















Preview text:
Những lời phê bình văn học về tác phẩm Tây Tiến
1. “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng
đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng
của hình tượng… Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn, “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích
của nó.” (Nguyễn Đăng Điệp)
2. “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời,
cá dưới nước mà thành độc đáo. Bài thơ “Tây Tiến” hội tụ được cả cái bi, cái tráng của thời đại.
Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản, tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý
lớn nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn.” (Nhà thơ Vân Long)
3. “Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã
hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông chiến trận, quả cảm và dũng mãnh
trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ.“ (Nhà thơ Phan Quế)
4. “Hay đến nỗi ta không khỏi ngạc nhiên mà nghĩ rằng tại sao trong những ngày đầu non nớt
của nền thơ ca kháng chiến và cách mạng mà chúng ta lại có được một tác phẩm thơ tuyệt diệu
đến thế, kinh điển đến thế mà cũng hiện đại đến thế” (Nhà thơ Anh Ngọc)
5. “Một bài thơ kỳ diệu và có một vị trí đặc biệt trong lòng công chúng, một bài thơ được kỷ
niệm 60 năm ngày sáng tác (năm 2008), một bài thơ làm sống dậy cả một trung đoàn, khiến địa
danh Tây Tiến trường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người. Nó như một viên ngọc sáng trong
tâm hồn Việt, tấm lòng Việt và thơ ca Việt”. (Nhà phê bình Nguyễn Xuân Nguyên)
6. “Quang Dũng đứng riêng một ốc đảo, đặc biệt với bài thơ Tây Tiến, ông không có điểm gì
chung với những nhà thơ khác, ông đứng biệt lập như một hòn đảo giữa các nhà thơ kháng
chiến”. (Nhà thơ Vũ Quần Phương)
7. “Cảm xúc bao trùm toàn bộ bài thơ là một nỗi nhớ: Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi…Qua nỗi
nhớ ấy, hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở và dữ dội hiện lên như một bức tranh hoành
tráng. Và trong bài, người viết không che giấu những gian khổ, hy sinh của người lính Tây Tiến.
Chỉ có điều, nó được thể hiện bằng một ngòi bút lãng mạn. Qua cái nhìn của nhà thơ, cái bi bỗng
trở thành cái hùng” (GS. Nguyễn Đăng Mạnh)
8. “Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây
Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể- nỗi
nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ da diết và lòng tự hào chân
thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế hệ rung
cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này…”. (Vũ Thu Hương)
9. “Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ… Tất cả đều gợi
ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…” (Đinh Minh Hằng)
10. “Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào hồn thơ
rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bị lụy, não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một
thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc
sắc của Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể – nỗi nhớ đồng đội trong đoàn Tây Tiến. Chính
niềm thương nhớ da diết, tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã
khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này” (Vũ Thu Hương)
11. “Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh” (Vũ Thu Hương)
12. “Tây Tiến – sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn” (Đinh Minh Hằng)
13. “ Tôi làm bài thơ này rất nhanh. Làm xong, đọc trước đại hội được mọi người hoan nghênh
nhiệt liệt. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả chút lí luận gì về thơ cả. (Quang Dũng)
Dàn ý phân tích khổ 1 Tây Tiến I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Quang Dũng
- Giới thiệu bài thơ Tây Tiến II. Thân bài:
- Hai dòng thơ đầu: Nỗi nhớ bao trùm, mạch cảm hứng chủ đạo của bài thơ
“Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà Quang
Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ quên, đồng thời
cũng là nỗi trống trải lạc lõng trong lòng tác giả. - Hai câu thơ tiếp:
“Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn
Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi bước chân
tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.
Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm
tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Bốn câu thơ tiếp “Dốc…xa khơi”:
Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường của người lính chiến khi hành quân.
“Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và hài
hước của người lính chiến trong gian khổ.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng
hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.
- Hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:
Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.
- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”
Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ mạnh, thêm
vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.
Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết, nồng nàn, nhớ
tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu. III. Kết bài:
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
BÀI PHÂN TÍCH ĐOẠN 1
“Có khoảng không gian nào, đo chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào, sâu thẳm hơn tình thương”
Đó là nỗi nhớ thương Hoàng Cầm gửi lại mảnh đất của mình của bài thơ “Bên kia sông Đuống’,
là nỗi nhớ thương của những kẻ đi xa qua bài thơ “Bếp lửa” – Bằng Việt, đôi khi là nỗi nhớ của
lứa đôi chỉ dám gửi qua “hương bưởi” trong bài thơ “Hương thầm” - Phan Thị Thanh Nhàn. Mỗi
nghệ sĩ đều đặt trái tim nơi ngòi bút để viết về nỗi nhớ niềm thương nhiều như vậy. Quang Dũng
– người nghệ sĩ đa tình cũng rất mực đa tài cũng để trái tim viết về những người đồng chí, đồng
đội qua bài thơ “Tây Tiến”. Bài thơ nổi bật với 14 câu thơ đầu- những ký ức của binh đoàn trong
những chặng đường hành quân gian khổ.
Quang Dũng không chỉ làm thơ mà còn viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,... Thơ của Quang Dũng
luôn lột tả một chất thơ hồn hậu, lãng mạn, phóng khoáng, tài hoa. “Tây Tiến” là thi phẩm viết
vào năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh. Vào năm 1947, Quang Dũng gia nhập binh đoàn Tây
Tiến và từng giữ chức vụ đại đội trưởng rồi sau đó chuyển đơn vị. Khi những niềm thương nỗi
nhớ rủ nhau về bầu bạn, Quang Dũng không thể ngăn nổi lòng mình mà viết lên bài thơ này –
Bài thơ được coi là khúc độc hành của nỗi nhớ thương.
Lật giở lại từng trang thơ thấm đẫm những kỷ niệm của một đời chiến binh bằng tiếng gọi đầy thân thương:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi".
Tất cả cảm xúc đồng hiện lên trong nỗi nhớ “chơi vơi” soi tràn đến từng câu chữ. Tất cả kỉ niệm
về quãng thời gian không thể nào quên với đồng đội chiến đấu trên vùng Tây Bắc hùng vĩ, hiểm
trở mà cũng rất thơ mộng bỗng trở thành tiếng gọi hối thúc, cất lên thành tiếng thơ, tiếng lòng
của người đồng đội. Hình ảnh dòng sông Mã gắn với bao tháng ngày gian khổ, con sông mang
âm điệu của núi rừng, của địa bàn hoạt động cũng đã xa rồi, chỉ còn lại trong hồi ức mà thôi. Có
thể thấy từ “xa rồi” chính là điểm rơi thấp nhất của câu thơ này, nó giống như khoảng hụt hẫng
khi những kỷ niệm chỉ giống như những thước phim trôi qua để lại biết bao nhiêu cảm xúc đong
đầy. Nỗi nhớ đầu tiên được nhắc tới chính là nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, giữa khoảng không
gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không biết đặt
để vào đâu nên tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi vơi”. Ký ức thật lung linh huyền diệu!
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Từ hai câu thơ khơi nguồn đầy thiết tha mạch chảy dòng hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả, lay
động và xôn xao trong lòng. Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là không gian địa lý nay
trở thành mốc thời gian lịch sử. Hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh
gây ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy sự khắc
nghiệt của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Cảnh
thực chợt nhòa đi bơi hoa, bởi sương, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc.
Không gian được liên tưởng tới là Mường Lát trong những cuộc hành quân đẫm sương đêm, hoa
nở giữa rừng thơm ngát, khiến những bước chân giữa đêm khuya tưởng nặng nề những nay lại
được tiếp thêm sức mạnh. Nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:
"Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay"
Thiên nhiên như mừng vui, như chờ đợi những chiến công của người lính ra trận. Còn trong thơ
Quang Dũng, thiên nhiên hiện ra lại đầy trái ngược:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao của người lính qua câu
thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm". Những con dốc là hình ảnh đầu
tiên được đề cập tới được miêu tả bằng từ láy tượng hình “khúc khuỷu, thăm thẳm” khiến người
đọc dễ dàng liên tưởng tới địa hình gấp gãy. Từ dốc này đến dốc khác, liên tiếp nối nhau, con
đường hành quân phía trước vừa khó đi, vừa nguy hiểm. Chưa dừng lại ở đó, câu thơ thứ hai
miêu tả độ cao của những ngọn núi:
"Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Hình ảnh những người lính trên chặng đường hành quân với những khoảnh khắc tinh nghịch, dí
dỏm, đậm chất lính. Bước chân đi tưởng như đang đi giữa biển mây. Nó khiến ta liên tưởng tới ý
hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”. Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi
súng chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình ảnh súng đang chạm tới
trời. Dường như ta cũng từng bắt gặp liên tưởng ấy trong thơ của Chính Hữu: "Đầu súng trăng treo"
Chưa dừng lại ở đó, cảnh thiên nhiên Tây Bắc còn được tái hiện trong câu thơ tiếp theo:
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống"
Gian lao vẫn vượt qua, khó khăn càng khích lệ họ đi tới để chinh phục. Câu thơ sử dụng các cặp
từ đối lập để đặc tả địa thế hiểm trở của núi rừng nơi đây khiến người đọc tưởng như đang chơi
trò bập bênh chóng mặt. Thế nhưng sau tất cả những gian khổ đe dọa bởi địa hình hiểm trở, ta
vẫn thấy bình yên trong sự sống trên những nếp nhà:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Những nếp nhà nằm giữa biển mưa bụi, mưa nhẹ nhàng, êm đềm. Những chiến sĩ Tây Tiến dừng
chân nơi đèo cao, ngắm nhìn khoảnh khắc bình yên hiếm hoi sau chặng đường hành quân vất vả.
Hoài niệm về đoàn binh Tây Tiến còn có hình ảnh người lính dẫn chặng đường hành quân vất vả
bởi núi cao, vực sâu, mưa sa, sương phủ, không ít người trong số họ đã gục ngã, Quang Dũng
không hề giấu giếm hiện thực đau thương ấy:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Nhà thơ nói về "anh bạn" là nói về những đồng chí, đồng đội của mình thiếu thốn mệt mỏi tới
mức kiệt sức. Từ "gục" có phần nặng nề nhưng bị xóa nhòa đi và được cân bằng trở lại, bằng
hình ảnh "bỏ quên đời". Cái chết với người lính Tây Tiến rất đỗi nhẹ nhàng và thanh thản. Kết
cấu đối sánh đan xen giữa thiên nhiên và con người tạo nên sự đối chiếu thầm lặng để tôn vinh
sức mạnh của con người, dù con người có nhỏ bé trước thiên nhiên hiểm trở và dữ dội, hiểm
nguy đe dọa họ từ mọi phía, mọi nơi
Giữa những gập ghềnh, gập gãy nơi rừng thiêng nước độc, người lính còn bị đe dọa bởi thác dữ, thú rừng:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
“Chiều chiều” và “đêm đêm” diễn tả khoảng thời gian luôn tuần hoàn như sự đe dọa bủa vây từ
mọi phía, người lính trong hoàn cảnh phải chống chọi với thiên nhiên núi rừng khắc nghiệt. Thế
nhưng, giữa nơi rừng thiêng nước qua con mắt hào hoa lãng mạn của chiến binh Tây Tiến một
thời người ta vẫn nhìn thấy được những khung cảnh bình yên, nỗi nhớ chợt ùa về Mai Châu xinh đẹp:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
Hình ảnh gắn với tình quân dân chợt hiện về để rồi luôn nhung nhớ những bữa cơm tỏa thơm nếp
xôi. Trong “Tiếng hát con tàu” Chế Lan Viên từng viết:
"Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn nhớ tỏa mùi hương".
Quang Dũng đã lựa chọn địa danh có tên nghe thật êm ái, gợi ra sự bình yên “Mai Châu” nếu
như không lựa chọn địa danh này mà thay nó bằng “Lai Châu” có lẽ sự duyên dáng của câu thơ
sẽ vơi đi vài phần. Ở đây, “mùa em” đó là mùa con ong đi lấy mật, mùa con voi xuống sông uống
nước, mùa em đi phát rẫy làm nương, mùa ta gặp nhau mùa trao yêu thương mùa vương luyến
nhớ để xa rồi sẽ mãi mãi không quên.
Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài
niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau,
Quang Dũng đã kể lại chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người như những thước phim vừa
chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa. Cái hay của nhà thơ này là bên cạnh
những nét đậm tô hiện thực, Quang Dũng vẫn bộc lộ rõ những góc nhìn đầy lãng mạn của một chàng trai Hà Nội.
Đọc đoạn thơ, ta hiểu thêm về người lính Tây Tiến, hiểu thêm về “đoàn binh không mọc tóc” và
hiểu hơn về nguồn cội của sức mạnh mà người lính đem vào trận chiến. Xin được mượn lời thơ
của Giang Nam để thay lời kết cho bài viết này, có lẽ Giang Nam đã nói giúp tấm lòng của biết
bao người yêu mến nhà thơ Quang Dũng và bài thơ “Tây Tiến”:
"Tây Tiến biên cương mờ khói lửa
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông" ĐOẠN 3 TÂY TIẾN
BÀI PHÂN TÍCH ĐOẠN 3
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng
vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm
hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập
của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức
tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng
ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc ...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ,
những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở
về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên
cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn
binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở
14 dòng thơ đầu tiên. Và Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính
với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. Quang
Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của
mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương
phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí
người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài
sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
"Tây Tiến đoàn quân... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc họa lên từ những đường nét nhằm tô đậm
cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong
đoàn quân mỏi trong câu: "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi", nay trong khung cảnh hết sức
lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh
không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của Quang Dũng đã không né tránh
việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ
không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều
người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá
ngụy trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tụy. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy
họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân
thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của Quang Dũng là mô tả người lính với
những nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu
thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ
như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những
thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức
nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên
gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả
cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh
màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm
sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây
Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới
sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ
Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô-típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ
mang âm vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống
của dân tộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một
hào khí ngút trời Đông A.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi Quang Dũng bổ sung vào bức
tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu ở
nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Ta bỗng nhớ đến câu
thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn
hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư
sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người
lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một
tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng
chính là con người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm
súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu
thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn
nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng
mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những
bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây
bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh
của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm
nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến.
Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi.
Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã
mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế
chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng
nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng
chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng
phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là
"rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. Quang Dũng muốn nói tới
nơi yên nghỉ của những người đồng đội:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở
về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của
những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đồng thời cũng chính câu thơ
thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm,
của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của
mình. Trong thơ Quang Dũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về đất".
Bao nhiêu thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai
bảo Quang Dũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy,
cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét
nhiều hơn chết vì chiến trận.
Hai câu thơ mang âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là một cái
chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:
Áo bào thay chiếu anh về đất.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Hai câu mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường nhưng sức gợi
thật lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi
mà cảm khái, thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh “anh về đất”? “Anh
về đất” là hóa thân cho dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng
gầm của sông Mã về xuôi như loạt đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã
dựng lên bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái
quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên
làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh
từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình
yêu của Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức
tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
Những lời phê bình văn học về tác phẩm Việt Bắc
- Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng
lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi
chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân
tộc, giải phóng cho người lao khổ - Xuân Diệu
- Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên - Xuân Diệu
- “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.” (Tố
Hữu – “Nhà văn nói về tác phẩm”)
- Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái
vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân
bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý. (Chế
Lan Viên – “Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu”)
- Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái tim, chính là
bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự. (Xuân Diệu -“Tố Hữu với chúng tôi”)
- Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình
độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là
một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người cách mạng. Người Tố Hữu là một thi sĩ,
một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ. (Lời giới thiệu tập Thơ của Tố
Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946)
- Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của
nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực.
Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân nghèo
khổ. (Chặng đường mới của chúng ta, 1961, Hoàng Trung Thông)
- Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc
đáo của Tố Hữu trong thơ (Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959, Đặng Thai Mai)
- Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức linh
hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im lặng
giữa các dòng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc riêng của thơ Tố Hữu. (Chuyện thơ, 1978, Hoài Thanh)
- Thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, càng ngày càng mới, vì nó thể hiện thế giới quan cách mạng
của chủ nghĩa Mác, hệ tư tưởng vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là những tư tưởng càng ngày
càng trở thành cách nhìn, nếp sống phổ biến của những con người mới của thời đại. (Bình luận văn học, 1964, Như Phong)
- “Nhà thơ này sử dụng đôi mắt tinh tường, nhà thơ khác sử dụng bộ óc kì ảo, còn Tố Hữu, anh
chỉ sử dụng tình cảm và trái tim trần” (Chế Lan Viên)
- “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình thơ rất đỗi trữ tình” (Xuân Diệu)
- “Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ Tố Hữu chín rộ,… không phải là một cây bút trong
tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người.
Người ta thấy văn chương cách mạng chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ nên nhạc.
- Việt Bắc trước hết là một bài thơ trữ tình – chính trị… Bài thơ là một khúc hát ân tình thủy
chung réo rắt, đằm thắm bậc nhất, và chính điều đó làm nên sức ngân vang sâu thẳm, lâu bền của bài thơ (Trần Đình Sử)
- Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận
động của người cách mạng (Lời giới thiệu tập thơ của Tổ Hữu, Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản 1946)
Dàn ý Phân tích Việt Bắc 8 câu đầu A. Mở bài
Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc. (Tố Hữu là một nhà thơ lớn có nhiều đóng góp
quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là bài thơ Việt Bắc.) B. Thân bài 1. Tác giả
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Thơ
ông thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại.
Thơ Tố Hữu mang tình chất trữ tình chính trị sâu sắc: Hướng đến cái chung về lẽ
sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi
những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập
đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân.
Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ
truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát
huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,… 2. Tập thơ Việt Bắc
Tập thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
những con người kháng chiến.
Ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến - hậu phương, miền xuôi -
ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,...
Kết thúc bằng những bài ca hùng tráng, vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng của dân tộc. 3. Phân tích 8 câu đầu
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.