-
Thông tin
-
Quiz
Nội dung bài tập lớn (không kèm bìa ) - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Nội dung bài tập lớn (không kèm bìa ) - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:













Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thế giới rộng lớn xung quanh chúng ta, có vô vàn sự vật, hiện tượng phong
phú và đa dạng. Tuy nhiên, dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai
lĩnh vực lớn nhất là : vật chất và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay
quanh vấn đế về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm
triết học Mác - Lênin là đúng và đầy đủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là
cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở
lại vật chất. Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền
kinh tế trì trệ, một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần không nhận
thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa vận chất và ý thức. Vấn đề này đã được
nhận thực đúng sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất nhiều thắng
lợi sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Không chỉ vậy, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được coi là : “ Vấn đề cơ bản
của mọi triết học hiện đại “ . Từ việc phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, từ đó rút ra ý nghĩa của phương pháp luận, tiến tới tìm lời giải cho các bài
toán vận dụng thực tiễn ( “Trồng hạt đậu” ) , chúng em có thể tự định hướng tiếp
nhận thông tin, biết cách chọn lọc và xử lý thông tin để có một cái nhìn đúng đắn
về những vấn đề đang xảy ra quanh chúng ta . Đó cũng chính là lý do mà em chọn
hoàn thành đề số 3 này.
Bài làm của em gồm hai phần chính, lý luận và vận dụng. Lần đầu tiên làm bài
tập lớn, em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những
lời góp ý cũng như những lời nhận xét từ cô.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày 01 tháng 01 năm 2021 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Hoàng Anh 1 PHẦN NỘI DUNG
I. Lí luận chung về mối quan hệ vật chất và ý thức.
Để hiểu rõ về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, trước tiên ta phải
tìm hiểu phạm trù vật chất và ý thức.
1. Phạm trù vật chất và ý thức.
1.1.Phạm trù vật chất:
a. Định nghĩa vật chất.
Các nhà duy vật trước Mác đã có nhứng quan điểm về vật chất nhưng còn hạn chế.
Họ đồng nhất vật chất với vật thể có khối lượng, có quảng tính. Thời cổ đại, thuyết
Ngũ Hành của triết học Trung Quốc quan niệm “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ “là những tố
chất vật chất xây dựng nên thế giới. Ở Hy Lạp, vật chất đầu tiên cuả thế giới theo
quan điểm của Talet là nước, theo Aniximen là không khí, Heraclit cho rằng đó là lửa,
còn Đêmocrit khẳng định đó là nguyên tử. Các nhà duy vật thế kỉ XVII cho rằng
nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất không thể chia nhỏ, là những viên gạch đầu tiên xây nên
vật chất. Đây là quan niệm siêu hình vì nếu như vậy thì thế giới không phải là vô cùng
mà có giới hạn, có khởi đầu từ những nguyên tử đồng nhất, bất biến.
Cuối thế kỉ XIX, khoa học kỹ thuật phát triển, các thành tựu khoa học ra đời đã
bác bỏ những quan điểm của các nhà duy vật trước Mac: Beccoren phát hiện ra tia
phóng xạ (năm 1896), Tômson phát hiện ra điện tử (1897), phát hiện ra hạt Quắc
(năm 1964)... Trên cơ sở ra đời của các phát minh khoa học đó, Lênin khẳng định: “
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác.” Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất của Lênin.
Theo định nghĩa trên, vật chất là phạm trù rộng lớn nhất mà nhận thức luận chưa vượt
qua được. Do vậy, chúng ta không thể đồng nhất vật chất với vật thể hay một thuộc 2
tính cụ thể, cũng không thể quy về phạm trù rộng lớn hơn. Vật chất không phải là một
lực lượng siêu nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó như Chủ nghĩa duy tâm khách quan đã
khái niệm. Mà vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan, là cái tồn tại khách quan bên
ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người nhận thức
được hay chưa nhận thức được. Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực
tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan con người, được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh.
b. Hình thức và phương thức tồn tại của vật chất:
Lênin từng viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật
chất đang vận động không ở đâu ngoài không gian và thời gian.”
Vận động là phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Khác với quan
điểm siêu hình cho rằng vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian,
thời gian, nguồn gốc của sự vận động là bên ngoài sự vật hiện tượng. Theo quan điểm
duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi chung. Vật chất tồn tại bằng vận
động, vật chất tồn tại thông qua vận động để biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động
của vật chất là sự tự thân vận động. Vận động của vật chất không bao giờ mất đi, chỉ
chuyển hóa từ hình thức vận động này sang hình thức vận động khác. Đứng im là một
trạng thái vận động, đó là sự vận động trong sự thăng bằng, trong sự ổn định tương
đối. Như vậy, đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Vật chất luôn vận động
và phát triển, sự vận động không đâu khác ngoài “không gian và thời gian”. Không
gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại, gắn liền với sự vận động của vật
chất. Không gian có tính vô tận và ba chiều, còn thời gian có tính vĩnh cửu và một
chiều. Hai thuộc tính này không thể tách rời nhau.
1.2.. Phạm trù ý thức:
a..Nguồn gốc ý thức: 3
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá
trình phát triển của cả tự nhiên và lịch sự xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên gồm: bộ óc con người và thế giới khách quan.
Bộ óc con người là cơ quan vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức của con
người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của bộ óc con người. Ý thức
không thể tách rời khỏi hoạt động của bộ óc.
Để bộ óc con người sinh ra được ý thức cần phải có sự tác động của thế giới
khách quan. Mọi vật chất có thuộc tính chung là phản ánh, ý thức là hình thức phản
ánh thế giới hiện thực cao nhất của bộ óc thông qua mối liên hệ giữa bộ óc với thế giới khách quan.
Điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc tự nhiên song vẫn chưa đủ
mà ngôn ngữ và lao động là hai nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình
thành và phát triển của ý thức
Lao động đã sáng tạo ra con người, làm cho con người khác với tất cả các
động vật khác. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình.
Thông qua lao đọng, thế giới khách quan tác động nên não người ngày càng phát
triển tư duy trừu tượng.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung của ý thức. Ngôn ngữ
còn là phương tiện giao tiếp trong xã hội, là phương tiện của tư duy. Nhờ có ngôn
ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
b..Bản chất của ý thức:
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức ra đời trong quá trình con người
lao động để cải tạo thế giới nên sự phản ánh của ý thức không phải thụ động như sao
chép, chụp ảnh mà có tính năng động, sáng tạo. Theo CácMac và Ăngghen, ý thức 4
“chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong óc con người và được cải
biến đi trong đó”
c..Tính sáng tạo của ý thức:
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Nếu xét theo bình diện cắt ngang,
ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ước muốn... Trong đó, tri thức là hạt nhân
của ý thức. Còn nếu xét theo chiều sâu của ý thức, ý thức bao gồm tiềm thức, vô thức và tự ý thức.
Ý thức không chỉ phản ánh bản chất của sự vật mà còn vạch ra quy luật vận
động phát triển của chúng, không chỉ phản ánh hiện thực mà còn sáng tạo hiện thực.
2.. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Theo chủ nghĩa duy tâm thì ý thức quyết định vật chất. Thuyết nhị tâm một mặt
thừa nhận vật chất là thực tại khách quan, mặt khác thừa nhận ý thức là một khởi
nguyên độc lập không phụ thuộc vào vật chất. Nhà duy tâm chủ quan Beccoli thì cho
rằng: “Tồn tại có nghĩa là bị tri giác”. Ông coi tồn tại không khách quan, bị tri giác,
do cảm giác sinh ra. Những cái vốn là thực tại khách quan nhưng không được tri giác
thì cũng không tồn tại. Khác với quan điểm trên, Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho
rằng vật chất là thực tại khách quan, đối lập với ý thức. Vật chất là tính thứ nhất, cảm
giác ý thức là tính thứ hai. Vật chất là cái được phản ánh còn ý thức là cái phản ánh.
Quan điểm này đã được đề cập tới ngay trong định nghĩa của Lênin về vật chất. Với
định nghĩa này, Lênin đã phân biệt Chủ nghĩa duy vật biện chứng với Chủ nghĩa duy
tâm đồng thời cũng nêu lên mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thể
hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự
tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
2.1. Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức: 5
Trước hết, vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung và sự biến đổi, phát triển của ý thức. • Về nguồn gốc:
Ý thức là sản phầm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Con
người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phầm của thế
giới vật chất. Như vậy xét đến cùng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc sinh ra ý thức. Theo Cacmac và Angghen, “ý thức cũng là tư duy của
chúng ta dù vẻ siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa cũng chỉ là sản vật của một
khí quan vật chất, nhục thể, tức là bộ óc”.
Bên cạnh bộ óc, thế giới tự nhiên cũng quyết định sự ra đời của ý thức. Nếu có bộ
óc phát triển mà không sống trong thế giới tự nhiên đa dạng phong phú tức là không
có sự tác động của thế giới tự nhiên vào bộ não thì ý thức của con người chẳng khác
nào loài vật, khó nhận thức đầy đủ được.
Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức. Chúng là những dạng tồn tại
của vật chất, cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành, tồn tại, phát triển của ý thức. • Về nội dung:
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tất cả những hiện tượng ý thức đều hình thành
trên những điều kiện sống và hoạt động thực tiễn của con người và xã hội loài người.
• Sự biến đổi, phát triển của ý thức:
Vật chất là tiền đề cho sự phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi thì ý thức
thay đổi theo. Ví dụ, những sinh hoạt vật chất thay đổi sẽ làm cho thói quen, tâm lí
con người thay đổi. Hay một người bình thường nếu vì lí do nào đó mà não bị tổn 6
thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn. Cơ sở vật chất của trường học được
nâng cấp cải tiến thì trình độ dạy vào học cũng được nâng cao.
Bên cạnh đó, vật chất là điều kiện khách quan để thực hóa ý thức tư tưởng.
Những chủ trương, kế hoạch của con người chỉ được thực hiện trên những cơ sở vật chất nhất định.
Vật chất quyết định tính năng động, sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn.
Do vậy, vật chất quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.
2.2 Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
Nói ý thức là tính thứ hai, Chủ nghĩa duy vật không hề hạ thấp mà hiểu đúng vai
trò thực sự của ý thức. Nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người
vì ý thức là của con người và bản thân ý thức không làm thay đổi gì hiện thực. Ý
thức có tính tương đối tác dụng trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Ý thúc trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan
trên cơ sở ấy con người đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương
pháp để thực hiện mục tiêu làm thay đổi hiện thực. Sự phản ánh của ý thức đối với
vật chất là sự phản ánh tinh thần, sang tạo và chủ động chứ không máy móc,
nguyên xi thế giới vật chất. Ý thức chỉ phát huy được vai trò của mình khi có sự
kết hợp chặt chẽ giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan. Nhiều công trình
nghiên cứu đã xác nhận trạng thái tâm lí (vui, buồn, phấn khởi, chán nản,…) ảnh
hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến trạng thái thể lực, tốc độ, năng suất lao động,..
Ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu:
Nếu ý thức phản ánh đúng điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc
đẩy, tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất. Trong trường hợp này, ý
thức có tác động trở lại tích cực đối với thực tiến, đặc biệt là sự tác động của khoa
học, lí luận. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và
biện pháp chính xác trong hành động và thực tiễn. 7
Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con
người không phù hợp với quy luật khách quan và kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Tức là ý thức đã có tác động tiêu cực đối với thực tiễn. Khi con người không nhận
thức đúng, không hiểu rõ sự việc hiện tượng thì họ sẽ hành động sai và thường chịu
những thất bại trong cược sống.
Ví dụ, thuyết nhật tâm phản ánh đúng thế giới sẽ giúp khoa học phát triển. Còn
thuyết địa tâm của Aristot coi Trái Đất là trung tâm của vũ trụ đã kìm hãm sự phát
triển của thế giới vật chất, làm cho “loài người ngủ trong giấc ngủ triền miên của
những đêm dài trung cổ”
Vì vậy, con người phải thừa nhận tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật
tự nhiên của xã hội để phát huy tính năng động của ý thức, nhận thức đúng sự vật hiện
tượng. Thế giới vật chất với những thuộc tính, quy luật của nó tồn tại khách quan
không phụ thuộc vào ý thức con người nên trong hoạt động thực tiến phải xuất phát từ
thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vừa có tình tuyết đối vừa có tính tương đối.
Vật chất quyết định ý thức là tuyệt đối. Nhưng trong một số trường hợp cụ thể hoặc
trong một giai đoạn ngắn, ý thức lại quyết định vật chất. Mác chỉ rõ lí luận sẽ trở
thành lực lượng vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất váy thức trong đời sống xã hội là
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ như chủ
thể và khách thể, lí luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
II. Ý nghĩa phương pháp luận: 8
Lênin đã chỉ ra rằng, sự đối lập giữa vật chất và ý thức có nghĩa tuyệt đối trong
phạm vi hết sức hạn chế. Trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức
luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có sau. Ngoài giới hạn đó thì không
còn nghi ngờ gì nữa sự đối lập đó chỉ là tương đối. Như vậy, để phân ranh giới chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để xác định bản tính và thống nhất của thế giới,
cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả lời câu hỏi cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Không như vậy sẽ lẫn lộn hai đường
lối cơ bản trong triết học, lẫn lộn vật chất với ý thức và cuối cùng sẽ xa dời quan điểm
duy vật. Song sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ là tương đối nếu như chúng ta xét
chung như là những nguyên tố, những mặt không thể thiếu được trong hoạt động của
con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Bởi vì, ý
thức tự nó không thể cải biến được sự vật, không có khả năng tự biến thành hiện thực.
Nhưng thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể cải biết được tự
nhiên, thâm nhập vào sự vật, hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động
của mình. Điều này bắt nguồn từ chính ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của
ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có con người có ý thức mới có khả năng cải
biến và thống trị tự nhiên, biến tự nhiên xa lạ, hoang dã, thanh tự nhiên trù phú, sinh
động, tự nhiên của con người. Như vậy, tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất
và ý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối, tính năng động của ý thức. Mặt khác, đời
sống con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú và đa dạng và những
nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của sự đối lập giữa
vật chất và ý thức không có ý nghĩa là khẳng định rằng cả hai nhân tố có vai trò như
nhau trong đời sống và hoạt động của con người. Trái lại, triết học Mac-Lênin khẳng
định rằng, trong hoạt động của con người, những nhân tố vật chất và ý thức có tác
động qua lại, song sự tác động đó diễn ra trên cơ sở tính thứ nhất của nhân tố vật chất
so với tính thứ hai của nhân tố ý thức. 9
Trong hoạt động của con người, những nhu cầu vật chất xét đến cùng bao giờ cũng
giữ vai trò quyết định, chi phối và qui định hoạt động của con người vì nhân tố vật
chất qui định khả năng các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt động của con
người, tạo điều kiện cho nhân tố tinh thần hoặc nhân tố tinh thần khác biến thành hiện
thực và qua đó qui định mục đích chủ trương biện pháp mà con người đề ra cho hoạt
động của mình bằng cách chọn lọc, sửa chữa bổ sung, cụ thể hoá mục đích, chủ
trương, biện pháp đó. Hoạt động nhận thức của con người bao giờ cũng hướng đến
mục tiêu để biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống, hơn nữa, cuộc sống tinh
thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu
vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có. Khẳng định vai trò cơ sở, quyết định
trực tiếp của nhân tố vật chất, triết học Mác- Lênin đồng thời cũng không coi nhẹ vai
trò của nhân tố tinh thần, của tính năng động chủ quan. Nhân tố ý thức có tác dụng trở
lại quan trọng đối với nhân tố vật chất. Hơn nữa, trong hoạt động của mình con người
không thể để cho thế giới khách quan, quy luật khách quan chi phối mà chủ động
hướng nó đi theo con đường có lợi của mình. Ý thức con người không thể tạo ra các
đối tượng vật chất, cũng không thể thay đổi qui luật vận động của nó. Do đó, trong
quá trình hoạt động của mình, con người phải tuân theo quy luật khách quan và chỉ có
thể đề ra những mục đích, chủ trương trong phạm vi hoàn cảnh vật chất cho phép.
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng
khách quan, nhận thức và hoạt động theo đúng quy luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan, đặc
biệt phát huy vai trò của tri thức, khoa học, chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho
con người. Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng
vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất nhưng lí luận
một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”.
Chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của ý thức mà hạ thấp, đánh giá
không đúng vai trò của các điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy ý chí áp đặt thực
tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về 10
trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dungjlis luận vào thực
tiễn nói riêng. Đó là “sự mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ
nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò
của vật chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại “chủ nghĩa
khách quan” thái độ thụ động trông chờ ỷ lại vào điều kiện vật chất.
Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt
động của con người cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình nhận thức.
III.. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào xử lí,
giải quyết sáng tạo một số tình huống thực tế :
Để giải quyết sáng tạo những tình huống trong thực tế chúng ta cần phải làm như
thế nào ? Đó là cần phải biết kết hợp giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ
quan trên cơ sở khách quan; phát huy sáng tạo chủ quan trên cơ sở điều kiện khách
quan. Sau đây là một số tình huống thực tế giúp chúng ta có thể tập vận dụng những
nguyên lí nói trên vào thực tiễn cuộc sống.
Tình huống trồng đậu (Mô hình sáng tạo trong xử lí tình huống thiếu
điều kiện khách quan )
Bài toán: Cho 10 hạt đậu, yêu cầu trồng 4 luống song song với nhau sao cho khi
nghiệm thu đảm bảo mỗi luống đủ 4 hạt.
Quy trình giải bài toán gồm các bước:
Bước 1: Đọc kỹ đề để biết đề cho điều kiện gì và yêu cầu gì ? (Kết hợp điều kiện khách
quan và chủ quan). Có thể thấy điều kiện khách quan bao gồm: 10 hạt đậu và không
bị giới hạn thời gian; điều kiện chủ quan: không bị giới hạn những kiến thức mà
chúng ta có thể dùng khi xử lí tình huống trên.
Từ đây chúng ta sẽ vận dụng những điều kiện trên để đáp ứng yêu cầu đề bài là 4
luống mỗi luống có 4 hạt . Việc lên ý tưởng và lập phương án rất quan trọng. Chúng
ta sẽ lựa chọn phương án tốt nhất trong tất cả các phương án đề ra cho bài toán. 11
Bước 2: Chứng minh tính khả thi của việc giải quyết tình huống: ➢
Khả năng 1:Yếu tố khách quan, chủ quan đầy đủ để giải bài toán hay không ?
Lập luận: Theo yêu cầu bài toán:
Sản phẩm sau khi nghiệm thu phải là phương án trồng 4 luống song song, mỗi luống 3 hàng,...
Vậy số hạt cần có để đáp ứng nhu cầu trên là: 4 * 4= 16 (hạt)
Điều kiện khách quan chỉ có 10 hạt, vậy số nguồn lực còn thiếu là:16-10= 6
(hạt) . Nếu không có thêm 6 hạt thì bài toán không có tính khả thi và không thể giải được. ➢
Khả năng 2: Tiến hành vận dụng phương pháp luận triết học để xây dựng các
phương án, biến bài toán chưa có tính khả thi thành có tính khả thi.
Bằng cách: Xuất phát từ yếu tố chủ quan, phát huy yếu tố ấy trong điều kiện khách
quan đã có để tạo ra đủ điều kiện khách quan. ( Hạn chế rủi ro)
Theo em, có thể làm theo cách sau: Do thời gian hoàn thành bài toán là không giới
hạn, hơn nữa đề bài cũng không đề cập đến các yếu tố khách quan như môi trường,
thời tiết, chất lượng hạt, loại đất trồng , cơ sở vật chất ; vậy nên trong 10 hạt đậu đã
cho em đã vận dụng kiến thức về cây trồng để nhân số lượng hạt lên bằng phương
pháp gieo trồng: lấy ra 5-6 hạt để trồng thành cây sau đó sẽ lấy những hạt giống mới
nảy mầm. Sở dĩ chọn 5-6 hạt để vừa đảm bảo nguồn lực khách quan là thêm 2 hạt và
hạn chế rủi ro nhất có thể nếu không may có hạt sẽ không nảy mầm.
Bước 3: Tiến hành gieo trồng 7-8 hạt và thu hoạch tối thiểu thêm 2 hạt đậu mới.
Trồng 4 luống song song, mỗi luống hàng như yêu cầu bài toán. PHẦN KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là
cái có trước ý thức, nhưng ý thức lại tác động trở lại vật chất. Mối quan hệ tác động 12
qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta
nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực nhận thức
các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của con người.
Trong quá trình làm bài, em còn gặp phải nhiều sai sót, mong nhận được sự bổ
khuyết từ phía cô để em có điều kiện hoàn thiện hiểu biết về cả lí luận và thực tiễn,
rút kinh nghiệm cho những bài làm tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn ạ ! TƯ LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trang 17, 18 - Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin
(Nhà xuất bản chính trị quốc gia)
[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.21. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 528.
[3]. https://sachgiai.com/uploads/ne
ws/2013_10/phan-tich-moi-quan-he-bien-chung-
giua-vat-chat-va-y-thuc-y-nghia-phuong-phap-luan-va-su-van-dung-cua-dang-ta-
trong-qua-trinh-doi-moi-dat-nuoc.pdf
[4]. https://giangvien.net/shops/T
ai-lieu-Mon-Ly-luan-chinh-tri/Phan-tich-moi-quan-
he-giua-vat-chat-va-y-thuc-van-dung-vao-viec-xay-dung-xa-hoi-chu-nghia-o-nuoc-ta- 281.html
[5]. Công cụ tìm kiếm : https://www.google.com, Cốc Cốc,.. 13