







Preview text:
3. Những thành tựu cơ bản của đổi mới
Xuyên suốt trong quá trình từ ra đời tới đấu tranh cách mạng Đảng ta luôn khẳng định
rằng: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam, đi
lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu mà Đảng hướng tới. Năm 1930, Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng đã nêu rõ chủ trương: “Tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa”. Mặc dù cuối những năm 90 hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội- đứng
đầu là Liên Xô đã sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào khó khăn khủng hoảng,
gặp rất nhiều khó khăn nhưng Đảng vẫn khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Trong những năm tiến hành đổi mới, Đảng cộng sản
Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội
và thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ đó làm cho con đường tiến tới chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng tỏ, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng, góp phần và bổ sung
chủ nghĩa tư tưởng Mác-Lenin. Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu là
một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân, vì nhân
dân, là của nhân dân; có một nền kinh tế phát triển, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và
tạo ra một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; tạo ra một hệ thống chính trị vững mạnh. 3.1 Nhận thức 3.1.1. Về kinh tế
Việt Nam tiến tới định hướng nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế. Sau quá trình quá độ nước ta đã chuyển dịch từ nên kinh tế thành phần, kinh tế
khép kín sang nên kinh tế thị trường định hướng theo chủ nghĩa xã hội. Trong đó, kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần còn lại được khuyến khích phát triển phù
hợp với chiến lược, quy hoạch định hướng riêng theo nền kinh tế thị trường. Muốn sánh
vai với các cường quốc năm châu thì phát triển nền kinh tế chính là chìa khóa và để hiện
thực hóa điều đó ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động để
hội nhập và phát triển.
Một trong những đặc trưng cơ bản và thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ
nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính
sách kinh tế với chính sách xã hội. Mỗi chính sách đều phải hướng tới mục tiêu phát triển
xã hội nhằm tạo ta động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế cũng như phúc lợi xã hội: xóa
đói giảm nghèo, người có công, người có hoàn cảnh khó khăn... Đây là nền tảng cho sự
phá triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1.2. Hệ thống chính trị
Được vận động theo đường lối “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ”.
Chúng ta luôn đề cao tính dân chủ, Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân,
bảm đảm và bảo vệ đa số lợi ích của nhân dân.
Tình trạng quan liêu, tham nhũng, thoái hóa,... đã và đang tồn tại trong bộ máy nhà nước
trong nền kinh tế thị trường, ý thức được điều đó Đảng luôn liên tục thay đổi các chính
sách cơ chế bộ máy, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, cá nhân, quan liêu, tham nhũng...
từ đó hạn chế tình trạng mối mọt đục thân cây cản trợ sự phát triển của đất nước. Những
chính sách chiến lược đó góp phần tạo ra một đất nước hoàn thiện và phát triển ổn định trong hơn 30 năm qua. 3.1.3 Đối ngoại
Từ thời phong kiến cho tới hiện đại, đối ngoại Việt Nam đã luôn là công cụ quan trọng để
duy trì độc lập, hòa bình và thịnh vượng trước những biến động xunh quanh. Thuật ngữ
“Cây tre Việt Nam” đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập ẩn dụ về đường lối
đối ngoại của Việt Nam1 là hình ảnh độc đáo về phương thức đối ngoại của Việt Nam
mềm mại nhưng linh hoạt, bền bỉ và kiên cường. Ngày nay Đảng ta vẫn luôn giữ gìn và
phát huy truyền thống ấy và làm cho nó sắc hợp và rõ nét hơn.
1 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (2016), ” Đối ngoại cây tre” tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29
Sau sự kiên năm 1991 khi Liên Xô hoàn toàn sụp đổ, các nước cộng hòa li khai thì đó
cũng là lúc tan rã hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, chỉ còn một số ít các quốc gia tiếp
tục duy trì và phát triển theo đường lối này. Đứng trước lựa chọn tiếp tục duy trì hay tiến
tới chế độ xã hội chủ nghĩa để bắt kịp cùng các nước cường quốc xunh quanh. Đảng ta đã
đánh giá để đưa ra quyết định tiếp tục theo con đường xã hội chủ nghĩa cho dù nước đứng
đầu không còn và lấy đó làm kinh nghiệm, phát huy những thành tựu mà các nước Đông
Âu cũng như Liên Xô đã để lại cũng như không mắc vào âm mưu “trật tự thế giới mới”
của Mĩ nhằm thâu tóm tình hình của thế giới. Mục tiêu của xã hội chủ nghĩa là đất nước là
do dân của dân và vì dân vì vậy ta hướng tới giá trị cốt lõi là sự đoàn kết, chứ không đề
cao lợi ích cá nhân dẫn tới cạnh bất công, cá lớn nuốt cá bé. 3.1.4 An ninh, quốc phòng
Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân,
cho nên hy sinh kham khổ2. Từ đại hội thứ VI (1986) cho đến nay dưới vai trò là lực
lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam
đã có đóng góp to lớn vào những thành tựu chung của đất nước trong hơn 30 năm đổi
mới. Đó là nắm chắc vai trò của tư tưởng chủ tịch Hồ Chí Minh làm nền tảng nhằm đưa
dự báo đúng tình hình liên quan đến tình hình quân sự an ninh quốc gia cũng như chủ
động tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính
sách; nhất là tham mưu ra được Nghị quyết về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới”. Tham mưu cho Đảng và Nhà nước có đối sách phù hợp để xử lí linh hoạt và
kịp thời, đúng đắn trước mọi tình huống phức tạp nhất là vấn đề Biển Đông, các vấn đề
nhạy cảm về tình hình quân sự, quốc phòng trong quan hệ đối nội và đối ngoại, không để
đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược, đồng thời không để cho các thế lực thù địch lợi
dụng, chống phá; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. 3.1.5 Xây dựng Đảng
2 . "Thư gửi bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích nhân ngày kỷ niệm ngày thành lập quân giải
phóng Việt Nam", ngày 22-12-1949, theo Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.6, tr.264
Qua gần 30 của công cuộc đổi mới, nước ta đã có những quả ngọt đầu tiên và một trong
những nguyên nhân quan trọng là do Đảng đã kiên định vận dụng và sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lenin từ đó dẫn dắt dân tộc ta vượt qua khó khăn, thách thức, khơi dậy niềm cảm
hứng yêu nước, khát vọng hướng tới một đất nước phát triển phồn vinh, ổn định.
Sự phát triển nhận thức về lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là kết quả của quá trình đổi mới tư duy. Từ 1986 cho tới nay Đảng vẫn luôn
duy trì con đường ấy vận dụng và sáng tạo dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin để
phù hợp với bối cảnh của quốc gia hiện nay. Sự phát triển nhận thức về lý luận của Đảng
về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là kết quả của quá trình đổi mới tư duy, phát triển
và bổ sung những tư tưởng cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.1.6 Văn hóa, xã hội, con người 3.2 Thực tiễn 3.2.1 Về kinh tế
Trước đổi mới (1986) Việt Nam là một nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu do sự tàn
phá của hai cuộc chiến tranh đi qua. Nhờ những đường lối chính sách mở cửa đúng đắn
của Đảng, nhà nước nước ta nền kinh tế quốc dân của nước ta ngày càng phát triển với tốc
độ tương đối cao từ một nước nằm trong những nước có thu nhập bình quân đầu người
thấp tiến tới ra khỏi danh sách những nước có thu nhập thấp năm 2008. Ở thời điểm hiện
tại từ một nước thiếu lương thực Việt Nam đã thành một trong những nước xuất khẩu gạo
và nông sản hàng đầu khu vực và thế giới; nền kinh kế dịch chuyển theo hướng công
nghiệp hóa tăng cơ cấu các ngành công nghiệp và dịch vụ Việt Nam đã vươn lên trở thành
một trong những quốc gia có nền công nghiệp thuộc vào nhóm các quốc gia có năng lực
cạnh tranh toàn cầu ở mức trung bình cao. Năng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành công
nghiệp Việt Nam đã tăng 16 bậc trong vòng 10 năm, từ vị trí thứ 58 vào năm 2009 lên vị
trí thứ 42 vào năm 2019 (theo xếp hạng của UNIDO), trở thành quốc gia có mức tăng
hạng nhanh nhất trong các nước thuộc khu vực ASEAN. Bình quân GDP nước ta luôn
tăng trưởng kể cả trong những khó khăn như những đợt dịch bệnh vừa qua, theo số liệu
của Quỹ tiền tệ Quốc tế năm 2023 Việt Nam đạt hơn 430 tỷ USD, Việt Nam hiện tại đang
là nền kinh tế lớn thứ 35 trên thế giới và xếp thứ 5 trong khu vực.3
3.2.2 Hệ thống chính trị
Từ quá trình xây dựng và phát triển đất nước qua gần 40 năm đổi mới và phát triển đi lên
theo con đường xã hội chủ nghĩa, có thể tổng kết những thành tựu mà Đảng ta đã làm
được: xác định, bổ sung, định hình những nội dung đặc trưng. Trong quá trình đổi mới,
Đảng đã xác định được 8 đặc trưng nhằm thể hiện những nước phát triển về nhận thức lí
luận của Đảng thể hiện những bước phát triển không ngừng trong lí luận. Quốc hội có sự
đổi mới từ khâu bầu cử đại biểu cho tới khâu bầu cử hoàn thiện cơ cấu cũng như các
phương thức hoạt động để phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của thời đại. Đi đôi với
quá trình chuyên môn hóa bộ máy nhà nước thì cần có một sự phân định rõ ràng giữa các
cơ quan thực hiện chức năng, nhiệm vụ từ đó cho thấy vai trò của các tổ chức trong xử
lí.Ngoài các phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Cương
lĩnh năm 2011 còn bổ sung nội dung về việc nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ
lớn: “quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản
xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. 3.2.3 Đối ngoại
Lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam bắt đầu từ năm 1975 trong thời kì chiến
tranh, cho đến khi Tống thống Clinton tuyên bố bãi bỏ ngày 03 tháng 02 năm 1994. Sau
khi đất nước hoàn toàn thống nhất Việt Nam tập trung phá thế bao vây cấm vận của các
nước đế quốc tiến tới mở rộng đa phương hóa theo nhiều chiều, tập trung giữ vững an
3 https://aecvcci.vn/tin-tuc-n13381/quy-mo-kinh-te-dat-hon-430-ty-usd-viet-nam-duoc-du-bao-se-vuot-singapore- sau-6-nam-nua.htm
ninh, an toàn tuyệt đối. Việt Nam sau đó đã theo chủ trương đa dạng hóa song phương,
đặt mối quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức bên ngoài: đối với khu vực thì Việt
Nam đã trở thành những thành viên ASEAN 1995, bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc (1991) Và Hoa Kỳ (1995) và đặt quan hệ với 189 quốc gia trên thế giới cũng như
các tổ chức lớn trên thế giới như IFM, World Bank. Gia nhập ASEAN là cột mốc đánh
dấu quan trọng cho quá trình hội nhập của Việt Nam, là quyết định lịch sử mang tính
chiến lược và tạo động lực phát triển cho quá trình hội nhập quốc tế của nước ta. Nhà
nước, bộ ngoại giao đã có những chính sách, chiến lược, chủ trương nhằm thanh thủ ODA
thu hút FDI nước ngoài để chủ động hội nhập quốc tế tham giá các tổ chức kinh tế lớn của
thế giới AFTA, APEC. Nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan từng nói về “tính quy luật 10
năm” về những sự kiên lịch sử như: sự kiện cách mạng tháng 8 (1945), chiến thắng Điện
Biên Phủ trên không (1954), Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc (1964). Tuy
nhiên quy luật này vẫn đúng cho tới hiện tại kể cả đối với quá trình đi lên của nền kinh tế
dường như trong hội nhập quốc tế, cũng cứ khoảng 10 năm ( 1995, 2006-2007,2017-
2018) đất nước lại tiến tới lên bậc thang cao hơn. Điều này cũng thể hiện quyết tâm rất
cao của nhà nước và bộ ngoại giao trong việc mở rộng mối quan hệ quốc tế, tích cực tăng
cường hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới từ đó góp phần đưa đất nước ta đi lên. 3.2.4 An ninh quốc phòng
Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa nêu rõ: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng (1986) khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra thời kì mới cho
cách mạng Việt Nam. Đây là một sự kiện đánh dấu cho những bước đầu về phát triển đổi
mới về tư duy của Đảng trong công cuộc đi lên xây dựng đất nước theo con đường xã hội
chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc ở nước ta. Trải qua gần 40 năm sau công cuộc đổi mới nhà
nước ta đã đúc kết ra được nhiều thành tựu lớn, những lý luận và thực tiễn sâu sắc cho
Đảng bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện tạo nền tảng vững chắc để vững bước
trên con đường mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Những đường lối đó là hoàn
toàn đúng đắn, đáp ứng kịp thời những nhiệm vụ, yêu cầu cấp bách của nhà nước để bắt
kịp thời đại cũng như nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới dưới sự kì
vọng của toàn thể nhân dân.
Từ xưa cho tới nay công cuộc bảo vệ đất nước luôn là vấn đề cấp thiết, đặc biệt trong tình
hình như hiện nay thì nhà nước ta phải đẩy nhanh hơn nữa tiến trình hiện đại hóa để giữ
vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ nhằm bảo vệ cũng như xây dựng lòng tin cho
toàn bộ nhân dân. Nét nổi bật đặc trưng cho nền quốc phòng thời gian qua là Quân đội tổ
chức lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh” để cơ cấu cho phù hợp giữa các lực lượng,
dễ dàng điều chỉnh bố trí lực lượng trên những địa bàn chiến lược nhằm đáp ứng những
yêu cầu cấp thiết trong tình hình mới. Quân đội là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì vậy luôn phải trong tâm thế học hỏi để thích nghi với
những sự thay đổi của tình hình xunh quanh, luôn nêu cao tinh tinh xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân, bố trí lực lượng hợp lí sẵn sàng chiến đấu. 3.2.5 Xây dựng Đảng
Đảng xác định: “Kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ... trên tinh thần lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết”4. Với sự đổi mới do
Đảng lãnh đạo và thực hiện đã tạo ra những thành thành tựu to lớn có ý nghĩa cho lịch sử
phát triển của Đảng cũng như của đất nước, điều kiện đời sống của nhân dân tốt hơn hết
so với bất kì thời đại nào trước đây vì vậy đó là lí do tại sao toàn thể nhân dân luôn đồng
tình, ủng hộ tích cực những đường lối mới mà Đảng đề ra. Những thành tựu đó đã chứng
minh phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa không những góp phần có hiệu quả về
kinh tế mà còn giải quyết những bài toán khó về xã hội- điều mà các nước tư bản quan
tâm. “ Đất nước ta chưa bao giờ có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”
5 đây là kết quả của cả tập thể, của quá trình nỗ lực, phấn đấu không ngừng nghỉ nó là
minh chứng sắt đá khẳng định con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của nước ta là đúng đắn
phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại trong đó Đảng vẫn đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn
4 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thâ „t, Hà Nô „i, 2021, t.I, tr.25-26.
5 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sáng 26-1-2021
dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền
tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới"6 (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà
xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26).
3.2.6 Văn hóa, xã hội, con người
Sau khi đất nước được độc lập, các công tác lý luận của Đảng về lĩnh vực văn hóa, xã hội
và con người đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng, những
thành quả đó biểu hiện trong công tác xóa đói giảm nghèo giảm tỉ lệ thất nghiệp đi 7,5
triệu người trong giai đoạn 2000-2005; năm 2004 có 22,5%, trong đó số người được đào
tạo làm nghề là 13,3%. Giáo dục phổ thông đã tương đương với nhóm các nước phát triển
(OECD), trong tốp 40; giáo dục đại học nằm trong tốp 70, đào tạo nghề ở vị trí khoảng
907. Theo báo cáo đánh giá năm 2020 của Ngân hàng thế giới, chỉ số Vốn nhân lực của
Việt Nam đứng thứ 38 trên 174 nền kinh tế8. Đảng ta luôn hiểu rõ những vai trò của giáo
dục vậy luôn dành sự quan tâm và đầu tư đặc biệt cho giáo dục vì vậy giáo dục đã có
những bươc tiến nhất định so với quốc tế. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng có
nhiều tiến bộ tuổi thọ của người dân tăng từ 63 tuổi lên 71,3 tuổi giai đoạn năm 1990 tới
năm 2005. Cơ cấu xã hội phát triển theo hướng tích cực, tầng lớp trí thức được gia tăng
trong đó có 1,8 triệu người với trình độ cao đẳng, hơn 14000 người có học vị tiến sĩ, thạc sĩ, cao học,.......
6 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, trang 25 - 26
7 Bộ giáo dục và đào tạo (2021). https://moet.gov.vn/Pages/tim-kiem.aspx?ItemID=7170
8 Bộ giáo dục và đào tạo (2021). https://moet.gov.vn/tintuc/Pages/tin-tong-hop.aspx?ItemID=7170