai góc, nhức nhối nhưng rất dễ bị che lấp bởi một vẻ đẹp thoáng qua bên ngoài. Và khi nhà văn -
đã vạch ra cái sự thật của cuộc sống đó thì cũng tức là họ đã đặt ra những câu hỏi bức xúc để góp phần
thay đổi cuộc sống, hoàn thiện nhân cách con người.
Qua câu chuyện và những chân lí giản đơn của người đàn bà làng chài, Phùng phát hiện ra cái
đẹp của đời thực, của nghệ thuật trong đời sống nội tâm của con người thế giới con người thế giới -
phức tạp, khám phá về con người, muốn giúp đỡ con người không phải là điều đơn giản. Còn chánh án
Đẩu, vị bao công của phố huyện nghèo cũng sẽ thấy pháp luật và công lý không nằm trong đống sách
vở thô cứng, lẽ phải ở chính lòng người, luật pháp là cần thiết, lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ, cần
phải thấu hiểu, thâm nhập sâu vào đời sống của nhân dân hơn để tìm cách phù hợp giúp đỡ họ.
Hơn nữa, câu chuyện tòa án huyện còn nêu lên cốt lõi tinh thần nhân đạo của tác phẩm.
Nguyễn Minh Châu đã từng quan niệm rằng: “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết là để làm công việc
như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân
tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị đày đọa và hắt hủi đến ê chề, hoàn toàn mất niềm tin
vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không còn có
ai để bênh vực”. Nhà văn đã hướng ngòi bút nhân đạo của mình khám phá vẻ đẹp khuất lấp của người
đàn bà hàng chài, ca ngợi giá trị tốt đẹp của họ; đồng thời đặt ra câu hỏi: “Người nghệ sĩ phải nhìn cuộc
đời như thế nào?” “Cần phải làm gì để nhân dân đều cuộc sống ấm no, hạnh phúc sau khi hòa
bình đã lập lại?”.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Người đàn bà vùng biển này cũng giống như cô Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng”, đều là kiểu “hạt
ngọc ẩn” mà Nguyễn Minh Châu đang đi tìm. Có điều, cô Nguyệt là mẫu hình lý tường chỉ để ngắm
nhìn, mơ ước chứ không có thực, còn người đàn bà trong tác phẩm hiện lên trong những cái lấm lem,
bụi đời.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu là một nhà văn mang tư tưởng nhân đạo thấm vào từng con chữ.
Người đã đi tìm vẻ đẹp tâm hồn con người bằng cách đào sâu vào nội tâm mối quan hệ giữa con
người, giữa con người với cuộc đời bởi lẽ ông không bằng lòng với hào quang quá khứ. Đồng thời,
trước hoàn cảnh éo le của người đàn bà, tác giả bộc lộ niềm thương xót cho số phận khốn cùng của
những mảnh đời bất hạnh sau khi hòa bình đã được lập lại. Liệu rằng khi đất nước thống nhất thì cuộc
sống nhân ân ai ai cũng ấm nó hạnh phúc hay còn những góc tối chưa được soi chiếu?
Nguyễn Minh Châu đã tự hóa thân mình thành nghệ Phùng và tbước chân kiếm tìm vẻ đẹp
của người đàn bà làng chài. Ông nhận ra rằng giữa cái thờ có cái tình, giữa cái tạp chất có cái lóng lánh
vàng ngọc. Tầm nhìn của nhà văn cũng thật sâu rộng khi đề cập đến vấn đề bạo lực gia đình – một vấn
đề vô cùng nóng bỏng hiện nay và rung lên hồi chuông cảnh tỉnh cho chúng ta. Từ hình ảnh người đàn
đã cho ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn cà có cách nhìn đa chiều của ông. Nghệ thuật
không thể chỉ vì nghệ thuật mà còn phải vị nhân sinh bởi lẽ con người đa đaon, cuộc đời đa sự đòi hỏi
người nghệ sũ không được hời hợt với đôi mắt nhìn con người, cuộc đời.
Nguyễn Minh Châu đã thành công dựng lên nhân vật người đàn bà trong cái lấm lem bụi đời
để bày tỏ tình cảm nhân đạo của mình. Cách trần thuật, tình huống truyện và lời thoại nhân vật đã góp
phần làm nên cái đắc địa, tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài xa”. Từ đó cho ta thấy những triết lý nhân
sinh và nghệ thuật, cuộc đời cũng như trách nhiệm của người nghệ sĩ ấy.
Theo Maksim Gorky thì: “Văn học là nhân học”, tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đi sâu vào lòng
người không chỉ vì nhan đề đa nghĩa, cảnh thiên nhiên tơi đẹp hay vẻ đẹp khuất lấp của người đàn
mà còn là những trang viết viết đầy ắp hơi thở cuộc sống và thấm đượm tinh thần nhân đạo của nhà văn
với quan niệm: “Cuộc sống và nghệ thuật là những vòng tròn đồng tâm con người tâm điểm”.
Ngày hôm nay ta đến với “Chiếc thuyền ngoài xa” tác phẩm mang lại giá trị nhận thức sâu sắc về con
người và cuộc đời. Mỗi chúng ta, đặc biệt là người nghệ sĩ cần phấn đấu nhìn cuộc đời, con người t
trên nhiều bình diện. Đồng thời, ta phải có lòng thương cảm sâu sắc với những mảnh đời chắp vá
của người đàn bà là điển hình. Qua tuyệt phẩm văn học, tất cả độc giả đều “vỡ” ra nhận thức mới mẻ,
triết lý để xứng đáng nâng “Chiếc thuyền ngoài xa” lên làm “bài học nghệ thuật và cuộc đời”, tin hằn
mãi trong tâm khảm mọi người! Tính tình huống đã làm cho truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa chân
thực, vừa mang giá trị nhân bản sâu sắc. Truyện ngn Chiếc thuyn ngoài xa, Nguy n Minh Ch âu đã
nêu l n b i hê à c v c i nh á ìn đa diện, cái nhìn khá á á m ph trong s ng t o ngh thu i v ật đố i c c ngh sá ĩ
chân ch nh. T t nh hu ng truy n c ngh a kh m ph , ph t hi n v s i s ng v qua s thay í ì ó ý ĩ á á á thật đờ à
đổ i nh n th c c a Ph ùng, của Đẩ ẳng địu, tác gi đã kh nh mi quan h gia ngh thut và hi n thc.
Theo ng, b n ph n c a ng i ngh s l ph i ph t hi n ra b n ch t c a cu i. C p, c i Thiô ườ ĩ à á ộc đờ ái Đẹ á n
trước hết ph i l s n th c, Cu c s ng v à châ n ph c t p, ch ng ta kh ng th n gi n, s l c khi nh ú ô đơ ơ ượ ìn
nhn con ng i v ườ à cu c s ng m c n c c i nh nh t o, s u s c c ng v i s t m t i, ph t hi à ó á ìn t á â ù ì ò á n đ hiu
đú ng bn ch t c a nó.
Đề 3: Phân tích chi tiết tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm trong Chiếc thuyền ngoài xa.
Nhà Văn Thạch Lam từng nói “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man
mác của vụ trụ”.Bởi l v y v n c a Nguy n Minh Ch u th c d ng x ă â ường đượ ây tr n nhê ng ngh ch l í để
mà t khi n ng c tđó ế ười đọ v l ra nh ng th ông điệp, giá tr m nhà à v n mu n g i gă m.Chiếc thuyền
ngoài xa là truyện ngắn đậm tính triết luận thể hiện được sự suy tư, trăn trở của nhà văn Nguyễn Minh
Châu về cuộc sống đói nghèo của hiện tại cũng như nỗi trăn trở về trách nhiệm, vai trò của nghệ thuật,
người nghệ sĩ trước cuộc đời và con người. Thành công của truyện ngắn được tạo nên bởi chính những
hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật nhất thể kể đến chi tiết “tấm ảnh
nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm”.
Chiếc thuyền ngoài xa một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất của nhà văn Nguyễn Minh
Châu. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Tạp
chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng chọn và coi đây là tác phẩm hay nhất của nhà
văn.Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được sáng tác vào tháng 8/1983, lúc đầu được in
trong tập , sau đó có vinh dự được nhà văn dùng để đặt tên cho cả tập truyện ngắn, xuất bản Bến quê
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
năm 1987. Năm 1983, đó là một thời điểm khá đặc biệt khi cuộc chiến tranh chống Mĩ và tay sai đã kết
thúc thắng lợi, chúng ta trở về muôn mặt của đời thường. Và cũng trong thời điểm này, cả dân tộc đang
bước vào giai đoạn đổi mới, cho nên cuộc sống nhiều điều bất ngờ thú vị, có sức hút đối với văn
nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Minh Châu.Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc thuộc giai đoạn
sáng tác thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Trong giai đoạn này, qua tác phẩm
Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã bộc lộ sự chuyển biến quan trọng trong sáng tác: từ phong cách
mang đậm tính chiến đấu, chuyển sang cảm hứng thế sự, cảm hứng nhân sinh, ngòi bút của nhà n
hướng vào thể hiện con người trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc bình yên. Truyện
ngắn thực sự một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc, đồng thời giúp nhà văn gửi gắm được
những thông điệp nghệ thuật quan trọng.
Đó là một bức ảnh “đắt” như được ông trời ban cho vậy. Bức ảnh mang nét tráng lệ thời cổ “bức tranh
mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào mầu sương mù trắng như
sữa có pha đôi chút hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng
phắc như tượng trên chiếc mũi khum khum”. Tn bộ khung cảnh “từ đường nét cho đến ánh sáng đều
hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản mà toàn bích”. Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác
của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối, và “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Bức ảnh đã
khiến cho tâm hồn người nghệ sĩ rung động, cảm xúc thẩm mỹ đang cháy lên trong lòng anh. Chưa hết,
trong giây lát, người nghệ sĩ còn “Khám phá thấy cái chân lí cựa toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh
khắc trong ngần của tâm hồn”. Nguyễn Tuân đã từng nói “Cái đẹp cảm hóa lòng người” và cũng không
phải ngẫu nhiên, ông được mệnh danh một người cả đời đi tìm cái đẹp. Nói cách khác, trong mt
khoảnh khắc của cuộc sống, anh đã cảm thấy cái Chân, cái thiện của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ
như được gột rửa, trong trẻo, tinh khôi. Phùng bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim để
có thể thu lại khoảnh khắc tuyệt đỉnh của chiếc thuyền ngoài xa.
Sau nhiều ngày chờ đợi, Phùng đã chụp được một “cảnh đất trời cho”, cảnh một chiếc thuyền ngoài xa
trong biển sớm sương mờ: “Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi
thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do
ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui
khuôn khuôn, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới
nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường
nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp..”
Đoạn văn vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, thể hiện sự nhạy cảm trước cái đẹp của một con
người tài hoa, am hiểu sâu sắc về hội họa. Câu đầu là ước lệ là cảm nhận chung về “bức tranh mực Tàu”
cận cảnh là “những mắt lưới” viễn cảnh của “chiếc thuyền ngoài xa”. Tiếp theo hình ảnh cụ thể
với mũi thuyền trôi trong bầu sương mù, có bóng người lớn lẫn trcon, có những tấm lưới. Cảnh huyền
ảo bởi “bầu sương mù trắng như sữa”, tinh khiết với “màu hồng hồng” của ánh mặt trời vừa tiếng tại
với bóng người “im phăng phắc”, vừa sống động với những mũi thuyền đang hướng vào bờ. Các từ láy
“loè nhoè”, “hồng hồng”, “phăng phắc” ,“khum khum” khiến cho khung cảnh thêm huyền ảo. Các so
sánh “trắng như sữa”, “im phăng phắc” như tượng tô đậm chất tạo hình của bức tranh. Tất cả tạo nên
cái đẹp tuyệt đỉnh mà tạo hóa ban tặng.
Đứng trước cái đẹp tuyệt đỉnh của thiên nhiên người nghệ sĩ thấy trong lòng mình rung động mãnh liệt
trong trái tim như cái gì bóp thắt vào. Phùng như nghiệm ra rằng bản thân cái đẹp đạo đức, nó
giúp ta khám phá cái hoàn thiện hoàn Mỹ có tác dụng thanh lọc tâm hồn để con người trở nên cao khiết,
thánh thiện. Phùng bấm liên thanh hết một phần tư cuốn phim để vĩnh cửu hóa cảnh tuyệt vời đó.
Hạnh phúc của nghệ sĩ Phùng là hạnh phúc của sự khám phá và sáng tạo của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt
diệu. Để có được niềm hạnh phúc ấy người nghệ sĩ phải kiên trì, vượt khó, đam mê hết mình vì nghệ
thuật và cái đẹp diệu kỳ có khi lại đến với người nghệ vào lúc không ai ngờ nhất. Tớ cái đẹp tự
nhiên hòa hợp kỳ lạ giữa cảnh vật và con người, đơn giản và hoàn mỹ.
Đứng trước một sản phẩm nghệ thuật tuyệt tác của hóa công, người nghệ sĩ trở nên bối rối, và
“trong trái tim như cái bóp thắt vào”. Bức ảnh đã khiến cho tâm hồn người nghệ rung động,
cảm xúc thẩm mỹ đang cháy lên trong lòng anh. Chưa hết, trong giây lát, người nghệ sĩ còn “Khám phá
thấy cái chân lí cựa toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nguyễn Tuân
đã từng nói “Cái đẹp cảm hóa lòng người” và cũng không phải ngẫu nhiên, ông được mệnh danh là một
người cả đời đi tìm cái đẹp. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, anh đã cảm thấy cái
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
chân, cái thiện của cuộc đời, tâm hồn người nghệ sĩ như được gột rửa, trong trẻo, tinh khôi. Phùng bấm
liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim để có thể thu lại khoảnh khắc tuyệt đỉnh của chiếc thuyền
ngoài xa.
Chắc hẳn không chỉ có Nguyễn Minh Châu có những rung động trước “Cảnh đắt trời cho” mà
ngay cả người đọc khi đọc cũng cảm thấy siêu lòng. Là một bức ảnh rất nghệ thuật – một cảnh đắt trời
cho, một vẻ đẹp toàn bích có lẽ đời nghsĩ khó thể gặp lần hai.Tấm ảnh được bổ sung vào bộ
lịch năm ấy, góp phần nâng cao uy tín cho tác giả của tấm ảnh“trưởng phòng rất bằng lòng”; tấm ảnh
có giá trị nghệ thuật cao, được mọi người yêu thích, “được treo rất nhiều nơi nhất là các gia đình sành
nghệ thuật”. Không những thế, nó còn có giá trị lâu bền “không những cho bộ lịch năm ấy mà mãi mãi
về sau”. Sự đánh giá cao của công chúng về tấm ảnh xứng đáng với công sức mà Phùng đã bỏ ra sau
nhiều ngày “phục kích”. Nhưng, công chúng họ chỉ là những người yêu nghệ thuật một cách thuần túy,
chỉ cảm nhận cái đẹp bên ngoài của tấm ảnh, của nghệ thuật.
Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn đậm tính triết luận thể hiện được sự suy tư, trăn trở của nhà văn
Nguyễn Minh Châu về cuộc sống đói nghèo của hiện tại cũng như nỗi trăn trở về trách nhiệm, vai trò
của nghệ thuật, người nghệ sĩ trước cuộc đời và con người. Thành công của truyện ngắn được tạo nên
bởi chính những hình ảnh, chi tiết ấn tượng, giàu giá trị biểu đạt, trong đó nổi bật nhất có thể kể đến chi
tiết “tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm”.
Chi tiết “Tấm ảnh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm” là chi tiết khép lại truyện ngắn, đồng thời cũng là
một trong những chi tiết đắt giá nhất thể hiện được quan niệm về cuộc sống và nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu, chi tiết có thể khơi dậy những suy tư, chiêm nghiệm của Phùng cũng như người đọc.
Bức ảnh nghệ thuật được nhiếp ảnh gia Phùng chụp ở bãi biển năm nào đã trở nên nổi tiếng, trở thành
tác phẩm nghệ thuật lí tưởng cho những nhà sành nghệ thuật. Đó là bức ảnh hoàn mĩ, là kết tinh của vẻ
đẹp toàn bích của thiên nhiên, tài năng và sự may mắn của người nghệ sĩ. Bức ảnh có sự kết hợp giữa
con người cảnh vật, bức ảnh đó từng mang đến hạnh phúc cho Phùng và còn đủ sức thuyết phục
dành cho những người sành nghệ thuật.
Nhiều năm về sau, khi nhìn vào bức ảnh, Phùng không còn hạnh phúc như khi bắt gặp được khoảnh
khắc trời cho ấy nữa mà đầy những trăn trở, suy tư bởi anh là người hiểu hơn ai hết sự thật tàn khốc
đằng sau một khung cảnh toàn ch, hoàn hảo. Đằng sau một bức ảnh nghệ thuật là những góc khuất
tối tăm của cuộc đời, đó là hiện thực trần trụi với cuộc sống lam lũ mà trung tâm là hình ảnh người đàn
bà xấu xí, thô kệch đang bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong
đám đông.
Trong cảm nhận của Phùng, bức tranh không còn chất thơ mộng, lãng mạn nghệ thuật nữa thấm
đượm hơi thở của cuộc đời. Chính những cảm nhận này đã mang đến những ám thị đặc biệt cho Phùng
mỗi lần nhìn lại bức ảnh mình từng chụp. Xuyên qua cái hồng của sương mai của cảnh vật, Phùng đã
nhìn ta được những cái “thô kệch, ướt súng, nhợt trắng, bạc phếch…” của cuộc đời. Chỉ Phùng mới có
cái nhìn khác về tác phẩm nghệ thuật của mình phải chăng Phùng đã từng chứng kiến câu chuyện đầy
éo le, nghịch lí bên trong hay Phùng đã biết nhìn bằng trải nghiệm, dám nhìn thẳng, nhìn sâu vào hiện
thực dẫu tàn khốc, vô tình.
Thông qua tình huống truyện đặc sắc, tác giả Nguyễn Minh Châu đã thể hiện được những quan niệm
sâu sắc về cuộc đời và nghệ thuật, giữa người nghệ sĩ với con người. Nghệ thuật chỉ là nghệ thuật chân
chính nếu như phản chiếu được hiện thực cuộc sống của con người. Người nghệ sĩ cần là người dám
nhìn sâu, nhìn thẳng vào hiện thực bằng cái nhìn trải nghiệm, đồng cảm với cuộc sống của con người.
Trách nhiệm của người nghệ sĩ không chỉ là sáng tạo nên cái đẹp mà còn cần kéo gần khoảng cách giữa
nghệ thuật cuộc sống. Nghệ thuật không phải những quá cao siêu, trừu tượng đó chính
những số phận, những cuộc đời cụ thể, người nghệ cần cúi xuống thật gần những số phận để lắng
nghe, thấu hiểu, khi đó nghệ thuật sẽ trở thành nghệ thuật giá trị nhất.
Như vậy, chỉ một chi tiết“tấm nh nghệ thuật trong bộ lịch cuối năm”, nhà văn Nguyễn Minh Châu
không chỉ khép lại, đặt dấu chấm cho một câu chuyện mà còn tổng kết được những giá trị tư tưởng, gợi
mở ra những suy tư, chiêm nghiệm nơi độc giả.
Hình ảnh tấm ảnh trong bộ lịch cuối năm đã khép lại tác phẩm nhưng đọng lại mãi với những suy tư,
tự nghiệm của nghệ Phùng người đọc: “Không những trong bộ lịch năm ấy hòa lẫn trong đám
đông”. Không khó khăn mấy người đọc cũng nhận thấy đây dường như có hai bức ảnh trong một
khuôn hình.Trước hết đó một bức ảnh thuần nghệ thuật dành cho những nhà sành nghệ thuật: Một
bức ảnh mang vẻ đẹp toàn mĩ, vốn một cảnh đắt trời cho, kết tinh công phu và sự may mắn của người
nghệ sĩ. Một bức ảnh về con thuyền được chụp từ ngoài xa với vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
vật. Một cảnh đẹp được ghi lại bằng một ấn tượng thuần tuý nghệ thuật. Một bức ảnh không chỉ đem
đến một niềm hạnh phúc cho người sáng tạo còn đủ sức thuyết phục với cả những nhà sành nghệ
thuật và có sức sống lâu bền “ mãi mãi về sau”…Đằng sau bức ảnh nghệ thuật đó là một bức ảnh cuộc
sống hiện thực trần trụi, lam trung tâm là hình ảnh người đàn vùng biển cao lớn với dáng người
thô kệch…bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.
Một hình ảnh không còn thơ nữa mà rất đời. Hình ảnh này đã trở thành một ám thị đối với Phùng “mi
lần ngắm kĩ tôi vẫn thấy”. Nhưng tại sao chỉ riêng Phùng mới thấu thị như vậy mà những người khác
thì không? Phải chăng vì Phùng biết nhìn kĩ, nhìn lâu, nhìn thẳng; biết nhìn xuyên qua màu hồng hồng
của ánh sương mai, nhìn cho ra được những “tkệch, ướt sũng, nhợt trắng, bạc phếch…” điều
quan trọng nhất Phùng biết nhìn bằng trải nghiệm. Hay nói khác đi Phùng không chỉ nhìn mà còn
sống trong cuộc đời, đau đáu nỗi đau của người đàn bà hàng chài, lắng nghe câu chuyện của chị.
Dùng nghệ thuật tương phản kết hợp với một chút phi lí (bức ảnh đen trắng nhưng lại nhìn ra màu hồng
hồng), Nguyễn Minh Châu đã dựng lên một ẩn dụ nghệ thuật với bao nhiêu thông điệp, nhận thức. Nghệ
thuật cất lên từ cuộc sống nhưng giữa cái đẹp của nghệ thuật và cuộc sống luôn có khoảng cách. Đôi
khi ngay đằng sau cái đẹp mơ màng và tưởng như toàn bích kia lại chứa đựng trong đó những hiện thực
cuộc sống còn đầy khiếm khuyết, nhức nhối. Không cẩn thận cái đẹp thuần tuý nghệ thuật lại trở thành
cái đẹp giả dối… Cần phải nhìn thẳng vào cuộc sống dù nó không phải thơ mộng như chúng ta muốn.
Cần phải kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật cuộc sống, muốn phản ánh trung thực cuộc sống
người nghệ sĩ phải đi đến với cuộc đời, cúi xuống thật gần những số phận cá nhân vốn nhiều bi kịch,
lắng nghe câu chuyện của họ…Chi tiết này đã gieo ra một tình huống tự nhận thức mà ở đó người ta
thấy rõ hơn về nhân vật Phùng: Phùng không phải tìm kiếm ở đâu mà anh đang cày xới, lật lại, đào sâu
hơn vào chính bức ảnh của mình, chính thứ nghệ thuật tưởng như đã hoàn mĩ của mình. Không ai bắt
anh làm thế và không ai biết anh làm thế, nhưng với trách nhiệm, lương tâm của một nghệ sĩ chân chính
buộc anh phải liên tục trăn trở như vậy. Con người Phùng hay cũng chính hình ảnh tác giả bởi nhà văn
đã từng đặt mệnh lệnh cho mình: Không có quyền miêu tả cuộc sống một cách hời hợt. Sự lo lắng cho
con người đã trở thành nỗi quan hoài thường trực.Không phải đến cuối chi tiết bức hình mới xuất hiện
và cũng không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại kết thúc truyện ngắn của mình bằng chi tiết
này: Phùng nhận nhiệm vụ chụp ảnh cho bộ lịch cuối năm anh đã khoác vào mình một thiên chức
quan trọng của nghệ thuật (làm sao phải đẹp để thoả mãn nhà xuất bản thị hiếu mọi người nhưng
đồng thời lại nói được trung thực nhất về cuộc sống). Phùng đã làm nên bức ảnh bằng tất cả niềm đam
mê và trách nhiệm và anh đã có được niềm vui của một người nghệ sĩ chân chính.
Khép lại tác phẩm, chính bức ảnh ấy lại làm anh không dứt khỏi những ưu tư, vỡ ra bao nhiêu nhận
thức. Chi tiết bức ảnh đã trở thành một cấu tứ cho truyện ngắn này. Riêng tôi vẫn tự đặt câu hỏi: Nếu
được chụp lại bức ảnh Phùng sẽ chụp như thế nào? Điều đó hẳn cũng có nhiều thú vị
Dựng lên sự đối lập giữa hình ảnh chiếc thuyền trên bức ảnh nghệ thuật và tấn bi kịch của gia đình
người ngư dân bên trong chiếc thuyền đẹp đẽ ấy, nhà văn thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của mình:
nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống, phục vụ cuộc sống; tài năng và tấm lòng
của người nghệ những nhân tố không thể thiếu được trong sự sáng tạo nghệ thuật.Nguyễn Minh
Châu đã không trực tiếp phát ngôn cho quan niệm nghệ thuật của mình nhưng hệ thống nhân vật của
tác phẩm và đặc biệt quá trình tự ý thức của người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã toát ra điều đó. Bằng hành động
tự ý thức, Phùng đã nhận ra cái chưa đến được của mình để rồi đấu tranh tự hoàn thiện. Đây cũng chính
là khát vọng kết nối Chân – Thiện – mà suốt đời nhà văn Nguyễn Minh Châu luôn khao khát và tìm
kiếm.
Người nghệ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp
tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của
tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy
hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu
nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà
vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới
ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân
dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả,
nhưng nếu không tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng
của ánh sương mai kia cũng trở nên nghĩa, người nghệ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn
sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Đề 4 : Cảm nhận của anh chị về nhân vật Phùng trong tác phẩm “ Chiếc thuyền ngoài xa”
của Nguyễn Minh Châu. Từ đó làm nhận xét quan niệm của tác giả về nghệ thuật
GS.TSKH Lê Ngọc Trà từng nói “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói tình cảm của con ,là sự
tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.”Quả thật mỗi nhân vật trong mỗi tác phẩm đều là những nguời có tâm
tư, tiếng nói riêng trong mỗi tác phẩm qua đó cho ta thấy nhiều khía cạnh, câu chuyện của mỗi tác
phẩm. guyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất của văn học ta hiện nay. Ông
đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât
của ông con người trong cuộc u sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn
thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Truyện đã xây
dựng thành công hình tượng nhân vật Phùng, một nghệ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp,
người luôn lo lắng, trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người.
Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê(1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một
tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).Truyện in đậm phong cách tự sự triết lí của Nguyễn Minh Châu, -
rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai.Chiếc
thuyền ngoài xa trước hết là biểu tượng của nghệ thuật, là thứ nghệ thuật đạt tới sự hoàn Mỹ và thánh
thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc.Chiếc thuyền khi
vào gần thì đó chính là hiện thực, là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí là của những éo
le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống.Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng hiện
thực thì lại ở rất gần. Đó chính là quan niệm về nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Người nghệ sĩ cần
những khoảng cách nhất định để khám phá thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật nhưng
cũng cần bám sát vào hiện thực cuộc sống để có thể phát hiện ra những sự thật. Vậy nên, thể nói
hình tượng “chiếc thuyền ngoài xa” đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng ý của nhà văn
Nguyễn Minh Châu. Giải hình tượng ẩn dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông điệp nhà văn
muốn truyền đi, rằng cuộc đời vốn dĩ nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao
giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp
của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì
phải tiếp cận với đi, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.
Ý tưởng này ta đã từng bắt gặp trong thơ ca của Tố Hữu
“Nhân dân là bể, văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy, sóng đẩy thuyền lên”
Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh và anh vốn là một cựu chiến binh, chiến tranh kết thúc anh trở
thành một phóng viên của một tờ báo trung ương. Phùng được giao nhiệm vụ chụp ảnh để hoàn thành
bộ lịch 12 tờ năm sau. Anh đã đi tới nhiều nơi chụp nhiều những bức ảnh, trưởng phòng khó tính nhưng
rất ưng ý. Trưởng phòng yêu cầu anh đi chụp cảnh biển trong sương sớm không có người, để làm ảnh
lịch của tháng 7. Để thực hiện nhiệm vụ, anh trở về vùng biển miền trung là chiến trường xưa của mình,
vừa thăm người bạn cũ của mình là Đẩu, hiện là chánh án tòa án huyện. Tại đây Phùng đã chứng kiến
nhiều sự việc khiến anh đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Anh nhận ra mình cần phải thay đổi
trong cách nhìn nhận về cuộc sống con người nghệ thuật. Phùng chính là nhân vật mà nhà văn gửi
gắm những quan niệm về cách nhìn, cách nhận thức của Nguyễn Minh Châu. Phùng cũng chính
phương tiện để ông gửi gắm và khám phá, truyền tải phương tiện của mình đến với người đọc. Phùng
là thể hiện cái tôi của nhà văn, bóng dáng của tác giả.
Trước tiên Phùng là người nghệ sĩ luôn khao khát tìm kiếm cái đẹp, có một trái tim dễ rung cảm
với vẻ đẹp của cuộc sống, con người. Vẻ đẹp này của anh được thể hiện ở phát hiện thứ nhất. Khi được
giao nhiệm vụ săn ảnh trong tờ lịch tháng 7 năm sau, anh quay trở lại vùng biển miền trung, quyết định
phục kích đây suốt một tuần. Chấp nhận ăn gió nằm sương để tìm ra vẻ đẹp cảnh biển trưởng
phòng giao phó. Sáng sớm, anh bắt gặp một cảnh tượng đắt như trời cho, chiếc thuyền đánh đang
thu lưới trong lúc bình minh. Phùng khẳng định đó là một cảnh đẹp như một bức tranh bằng mực tàu
của một danh họa thời cổ (mũi thuyền in một nét lòe nhòe trong bầu sương mù trắng như sữa pha chút
màu hồng hồng của nắng, rồi tất cả khung cảnh ấy nhìn qua mắt lưới, tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
vó hiện ra với hình thù như cánh của một con dơi. Tn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều
hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích.
Anh say sưa thưởng lãm vẻ đẹp của đất trời, thậm chí còn thấy bối rối, trong trái tim nhưng có gì
bóp thắt lại. Anh còn đắm chìm trong vẻ đẹp từ đó suy tưởng về mối quan hệ giữa cái đẹp và cái thiện,
để rồi nhận ra rằng bản thân cái đẹp chính đạo đức). Chính cái đẹp đã làm trong sạch tâm hồn khi
cảm nhận được chiếc thuyền ngoài xa. Phùng vồ vập háo hức tới mức chẳng còn lựa chọn xê dịch
nữa, anh gác máy lên chiếc xe tăng hỏng bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuộn phim.
Tóm lại, Phùng là một người nghệ sĩ chuyên “săn lùng” cái đẹp, anh thật sự biết quan sát lựa chọn
cái đẹp của tự nhiên và cảm nhận được giá trị. Phùng thực sự là một người nghệ sĩ chân chính.
Phùng là người biết bất bình trước cái xấu, biết đứng lên bảo vệ bảo vệ bênh vực người yếu kẻ yếu.
Vẻ đẹp này của anh được thể hiện ở phát hiện thứ hai. Từ chính chiếc thuyền ngoài xa đẹp như mơ ấy,
anh nhận ra một cảnh đời rất trớ trêu, éo le. (khi con thuyền tiến lại gần) người đàn ông hàng chài thô
kệch, hung dữ đánh người đàn bà một cách dã man. Hai người đi qua trước mặt anh, vòng về sau chiếc
xe tăng xích trên bãi t, người đàn ông lao vào đánh người đàn bà, với chiếc thắt lưng da, vừa đánh
vừa nguyền rủa bằng cái giọng độc dữ: “mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”.
Điều kì lạ người đàn bà chấp nhận để cho chồng đánh với vẻ nhẫn nhịn cam chịu. Phác là con trai
của nhà này ngủ với Phùng ở xe tăng xích, lao đến đánh bố, giật được thắt lưng của bố quật vào ngực
rồi ăn hai cái tát ngã dúi xuống cát.
Lần đầu Phùng nhìn thấy cảnh tượng đó thì vô cùng kinh ngạc, anh vứt chiếc máy ảnh xuống đất
lao tới để ngăn cản. Lần thứ 2, sau đó ba ngày, anh lại chứng kiến cảnh bạo lực và lần này không thể
nén chịu hơn được nữa, anh xông ra buộc gã đàn ông phải chấm dứt hành động của gã đàn ông tàn độc.
đánh trả Phùng khiến anh bị thương, câu chuyện của gia đình hàng chài khiến anh trăn trở và suy
nghĩ rất nhiều. Phùng hoàn toàn có thể đi về sau khi chụp xong ảnh và hoàn thành bộ lịch mà cấp trên
giao phó. Nhưng Phùng vẫn quyết định tìm hiểu về câu chuyện này, giúp đỡ người đàn bà hàng chài.
Kết thúc tác phẩm, sự day dứt của người nghệ sĩ thể hiện chỗ: bức ảnh anh chụp chiếc thuyền
ngoài xa được treo ở rất nhiều nơi nhất là những gia đình sảnh nghệ thuật, tuy là ảnh đen trắng nhưng
lthay, mỗi lần Phùng nhìn bức ảnh. Nghệ sĩ Phùng nhìn thấy hiện lên ánh hồng hồng của ánh sương
mai, hình ảnh người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh. Vẫn tấm áo bạc phếch, lưng có miếng vá, nửa thân
người ướt sũng, khuôn mặt rỗ, nhợt trắng hàng đêm kéo lưới. Chị bước những bước đi chậm rãi,
chậm giậm trên mặt đất chậm chậm một cách chắc chắn hòa lẫn vào đám đông. Anh nhìn thấy những
số phận còn đói nghèo vẫn đeo bám con người, hòa bình đã lập lại 7,8 năm, đất nước đã chuyển sang
giai đoạn mới. Thế nhưng vẫn còn những cảnh đời nghiệt ngã, lạc hậu, thất học, sinh nhiều con… vẫn
còn đeo bám họ. Cần phải có giải pháp để thay đổi cuộc sống của những con người trong thời đổi mới.
Đó là sự tưởng tượng của Phùng, anh hi vọng người đàn bà sẽ đứng vững trên đường đời của mình.
Vẻ đẹp cuối cùng của Phùng là dũng cảm dám thay đổi cách nhìn nhận về cuộc sống và nghệ thuật.
Nếu như những chiếc xe tăng hỏng trên bãi t là ẩn dụ cho một thời đại huy hoàng của đất ớc ta.
Con thuyền ngoài xa với ánh nắng hồng hồng của sương mai là đại diện cho nghệ thuật, đại diện cho
cái nhìn màu hồng của cuộc sống. Nhưng khi Phùng nhìn thấy con thuyền vào gần, câu chuyện của gia
đình hàng chài và phiên tòa của Đẩu. Phùng đã hiểu cuộc sống trong thời đại mới đã khác, màu hồng
ấy chỉ che đậy những xấu xa tệ hại, màu hồng ảo tưởng mơ hồng cuộc sống. Thế nhưng cuộc sống này
vẫn những trái ngang bản thân anh phải thay đổi cách nhìn của mình (bản chất và hiện tượng,
nghệ thuật và cuộc sống, lý thuyết sách vở và sự thật cuộc sống).
Nhờ việc chứng kiến câu chuyện của gia đình hàng chài, anh đã hiểu được nghệ thuật chân chính
phải đi lên từ cuộc sống, xử lý một vấn đề phải đi từ bản chất chứ không phải hiện tượng bên ngoài, lý
thuyết sách vở thì thường đúng nhưng cuộc sống vẫn có lí lẽ riêng của nó đầy trái ngang. Cuộc sống
vẫn vàn những cái khó khăn, trớ trêu, ngang trái, nghịch không thể giải thích được (Vợ bị
chồng đánh đập thường xuyên nhưng lại quyết tâm gắn bó cả cuộc đời mình không một lời chê trách
oán thán, bị đánh không chạy trốn, không kêu van, trẻ con không được đến trường, cho con lên rừng,
giấu con chuyện tệ hại của gia đình, không cho con chứng kiến sự tàn nhẫn của người bố). Anh may
mắn nhận ra rằng cuộc đời này không phải màu hồng.
Vì vậy anh đã thay đổi cách nhìn nhận, trong khi Đẩu như vỡ ra một điều gì đó. Anh cảm thấy ngột
ngạt gió biển thổi trong căn phòng, đó là ngột ngạt của nhận thức, người nghệ sĩ nhận ra mình đã
sai. Vẻ đẹp của cuộc sống, phải là những gì thật nhất, chân thực nhất, nhìn nhận một vấn đề phải nhìn
vào bên trong của vấn đề, một cái nhìn đầy đủ, đa diện và nhiều chiều. Đó mới đích thực là công việc
của nghệ sĩ.
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
Mối quan hệ giữa hiện thực cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật, cảm quan của người nghệ sĩ trong
Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.Sự tổng hoà của tất cả những chiều kích của đời sống
trong thế giới nghệ thuật: Với hệ thống hình tượng nhiều tầng lớp khác nhau, Chiếc thuyền ngoài xa đã
biểu hiện quan niệm nghệ thuật sâu sắc của Nguyễn Minh Châu: người nghệ sĩ là người khám phá
biểu hiện bản chất đời sống ở những chiều kích khác nhau. Thế giới nghệ thuật là thế giới hàm chứa
trong các tầng khác nhau của hiện thực.Bản chất của cái đẹp trong quan niệm của Nguyễn Minh
Châu: Trong tác phẩm nghệ thuật, cả đối tượng biểu hiện, hình thức, ý tưởng đều hướng tới cái đẹp. Vì
thế, trong Chiếc thuyền ngoài xa, quá trình khổ công săn tìm cái đẹp của Phùng cũng là quá trình sáng
tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ đích thực: luôn muốn tìm đến cái đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ, mang tính
tưởng.Cái đẹp trong đã bao hàm cái thiện: "bản thân cái đẹp chính là đạo đức". Tác phẩm nghệ
thuật trong quan niệm của Nguyễn Minh Châu là sự đồng nhất của hai phạm trù, hai giá trị đó. Bức ảnh
mà Phùng chụp được sau nhiều ngày khổ công suy nghĩ, tìm kiếm thực sự chứa đựng trong nó thế giới
của cái đẹp mà người nghệ sĩ hằng khao khát: sự dung dị, đơn giản, hài hoà, hàm súc, gợi cảm xúc và
suy tưởng sâu xa: "Mũi thuyên in một nét mơ hồloè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi
chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như
tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả cái khung cảnh ấy nhìn qua những
cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn
bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích
khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trái tim như có i gì bóp thắt vào". Với bức ảnh ấy, người nghệ
đã phát hiện ra một bình diện cơ bản nhất, quan trọng nhất của thế giới: sự gắn kết hài hoà của sự
sống, của con người, thiên nhiêncuộc sinh tồn trên một con thuyền lặng phắc trước bình minh. Toàn
bộ những hình ảnh ấy đều hàm chứa những ý nghĩa sâu xa, nhưng điều quan trọng là, trong tác phẩm
của Nguyễn Minh Châu, sau khoảnh khắc tuyệt vời của sáng tạo nghệ thuật, dường như cuộc truy tìm
chân lí, sự thật và cái đẹp vẫn chưa kết thúc. Tấm ảnh ấy không phải là sự lầm lẫn, ngộ nhận, dối lừa,
nhưng cái thế giới ẩn chứa sau nó, cái thế giới mà mở ravẫn còn là điều ẩn, với cả chính người
nghệ sĩ. Đó là quan niệm nghệ thuật sâu sắc và độc đáo của Nguyễn Minh Châu. Bức ảnh đã hoàn tất,
nhưng sự thật đằngsau bức ảnh vẫn là điều cần khám phá. Người nghệ sĩ không phải người sở hữu
toàn bộ sự thực, toàn bộ chân lí của cuộc sống. Anh phải luôn kiếm tìm chân lí, sự thật trong quá trình
sáng tạo. Khoảnh khắc mà người nghệ sĩ nắm bắt được qua bức ảnh không phải là khoảnh khắc dối lừa,
nhưng sự thật sau khoảnh khắc ấy cả một thế giới nhân sinh đầy nghch lí. Để thấu hiểu được thế giới
ấy, người nghệ sĩ phải tiếp tục khám phá cuộc sống, khám phá sự thật ẩn sau cái khoảnh khắc mà anh
ta đã thâu nhận được đầy bất ngờ. Bởi vì cái đẹp đồng nhất với đạo đức, đồng nhất với sự thật, không
chấp nhận sự thô lậu cũng như thái độ nửa vời, hời hợt. Thế giới nhân sinh đầy nghịch lí và bi kịch ẩn
chứa sau khoảnh khắc đột khởi của cái đẹp trong bức ảnh: Cần cý rằng, toàn bộ cái sthật được
phơi bày sau khoảnh khắc bấm máy của người nghệ sĩ không phải sự phủ nhận cái đẹp mà người
nghệ sĩ đã bất chợt thâu tóm được. Bởi lẽ, ngay trong phút bấm máy ấy, cái thế giới lặng phắc và đầy
ẩn của con thuyền, những bóng người, màn sương hồng trong ban mai kia toàn bộ cái thần của
cảnh tượng, chợt hiện hữu, nhưng chưa được khai mở trong cái nhìn của người nghệ cũng như của
tất cả những ai đứng trước bức ảnh tác phẩm nghệ thuật hoàn của anh. Những người nghệ -
chứng kiến sau khoảnh khắc ấy là một cuộc khám phá tiếp theo, không hề đối nghịch với bức ảnh mà
chỉ soi tỏ hơn bản chất của cái khoảnh khắc kì lạ, đột khởi mà người nghệ sĩ đã nắm bắt được nhưng
chưa kịp thấu hiểu trọn vẹn. Sự thật mà người nghệ đã chứng kiến là một sự soi chiếu toàn bộ "cái
đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh", sự giải thế giới biểu tượng mà anh vừa thu vào trong ống kính
một cách xuất thẩn, đột ngột, chưa kịp thấu suốt các chiều kích khác nhau của nó.Sau khoảnh khắc lặng
phắc là sự bùng nổ của xung đột, bi kịch: ống kính của Phùng đã thu được hình ảnh "người lớn lẫn trẻ
con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ". Đó là khoảnh
khắc lặng phắc, dồn nén, chứa đựng một năng lượng tiềm tàng của thế giới nghệ thuật trong tác phẩm.
Những gì anh nhìn thấy sau đó trên bãi cát là sự bùng nổ, sự phát lộ toàn bộ những xung đột, những
năng lượng tiềm tàng ấy: người đàn ông độc dữ; người đàn bị hành hạ, chà đạp; đứa con trai nhỏ
chống lại cha không thể chấp nhận được sự bạo hành khủng khiếp ấy. Sự "im phăng phắc" đã nổ
tung. Đó là toàn bộ bi kịch của sự sinh tồn trên con thuyền trước bình minh. Bi kịch ấy được phơi bày
ngay trên bãi cát, nơi con thuyền neo đậu, ngay dưới ánh ban mai màu hồng. Bi kịch ấy làm người nghệ
choáng váng, phẫn nộvà cũng khiến anh phát hiện thêm một chiều kích nữa của đời sống: thế giới
nhân sinh trên con thuyền nhỏ nhoi trước biển, trước ánh bình minh kia là một thế giới dữ dằn, đau đớn,
Ĉ Ă1*.é.+Ï$+Ӑ&,1%2; 3$*(
| 1/197