Những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung môn Chủ nghĩa xã hội và khoa học | Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Bố trí cơ cấu kinh tế: Đảng và Nhà nước ưu tiên phát triển côngnghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng, bỏ bê nông
nghiệp và các ngành công nghiệp nhẹ, dịch vụ. Cơ cấu kinh tế thiếu hợp lý, không phù hợp với tiềm năng và điều kiện của đất nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: chủ nghĩa xã hội và khoa học
Trường: Đại học Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 46672053
. Những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp
giai đoạn 1958-1975 ở miền Bắc; 1975-1985 quy mô cả nước có
thể được trình bày như sau:
a. Hạn chế về chính sách kinh tế:
• Bố trí cơ cấu kinh tế: Đảng và Nhà nước ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng, bỏ bê nông
nghiệp và các ngành công nghiệp nhẹ, dịch vụ. Cơ cấu kinh tế
thiếu hợp lý, không phù hợp với tiềm năng và điều kiện của đất
nước. Các ngành kinh tế thiếu liên kết, không tạo ra hiệu quả kinh tế cao.
• Cải tạo xã hội chủ nghĩa: Đảng và Nhà nước áp dụng một cách
cứng nhắc và đồng đều các biện pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa
cho các thành phần kinh tế khác nhau, không xét đến sự khác
biệt về tính chất, quy mô và hiệu quả của chúng. Các biện pháp
cải tạo như thu hồi vốn, đoàn kết lao động, xóa bỏ sự khác biệt
giữa công nhân và nông dân, giữa thành thị và nông thôn… đã
gây ra sự mất cân đối trong kinh tế, làm suy giảm khả năng sản
xuất và đời sống của nhân dân.
• Trong cơ chế quản lý: Đảng và Nhà nước áp dụng một cách thái
quá cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong quản lý kinh tế.
Nhà nước chi phối toàn bộ hoạt động sản xuất, tiêu dùng, phân
phối và lưu thông hàng hóa. Nhà nước độc quyền điều tiết giá
cả, lương thực, thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu. Nhà nước
sử dụng tem phiếu để phân phối hàng hóa cho nhân dân theo
định mức. Nhà nước hạn chế vai trò của tiền tệ trong giao dịch
kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước không có quyền tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, phải tuân theo chỉ tiêu và kế hoạch
được giao từ trên xuống. Các doanh nghiệp tư nhân bị hạn chế
hoặc loại bỏ khỏi thị trường. Cơ chế quản lý này đã làm cho
kinh tế thiếu linh hoạt, không thểch ứng với thay đổi của thị
trường, gây ra sự lãng phí nguồn lực, thiếu hiệu quả và sáng tạo.
b. Hạn chế trong xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản:
• Đảng và Nhà nước không coi trọng vai trò làm chủ của nhân dân
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng và Nhà nước thiếu lOMoAR cPSD| 46672053
minh bạch, dân chủ và kiểm soát trong hoạt động của mình.
Đảng và Nhà nước không tôn trọng quyền tự do, dân chủ và
pháp luật của nhân dân. Đảng và Nhà nước không lắng nghe ý
kiến, phản biện và kiến nghị của nhân dân và các tổ chức xã hội.
Đảng và Nhà nước không thực hiện tốt công tác tuyên truyền,
giáo dục và vận động nhân dân tham gia vào công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
• Đảng và Nhà nước không xây dựng được một bộ máy nhà nước
gọn nhẹ, hiệu quả, chuyên nghiệp và phục vụ nhân dân. Bộ máy
nhà nước bị phình to, lãng phí, tham nhũng và hành chính mệnh
lệnh. Bộ máy nhà nước không có sự phân công rõ ràng trách
nhiệm và quyền hạn giữa các cấp, ngành và địa phương. Bộ máy
nhà nước không có sự giám sát, kiểm tra và xử lý kịp thời các
sai phạm trong công tác quản lý.
c. Những hạn chế trong đường lối đối ngoại:
• Đảng và Nhà nước không đánh giá đúng tình hình thế giới sau
chiến tranh lạnh, không thích ứng với xu thế hòa bình, hợp tác
và phát triển của thế giới. Đảng và Nhà nước không có chiến
lược đối ngoại toàn diện, cân bằng và linh hoạt. Đảng và Nhà
nước không mở rộng và đa dạng hóa quan hệ với các nước trên
thế giới, đặc biệt là các nước láng giềng và các nước có tiềm năng kinh tế lớn.
• Đảng và Nhà nước không có chính sách đối ngoại phù hợp với
lợi ích quốc gia của Việt Nam. Đảng và Nhà nước thiếu khôn
khéo trong việc giải quyết các vấn đề tranh chấp biên giới, lãnh
thổ và chủ quyền với các nước láng giềng. Đảng và Nhà nước
không có chính sách thu hút đầu tư, hợp tác kinh tế, khoa học kỹ
thuật, văn hóa, giáo dục với các nước trên thế giới. Đảng và Nhà
nước không có chính sách bảo vệ quyền lợi của người Việt Nam ở nước ngoài.
• Hậu quả: Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội
Đây là câu trả lời của tôi cho câu hỏi của bạn:
Những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp giai đoạn
19581975 ở miền Bắc; 1975-1985 quy mô cả nước có thể được trình bày như sau: lOMoAR cPSD| 46672053 a.
Những hạn chế trong sản xuất và phân phối: Mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp đã làm giảm hiệu quả và năng suất của sản xuất, khi các nguồn
lực kinh tế được phân bổ theo sự chỉ đạo của nhà nước mà không phản ánh nhu cầu
thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước và các hợp tác xã không có động lực để cải
tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường. Các người lao
động cũng không có động lực để làm việc chăm chỉ, sáng tạo, khi thu nhập của họ
không phụ thuộc vào kết quả sản xuất. Cơ chế bao cấp cũng đã gây ra sự lãng phí
và tham nhũng trong việc phân phối hàng hóa, khi các mặt hàng thiếu thốn được
bán với giá cao hoặc được chiếm đoạt bởi các quan chức. Sự thiếu hụt hàng hóa
cũng đã gây ra sự bất ổn trong xã hội, khi người dân phải xếp hàng dài để mua
hàng hoặc phải trả tiền mặt hoặc hàng hoá khác để mua được hàng. [ 1 ][1] 2 3 b.
Những hạn chế trong cơ cấu kinh tế: Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp đã làm cho cơ cấu kinh tế của nước ta bị lệch pha, khi các ngành
công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển hơn các ngành công nghiệp nhẹ và dịch
vụ. Điều này đã làm cho nền kinh tế thiếu cân bằng giữa sản xuất và tiêu dùng,
giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Các ngành công
nghiệp nặng không chỉ tiêu thụ nhiều nguồn lực mà còn gây ô nhiễm môi trường
và không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Các ngành công nghiệp nhẹ và
dịch vụ lại bị thiếu vốn, thiết bị, nguyên liệu và lao động. Nông nghiệp lại bị sa sút
do áp dụng mô hình hợp tác xã không hiệu quả, khiến cho các nông dân mất quyền
sở hữu đất đai và không có động lực sản xuất. Sự chênh lệch giữa thành thị và
nông thôn cũng đã gây ra sự di cư không kiểm soát và sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. [ 1 ][1] 2 4 c.
Những hạn chế trong đường lối đối ngoại: Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp đã làm cho Việt Nam bị cô lập với thế giới, khi chỉ có quan hệ kinh
tế chủ yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu. Việt Nam không thể tận dụng được
những cơ hội hợp tác và hội nhập kinh tế với các nước phương Tây và các nước
trong khu vực. Việt Nam cũng bị phụ thuộc nặng nề vào sự viện trợ và vay mượn
của Liên Xô và các nước Đông Âu, khiến cho nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi những
biến động của kinh tế thế giới. Việt Nam cũng bị mất uy tín và chịu áp lực từ các
nước phương Tây do việc can thiệp vào Campuchia và duy trì quân đội lớn. Việt
Nam cũng bị mất lòng tin và hòa bình với các nước láng giềng do việc xung đột
biên giới với Trung Quốc và Campuchia. [ 1 ][1] 2 5
Hậu quả: Những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp đã
gây ra khủng hoảng kinh tế, chính trị và xã hội cho Việt Nam. Khủng hoảng kinh tế
bộc lộ qua sự sụt giảm tăng trưởng, lạm phát cao, thiếu hụt ngân sách, nợ nước
ngoài, thiếu hụt thương mại, thiếu hụt hàng hóa. Khủng hoảng chính trị bộc lộ qua
sự mất uy tín của Đảng và Nhà nước, sự bất ổn trong đội ngũ lãnh đạo, sự phân hóa
trong Đảng và xã hội. Khủng hoảng xã hội bộc lộ qua sự sa sút về văn hoá, giáo
dục, y tế, an sinh xã hội, sự gia tăng của các hiện tượng tiêu cực như tham nhũng,
buôn lậu, mại dâm, ma túy, tội phạm. Những khủng hoảng này đã đặt ra những yêu lOMoAR cPSD| 46672053
cầu khẩn thiết cho việc đổi mới và cải cách nền kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam. [ 1 ][1] 2 3
Những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp đã gây ra khủng hoảng kinh tế, chính
trị và xã hội cho Việt Nam. Khủng hoảng kinh tế bộc lộ qua sự sụt giảm tăng trưởng, lạm phát cao, thiếu
hụt ngân sách, nợ nước ngoài, thiếu hụt thương mại, thiếu hụt hàng hóa. Khủng hoảng chính trị bộc lộ
qua sự mất uy tín của Đảng và Nhà nước, sự bất ổn trong đội ngũ lãnh đạo, sự phân hóa trong Đảng và xã
hội. Khủng hoảng xã hội bộc lộ qua sự sa sút về văn hoá, giáo dục, y tế, an sinh xã hội, sự gia tăng của các
hiện tượng tiêu cực như tham nhũng, buôn lậu, mại dâm, ma túy, tội phạm. Những khủng hoảng này đã
đặt ra những yêu cầu khẩn thiết cho việc đổi mới và cải cách nền kinh tế, chính trị và xã hội của Việt Nam.
• Kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, chỉ khoảng 4% mỗi
năm. Lạm phát cao, đạt 774% vào năm 1986. Nợ công tăng cao,
chiếm 300% GDP vào cuối năm 1985. Sản xuất hàng hoá thiếu
ổn định, không đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Thương
mại quốc tế suy thoái, xuất nhập khẩu giảm sút. Đời sống nhân
dân khó khăn, thiếu thốn.
• Chính trị: Tình hình an ninh - quốc phòng căng 1.
Trình bày những hạn chếế của mô hình kinh tếế kếế hoạch tập trung, bao cấếp giai đoạn
19581975 ở miếền Bắếc; 1975-1985 quy mô cả nước. Gợi ý: a.
Hạn chếế vếề chính sách kinh tếế -
Bôế trí cơ cấếu kinh tếế -
Cải tạo xã hội chủ nghĩa - Trong cơ chếế quản lý b.
Hạn chếế trong xấy dựng nhà nước chuyến chính vô sản c.
Những hạn chếế trong đường lôếi đôếi ngoại
Hậu quả: Khủng hoảng kinh tếế, chính trị, xã hội 2.
Trình bày những định hướng lớn để từng bước nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tếế xã
hội mà Đại hội VI (12/1986). Gợi ý:
Với phướng chấm: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, ĐH VI đã đế ềra
quyếết tấm: Đảng phải đổi mới nhiếều mặt, trước hếết là đổi mới tư duy. Chính sách đổi mới: a.
Định hướng quyếết tấm chính trị b.
Định hướng trong chính sách kinh tếế
Bôế trí cơ cấếu kinh tếế, Cải tạo xã hội chủ nghĩa, Cơ chếế quản lý.Trước đổi mới (trước 86) và Sau đổi mới(sau 86) lOMoAR cPSD| 46672053 Chỉ ra điểm mới
Đánh giá vai trò đổi mới trong chính sách kinh tếế mà ĐH VI đếề ra mang tính đặt nếền móng cho
cả thời kỳ đổi mới của các kỳ đại hội Đảng vế ềsau (nếu được thành tựu của việc thay đổi tư duy đó) c.
Định hướng trong chính sách xã hội d.
Định hướng trong chính sách đôếi ngoại
Đây là câu trả lời của tôi cho câu hỏi của bạn:
1. Những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp giai đoạn
1958-1975 ở miền Bắc; 1975-1985 quy mô cả nước có thể trình bày như sau:
a. Hạn chế về chính sách kinh tế
• Bố trí cơ cấu kinh tế: Đảng áp dụng một cách cứng nhắc mô hình kinh tế của
Liên Xô, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đặc biệt là công nghiệp quốc
phòng, bỏ bê nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Điều này dẫn đến sự lệch pha
giữa các ngành, thiếu hụt lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu 1 2 .
• Cải tạo xã hội chủ nghĩa: Đảng tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các
thành phần kinh tế tư nhân, cá thể, biến chúng thành các thành phần kinh tế
quốc doanh và tập thể. Điều này gây ra sự mất cân đối giữa cung và cầu, làm
suy giảm khả năng sản xuất và hiệu quả kinh tế của các đơn vị kinh tế 1 2 .
• Trong cơ chế quản lý: Đảng áp dụng cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hành
chính mệnh lệnh, không coi trọng vai trò của thị trường và quyền làm chủ của
nhân dân. Điều này gây ra sự lãng phí nguồn lực, thiếu minh bạch, tham
nhũng, biến chất trong bộ máy nhà nước và các đơn vị kinh tế. Ngoài ra, cơ
chế quản lý còn gây ra sự thiếu linh hoạt, không thích ứng được với những
biến động của tình hình trong nước và quốc tế 1 2 .
b. Hạn chế trong xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản
Đảng không coi trọng việc xây dựng nhà nước theo nguyên tắc dân chủ nhân dân,
mà chỉ coi trọng vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều này làm suy yếu sự đại diện và
tính hiệu quả của các tổ chức nhà nước, làm mất niềm tin của nhân dân vào Đảng
và Nhà nước. Ngoài ra, Đảng cũng không coi trọng việc xây dựng một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh và công bằng, mà chỉ dựa vào các chỉ thị, chỉ tiêu và quyết định của Đảng 1 2 .
c. Những hạn chế trong đường lối đối ngoại
Đảng không có một chiến lược đối ngoại rõ ràng và linh hoạt, mà chỉ tuân theo
nguyên tắc đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô. Điều này
làm cho Việt Nam bị phụ thuộc vào viện trợ của các nước anh em, không khai thác
được tiềm năng hợp tác với các nước khác, đặc biệt là các nước phương Tây. lOMoAR cPSD| 46672053
Ngoài ra, Đảng cũng không có một chính sách hòa bình và hợp tác với các nước
láng giềng, mà chỉ coi trọng vai trò của quốc phòng và an ninh. Điều này gây ra
những căng thẳng và xung đột với Trung Quốc và Campuchia, làm cho Việt Nam
bị cô lập trên trường quốc tế 1 2 .
Hậu quả: Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội
Những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp đã dẫn đến một
cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội trầm trọng ở Việt Nam. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế thấp, lạm phát cao, thiếu hụt ngân sách lớn, nợ nước ngoài gia tăng.
Đời sống nhân dân không được cải thiện, thậm chí còn sa sút hơn. Sự bất bình đẳng
và bất công xã hội ngày càng gia tăng. Tình trạng mất niềm tin vào Đảng và Nhà
nước ngày càng phổ biến. Tình hình quốc phòng và an ninh bị đe dọa bởi những
căng thẳng và xung đột với các nước láng giềng. Vị thế và uy tín của Việt Nam
trên trường quốc tế bị giảm sút 1 2 .
2. Những định hướng lớn để từng bước nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế
xã hội mà Đại hội VI (12/1986) đề ra có thể trình bày như sau:
Với phương châm: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại
hội VI đã đề ra quyết tâm: Đảng phải đổi mới nhiều mặt, trước hết là đổi mới tư
duy. Chính sách đổi mới:
a. Định hướng quyết tâm chính trị
Đảng khẳng định vai trò lãnh đạo của mình trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nhưng cũng công nhận những sai lầm và tồn tại trong quá khứ. Đảng tự phê
bình, tự chỉnh đốn, cải thiện phong cách làm việc và phương pháp lãnh đạo. Đảng
coi trọng việc xây dựng nhà nước theo nguyên tắc dân chủ nhân dân, phát huy vai
trò của các tổ chức nhà nước và các tổ chức quần chúng. Đảng coi trọng việc xây
dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân 3 4 .
b. Định hướng trong chính sách kinh tế
Đảng đề ra mục tiêu xây dựng một nền kinh tế thị trường có tính xã hội chủ nghĩa,
trong đó có sự phát triển đa dạng các thành phần
Tiếp tục câu trả lời của tôi cho câu hỏi của bạn:
1. Những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp giai đoạn
1958-1975 ở miền Bắc; 1975-1985 quy mô cả nước có thể được trình bày như sau: b.
Hạn chế trong xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản: Nhà nước không
thực hiện tốt vai trò làm chủ của nhân dân, không phát huy dân chủ, không đảm lOMoAR cPSD| 46672053
bảo quyền lợi và nhu cầu của người lao động. Nhà nước cũng không có sự kiểm
soát và giám sát hiệu quả của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện
chính sách và pháp luật. Điều này dẫn đến sự lãng phí, tham nhũng, biến chất và
suy thoái của bộ máy nhà nước. c.
Những hạn chế trong đường lối đối ngoại: Nhà nước không có một chiến
lược đối ngoại toàn diện, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Nhà nước quá
phụ thuộc vào Liên Xô và các nước Đông Âu, không mở rộng quan hệ với các
nước khác, đặc biệt là các nước phương Tây và các nước láng giềng. Nhà nước
cũng không có một chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài, không tạo
điều kiện cho họ góp phần vào sự phát triển của đất nước.
Hậu quả: Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội: Mô hình kinh tế kế hoạch tập
trung, bao cấp đã gây ra những khó khăn và thiếu sót lớn trong sản xuất và tiêu
dùng, làm suy giảm hiệu quả kinh tế và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Mô
hình này cũng đã làm yếu kém vai trò của nhà nước và Đảng, làm mất niềm tin và
sự ủng hộ của nhân dân. Mô hình này cũng đã làm tổn hại đến uy tín và vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, làm gián đoạn quan hệ với các nước bạn bè và đồng minh.
2. Những định hướng lớn để từng bước nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế
xã hội mà Đại hội VI (12/1986) có thể được trình bày như sau:
Với phương châm: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, ĐH
VI đã đề ra quyết tâm: Đảng phải đổi mới nhiều mặt, trước hết là đổi mới tư duy. Chính sách đổi mới: a.
Định hướng quyết tâm chính trị: ĐH VI đã khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam. ĐH VI cũng
đã chỉ ra những sai lầm và bất cập trong công tác lãnh đạo của Đảng trong giai
đoạn trước, đặc biệt là sự độc đoán, tập trung quá mức, thiếu dân chủ và khoa học.
ĐH VI đã đề ra những giải pháp để cải thiện và nâng cao chất lượng lãnh đạo của
Đảng, như: tăng cường dân chủ trong Đảng và xã hội, phát huy vai trò của nhân
dân làm chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện cơ chế ba
trong một (Đảng, Nhà nước, Nhân dân), đổi mới phương thức lãnh đạo và tổ chức
của Đảng, nâng cao năng lực và phẩm chất của đảng viên. b.
Định hướng trong chính sách kinh tế: ĐH VI đã khẳng định mục tiêu xây
dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhà nước có vai trò
quản lý và điều tiết kinh tế theo cơ chế thị trường. ĐH VI cũng đã chỉ ra những
khuyết điểm và hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp trong giai
đoạn trước, đặc biệt là sự mất cân đối giữa các ngành, giữa sản xuất và tiêu dùng,
sự lãng phí và thấp kém của hiệu quả kinh tế. ĐH VI đã đề ra những giải pháp để
đổi mới và phát triển kinh tế, như: bố trí lại cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển
cân bằng các ngành, ưu tiên phát triển nông nghiệp và các ngành công nghiệp nhẹ; lOMoAR cPSD| 46672053
cải tạo xã hội chủ nghĩa theo hướng phát huy vai trò của các thành phần kinh tế,
đặc biệt là kinh tế tư nhân; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng giảm bớt sự
can thiệp của nhà nước, tăng cường sự tự chủ và tự quyết của các đơn vị sản xuất;
thực hiện cơ chế giá thị trường; mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. Bảng
Đây là câu trả lời của tôi cho câu hỏi của bạn:
2. Những định hướng lớn để từng bước nước ta thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội mà Đại hội VI (12/1986) được trình bày như sau:
Với phương châm: nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói
rõ sự thật, ĐH VI đã đề ra quyết tâm: Đảng phải đổi mới nhiều mặt,
trước hết là đổi mới tư duy. Chính sách đổi mới: a.
Định hướng quyết tâm chính trị: ĐH VI đã khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. ĐH VI cũng đã chỉ ra những sai lầm và bất cập trong công
tác lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn trước, đặc biệt là sự độc đoán,
tập trung quá mức, thiếu dân chủ và khoa học. ĐH VI đã đề ra những
giải pháp để cải thiện và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, như:
tăng cường dân chủ trong Đảng và xã hội, phát huy vai trò của nhân
dân làm chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực
hiện cơ chế ba trong một (Đảng, Nhà nước, Nhân dân), đổi mới
phương thức lãnh đạo và tổ chức của Đảng, nâng cao năng lực và
phẩm chất của đảng viên. b.
Định hướng trong chính sách kinh tế: ĐH VI đã khẳng định mục
tiêu xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong
đó nhà nước có vai trò quản lý và điều tiết kinh tế theo cơ chế thị
trường. ĐH VI cũng đã chỉ ra những khuyết điểm và hạn chế của mô
hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp trong giai đoạn trước, đặc
biệt là sự mất cân đối giữa các ngành, giữa sản xuất và tiêu dùng, sự
lãng phí và thấp kém của hiệu quả kinh tế. ĐH VI đã đề ra những giải
pháp để đổi mới và phát triển kinh tế, như: bố trí lại cơ cấu kinh tế
theo hướng phát triển cân bằng các ngành, ưu tiên phát triển nông lOMoAR cPSD| 46672053
nghiệp và các ngành công nghiệp nhẹ; cải tạo xã hội chủ nghĩa theo
hướng phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế
tư nhân; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng giảm bớt sự can
thiệp của nhà nước, tăng cường sự tự chủ và tự quyết của các đơn vị
sản xuất; thực hiện cơ chế giá thị trường; mở rộng quan hệ kinh tế với
các nước trên thế giới.
Bảng so sánh một số điểm khác biệt giữa mô hình kinh tế trước và sau đổi mới: Mô hình Trước đổi mới
Sau đổi mới (sau 86) kinh tế
( trước 86) Xây dựng kinh tế thị Xây dựng công Mục tiêu
trường định hướng xã nghiệp nặng hội chủ nghĩa Cơ cấu kinh Mất cân đối giữa
Cân bằng giữa các ngành tế các ngành Thành phần Chỉ có kinh tế nhà Có nhiều thành phần kinh tế nước và hợp tác xã kinh tế Cơ chế quản Kế hoạch tập trung, Thị trường, tự quyết lý bao cấp lOMoAR cPSD| 46672053 Mô hình Trước đổi mới
Sau đổi mới (sau 86) kinh tế
( trước 86) Giá do nhà nước
Giá do thị trường quyết Cơ chế giá quyết định định Quan hệ Hạn chế, phụ thuộc Mở rộng, hợp tác với kinh tế quốc vào Liên Xô và nhiều nước tế Đông Âu
Điểm mới: ĐH VI đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử phát
triển kinh tế của Việt Nam, là giai đoạn đổi mới sâu rộng, toàn diện và
đồng bộ. ĐH VI đã đưa ra những định hướng lớn để từng bước nước
ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, phù hợp với thực tiễn của
đất nước và xu thế của thời đại.
• Vai trò: ĐH VI đã đặt nền móng cho cả thời kỳ đổi mới của các
kỳ đại hội Đảng về sau. Nhờ có chính sách đổi mới trong chính
sách kinh tế mà ĐH VI đề ra, Việt Nam đã có những bước tiến
vượt bậc trong phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân
dân, hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế. Một số thành tựu của việc thay đổi tư duy đó là:
• Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm cao, từ 5,6% trong
giai đoạn 1986-1990 lên 7,6% trong giai đoạn 1991-2000 và
6,8% trong giai đoạn 2001-2010.
• Cơ cấu kinh tế được cải thiện, tỷ trọng của công nghiệp và dịch
vụ trong GDP tăng lên, từ 49% trong năm 1986 lên 81% trong năm 2010.
• Thành phần kinh tế được phong phú hóa, kinh tế tư nhân chiếm
một vai trò quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng. Tỷ trọng của
kinh tế không nhà nước trong GDP từ 20% trong năm 1986 lên 60 % trong năm 2010.
• Quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng và phát triển. Việt Nam
đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia và tham gia
vào nhiều tổ chức quốc tế và khu vực. Việt Nam đã thực hiện lOMoAR cPSD| 46672053
thành công chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế, thu hút được
nhiều nguồn vốn, công nghệ và thị trường. c.
Định hướng trong chính sách xã hội: ĐH VI đã khẳng định mục
tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. ĐH VI cũng đã
chỉ ra những vấn đề và thách thức của xã hội trong giai đoạn trước,
đặc biệt là sự sa sút về văn hoá, giáo dục, y tế, an sinh xã hội. ĐH VI
đã đề ra những giải pháp để đổi mới và phát triển xã hội, như: phát
triển các ngành văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ; xây
dựng các chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng có hoàn cảnh
khó khăn; bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả các nguồn lực thiên
nhiên; phòng chống các hiện tượng tiêu cực trong xã hội như tội
phạm, ma túy, mại dâm; bảo vệ quyền lợi và nhu cầu của các thành
phần xã hội như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số. d.
Định hướng trong chính sách đối ngoại: ĐH VI đã khẳng định
mục tiêu xây dựng một chính sách đối ngoại toàn diện, đa phương, đa
dạng, hoà bình và hợp tác. ĐH VI cũng đã chỉ ra những khó khăn và
thách thức của chính sách đối ngoại trong giai đoạn trước, đặc biệt là
sự cô lập và phụ thuộc vào một số nước. ĐH VI đã đề ra những giải
pháp để đổi mới và phát triển chính sách đối ngoại, như: thiết lập
quan hệ hoà bình và hữu nghị với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng
lẫn nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau; tham gia tích cực vào
các tổ chức quốc tế và khu vực; duy trì quan hệ đặc biệt với Lào và
Campuchia; cải thiện quan hệ với Trung Quốc; phát triển quan hệ
toàn diện với Hoa Kỳ; kết thúc chiến tranh với Pháp; thiết lập quan hệ
ngoại giao với các nước ASEAN; tham gia vào Hiệp ước Paris về
Việt Nam; tham gia vào Hiệp ước Hòa bình toàn diện ở Campuchia.
• c. Định hướng trong chính sách xã hội: ĐH VI đã khẳng định mục tiêu xây dựng xã hội công bằng,
dân chủ và văn minh. ĐH VI cũng đã chỉ ra những vấn đề và thách thức của xã hội trong giai đoạn
trước, đặc biệt là sự sa sút về văn hoá, giáo dục, y tế, an sinh xã hội. ĐH VI đã đề ra những giải
pháp để đổi mới và phát triển xã hội, như: phát triển các ngành văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học
và công nghệ; xây dựng các chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn;
bảo vệ môi trường và sử dụng hiệu quả các nguồn lực thiên nhiên; phòng chống các hiện tượng
tiêu cực trong xã hội như tội phạm, ma túy, mại dâm; bảo vệ quyền lợi và nhu cầu của các thành
phần xã hội như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số.
• d. Định hướng trong chính sách đối ngoại: ĐH VI đã khẳng định mục tiêu xây dựng một chính sách
đối ngoại toàn diện, đa phương, đa dạng, hoà bình và
hợp tác. ĐH VI cũng đã chỉ ra những khó khăn và thách thức của chính sách đối ngoại trong giai
đoạn trước, đặc biệt là sự cô lập và phụ thuộc vào một số nước. ĐH VI đã đề ra những giải pháp lOMoAR cPSD| 46672053
để đổi mới và phát triển chính sách đối ngoại, như: thiết lập quan hệ hoà bình và hữu nghị với tất
cả các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau; tham gia tích
cực vào các tổ chức quốc tế và khu vực; duy trì quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia; cải thiện
quan hệ với Trung Quốc; phát triển quan hệ toàn diện với Hoa Kỳ; kết thúc chiến tranh với Pháp;
thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước ASEAN; tham gia vào Hiệp ước Paris về Việt Nam; tham
gia vào Hiệp ước Hòa bình toàn diện ở Campuchia.