-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Những quy định chung về luật dân sự , tài sản và thừa kế | môn luật dân sự | trường Đại học Huế
1.Lý do chọn đề tài.2.Ý nghĩa lý luận và cấu trúc tiểu luận. ChươngI: Khái quát về thừa kế thế vị.1.1. Khái quát về thừa kế.1.2. Khái niệm và đặc điểm thừa kế thế vị.1.2.1.Khái niệm thừa kế thế vị.1.2.2.Đặc điểm.Chương II, Các quy định của pháp luật Việt Nam về thừa kế thế vị.2.1. Quy định thời điểm mở thừa kế và thời hiệu khởi kiện.2.1.1. Thời điểm mở thừa kế.2.1.2. Thời hiệu khởi kiện.2.2. Các chủ thể trong thừa kế thế vị.2.2.1. Người để lại di sản và người bị thay thế.2.2.2. Người thế vị nhận di sản.2.3. Các trường hợp đặc biệt.2.3.1. Người thừa kế thế vị từ chối nhận di sản.2.3.2. Người thừa kế thế vị không được quyền nhận di sản.2.3.3. Người thừa kế thế vị bị truất quyền nhận di sản.Chương III, Hạn chế và cách khắc phục.3.1. Thừa kế thế vị đối với con nuôi, con riêng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Luật dân sự (ĐHH) 23 tài liệu
Đại học Huế 272 tài liệu
Những quy định chung về luật dân sự , tài sản và thừa kế | môn luật dân sự | trường Đại học Huế
1.Lý do chọn đề tài.2.Ý nghĩa lý luận và cấu trúc tiểu luận. ChươngI: Khái quát về thừa kế thế vị.1.1. Khái quát về thừa kế.1.2. Khái niệm và đặc điểm thừa kế thế vị.1.2.1.Khái niệm thừa kế thế vị.1.2.2.Đặc điểm.Chương II, Các quy định của pháp luật Việt Nam về thừa kế thế vị.2.1. Quy định thời điểm mở thừa kế và thời hiệu khởi kiện.2.1.1. Thời điểm mở thừa kế.2.1.2. Thời hiệu khởi kiện.2.2. Các chủ thể trong thừa kế thế vị.2.2.1. Người để lại di sản và người bị thay thế.2.2.2. Người thế vị nhận di sản.2.3. Các trường hợp đặc biệt.2.3.1. Người thừa kế thế vị từ chối nhận di sản.2.3.2. Người thừa kế thế vị không được quyền nhận di sản.2.3.3. Người thừa kế thế vị bị truất quyền nhận di sản.Chương III, Hạn chế và cách khắc phục.3.1. Thừa kế thế vị đối với con nuôi, con riêng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Luật dân sự (ĐHH) 23 tài liệu
Trường: Đại học Huế 272 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lO M oARcPSD| 47110589
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH
CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ TIỂU LUẬN
THỪA KẾ THẾ VỊ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN NGUYÊN GIA HÂN MSSV: 2053801012081 LỚP: 115-DS45.1 MỤC LỤC lO M oARcPSD| 47110589 LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, vấn đề thừa kế là một vấn đề quan
trọng và rất được mọi người quan tâm. BLDS 2015 đã nêu rất đầy đủ các quy định về
thừa kế bao gồm thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc. Tuy nhiên trong đó
vẫn còn nhiều vướng mắt chưa được làm rõ dẫn đến việc giải quyết tranh chấp trong
thừa kế vẫn còn bị hạn chế. Thừa kế thế vị chính là một trong những vấn đề còn nhiều
hạn chế và thiếu sót khiến cho việc áp dụng vào thực tế khá khó khăn.
Thừa kế thế vị thực chất là để bảo vệ quyền nhận di sản cho cháu, chắt có cha,
mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản nếu cháu, chắt còn
sống ở thời điểm mở thừa kế. Thừa kế thế vị quy định trong BLDS 2015 chỉ được nêu
một cách khiêm tốn, chung chung không rõ ràng khiến việc áp dụng cho các vụ án còn
nhiều hạn chế. Hằng năm các vụ án về thừa kế không được giải quyết rõ ràng mà phải
xét xử nhiều lần làm tốn rất nhiều thời gian nhưng lại không mang tính thuyết phục
cao do các quy định pháp luật về thừa kế chưa được thống nhất. Đặc biệt trong xã hội
phát triển ngày nay, tài sản của con người ngày càng nhiều, càng phức tạp cùng với các
quy định lại chưa được đồng bộ, không rõ ràng dẫn đến các tranh chấp về tài sản khó
giải quyết. Trên thực tế cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau bình luận về vấn đề này
nhưng vẫn chưa được thống nhất vì vậy cần nhanh chóng đưa ra giải pháp ổn thỏa để
bù đắp vào những thiếu sót giúp việc xét xử không bị lưu động và mang tính thuyết phục cao.
Xuất phát từ lý do đó, thừa kế thế vị là một vấn đề cấp thiết trong lý luận và thực
tiễn cần được làm rõ về các quy định cũng như cần được hoàn thiện trong hệ thống
pháp luật dân sự Việt Nam để có được cái nhìn bao quát, toàn diện, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của mỗi người, dễ dàng giải quyết được các tranh chấp thừa kế
cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án.
2. Ý nghĩa lý luận và cấu trúc tiểu luận
Bài tiểu luận nhằm phân tích những quy định trong pháp luật và tìm ra những
bất cập, hạn chế trong quy định thừa kế thế vị. Góp ý về những biện pháp khắc phục
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật giúp việc giải quyết vụ án được thống nhất,
bảo đảm tính công bằng và quyền lợi cho chủ thể.
Bài viết gồm phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận và nội dung,
trong đó nội dung gồm 3 chương là:
Chương 1: Khái quát về thừa kế thế vị
Chương 2: Quy định pháp luật dân sự Việt Nam về thừa kế thế vị lO M oARcPSD| 47110589
Chương 3: Những mặt hạn chế và cách khắc phục lO M oARcPSD| 47110589
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
1.1. Khái quát về thừa kế
Trong thời kỳ công xã nguyên thủy, khi xã hội chưa phân giai cấp, chưa có nhà
nước, loài người sống liên kết với nhau trong lao động tập thể và trong đấu tranh sinh
tồn. Chính vì thế, trong xã hội nguyên thủy không có chiếm hữu tư nhân, không có
người bốc lột và không có bộ máy chính quyền. Do đời sống thấp kém nên tạo nên sự
hợp tác trong lao động, sự bình đẳng về quyền sở hữu ngang nhau. Khi có người qua
đời tài sản của họ sẽ được chuyển lại cho cộng đồng. Trải qua quá trình phát triển của
xã hội, loài người đã biết tạo ra tư liệu lao động dùng phục vụ cho hoạt động xã hội,
kinh doanh. Từ đó dẫn đến xuất hiện sản phẩm thừa trong xã hội, những người có địa
vị lợi dụng chức phận chiếm đoạt của cải dẫn đến hình thành sự phân hóa giàu nghèo
đồng thời cũng nảy sinh những mâu thuẫn giai cấp đòi hỏi phải có một chế độ chính
trị quyền lực cùng với quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung được đảm bảo bằng
sức mạnh cưỡng chế. Vì thế nhà nước và pháp luật được ra đời, đầu tiên là chế độ sở
hữu tư nhân được xác lập. Lúc này, khi một người ra đời họ không để lại tài sản cho
cộng đồng mà để lại cho một số người có quan hệ gần gũi nhất với họ. Quá trình tài
sản di chuyển từ người này sang người khác gọi là thừa kế.
Khi có người mất thì phần tài sản của người đó mới được dịch chuyển cho người
khác. Phần tài sản được kế thừa sẽ được xử lý theo nguyện vọng của người đã mất
hoặc theo quy định pháp luật. Nếu tài sản dịch chuyển dựa trên ý chí người đã mất thì
được gọi là thừa kế theo di chúc, còn nếu tài sản dịch chuyển theo điều kiện, trình tự
của luật pháp quy định thì được gọi là thừa kế theo pháp luật.
Thừa kế được thực hiện khi xác định được đối tượng hưởng quyền thừa kế tài
sản của người đã mất cũng như thấy quyền sở hữu tài sản của người này được chuyển
cho người khác. Qua đó ta hình dung sở hữu và thừa kế có mối quan hệ xoay quanh
lẫn nhau. Cá nhân khi đã sở hữu của cải vật chất một cách hợp pháp thì người đó có
quyền sử dụng chúng cho mục đích của bản thân. Sau đó khi chết, những của cải của
họ sẽ được chuyển lại cho cá nhân hay tập thể khác theo quyền định đoạt của họ hoặc
theo quy định pháp luật. Người nhận di sản sẽ phải thực hiện các quyền cũng như các
nghĩa vụ đối với tài sản mà họ nhận được nhằm bảo vệ và phát huy giá trị của tài sản đó.
Thừa kế và sở hữu luôn tồn tại song song và gắn bó chặt chẽ với nhau trong mọi
hình thái kinh tế xã hội. Thừa kế và sở hữu là một vòng luân chuyển tuần hoàn của cải
vật chất từ người này sang người khác. Thừa kế là tiền đề để sở hữu duy trì và phát
sinh quan kế thừa giữa người lại để lại di sản và người nhận di sản. Thừa kế và sở hữu lO M oARcPSD| 47110589
giúp cho nền kinh tế phát triển, xác định địa vị trong xã hội. Thừa kế đảm bảo quyền
lợi sở hữu cho các chủ thể trong các mối quan hệ. Như vậy, sở hữu và thừa kế có mối
quan hệ mật thiết và hỗ trợ cho nhau làm cho xã hội luôn được duy trì và phát triển.
1.2. Khái niệm và đặc điểm thừa kế thế vị 1.2.1.
Khái niệm thừa kế thế vị
Đầu tiên có thể hiểu đơn giản “thế” là thay thế, “vị” là vị trí, ngôi vị. Thế vị có
nghĩa là thay thế vị trí của một ai đó. Theo Điều 739 BLDS nước Cộng hòa Pháp định
nghĩa: “Thế vị là một giả định của luật mà hiệu quả là đưa những người thế vị vào vị
trí, vào bậc và hưởng các quyền của người bị thay thế”.
Điều 680 BLDS 1995 quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản
chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì
chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Điều 652 BLDS 2015: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc
cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha
hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một
thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của
chắt được hưởng nếu còn sống”.Qua hai điều trên ta thấy được so với BLDS 2015 thì
BLDS 1995 không quy định về thừa kế thế vị khi cháu hoặc chắt có bố, mẹ chết cùng
thời điểm với người để lại di sản. Điều này hoàn toàn không phù hợp vì thừa kế thế vị
là một quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các thế hệ cháu, chắt, như một điều
gián tiếp cho cháu, chắt có quyền thế chân hưởng di sản từ ông bà hoặc các cố cũng
như để phần di sản ấy không bị rơi vào tay người khác.
Như vậy có thể hiểu thừa kế thế vị là việc mà người khác có thể thay thế vị trí
người vốn dĩ được thừa kế di sản để nhận phần di sản đó. Nhưng để có thể nhận được
di sản thì người thế vị phải còn sống ở thời điểm mở thừa kế và người vốn dĩ được
hưởng di sản phải chết trước hoặc chết cung thời điểm khi người để lại di sản mất.
Người để lại di sản trong trường hợp này là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cụ
nội, cụ ngoại. Khi cháu nội, cháu ngoại hoặc chắt nội, chắt ngoại có bố mẹ chết trước
hay chết cùng thời điểm với ông bà hay các cụ thì cháu hoặc chắt sẽ được hưởng phần
di sản do ông bà hay các cụ để lại.
Ví dụ 1: Trường hợp cháu thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của ông, bà:
T và H có hai người con là M và S, M kết hôn với A và có một người con là G. Năm
1990, M chết. Năm 1995, T và H chết và không để lại di chúc. Như vậy phần tài sản của
T và H sẽ được phân chia theo quy định pháp luật. Trong đó, M và S là người thừa kế. lO M oARcPSD| 47110589
Nhưng do trong trường hợp này M chết trước T và H nên M trở thành người bị thay
thế nhận di sản. G là cháu trở thành người thừa kế thế vị
Ví dụ 2: Trường hợp chắt thế vị cha hoặc mẹ để hưởng di sản của cụ:
Cụ M và N có 3 người con là ông A, bà B và bà C. A kết hôn với
D có con là P, C kết hôn với O có con là L. L kết hôn với K có con là V. Năm 2005, A, L, C
chết do tai nạn. Sau đó năm 2008 cụ M chết không để lại di chúc. Vậy trong trường
hợp này là thừa kế theo pháp luật. Nên A, B, C, N là người thừa kế. Nhưng do A chết
trước cụ M nên phần di sản của A sẽ do P thừa kế, C cũng chết trước cụ M nên phần
di sản của C do L thừa kế. Tuy nhiên, L chết cùng thời điểm với C nên theo pháp luật,
di sản của C sẽ do V thừa kế. 1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, thừa kế thế vị chỉ áp dụng đối với trường hợp thừa kế theo pháp luật,
không áp dụng trong trường hợp thừa kế theo di chúc.
Vì theo Điều 624 BLDS 2015:“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc được thực hiện theo
quyền định đoạt của chủ thể đã chết, là di nguyện thể hiện ý chí của chủ thể vì thế nếu
thừa kế thế vị áp dụng trong trường hợp theo di chúc thì sẽ không tôn trọng ý chí của
chủ thể làm phá vỡ nguyên tắc vốn có của di chúc. Người lập di chúc có quyền chỉ định
bất cứ ai nhận tài sản và giao nghĩa vụ cho họ. Trong trường hợp người được nhận tài
sản theo di chúc chết trước người lập di chúc thì con cháu của họ không được nhận
phần di sản đó nhằm bảo vệ đúng ý chí của người lập di chúc.
Còn đối với các thừa kế theo pháp luật dựa trên các quy định đối tượng thừa kế
từ đó ra suy ra được người thừa kế thế vị. Ở mỗi thời điểm khác nhau mối quan hệ đó
sẽ được quy định khác nhau: Giai đoạn 1956-1968, theo hướng dẫn trong Thông tư số
1742-BNC ngày 18-9-1956 của Bộ Tư pháp, người thuộc diện thừa kế bao gồm: Vợ,
chồng, các con đẻ, các con nuôi, các cháu, các chắt, cha, mẹ và những người thừa kế
khác. Giai đoạn 1968-1990, theo hướng dẫn trong Thông tư số 954-NCPL và Thông tư
số 81-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao, diện thừa kế bao gồm: Vợ góa (vợ cả góa,
vợ lẽ góa); con đẻ và con nuôi; bố đẻ, mẹ đẻ hoặc bố nuôi, mẹ nuôi; ông bà nội ngoại;
anh, chị, em nuôi của người để lại di sản. Giai đoạn 1990-1995, theo qui định tại PLTK
(1990), diện thừa kế không có tất cả những người theo Thông tư số 81 đã xác định, mà
còn bao gồm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ khác, đó là:
Cụ nội, cụ ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và cháu ruột của
người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột. Giai đoạn từ 1995 đến nay:
khi BLDS được ban hành (có hiệu lực từ ngày 1-7-1996), diện thừa kế theo pháp luật lO M oARcPSD| 47110589
cũng bao gồm những người như PLTK trước đây đã quy định.1 Điều 676 BLDS 2005 và
Điều 651 BLDS 2015 đều quy định: “…Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;…”. Người đáng ra được
nhận di sản là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và là con của người để lại di sản.
Thừa kế theo hàng thừa kế và thừa kế thế vị có nét giống nhưng cũng khác nhau. Quan
hệ thừa kế theo hàng là sự phân chia di sản theo từng hàng một dựa trên Điều 651
BLDS 2015 từ những người có quan hệ gần nhất cho đến những mối quan hệ xa hơn
trong khi thừa kế thế vị chỉ dựa trên các bậc của quan hệ chiếu từ trên xuống dưới: cụ
- ông, bà - bố, mẹ - con (cháu) - cháu (chắt). Dựa trên hàng thừa kế ta biết được người
thế vị .Vốn dĩ thừa kế là nhằm bảo vệ quyền lợi của những người trong gia đình. Mỗi
quốc gia với phong tục tập quán khác nhau sẽ có các quy định khác nhau về thừa kế.
Thứ hai, Người thừa kế thế vị chỉ có thể được hưởng di sản nếu bố, mẹ hoặc ông
bà của họ được quyền hưởng di sản.
Điều 887 BLDS Nhật Bản quy định con của người để lại di sản là người thừa kế
nếu con của người để lại di sản chết trước, bị truất quyền thừa kế trước thời điểm mở
thừa kế do thuộc các trường hợp không được hưởng quyền thừa kế quy định tại Điều
891 hoặc do phán quyết của Tòa án thì con cái của người đó được hưởng thừa kế thay.
[..]Quy định này tương tự với quy định thừa kế thế vị của BLDS Việt Nam. Cả hai đều
đề cập đến việc bảo vệ quyền hưởng tài sản của cháu khi bố, mẹ chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với ông, bà. Nhưng điểm khác nhau ở chỗ quy định thừa kế thế vị Nhật
Bản cho phép cháu được hưởng tài sản của ông, bà mặc dù bố, mẹ không nằm trong
trường hợp được nhận di sản thừa kế. Tương tự như thế, Điều 755 BLDS Pháp quy
định: Con cháu của người không xứng đáng hưởng thừa kế được thừa kế thế vị người
này mặc dù người này còn sống tại thời điểm mở thừa kế. Cùng theo tinh thần của
Điều 1629 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan thì con của người để lại di sản được
xác định ở hàng thừa kế thứ nhất. Các cháu của người chết được thừa kế trong trường
hợp cha hoặc mẹ cháu chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản là
ông, bà theo pháp luật Thái Lan, trường hợp này được gọi là thừa kế đại diện.[…].
Nhưng pháp luật Việt Nam quy định người thế vị theo Điều 652 BLDS 2015 có
quy định muốn nhận được di sản thì người bị thay thế phải thuộc trường hợp được
hưởng di sản, không bị tước quyền hay không bị Tòa án kết tội gì. Điều này đặt ra nhiều
ý kiến khác nhau về việc ảnh hưởng quyền lợi của cháu, chắt khi cháu, chắt không liên
quan đến việc bị tước quyền thừa kế hay vi phạm của bố mẹ. Trong khi mục đích của
việc đặt ra quy định thừa kế thế vị là bảo vệ quyền lợi hưởng tài sản của cháu, chắt.
1 http://luanan.nlv.gov.vn/luanan?a=d&d=TTbFlGvGXjKi2002.1.15, tham kh o ngày 07/11/2021ả lO M oARcPSD| 47110589
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Thừa kế thế vị là sự dịch chuyển tài sản từ người này sang người khác, nói cách
khác là chuyển quyền sở hữu cho người thế vị. Thừa kế và sở hữu có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Sở hữu làm tiền đề phát sinh thừa kế còn nếu thừa kế là tiền đề thì
thừa kế giúp duy trì và hình thành nên sở hữu. Thừa kế và sở hữu duy trì lẫn nhau,
luân chuyển xoay vòng làm cho nền kinh tế xã hội vừa được kế thừa vừa phát triển.
Quan hệ pháp luật của thừa kế thế vị là mối quan hệ dựa vào quan hệ huyết thống,
hay những mối quan hệ thân thuộc giữa người để lại di sản là ông bà nội, ông bà ngoại,
cố nội, cố ngoại; người bị thay thế hưởng di sản là bố, mẹ của người thế vị và người
thế vị là cháu, chắt. Thừa kế thế vị chỉ căn cứ theo thừa kế theo pháp luật chứ không
thể áp dụng cho thừa kế theo di chúc. Vì di chúc thể hiện ý chí đơn phương của chủ
thể lập di chúc. Việc áp dụng thừa kế thế vị cho di chúc là vi phạm quy tắc tôn trọng di
nguyện của chủ thể, xâm phạm ý chí của chủ thể trong di chúc và làm mất giá trị di
chúc khiến cho di chúc bị hủy bỏ.
Quy định thừa kế được lập ra để bảo vệ quyền lợi của con người trong việc
hưởng tài sản. Thừa kế thế vị là công cụ giúp cho cháu, chắt được hưởng tài sản từ
ông, bà, cố khi bố, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà, các cố. Người
thế vị được nhận di sản khi ở thời ở thời điểm mở thừa kế vẫn còn sống và người bị
thay thế nhận di sản đã chết hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Phong
tục tập quán ở mỗi nước sẽ khác nhau nên sẽ có các chế định khác nhau về thừa kế,
cùng với sự phát triển của thị trường kinh tế hiện nay giúp cho các quy định về thừa
kế ngày càng được mở rộng. Thừa kế thế vị chỉ là một trong số ít, góp phần hoàn thiện
hệ thống pháp luật trong chế định về thừa kế nói riêng và hệ thống pháp luật dân sự nói chung. CHƯƠNG II
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỪA KẾ THẾ VỊ
2.1. Quy định thời điểm mở thừa kế và thời hiệu khởi kiện
2.1.1. Thời điểm mở thừa kế
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm thừa kế có hiệu lực. Việc phân chia thừa kế
trong trường hợp thừa kế thế vị chỉ bắt đầu sau khi người để lại di sản đã chết và người
bị thay thế nhận di sản đã chết hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản mà
trước đó người để lại di sản không lập di chúc. Hành vi thừa kế khác với các hành vi
khác ở chỗ sau khi người để lại di sản chết thì các sự kiện pháp lý mới xảy ra. Theo Điều
882 BLDS Nhật Bản: “Việc thừa kế sẽ bắt đầu sau khi người quá cố qua đời”. Theo
Khoản 1 Điều 611 BLDS 2015: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản lO M oARcPSD| 47110589
chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là
ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”. Như vậy thừa kế bắt đầu có
hiệu lực khi người để lại di sản qua đời, trong trường hợp này là thừa kế thế vị thì có
thêm điều kiện đó chính là người đáng ra được nhận di sản phải chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người để lại di sản, lúc đó những người thừa kế thế vị mới được
phép hưởng di sản từ người đã mất.
Ví dụ: ông A chết hồi 15h00 Ngày 1-1-1992. Vậy thời hiệu khởi kiện xác định như
sau: thời hiệu khởi kiện được xác định từ 0h00 ngày 2-1-1992 và kết thúc vào 24h00
ngày 2-1-2002 (ngày 2-1-1992 là ngày đầu tiên tiếp sau ngày xảy ra sự kiện ông A chết).
Như vậy trong trường hợp này, thời điểm mở thừa kế được tính lùi là 0h00 ngày 2-1-
1992. Nếu vậy, những người thừa kế của ông A chết sau 15h00 ngày 1-1-1992 đến
trước 0h00 ngày 2-1-1992 đều không có quyền hưởng di sản của ông A vì không bị coi
là chết trong cùng một thời điểm. 2
2.1.2. Thời hiệu khởi kiện
Theo quy định của BLTTDS năm 2015 “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể
được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Thời hiệu
khởi kiện vụ án dân sự được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”. Tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2015 quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế như
sau: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể thừa thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này
thì di sản thuộc về người quản lý di sản đó”. Riêng đối với những việc thừa kế đã mở
trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu được tính từ ngày 10-9-1990 (ngày có hiệu lực của
Pháp lệnh thừa kế 1990).
2.2. Các chủ thể trong thừa kế thế vị
2.2.1. Người để lại di sản và người bị thay thế
Người để lại di sản là người mà sau khi chết di sản của họ được dịch chuyển sang
cho người khác sở hữu. Trong thừa kế thế vị, người bị thay thế cũng có thể được xem
là người để lại di sản. Căn cứ theo Khoản 8 Điều 372 BLDS 2015: “Khi người để lại di
sản mất thì nghĩa vụ của họ cũng chấm dứt”. Sau khi người để lại di sản mất thì lúc này
2 https://luatsuphamtuananh.com/di -chuc---thua-ke/mot-so-bat-cap-trong-che-dinh-thua-ke/, tham kh o ngàyả 07/11/2021 lO M oARcPSD| 47110589
thời điểm mở thừa kế bắt đầu có hiệu lực. Những người thừa kế được phân chia di sản
theo quy định pháp luật.
Người bị thay thế nhận di sản là người vốn dĩ được nhận di sản nhưng do chết
trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản nên người bị thay thế không
thể nhận di sản. Việc xác định một người đã chết là cơ sở để chấm dứt, phát sinh các
quan hệ pháp luật khác dựa trên Điều 71 BLDS 2015 về tuyên bố chết gồm các trường
hợp như: sau 3 năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực
pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống; biệt tích trong chiến tranh sau
05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ,
thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Người bị thay thế thuộc hàng thừa kế thứ nhất trong Điều 651 BLDS 2015. Theo
quy định pháp luật Việt Nam, người bị thay thế là
“con” của người để lại di sản. Việt Nam từ xưa luôn coi trọng truyền thống gia đình vì
thế pháp luật Việt Nam cũng dựa trên phong tục tập quán đó để xây dựng hệ thống
pháp luật dân sự về thừa kế bảo vệ các quyền hưởng di sản cho con cháu trong quan
hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng.
“Con” của người để lại di sản ở đây là ai? Thông tư số 81/TTTANDTC ngày 24-7-
1981 của TAND tối cao hướng dẫn về việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến thừa
kế có quy định: Người con nào (kể cả con nuôi) chết trước người để thừa kế, thì các
con của người đó (tức là các cháu của người để thừa kế) sẽ hưởng phần thừa kế của
bố hoặc mẹ mình (thừa kế thế vị). Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1900 quy định tại Điều
27: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế tài sản của nhau và còn được thừa kế
tài sản theo quy định tại Điều 25 và Điều 26 của Pháp lệnh này. Điều 653 BLDS 2015:
“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di
sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”.
Trong trường hợp bố, mẹ có con riêng, nếu con riêng được bố dượng, mẹ kế
chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ như cha con, mẹ con thì con riêng vẫn được nhận di sản
từ bố dượng, mẹ kế. Điều 79 LHNGĐ 2014 quy định về quyền, nghĩa vụ của cha dượng,
mẹ kế và con riêng của vợ hoặc chồng: Cha dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với mình;
Con riêng có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng sống
chung với mình. Điều 654 BLDS 2015 quy định: con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có
quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của
nhau. Nhưng pháp luật lại không quy định rõ làm thế nào chứng minh được con riêng lO M oARcPSD| 47110589
được bố dượng, mẹ kế quan tâm, nuôi dạy như cha con, mẹ con ? Hay dựa vào sự
quan sát của những người hàng xóm xung quanh, những người họ hàng trong gia
đình,…? Điều này vẫn chưa được đề cập chi tiết.
Vậy người bị thay thế nhận di sản trong thừa kế thế vị không phân biệt ai, điều
kiện, khả năng hành vi như thế nào nhưng là người chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người để lại di sản. Người bị thay thế bao gồm con đẻ, con nuôi, con riêng
nếu như con riêng được bố dượng, mẹ kế nuôi dưỡng, chăm sóc như cha con, mẹ con.
Ví dụ: Bản án 07/2018/ds-st ngày 26-29/03/2018 về tranh chấp thừa kế
Nguyên đơn là ông Đàm Văn V và bị đơn là bà Đàm Thị T, bố đẻ ông V là cụ Đàm
Văn C1 sinh năm 1922, chết năm 1996; mẹ đẻ ông là cụ Nguyễn Thị B, sinh năm 1928,
chết năm 2016; mẹ kế ông là cụ Nguyễn Thị B1, sinh năm 1921 chết, năm 2008. Cụ
Nguyễn Thị B1 và cụ Đàm Văn C1 không có con chung; cụ C1 và cụ Nguyễn Thị B sinh
được 3 người con là: Bà Đàm Thị T, ông Đàm Văn V và ông Đàm Văn C. Ngoài ra, cụ B
còn có một người con riêng là ông Nguyễn Văn N sinh năm 1959. Cụ C1 và cụ B1 khi
chết đều không để lại di chúc. Từ nhỏ cụ B1 là người nuôi dưỡng và chăm sóc ông và
bà T; năm 1981 bà T lập gia đình ở riêng còn ông ở cùng với cụ C1 và cụ B1 cho đến khi
các cụ lần lượt qua đời; từ nhỏ ông và bà T sống với cụ B1 và cụ C1 còn ông C sống với
cụ B ở nhà khác trên cùng một thửa đất. Bản án sơ thẩm số 38/2018/TLST-DS xác nhận
bà T và ông V tuy là con của cụ B và cụ C1 nhưng từ lúc còn nhỏ đã sống chung cùng
một nhà và được cụ C1 và cụ B1 chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp. Ông C ở với cụ B tại
nhà khác nhưng vẫn cùng một thửa đất, khi cụ B1 chết bà T, ông V đều cùng có trách
nhiệm chung lo tang ma do đó có căn cứ để xác định giữa cụ B1 bà T, ông V có quan
hệ chăm sóc, nuôi dưỡng vì thế trong trường hợp này cụ B1 và ông V, bà T đều có
quyền được hưởng thừa kế di sản của nhau.
2.2.2. Người thế vị nhận di sản
Người thế vị là người thay thế vị trí của người đáng ra được nhận di sản nhưng
chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Người thừa kế thế vị thực
chất là người thừa kế và theo Điều 613 BLDS 2015: “Người thừa kế là cá nhân phải là
người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở
thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa
kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. Người
thừa kế thế vị là con của người bị thay thế đã chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
người để lại di sản. Để chứng minh là con thì dựa trên quan hệ huyết thống và nuôi
dưỡng người con đó, việc xác định thừa kế đối với người bị thay thế đã chết tuy vô lO M oARcPSD| 47110589
nghĩa nhưng nó lại là cơ sở để xác định người thừa kế thế vị. Theo nguyên tắc thì người
thừa kế phải còn sống ở thời điểm mở thừa kế. Đối với người sinh ra và không còn
sống ở thời điểm mở thừa kế thì sự hiện hữu pháp lý không được công nhận nhằm
tránh tranh chấp giữa những người thừa kế còn sống. Trường hợp nếu đã thành thai
trước khi người để lại di sản chết và sinh ra còn sống ở thời điểm mở thừa kế thì đứa
trẻ vẫn được công nhận là người thừa kế. Nếu người thừa kế chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người để lại di sản thì phần tài sản sẽ được chia cho con, cháu theo
các bậc trong quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Trường hợp bố chết trước
hoặc cùng thời điểm với ông, bà nội thì cháu là người thế vị được hưởng di sản. Trường
hợp mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà ngoại thì cháu cũng chính là
người được nhận di sản. Trường hợp ông, bà chết trước hoặc chết cùng thời điểm với
cụ và bố, mẹ chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà thì chắt được nhận di sản của cụ.
Điều 737 BLDS Pháp quy định về các hàng thừa kế: “Con cháu trực hệ là những
người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, những con thuộc bậc thứ nhất, cháu thuộc bậc
thứ hai và cứ thế cho đến vô tận”. Pháp xây dựng diện và hàng thừa kế hoàn toàn dựa
trên quan hệ huyết thống. Người thừa kế thế vị phải là người trực hệ của người để lại
di sản. Việc thừa kế thế vị dựa trên quan hệ huyết thống là để bảo vệ quyền thừa kế
của các thế hệ trong gia đình. Theo quy định của Pháp sự phân chia di sản ưu tiên về
trực hệ nhưng ở Việt Nam không đề cập rõ trong các trường hợp người thừa kế thế vị
là con đẻ của con nuôi hay con nuôi của con nuôi, …
Ví dụ: Vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là ông Đặng Ngọc H
và bị đơn là bà Hoàng Thị L, được TAND tỉnh Nam Định giải quyết bằng bản án số
50/2018/DS-PT ngày 02-11-2018: Cụ Đặng Văn C (chết năm 2009) và cụ Ngô Thị Y (chết
năm 2014) có 07 người con là ông Đặng Hữu K (mất năm 1998), ông Đặng Thanh K,
ông Đặng Ngọc H, bà Đặng Thị L, ông Đặng Hữu H, bà Đặng Thị H1, bà Đặng Thị Q. Ông
Đặng Hữu K mất năm 1998, có vợ là bà Hoàng Thị L và có 08 người con là Đặng Thị T,
Đặng Thị H1, Đặng Thị H2, Đặng Thị N, Đặng Thị N1, Đặng Quốc S, Đặng Thị S và Đặng Ngọc
S1. Bản án sơ thẩm và phúc thẩm giải quyết tranh chấp trên đều xác định hàng thừa
kế của vợ chồng cụ Đặng Văn C và cụ Ngô Thị Y gồm 07 người con là ông Đặng Hữu K
(mất năm 1998), ông Đặng Thanh K, ông Đặng Ngọc H, bà Đặng Thị L, ông Đặng Hữu H,
bà Đặng Thị H1, bà Đặng Thị Q. Xác định thời điểm mở thừa kế là khi cụ Đặng Văn C
mất vào ngày 07-8-2009, cụ Ngô Thị Y mất vào ngày 17-22014 không để lại di chúc nên
di sản của hai cụ được chia theo pháp luật. Ông Đặng Văn K mất ngày 03-11-1998, ông
K và vợ là Hoàng Thị L sinh được 08 người con nên bà L và 8 người con là Đặng Thị T, lO M oARcPSD| 47110589
Đặng Thị H1, Đặng Thị H2, Đặng Thị N, Đặng Thị N1, Đặng Quốc S, Đặng Thị S và Đặng
Ngọc S1 là người thừa kế thế vị của ông K. Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm giải
quyết vụ việc trên đều xác định người thừa kế thế vị của ông Đặng Văn K là vợ và các
con là không đúng. Ông Đặng Văn K (chết năm 1998) là con của Đặng Văn C (chết năm
2009) và cụ Ngô Thị Y (chết năm 2014), chết trước cụ C và cụ Y nên phát sinh thừa kế
thế vị trong trường hợp này. Điều 652 BLDS 2015 quy định chỉ con, cháu của người bị
thay thế được thừa kế thế vị là phù hợp với nguyên tắc và mục đích của thừa kế thế
vị. Tòa án xác định vợ ông Đặng Văn K cũng được thừa kế thế vị ông Đặng Văn K, hưởng
di sản của cụ C và cụ Y là xác định người thừa kế thế vị không đúng, ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích của người thừa kế thế vị là các con của ông Đặng Văn K.
2.3. Các trường hợp đặc biệt
2.3.1. Người thừa kế thế vị từ chối nhận di sản
Theo Điều 620 BLDS 2015 quy định về người không được nhận di sản:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. 2.
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đếnngười quản lý
di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. 3.
Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phânchia di sản”.
Người từ chối nhận di sản không được từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ tài sản của mình. Khoản 3 điều 620 BLDS 2015 không được từ chối sau khi di
sản đã được phân chia. Khi từ chối phải lập văn bản thông báo đến người quản lý di
sản, người được chia di sản để việc phân chia được quyết định theo hình thức khác.
Điều 642 Bộ luật Dân sự 2005 quy định khi một người muốn từ chối di sản thì phải lập
thành văn bản và báo cho cơ quan công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị
trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc không nhận di sản. Trước đây BLDS 2005 quy
định: “…Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu
tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý
nhận thừa kế”. Nhưng đến BLDS 2015 không quy định về việc công chứng, chứng thực
văn bản từ chối không nhận di sản thừa kế. Điều 59 LCC 2014 cũng quy định, người
thừa kế có thể yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản.
2.3.2. Người thừa kế thế vị không được quyền nhận di sản
Điều 621 BLDS 2015 quy định : “1. Người không được quyền hưởng di sản a)
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏehoặc về hành vi
ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh
dự, nhân phẩm của người đó; lO M oARcPSD| 47110589 b)
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại disản; c)
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừakế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng; …”
Pháp luật luôn ưu tiên quyền hưởng di sản của người thừa kế. Tuy nhiên cũng có
những trường hợp có những hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình, trái với đạo đức xã
hội hoặc có những hành vi trái pháp luật xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của
người để lại di sản; xâm phạm tính mạng người thừa kế khác để nhằm hưởng một
phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng... Nhằm đảm
bảo giá trị gia đình, đảm bảo truyền thống, đạo đức xã hội cũng như trật tự và công
bằng xã hội thì Điều 621 Bộ luật dân sự quy định phạm vi những người không được
quyền hưởng di sản do có những hành vi bất xứng.
2.3.3. Người thừa kế thế vị bị truất quyền nhận di sản
Điều 626 BLDS 2015 quy định : “… Người lập di chúc có quyền chỉ định người
thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế…”. Mặc dù phân chia di sản trong
thừa kế thế vị không phụ thuộc vào di chúc nhưng trong trường hợp người để lại di
sản chỉ chỉ định truất quyền thừa kế của người thừa kế thế vị nào đó thì người đấy
cũng không được nhận di sản. Phần tài sản đó sẽ bị đem đi chia cho những người thừa
kế khác. Trong trường người bị truất quyền là người cuối cùng nhận di sản, không còn
ai đứng ra nhận tài sản nữa thì theo Điều 622 BLDS 2015: “Trường hợp không có người
thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản,
từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không
có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước”. lO M oARcPSD| 47110589
TIỂU KẾT CHƯƠNG II
Quan hệ giữa người để lại di sản và người bị thay thế nhận di sản là quan hệ giữa
bố, mẹ và con ruột, con nuôi và con ngoài giá thú. Con ngoài giá thú được nhận di sản
của bố dượng, mẹ kế khi bố dượng, mẹ kế và con riêng chăm sóc, yêu thương nhau.
Quan hệ giữa người bị thay thế và người thừa kế thế vị tương đồng với quan hệ giữa
người để lại di sản và người bị thay thế nhận di sản, là quan hệ bố - con, mẹ - con,
người thừa kế thế vị được nhận di sản khi bố, mẹ được hưởng quyền nhận di sản.
Quan hệ giữa người để lại di sản và người thừa kế thế vị là quan hệ giữa ông - cháu, cụ
- chắt, tài sản của người để lại di sản được dịch chyển sang cho người thừa kế thế vị
khi người bị thay thế chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản và
người thừa kế thế vị còn sống ở thời điểm mở thừa kế. Người thừa kế thế vị được
hưởng di sản khi không vi phạm Điều 621 BLDS 2015, không bị truất quyền hưởng di
sản hay từ chối nhận di sản.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải
biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Người thừa kế thế vị được phép
yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
Pháp luật về thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi duõng nhằm bảo
vệ cho tài sản luôn được dịch chuyển trong thế hệ gia đình theo một chiều dọc từ trên
xuống, đảm bảo cho sự gắn bó giữa đời trước và đời sau tạo ra sự liên kết cho các thế
hệ trong gia đình. Các văn bản pháp luật về thừa kế ở nước ta quy định về thừa kế thế
vị khá đầy đủ và hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề chưa được đề cập một
cách rõ ràng và còn nhiều thiếu sót trong việc nghiên cứu thực trạng pháp luật và tìm
hiểu thực tiễn dẫn đến việc thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật và ảnh hưởng
đến hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế.
CHƯƠNG III HẠN CHẾ VÀ CÁCH KHẮC PHỤC
3.1. Thừa kế thế vị đối với con nuôi, con riêng 3.1.1.Con nuôi
Trong quan hệ về thừa kế thế vị, người thừa kế thế vị là cháu hoặc chắt của người
để lại di sản. Tuy nhiên, pháp luật lại không đề cập rõ “cháu” trong thừa kế thế vị gồm
những ai. Theo như phân tích, pháp luật quy định con đẻ, con nuôi, con riêng đều được
hưởng di sản của bố, mẹ nhưng lại không đề cập đến con của con nuôi, con riêng có
được nhận không. Quy định pháp luật cũng không nêu rõ thừa kế thế vị chỉ dừng ở
mối quan hệ cháu, chắt thôi hay kéo dài vô tận.
Đối với con ruột, cháu ruột thì việc nhận di sản thừa kế là một lẽ đương nhiên.
Điều 737 BLDS Pháp quy định: “Con cháu trực hệ là những người thuộc hàng thừa kế lO M oARcPSD| 47110589
thứ nhất, những con thuộc bậc thứ nhất, cháu thuộc bậc thứ hai và cứ thế cho đến vô
tận”. Điều 751 BLDS Pháp quy định: “Thừa kế thế vị có thể áp dụng đối với tất cả các
bậc của dòng trực hệ bề dưới. Thừa kế thế vị được chấp nhận trong tất cả các trường
hợp; hoặc các con của người để lại di sản cùng hưởng thừa kế với các ti thuộc của
người con chết trước, hoặc nếu tất cả con của người để lại di sản đều chết trước thì
các ti thuộc của những người con này sẽ hưởng thừa kế ở những bậc ngang nhau hoặc
không ngang nhau”. Pháp luật Pháp luôn đề cao quan hệ huyết thống và không giới
hạn thừa kế thế vị mà áp dụng cho tất cả các bậc chút, chít,… Điều 1639 BLDS Thái Lan
cũng quy định về vấn đề này: “Nếu bất cứ người nào có thể là người thừa kế quy định
tại Điều 1629 (1), (3), (4) hoặc (6) chết hoặc bị loại trừ trước khi người để lại di sản
chết, thì con cháu của người đó, nếu có, sẽ đại diện cho người đó để nhận tài sản thừa
kế. Nếu bất cứ người nào trong số con cháu của người đó chết hoặc bị loại trừ theo
cùng cách trên, thì con cháu của người chết đó sẽ đại diện cho người đó để nhận tài
sản thừa kế, và việc đại diện như vậy sẽ được thực hiện đối với phần của từng người,
một cách liên tiếp cho đến khi hết dòng dõi đó”. Pháp luật Thái Lan và Pháp luật Pháp
có nét tương đồng không giới hạn người thừa kế thế vị mà để cho tất cả con cháu thế
vị trực hệ ở các thế hệ đều có thể hưởng di sản.
Tuy nhiên trong thực tế, có những trường hợp cả hai vợ chồng cùng muốn nhận
nuôi con nuôi nhưng một người không đủ điều kiện theo quy định tại Điều 69 LHNGĐ
thì chỉ còn một người được nuôi nên người con nuôi kia là con nuôi riêng của vợ hoặc
chồng. Nhưng việc chăm sóc, nuôi dưỡng con nuôi là dùng tài sản chung của vợ chồng;
người không đủ điều kiện nhận nuôi con nuôi vẫn thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng
con nuôi như cha con (mẹ con). Vậy có thể xem đó là mối quan hệ giữa con nuôi và bố, mẹ nuôi không?
Quan hệ thừa kế giữa con nuôi của bố mẹ nuôi cũng không được đề cập đến
trong pháp luật dân sự Việt Nam. Con nuôi của con nuôi, con nuôi của con đẻ, con đẻ
của người con có được thừa kế thế vị không? Đây là vấn đề chưa được đề cập rõ mà
chỉ được quy định chung chung trong pháp luật Việt Nam.
Quy định tại tiểu mục đ Mục 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế
năm 1990 (Nghị quyết 02/HĐTP): “Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của
cha, mẹ của người nuôi dưỡng và cũng không đương nhiên trở thành anh, chị, em của
con đẻ của người nuôi. Do đó, con nuôi không phải là người thừa kế theo pháp luật
của cha, mẹ và con đẻ của người nuôi”. Và tại tiểu mục a Mục 6 Nghị quyết 02/HĐTP
quy định: “Về phía gia đình cha nuôi, mẹ nuôi: con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha
nuôi, mẹ nuôi mà không có quan hệ thừa kế với cha, mẹ và con đẻ của người nuôi. lO M oARcPSD| 47110589
Trong trường hợp người có con nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi không
đương nhiên trở thành con nuôi của người khác đó cho nên họ không phải là người
thừa kế của nhau theo pháp luật”. Tại tiểu mục b Mục 5 Nghị quyết số 02/HĐTP quy
định: “Trong trường hợp con nuôi chết trước cha nuôi, mẹ nuôi, thì con của người nuôi
(tức là cháu của cha nuôi, mẹ nuôi) được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha, mẹ của
chắt được hưởng nếu cha, mẹ của chắt còn sống vào thời điểm mở thừa kế”.
Vậy có thể hiểu con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời
điểm với người để lại di sản, thì con đẻ của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế
thế vị. Nhưng khi con đẻ của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm
với người để lại di sản, thì con nuôi của con đẻ của người để lại di sản không được
hưởng thừa kế thế vị và con nuôi của con nuôi cũng không được hưởng thừa kế thế vị.
Quy định trên chỉ nói đến quan hệ giữa con nuôi và bố, mẹ nuôi chứ không nói đến
con nuôi và bố, mẹ đẻ.
3.1.2.Con sinh ra bằng phương pháp khoa học
Người nhận di sản là người thừa kế thế vị phải còn sống vào thời điểm mở thừa
kế. Đứa trẻ sinh ra sau thời điểm mở thừa kế và thành thai trước khi người để lại di
sản chết thì theo pháp luật đứa trẻ đó vẫn được thừa kế di sản. Hiện nay với sự phát
triển của kinh tế - xã hội thì kèm theo đó là sự phát triển máy móc, công nghệ kỹ thuật
nên bắt đầu phổ biến hình thức có con bằng thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm.
Thụ tinh nhân tạo là thụ tinh bằng phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử
cung - được tiến hành bằng cách chọn lọc tinh trùng khỏe nhất của người chồng hoặc
của nguòi cho tinh trùng, sau đó bơm vào buồng tử cung của người vợ ở thời điểm
rụng trứng. Kết quả là cho tinh trùng bơi vào ống dẫn trứng và thụ tinh với trứng của
người vợ, từ đó dẫn đến thụ thai như bình thường. Thụ tinh trong ống nghiệm là biện
pháp hỗ trợ sinh sản cho các cặp vợ chồng hiếm muộn bằng cách cho trứng và tinh
trùng kết hợp ở ngoài cơ thể. Phôi thai được tạo thành sau khi trứng và tinh trùng kết
hợp thành công sẽ được chuyển lại vào buồng tử cung của người phụ nữ. Phôi sau đó
làm tổ, phát triển thành thai nhi như trong các trường hợp thụ thai tự nhiên.
Trong trường hợp đứa bé sinh ra và người bố chết đã chết không có quan hệ về
mặt huyết thống nhưng theo Điều 20 của Nghị định số 12/2003-NĐ/CP, người chồng
vẫn được xác định là cha của đứa trẻ:
"1. Trẻ ra đời do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người
mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân. lO M oARcPSD| 47110589
2. Những người theo quy định tại khoản 1 Điều này điều kiện xác định là cha, mẹ
đối với trẻ sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản".
Theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 12 thì: "Con được sinh ra do thực hiện kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản không được quyền yêu cầu quyền thừa kế, quyền được nuôi
dưỡng đối với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi".
Về phương diện sinh học, hoàn toàn có thể xác định được cá nhân được sinh ra
theo phương pháp khoa học có mối quan hệ huyết thống với người đã chết. Tuy nhiên,
xét về mặt pháp lý, đứa tẻ sinh ra từ tinh trùng của người đã chết không được coi là
con trong thời kỳ hôn nhân, không được xác định là còn của người đã chết. Hơn nữa
Điều 613 BLDS năm 2015 quy định: "Người thừa kế là cá nhân phải là con còn sống vào
thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết...". Như vậy, người thừa kế trước hết phải
còn sống tại thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống vào thời điểm mở thừa kế
(nếu mất trong vòng 24 giờ sau sinh thì không thuộc trường hợp này và người thừa kế
phải là người đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Hơn nữa trong giấy khai
sinh của đứa trẻ, phần khai về người cha vẫn bỏ trống, nên không thể hiện bất cứ mối
quan hệ nào giữa đứa trẻ và người cha về mặt pháp lý. Không có cơ sở pháp lý về mối
quan hệ pháp lý cha - con nên đứa trẻ không phát sinh quyền nhân thân, tài sản gì với
người cha đã mất. Và như vậy quyền thừa kế theo pháp luật di sản cho người "cha" đã
chết không đặt ra đối với những đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng của người cha đã
chết. Hơn nữa, "nếu công nhận những đứa trẻ được hình thành theo phương pháp
khoa học là con của người để lại tinh trùng đã chết thì số lượng người thừa kế của một
người chết để lại tinh trùng không ổn định, không biết khi nào thì một người thừa kế
mới nữa ra đời phụ thuộc vào mong muốn sinh thêm con của người phụ nữ là vợ của
người quá cố". Nên cần có văn bản điều chỉnh vấn đề này.3Những đứa trẻ được sinh
ra bằng cách thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm được công nhận là con của
người bố nhưng lại không được hưởng di sản của bố, điều này không công bằng người
con không dù là con ruột của người bố. Trong khi theo mục đích của pháp luật, quy
định thừa kế được đề ra là nhằm bảo vệ quyền kế thừa di sản của con, cháu và để tài
sản của người để lại di sản không bị rơi vào tay người ngoài trừ trường hợp dựa theo
ý chí của người để lại di sản để phân chia di sản.
3 https://www.vinmec.com/vi/tin-tuc/thong-tin-suc-khoe/san-phu-khoa-va-ho-tro-sinh-san/nao-la-thu- tinhnhan-
tao/#:~:text=Th%E1%BB%A5%20tinh%20nh%C3%A2n%20t%E1%BA%A1o%20vi%E1%BA%BFt,%E1%BB
%9F%20th%E1%BB%9Di%20%C4%91i%E1%BB%83m%20r%E1 %BB%A5ng%20tr%E1%BB%A9ng., tham kh o ả ngày 07/11/2021 lO M oARcPSD| 47110589
3.2. Người thừa thế vị có được hưởng di sản nếu bố, mẹ không được hưởng di sản không?
Trường hợp con riêng nếu bị rơi vào Điều 621 BLDS 2015 thì con của con riêng
có được thừa kế thế vị không? Nếu người bị thay thế nhận di sản rơi vào các trường
hợp như bị truất quyền nhận di sản, không được quyền hưởng di sản theo Điều 621,
từ chối nhận di sản thì người thừa kế thế vị có được tiếp tục hưởng di sản không?
Điều 887 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định con của người để lại di sản là người
thừa kế, nếu con của người để lại di sản chết trước, bị trất quyền thừa kế trước thời
điểm mở thừa kế do thuộc các trường hợp không được hưởng thừa kế quy định tại
Điều 891 BLDS hoặc do phán quyết của Tòa án thì con cái của người đó được hưởng
thừa kế thay. Quy định này có điểm tương đồng với quy định về thừa kế thế vị trong
BLDS Việt Nam về việc cháu được hưởng di sản thừa kế của ông, bà trong trường hợp
bố mẹ cháu chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà; song cũng có khác biệt
khi BLDS Nhật Bản quy định cháu vẫn được hưởng thừa kế của ông bà nếu bố mẹ cháu
thuộc những người không được hưởng thừa kế[…]. BLDS Nhật Bản vẫn cho phép người
thừa kế thế vị được hưởng di sản trong trường hợp người bị thay thế vi phạm quyền
thừa kế. Điều này chưa được quy định chi tiết trong pháp luật Việt Nam vì thế không
thể xác định chính xác được vấn đề này.
3.3. Cách khắc phục
Pháp luật nhà nước Việt Nam luôn gắn với sự phát triển của xã hội nhằm đáp
ứng phù hợp nhu cầu của con người. Quan hệ xã hội ngày càng phức tạp khiến cho các
vấn đề giải quyết càng khó khăn.
Vì thế cần có các giải pháp để cải thiện vấn đề này. 3.3.1.
Đối với pháp luật nhà nước
Pháp luật là công cụ quan trọng giúp nhà nước cai quản xã hội. Tuy nhiên vì ngày
càng có nhiều vấn đề phức tạp phát sinh nên hệ thống pháp luật nói chung và pháp
luật về thừa kế nói riêng vẫn còn nhiều bất cập, những mặt hạn chế cần được cải thiện.
Hệ thống pháp luật hoàn thiện là điều kiện giúp cho các vụ việc được giải quyết nhanh
chóng và lưu thông, thuyết phục được ý chí của mọi người và phát triển tiến bộ xã hội.
Các quy định của pháp luật nên dựa trên các tiêu chí như: nội dung phải phù hợp với
đường lối, chính sách Đảng và mong muốn của nhân dân, cân bằng được giữa sự phát
triển kinh tế - xã hội và trình độ phát triển về pháp luật, luôn đặt lợi ích nhân dân lên
hàng đầu, các quy định phải thể hiện mức độ hoàn thiện và thống nhất với hêh thống
văn bản quy phạm pháp luật, quy định phải xây dựng khoa học, nội dụng chặt chẽ,
ngôn ngữ rõ ràng đảm bảo trình độ lập pháp. Ngoài việc phát triển quy định pháp luật lO M oARcPSD| 47110589
cho phù hợp với tiến bộ xã hội thì việc giữ gìn và phát huy, làm sáng giá trị truyền thống
văn hóa dân tộc cũng là một điều hết sức cần thiết. 3.3.2.
Đối với quy định về thừa kế thế vị a. Về quy định con nuôi
Pháp luật Việt Nam công nhận mối quan hệ giữa bố, mẹ nuôi và con nuôi, không
phân biệt con đẻ và con nuôi nhưng Điều 653 BLDS 2015 không đề cập chi tiết về thừa
kế thế vị giữa con đẻ hay con nuôi của người nuôi. Các trường hợp, con đẻ của con
nuôi, con nuôi của con nuôi có được thừa kế thế vị không? Vấn đề này chưa có quy
định pháp luật cụ thể chỉ dựa trên Nghị quyết 02/HĐTP đã ra đời từ khá lâu khoảng 30
năm về trước và chỉ mang tính chất tham khảo. Nhưng để đảm bảo cho các vụ việc
được giải quyết rõ ràng, mối quan hệ thừa kế luôn được duy trì tốt và không bị pha
loãng quá nhiều bởi các mối quan hệ con nuôi thì dựa trên Nghị quyết có thể quy định
như sau: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được
thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này. Trong trường
hợp con nuôi chết trước cha nuôi, mẹ nuôi, thì chỉ con đẻ của người con nuôi được thừa kế thế vị.
b. Về quy định con riêng
Quy định này cho phép giữa bố dượng, mẹ kế và con riêng được hưởng thừa kế
của nhau nếu hai bên có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau. Theo Điều 654 BLDS
2015 có quy định con riêng được hưởng thừa kế thế vị nếu con riêng của vợ hoặc
chồng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với cha dượng hoặc mẹ kế thì con của con
riêng được thừa kế thế vị. Nhưng làm thế nào để xác định rõ giữa con riêng và bố
dượng, mẹ kế có quan hệ tốt với nhau? Có thể quy định như sau: con riêng và bố
dượng, mẹ kế có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng mà có bằng chứng đồng thuận từ
những người xung quanh hay những người thân trong gia đình, không phụ thuộc vào
nơi ở thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định định
tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này.
c. Về quy định với con sinh ra bằng phương pháp khoa học
Trường hợp con sinh ra theo phương pháp khoa học bằng tinh trùng của chồng
hoặc đối với trường hợp người khác cho dựa theo Điều 88 và Điều 93 LHNGĐ. Và đứa
trẻ sinh ra theo phương pháp khoa học chỉ được công nhận trong thời hạn không quá
3 năm sau khi người bố chết và không có sự tranh chấp từ các người thừa kế khác thì
được thừa kế thế vị. Việc giới hạn quyền thừa kế là để người mẹ không lợi dụng
phương pháp sinh sản khoa học để thừa hưởng di sản.