lOMoARcPSD| 61464806
HỌC PHẦN: CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM
NỘI DUNG ÔN TẬP
6. Vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - hội. Vai trò của văn hoá trong phát
triển ở Việt Nam hiện nay. Cho ví dụ minh hoạ.
9. Nguồn gốc và ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam.
11. Những yếu tố cấu thành chủ nghĩa yêu nước ca người Việt.
CÂU 1: Định nghĩa/ Khái niệm về văn hoá. Phân biệt văn hoá với văn minh,
văn hiến, văn vật.
Phân tích định nghĩa văn hóa :
Trong ngôn ngữ của nhân loại, khái niệm văn hóa rất nhiều cách định nghĩa
quan niệm, hiện từ vài trăm đến vài ngàn định nghĩa về văn hóa trên thế giới. Mỗi
định nghĩa đều những cách nhìn văn hóa từ nhiều phương diện thành tố khác
nhau.Với ánh sáng văn hóa của chủ nghĩa Mác-Lênin skết tinh tinh hoa văn hóa
ngàn năm của nhân dân Việt Nam, sự chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với
những hoạt động thực tiễn phong phú, Ch tịch HCM đã sớm đưa ra một định nghĩa
văn hóa tiêu biểu trong mục Đọc sách cuối tập “Nhật trong tù” (1942-1943): “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chviết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hang ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn.” (HCM toàn tập, NXB CTQG, H.2000, T3, tr431).
Định nghĩa văn a của HCM vừa mang tính khoa học vừa mang tính sáng tạo bởi
định nghĩa của Người dựa trên các quan điểm:
- Quan điểm hệ thống: Văn hóa là một hệ thống những phát minh do con người
sáng tạo ra trong quá trình lao động. Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh
tế, xã hi, tạo thành 4 nhân tố chủ yếu của đời sống xã hội. Thậm chí văn hóa tác
động chi phối đến các mặt của xã hội. Nếu nền văn hóa của một quốc gia, một dân
tộc có sự biến đổi thì các mặt kinh tế, chính trị, và đặc biệt là xã hội cũng sẽ bị ảnh
hưởng không nhỏ.
- Nó mang tính khoa học vì nội hàm văn hóa mà Người đưa ra không quá hẹp,
không quá rộng, nó phù hợp với mọi điều kiện đời sống xã hội trong quá trình phát
triển của con người. Bản chất văn hóa trong quanniệm của HCM hướng đến chủ
nghĩa nhân văn cao cả. Văn hóa được hiểu đồng nghĩa với những giá trị Chân Thiện
Mỹ. Đây cũng chính những nét tương đồng UNESCO mãi đến 1982 mới
thống nhất được. Đó chính là con người, vì sự phát triển toàn diện của con người.
lOMoARcPSD| 61464806
- Quan điểm phát triển: văn hóa là tổng hòa các phương thức sinh hoạt vật chất
tinh thần của con người, cùng với quá trình xây dựng phát triển văn hóa, con
người ngày càng hoàn thiện hơn. Văn hóa theo HCM nét riêng biệt chỉ loài
người, được hình thành từ “lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”. Trong
quá trình lao động sản xuất vật chất tinh thần, văn hóa thể hiện trình độ Người
trong mỗi một con người. Do đó, phát triển văn hóa cũng chính phát triển con
người.
- Quan điểm toàn diện: theo HCM, văn hóa một kiến trúc thượng tầng
trong đó bao gồm cả ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo…(văn hóa phi
vật thể) và các công trình kiến trúc được tạo ra do hoạt động thực tiễn của con người
(văn hóa vật thể). Điểm đặc biệt trong định nghĩa văn hóa của HCM đó chính là đã
đưa tôn giáo trở thành một thành tố cấu thành nên văn hóa. Đây một điểm sáng
tạo của người so với các định nghĩa trước đó về văn hóa, kể cả với quan điểm của
CN M-L. CN Mác cho rằng: “Tôn giáo thuốc phiện của nhân dân, ru ngủ nhân
dân”. Bác thì khẳng định: “Tôn giáo ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của
nhân dân, đoàn kết tôn giáo cũng chính là đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn
phục vụ cho cách mạng. Bản thân Người cũng chính là sự hòa hợp của nhiều giá trị
tôn giáo, của tinh thần khoan dung tôn giáo. Tự do tín ngưỡng tôn giáo cũng là một
trong những quyền cơ bản của con người mà UNESCO đã nói đến trong thập kỉ 80.
Trong định nghĩa văn hóa của HCM, con người trung tâm, văn hoá gắn chặt với
con người, thể hiện qua khía cạnh: Văn hóa do con người sáng tạo ra, con người
chủ nhân trung tâm ca những giá trị do chính h phát hiện, sáng tạo, chiếm hữu…;
văn hóa phục vụ cho mục đích sống của con người, cho ssinh tồn của con người;
văn hóa nâng cao giá trị của con người.
Tóm lại, theo ĐN trên, văn hóa vừa là nền tảng vật chất, tinh thần, vừa động lực
phát triển của hội. ĐN văn hóa của HCM đã khắc phục những hạn chế, khuyết
điểm của các định nghĩa và quan niệm trước đó, xứng đáng là một trong những định
nghĩa tiêu biểu bậc nhất về văn hóa.
Phân biệt văn hóa với văn minh
Từ văn hóa văn minh hay bị dùng nhầm lẫn với nhau, thật ra, văn hóa một hệ
thống hữu các giátrị vật chất tinh thần do con người sáng tạo tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong stương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên hội. Còn văn minh trình độ phát triển nhất định của văn hóa vphương
diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại.
Như vậy, văn minh khác với văn hóa ở 4 điểm cơ bản:
- T1, trong khi văn a bề dày của quá khứ tvăn minh chỉ một lát cắt
đồng đại
- T2, trong khi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần thì văn minh
chỉ thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật.
lOMoARcPSD| 61464806
- T3, trong khi văn hóa mang tính dân tộc rõ rệt tvăn minh thường mang tính
siêu dân tộc – quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rng lớn hoặc cả nhân loại, bởi
lẽ cái vật chất thì dễ phổ biến và lây lan.
- T4, về nguồn gốc. Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp,
còn văn minh gắn nhiều hơn với phương Tây đô thị. Trong quá trình phát triển
của lịch sử nhân loại, tại cựu LĐ Âu-Á (Eurasia) đã hình thành 2 vùng văn hóa lớn
“p.Đ” và “p.T”: p. T là khu vực tây-bắc gồm toàn b châu Âu ến dãy Uran), p
là khu vực đông-nam gồm châu Á và châu Phi. Các nền văn hóa cổ đại lớn mà nhân
loại biết đến đều xuất phát từ phương Đông: Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập.
Nền văn hóa phương Tây sớm nhất là Hy-La (Hi Lạp và La Mã) cũng có nguồn gốc
từ phương Đông, được hình thành trên sở tiếp thu những thành tựu của các
nền văn hóa Ai Cập và Lưỡng Hà. Các nền văn hóa phương Đông đều hình thành ở
lưu vực các con sông lớn những nơi địa hình và khí hậu rất thuận tiện cho
SXNN. các ngôn ngữ p.T, từ “vh” bắt nguồn từ cultus tiếng Latinh nghĩa
“trồng trọt”, còn từ “vm” thì bắt nguồn từchữ civitas có nghĩa là “thành phố”.
Tuy nhiên, vh và vm đều chỉ những thành tựu hoạt động sáng tạo của con người,
nên vẫn xu hướnglẫn lộn hai khái niệm đó với nhau. Hơn nữa, tuy khác nhau
nhưng văn hóa và vm lại có mqh với nhau, vì:
- Sự tiến bộ kĩ thuật nói riêng, sự chuyển đổi từ nền vm này sang nền vm khác
một nhân tố quan trọng hàng đầu làm biến đổi nền văn hóa của cộng đồng. - Sự
biến đổi văn hóa ấy có thể diễn ra theo 2 hướng: hoặc tạo nên những giá trị văn hóa
mới trên sphát huy những giá trị của truyền thống văn hóa , hoặc phá hủy
những giá trị truyền thống văn hóa cũ, gây nên sự mất ổn định trong đời sống văn
hóa-XH của cộng đồng, thậm chí có thể gây nên những nguy cơ diệt vong của cộng
đồng.
- Do đó, văn hóa (các giá trị văn hóa) vai trò quan trọng trong sự tiến bộ
không thể đảo ngược của vm; văn hóa không chỉ vai tquy định cách thức và
mục đích sử dụng những tiến bộ thuật, còn vai trò quy định cả phương
hướng của sự tiến bộ kĩ thuật (cách ứng xử với TN, MT).
Ví dụ :
- Văn hóa: văn hóa Bắc Sơn, Hòa Bình, Đại Việt…
- Văn minh: văn minh VL-AL, văn minh trống đồng Đông Sơn…
C ÂU 4. Các đặc trưng cơ bản của văn hóa. Ly ví dụ minh hoạ.
Tính nhân sinh
+ đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa.Nói đến văn hóa nói đến con
người.Văn hóa sẳn phẩm của trình độ phát triển bản chất người,là nơi hình
thành,nuôi dưỡng nhân cách con người.Con người vừa chủ thể,vừa sản phẩm
và còn là đại biểu mang các giá trị văn hóa.
lOMoARcPSD| 61464806
+ Văn hóa được tạo thành bởi các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra.Thuộc tính này cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng hội với những sản
vật tự nhiên chưa qua bàn tay sáng tạo của con người.Theo đó,1 đất nước có thể giàu
khoáng sản,dầu mỏ,các nguồn lợi thiên nhiên nhưng chưa hẳn già về văn hóa.Văn
hóa là thành quả lao động sáng tạo lao động của nhân loại.Những thành quả ấy phải
phục vụ sự phát triển toàn diện của con người.Phục vụ cuộc sống hạnh phúc trong
an toàn của toàn thể xã hội.
Tính nhân sinh cơ sở làm nên giá trị nhân văn của văn hóa.Giá trị nhân văn thực
chất của văn hóa, là cái tạo nên nội dung,bản chất ca 1 nền văn hóa. Tính hệ thống
+ Là 1 tổ hợp hữu cơ,bao gồm nhiều thành tố có quan hệ khăng khít với nhau, tương
tác,tương thành,chi phối chế ước lẫn nhau.Văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực hoạt
động của con người và xã hội,là sở tồn tại phát triển của hội..Văn hóa sản
phẩm mang tính xã hội cao do mọi người cùng chung sức tạo ra.
Tính lịch sử
+ Đây thuộc tính được xác định bởi bề dày và chiều sâu của văn hóa.Một nề văn
hóa bao giờ cũng cũng được hình thành qua nhiều thế hệ trên chiều dài lịch sử.Văn
hóa là 1 quá trình vận động liên tục,không giá đoạn.Là sản phẩm của 1 xã hội,1 thời
đại nhất định,là di sản của xã hội,văn hóa đồng thời là 1 quá trình không ngừng tích
lũy,đổi mới.Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa.Đặc
trưng của truyền thống lại biểu hiện ở tính di tồn và tính cộng đồng. Tính giá trị
+ đặc trưng quan trọng của văn hóa.Giá trị là những chuẩn mực được cộng đồng
chấp nhận theo đuổi.Giá trị văn hóa là “thành quả mà dân tộc hay 1 con người đạt
được trong quan hvới thiên nhiên,với hội trong sự phát triển của bản than
mình.Nói tới giá trị vh nói tới thái độ,trách nhiệm những quy tắc ứng xử của
mọi người trong những quan hệ giữa bản thân mình với gia đình,xã hội thiên
nhiên.Văn hóa chỉ bao gồm các giá trị,các vẻ đẹp.
Tính dân tộc của văn hóa
+ Là đặc trưng cho ta thấy cách thức tồn tại và biểu hiện của mọi cộng đng,mọi nền
văn hóa.Một nền văn hóa cụ thể luôn chịu sự chi phối,chế ước của hoàn cảnh tự nhiên
và rất nhiều điều kiện sinh hoạt vật chất của con người.
như:Có cây chè thì mớivăn hóa uống trà,có văn phòng tiếp khách và thời gian
nhàn rỗi mới có cái gọi là”văn hóa salong” của giới quý tộc châu Âu.
▪ Mỗi dân tộc sẽ có 1 ngôn ngữ chung,tuân thủ phong tục tập quán chung, cùng chia
sẻ những điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần,nuôi dưỡng thành tố chất tâm lí
tính cách chung.Đó là biểu hiện tính dân tộc của văn hóa.
▪ Đặc trưng cơ bản của văn hóa có thể giúp chúng ta nhận thuwsc1 cách đầy đủ,toàn
diện hơn về bản chất của văn hóa.
CÂU 5. Các chức năng cơ bản của văn hoá. Lấy ví dụ minh hoạ.
lOMoARcPSD| 61464806
* chức năng t chức xã hội
▪ Tính hệ thống thuộc tính hàng đầu của văn hóa. Khi nói đến đặc trung của văn
hóa ta đã nêu lên tính chất này để lưu ý rằng đây là một thuộc tính bản chất, thể hiện
mối liên hệ khăng khít hữu cơ, sự xâm nhập, tương tác, chi phooisvaf chế ước lẫn
nhau giữa các thành tố văn hóa cùng tạo nên diện mạo, sức sống và bản chất sâu xa
của 1 nền văn hóa. Văn hóa với tư cách là 1 hiện tượng xã hội, thẩm thấu, hiện diện
và bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhờ tính hệ thng mà thực hiện được
chức năng tổ chức hội. Đây một chức năng quan trọng, duy trì kết cấu
hội, thực hiện sự liên kết tổ chức đời sống cộng đồng thông qua các thiết chế
hội-văn hóa.Thiết chế xã hội là 1 chức năng hoạt động xã hội được đặt ra để duy trì
phát triển các chức năng của hội, còn được xem như đại diện của hệ thống
chuẩn mực hội, vận hành trong mọi sinh hoạt kinh tế,chính trị , pháp luật,tôn
giáo,văn hóa-xã hội…
* Chức năng điều tiết xã hội
▪ Đặc trưng quan trọng thứ 2 của văn hóa là tính giá trị. Hiểu một cách ngắn gọn thì
giá trị những chuẩn mực được cộng đồng thừa nhận theo đuổi.Giá trị nhân
tố quan trọng của hành vi cá nhân.Nó điều chỉnh các nguyện vọng và hành động của
1 con người, cơ sđể đánh ghành vi và định đoạt lợi ích hội của các thành
viên trong cộng đồng.Do đó giá trị xác định các tiêu chuẩn của thang bậc xã hội, làm
nền tảng cho cuộc sống chung.
▪ Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có nhiều nhu cầu và họ
phải thường xuyên lựa chọn các phương thức ứng xử thích hợp nhằm thỏa mãn các
nhu cầu của mình.Sự lự chn đó giống như 1 hành động giá trị có liên quan mật thiết
với tiêu chuẩn của khung giá trị chung của cộng đồng.Với mức ổn định lớn, khung
giá trị này là cơ sở để các thành viên trong cộng đồng lựa chọn các phương thức hoạt
động, điều chỉnh hành vi của mình cho phợp với yêu cầu chuẩn mực của
hội.Nền văn nào cũng 1 bảng giá trị được coi như bộ chỉnh của hội.Bảng
giá trị xã hội làm nhiệm vụ định hướng cho mục tiêu phấn đấu của mỗi các nhân và
cộng đồng…Căn cứ vào đó mà xã hội thường xuyên chấp nhận, sàng lọc điều chỉnh
để duy trì sự ổn định không ngừng tự hoàn thiện, văn hóa thực hiện được chức
năng quan trọng thứ 2 là điều tiết xã hi. * Chức năng giáo dục
Đặc trưng quan trọng thứ 3 của văn hóa đó chính tính lịch sử.Văn hóa sản
phẩm của hoạt động con người, chứa đựng vốn kinh nghiệm xã hội.Tính lịch sử của
văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong 1 quá trình được tích lũy
qua nhiều thế hệ.Tính lịch stạo cho văn hóa một bề daỳ,1 chiều sâu.Nó tạo nên các
trầm tích truyền thng văn hóa.Nhờ đó, văn hóa thực hiện được chức năng giáo
dục.Nhân cách con người được tạo dựng hun đúc, trước hết bởi các gtrị văn hóa
truyền thống của cộng đồng.Một đứa trẻ mới sinh chưa thực sự là con người bởi nó
chưa tiếp nhận được 1 phẩm chất xã hội nào của loài người truyền cho cả.Đúng như
lOMoARcPSD| 61464806
nhà hội học người R.E Pacco đã nói :” Người k đẻ ra người. đưa trẻ chỉ trở
nên người trong quá trình giáo dục.Truyền thống văn hó luôn thực hiện chức năng
giáo dục của mình đối với con người.Bằng con đường giáo dục hữu thức và vô thức
từ khi chào đời cho đến khi trưởng thành, con người nhận được sự dạy bảo của truyền
thống văn hóa.
Trong các chức năng của văn hóa thì chức năng giáo dục là chức năng bao trùm
nhất.Nó đóng vai trò định hướng giá trị, chuẩn mực hội cho con người, quyết định
việc hình thành phát triển nhân cách con người.Tchức năng này văn hóa
phát sinh thêm chức năng đảm bảo tính kế tục lịch sử.Các chức năng khác như
nhận thức, thẩm mĩ, dbáo, giải trí thcoi nnhững tiểu chức năng htrợ
cho việc thực hiện chức năng giáo dục của văn hóa.
*Chức năng giao tiếp
Đặc trưng thứ 3 của văn hóa nh nhân bản(nhân sinh).Đây là thuộc tính cốt lõi
của văn hóa.Nó cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng hội với các giá trị
tự nhiên.văn hóa cái tự nhiên được biến đổi bởi con người.Sự tác động của con
người vào tự nhiên thể mang tính chất như khai khoáng, đẽo gỗ hoặc tinh thần
như đặt tên, tạo truyền thống cho các cảnh quan thiên nhiên.
Do gắn liền với con người hoạt động của con người trong hội,, văn hóa trở
thành 1 công cụ giao tiếp quan trọng.Thông qua ngôn ngữ, chữ viết, con người tiếp
xúc với nhau, trao đổi với vói nhau, thông báo cho nhau, yêu cầu hoặc tiếp nhận
nhau các thông tin cần thiết về hoạt động của cộng đồng..Cùng với ngôn ngữ vượt
lên trên tính trực tiếp của ngôn ngữ,văn hóa bằng hệ thống các gtrị chi phối cách
ứng xử giáo tiếp của nhân với bản thân, gia đình cộng đồng. Mọi nền văn
hóa đều hướng đến con người,vì cuộc sống của con người cộng đồng.Nhđặc
điểm chung này, văn hóa còn đóng vai trò chiếc cầu nối giữa các thế hệ, các dân
tộc, quốc gia, tạo nên sự tiếp xúc, giao lưu giữa các nền văn hóa.Bằng tính vị nhân
sinh, văn a thwucj hiện được chức năng thứ 4 của mình đó chức năng giao
tiếp.Nếu ngôn ngữ hình thức của giao tiếp thì văn hóa nội dung của nó. Văn a
được coi là sợi dây nối liền nhân dân các nước các dân tộc…Sự hiểu biết lẫn nhau,
sự học tập và tôn trọng lẫn nhau xưa nay đều thể hiện sâu sắc qua văn
lOMoARcPSD| 61464806
hóa,nơi tập trung những biểu hiện rực rỡ nhất của tâm huyết và sức sáng tạo ca con
người.
Lĩnh vực
Thành tựu
Kinh tế
- Nông nghiệp ngành kinh tế chủ đạo được các triều
đại quan tâm.
- Thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển.
Chính trị
- Nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền được xây
dựng và phát triển đến đnh cao dưới thời Lê Thánh Tông.
Tư tưởng, tôn giáo
- Tư tưởng: dân tộc và thân dân.
- Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương tổ tiên: tín ngưỡng
này tạo nên tinh thần cởi mở, hòa đông tôn giáo ca người Việt.
- Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo điều kiện phát
triển ở Việt Nam ở từng thời kì
Giáo dục văn hc
- Chữ Nôm đánh dấu bước phát triển của nền văn hóa dân
tộc, ý thức tự cường và khẳng định vai trò, địa vị của tiếng Việt.
- Văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm và văn học dân gian
tiếp tục phát triển.
Khoa học
- Sử học: đã hình thành nên các quan chép sử của nhà
nước được gọi là Quốc sử, nhiều bộ sử được biên soạn.
- Địa học: công trình như địa chí, Hồng Đức bản đồ
sách, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí,…
- Toán học: tác phẩm như Lập thành toán pháp, Toán pháp
đại thành, Khải minh toán học,…
- Khoa học quân sự: sự phát triển mạnh mẽ với nhiều phát
minh như súng đại bác, thuyền chiến có pháo. Tư tưởng quân sự
cũng được xây dựng và hoàn thiện.
-Y học: bộ sách Nam dược thần hiệu, Hồng nghĩa giác tư y thư,
Hải Thương y ng tâm lĩnh,…Có nhiều danh y như Nguyễn
Tĩnh, Lê Hữu Trác,…
lOMoARcPSD| 61464806
CÂU 7: Những thành tựu và đc điểm nổi bật của nền văn minh Đại Việt.
Nghệ thuật
- Âm nhạc:
lOMoARcPSD| 61464806
+ Phát triển với nhiều thể loại: múa rối nước, ca đối đáp, hát
giặm,…
+ Từ thời Lê, âm nhạc cung đình có vai tquan trọng, gắn liền
với quốc thể.
+ Nhiều lễ hội được t chức hằng năm đã trở thành truyền thống
chung của các cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Nghệ thuật:
+ Kiến trúc phát triển mạnh dưới thời Lý – Trần.
+ Điêu khắc trên đá, trên gốm rất độc đáo, mang đậm đà bản sắc
dân tộc sự tiếp thu nghệ thuật điêu khắc của Trung Quốc
và Chăm-pa.
Thành tựu mà em ấn tượng nhất đó chính là sự ra đời của chữ Nôm, vì:
- Chữ Nôm đánh dấu bước phát triển của nền văn hóa dân tộc, ý thức tự cường
và khẳng định vai trò, địa vị của tiếng Việt.
- Chữ Nôm ra đời đã đáp ứng được phần nào nhu cầu phát triển của nền văn hóa
dân tộc, giai đoạn nước Đại Việt vững bước trong kỷ nguyên độc lập, tchủ thống
nhất.
- Xuất hiện những thloại văn học mới, như: ca trù, diễn ca, truyện thơ lục bát,
song thất lục bát và truyện thơ luật Đường, đây là những thể loại sử dụng ngôn ngữ
thi ca dân tộc.
CÂU 8. Chức năng của phong tục tập quán trong văn hóa Việt Nam.
3.1.1. Trong văn hóa Việt Nam:
Phong tục, tập quán một lĩnh vực của văn hóa, những di sản văn hóa vô giá, làm
nên sự khác biệt của văn hóa dân tộc, như đã nói, lĩnh vực rộng lớn nhất của
văn hóa. Nói tới phong tục, tập quán là nói tới diện văn hóa, để phân biệt với lễ hội
điểm văn hóa. Cũng giống như các lĩnh vực văn hóa khác, phong tục, tập quán
mang đặc điểm dân tộc, lịch sử, giai cấp nét. Mỗi dân tộc, sắc tộc lại phong tục,
tập quán của riêng mình.
Phong tục, tập quán góp phần làm nên bộ mặt của văn hóa từng thời đại, bởi tính
lịch sử của nó. Phong tục, tập quán cũng mang tính giai cấp, tính chính trị hay
lOMoARcPSD| 61464806
tưởng nhất định, nhất là những tư tưởng của giai cấp thống trị. Những “thói quen”
của các đấng bề trên, cả những thói quen tốt lẫn những thói quen xấu đều dễ dàng
được các tầng lớp xã hội bên dưới tập nhiễm, học theo. Không ít những phong tục,
tập quán quá khứ trở thành những nét đẹp văn hóa muôn đời, những mĩ tục, được
nâng niu, gìn giữ qua các thế hệ người Việt.
Nhưng cũng coi không ít những phong tục, tập quán qkhứ những cái lạc hậu,
tiêu cực, những thủ tục cản trở con người trong cuộc sống, nhất là những thủ tục về
hôn nhân, ma chay, cưới xiu, những thủ tục tín dị đoan hay những th tục trói
buộc tự do và quyền bình đẳng của con người… Ngay trong thời hiện đại, nhiều thói
quen văn hóa tốt đẹp đã hình thành, trở thành những phong tc, tập quán tốt đẹp của
xã hội văn minh. Nhưng cũng xuất hiện những thói quen văn hóa, những phong tục
tập quán làm tổn hại đến đạo đức, nhân phẩm, tính trung thực, trọng hiền tài, tính
công minh chính đại của việc hành pháp.
Phong tục, tập quán mang nhũng giá trị văn hóa phố quát của cả cộng đồng. Đó là
những nguyên tắc, quy định, quy phạm văn hóa của cộng đồng, được mọi người
công nhận và thuân thủ theo. Phong tục, tập quán vừa là kết quả do con người tạo
ra, vừa là mt yếu tố khách thế chi phối đời sống con người, như những luật lvăn
hóa bất thành văn…
Vai trò của phong tục, tập quán trong nền văn hóa còn thấy chỗ phản ánh,
hay là kết quả, của những điều kiện tự nhiên, điều kiện hội, hoàn cảnh lịch sử,
điều kiện sống cụ thể của từng dân tộc, từng vùng miền. Nó cũng phản ánh đời sống
tinh thần, tâm hồn con người qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Phong tục, tập quán
thể hiện thói quen, nếp sống, điều kiện sống dân tộc, thể hiện đời sống tâm linh, tôn
giáo của các dân tộc khác nhau; cũng thể hiện nhu cầu, khát vọng sống của con
người, tác dụng kích thích sản xuất, tiêu dùng, điều tiết sinh hoạt hội, hay củng
cố cấu trúc gia đình, làng xã, cộng đồng, chính quyền truyền thông
CÂU 10. Vai trò của Phật giáo và Nho giáo trong đời sống văn hoá người Việt.
PHẬT GIÁO một tôn giáo lớn được truyền vào VN ngay từ đầu Công nguyên
bằng cả 2 con đường: đường thủy thông qua con đường buôn bán với thương gia Ấn
Độ, đường bộ thông qua giao lưu vh với TQ. Phật giáo VN mang cả 2 sắc thái: đại
thừa và tiểu thừa của TQ và Ấn Độ. Phật giáo sớm hòa nhập vào vh bản địa VN, góp
phần KĐ sự gắn bó của vh VN với cơ tầng vh Đông Nam Á tiền sử. Phật giáo vai
trò rất lớn trong đs vh VN.
- Đối với dân tộc, Phật giáo đã từng là cơ sở của khối đại đoàn kết DT, luôn gắn
bó với qtr đtr dựng và giữ nước của DTVN.
+ Trong bc gần ngàn năm Bắc thuộc, Phật giáo VN đã hòa mình, gắn với DT
thông qua việc vận động tín đồ, Phật tử và nhân dân đoàn kết để phò vua, cứu nước,
đánh đuổi ngoại xâm, giành lại đl DT.
lOMoARcPSD| 61464806
LSDT CMR Phật giáo đã có nhiều đóng góp vào sn dựng và giữ nước. Tín đồ Phật
giáo cũng hiểu rằng ĐN có đl thì Phật giáo mới ổn định, phát triển và hưng thịnh. +
Phật giáo được xem là quốc giáo vào hai thời Lý (1010-1225) và Trần (12251400).
Các vị vua thời này đã tạo nên một triều đại lấy đức từ bi làm căn bản cho chính trị
luôn sống dân nên đã cố kết lòng dân để vua tôi, dân chúng đoàn kết chung
lòng chống ngoại xâm, XD ĐN.
- Phật giáo còn thể hiện rõ tinh thần nhập thế, góp phần vào nhiệm vụ phát triển
chung của ĐN trong nhiều thế kỉ.
+ Phật giáo VN kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời. Vốn là một tôn giáo xuất thế,
nhưng nào VN, Phật giáo trở nên rất nhập thế.
+ Các cao tăng được nhà nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ
trọng. 971, vua Đinh Tiên Hoàng phong cho đại sư Khuông Việt làm tăng thống; ông
cùng pháp sư Đỗ Thuận từng được giao tiếp sứ thần nhà Tống. Trước khi xuất quân
đánh Tống, vua Đại Hành đã hỏi ý kiến Vạn Hạnh. Thời Lí, thiền Vạn Hạnh
trở thành cố vấn về mọi mặt cho vua Thái Tổ. Thời Trần, các sử Đa Bảo, Viên
Thông…đều tham gia chính sự.
+ Sự gắn bó đạo – đời còn thể hiện ở việc nhiều vua quan quý tộc đi tu. Trong 6 thế
hệ đệ tử của phái Thảo Đường thì có tới 9ng là vua quan đương nhiệm, vua Trần sau
khi lên làm Thái Thượng hoàng thì xuất gia sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm....;
sân chùa Phổ Minh, quê hương nhà Trần có chiếc vạc đồng lớn (1 trong 4 “An Nam
tứ đại khí”) tượng trưng cho quyền lực.
+ Vẫn truyền thống đó, đầu TK XX, Phật tử VN hang hái tham gia vào các hoạt
động XH (cuộc đòi ân PBC đám tang PCT). Thời Diệm-Thiệu, Phật tử
Miền Nam đã tham gia tích cực vào pt đtr đòi hb và ddlDT, nổi bật là sự kiện Phật
tử xuống đường đtr phản đối nền độc tài của hNgô, đỉnh cao sk hòa thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè 1963.
- Phật giáo đóng góp cho vh VN nhiều công trình kiến trúc quan trọng, đặc sắc.+
Một trong những đóng góp qtr của vh Phật giáo là ngôi chùa, rất đb cũng cùng
gần gũi, gắn bó với ng dân. Chùa đã hòa nhập vào làng xã mà biến thành Chùa làng.
Chùa làng là chùa của làng, nhiều nơi lấy tên làng để đặt tên cho chùa thường
không phải chùa của sư, tuy rằng vẫn trụ trì. Vai trò của chùa làng rất quan
trọng trong đs tinh thần của nhân dân ngôi chùa góp phần hình thành tư tưởng đạo
đức, nhân cách cho dân làng, trong đó phải kể đến vai trò to lớn của nhà sư. “Chùa
có sư như nhà có nóc”. Bởi vậy, một trong những điều đặc biệt là ĐN bị xâm chiếm
nhưng làng xã VN không mất, các sinh hoạt trong cộng đồng làng xã, trong đó ngôi
chùa vẫn bản giữ được truyền thống, ít bị đồng hóa. Người dân từ nhiềuđời đã coi
ngôi chùa trung tâm vh, trường học góp phần GD nền đạo đức, lòng từ bi nên
khi vừa dời đô về Thăng Long, Thái Tổ đã cho XD nhiều chùa tuyển chọn
hàng nghìn người kinh thành Thăng Long xuất gia đi tu. thế, thời Lí-Trần, trung
lOMoARcPSD| 61464806
tâm sinh hoạt vh dân gian ở các làng xã quanh các ngôi chùa. Sang thời Lê, khi khi
những ngôi đình xh và phát triển thì chùa làng vẫn không giảm đi phần quan trọng.
Các ngôi chùa ni tiếng còn tồn tại đến ngày nay: chùa Phật Tích, chùa Dạm, Phổ
Minh, Yên Tử, Một Cột…
+ Sách vở Trung Hoa đời Minh truyền tụng nhiều về bốn công trình nghệ thuật lớn
họ gọi là An Nam tứ đại khí: ợng Phật chùa Quỳnh Lâm, Tháo Báo Thiên,
Chuông Quy Điền, Vạc Phổ Minh. Đáng tiếc là tuyệt đại bộ phận các thành tựu văn
hóa đều đã bị quân Minh tàn phá dã man.
- Đv mỗi ng dân VN dù là Phật tử hay không thì Phật giáo cũng góp phần nuôi
dưỡng, củng cố, phát triển CN nhân đạo, đức tính hòa hợp, tinh thần vị tha, những
phẩm chất quý báu của con ng VN. Người Việt tiếp nhận Phật giáo, đồng thời tiếp
nhận những tưởng bình đẳng, bác ái, ngã, thường…ở đạo Phật, những
tưởng này cùng với tưởng cộng đồng cổ truyền đã làm cản trở quá trình phân hóa
g/c, làm dịu những cung đột g/c trong XH.
Sự đoàn kết, hòa hợp của Phật giáo và phát huy truyền thống hòa quyện giữa Phật
giáo với Dân tộc trên con đường phát triển của mình chắc hẳn sẽ làm cho Phật giáo
đã, đang phát triển scòn sống mãi trong lòng DT giữa nền văn hóa DG của
VN. Hiện nay, những giá trị văn hóa truyền thống DT nói chung và vh Phật giáo nói
riêng đang dấu hiệu bị phai nhạt. Nhiều người không hiểu giáo lí Phật giáo mặc
đi chùa thường xuyên, trong đó có giới trẻ. Trong khi đó, sự cám dỗ về vc ngày
càng lớn, đạo đức XH xuống cấp nghiêm trọng, tệ nạn XH tràn lan, gây bất ổn cho
không ít phức tạp cho XH, nhưng nhiều ng lại không tu học, không hiểu nhiều,
hiểu sâu. Đó cần được quan tâm để giữ gìn sự trong sáng của vh Phật giáo
VN.
NHO GIÁO hệ thống giáo của các nhà nho nhằm tổ chức XH hiệu quả,
được cho là do Khổng Tử sáng lập. Sách kinh điển của Nho giáo gồm 2 bộ: Tứ thư
Ngũ kinh. Nho giáo được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên,
Sĩ Nhiếp ra sức truyền bá một cách áp đặt vào nước ta từ đầu Công nguyên. Trải qua
hơn 2000 năm, Nho giáo đã tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt đs vh người Việt, đb
là đs tinh thần và tổ chức XH.
- Nho giáo vào VN là Nho giáo của gđ PK tập quyền chứ không phải Nho giáo
nguyên thủy mang màu sắc phân quyền thời Khổng Tử nên là ý thức hệ đặc trưng
của tầng lớp cai trị PK. Sự thẩm thấu của Nho giáo vào đs ND vì thế cũng hạn chế.
+ Người dân coi Nho giáo là học vấn của g/c thống trị nên chỉ giữ thái độ “kính nhi
viễn chi”. Họ học Nho giáo để đi thi, làm quan nhiều hơn là học về lối sống. Người
dân tiếp thu nhân sinh quan của Nho giáo trong một chừng mực nhất định, không
xung đột với phong tục và không trái lệ làng.
lOMoARcPSD| 61464806
+ Nhà Nho không tách thành một giai tầng đặc biệt, đỗ đạt thì ra làm quan, không
đỗ/thôi quan thì trở về làm người dân bình thường.
- Trong các hoạt động văn hóa, Nho giáo tác động chủ yếu vào các hoạt động
văn hóa tinh thần:
+ Trong văn hóa tổ chức cộng đồng, cấp đGĐ, Nho giáo phối hợp với văn hóa
Hán làm hình thành chế độ GĐ phụ hệ đi đôi với nam quyền cực đoan, tồn tại song
hành với truyền thống trọng nam đi đôivới trọng nữ của vh DG. Trong GĐ, gia tộc,
quốc gia, Nho giáo trực tiếp làm hình thành chế độ tông pháp, trao quyền thừa kế,
thừa tự cho con trai trưởng chính dòng, song hành với tập quán trao quyền thừa kế,
thùa tự cho con trai út của DG. Trên bình diện QG, Nho giáo là cơ sở làm hình thành
tổ chức nhà nước của Đại Việt, bao gồm hệ thống hành chính, tổ chức quân sự, quan
chế, lương bổng…phỏng Trung Hoa, tồn tại song hành với tổ chức cộng đồng
cấp làng quê ra đời từ thời VL-ÂL
+ Về tín ngưỡng, nhà nho VN coi Nho giáo như tôn giáo, gạt bỏ, bài xích các tôn
giáo khác ngoại trừ những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích, như
lòng tin vào thiên mệnh, việc tế lễ, thờ cúng tổ tiên… Vì vật, trong Nho giáo tôn
giáo của đàn ông người Việt, bên cạnh các tôn giáo dành cho các bà các cô như đạo
Phật, đạo Mẫu…
+ Về phong tục, stác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một phần
các phong tục vòng đời, đặc biệt phong tục hôn nhân, phong tục tang ma. Trong
thời trung đại, các phong tục này đều lấy hình mẫu của Nho giáo văn hóa Hán
làm chuẩn mực. Chính vậy cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều người viết sách
mô tả các phong tục và nghi thức ấy trong văn hóa Việt Nam hiện đại như thể chúng
làbản sao của phong tục Trung Hoa trung đại. Thật ra, bên cạnh các phong tục hôn
nhân, phong tục tang ma theo hình mẫu của Nho giáo văn hóa Hán trước đây,
người Việt ở các vùng miền khác nhau và các tôn giáo ở Việt Nam đều có cách thức
riêng để thực hiện các phong tục ấy.
+ Trong giáo dục, Nho giáo sở hình thành hệ thống giáo dục chính thống của
Việt Nam trung đại bốn cấp kinh đô - tỉnh/đạo - phủ - huyện/châu, chế độ thi
tuyển gồm bn cấp khảo hạch - thi Hương - thi Hội - thi Đình, để đào tạo ra quan lại
nhà nước, quan viên làng xã. Hệ thống giáo dục chính thống này tồn tại song hành
với mạng lưới giáo dục dân gian trong gia đình, làng xóm, làng nghề, nhằm giáo dục
cách ứng xử với gia đình, cha mẹ, ông bà, tổ tiên, hhàng, làng xóm, thần linh...
Trong lịch sử 844 năm khoa cử Hán học Việt Nam (1075 - 1919), nền giáo dục
Nho giáo đã tạo ra hàng nghìn ông Nghè, ông Cử, ông trong số đó nhiều người
đã nổi lên thành nhà văn hóa hay nhà khoa học, như nhà shọc Lê Văn Hưu, danh
nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, nhà sử học Ngô Liên, Trạng Lường Lương
Thế Vinh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Bùng Phùng Khắc
Khoan, nhà bác học Lê Quý Đôn, thi hào Nguyễn Du, nhà bác học Phan Huy
lOMoARcPSD| 61464806
Chú…
+ Về văn học và nghệ thuật, Nho giáo đã góp phần làm hình thành các thể văn khoa
cử (kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn sách, thơ, phú...), các thể loại văn học phỏng
Trung Hoa (thơ Đường luật, phú, từ, đối...), các điển tích văn học, các sách giáo khoa
truyền th Nho giáo, các tác phẩm văn học nghệ thuật chịu ảnh hưởng của Nho
giáo. Những sản phẩm ấy làm thành dòng văn học nghệ thuật quan phương chính
thống, tồn tại song hành với dòng văn học dân gian, nghệ thuật dân gian.
+ Về ngôn ngữ n tự, quá trình tiếp biến văn hóa Hán nói chung, Nho giáo nói
riêng đã để lại dấuấn sâu đậm trong ngôn ngchữ viết ở Việt Nam. Về ngữ âm,
tiếng Việt, tiếng Mường đã biến đổi các phụâm cuối, hình thành thanh điệu rơi
rụng các âm tiết phụ của thời Môn - Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn rơi rụng
các tổ hợp phụ âm đầu. Về ngữ pháp, tiếng Việt, tiếng Mường đã rơi rụng các phụ tố
tạo tcủa thời Môn - Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn hình thành các phụ tố tạo
từ gốc Hán - Việt, mượn nhiềucách diễn đạt của tiếng Hán. Về tvựng, trong
tiếng Việt, tiếng Mường đều nhiều yếu tố gốc Hán; riêng tiếng Việt đến 70%
từ gốc Hán. Hiện nay, tiếng Việt đang sử dụng một bộ phận từ vựng gốc Hán số
lượng và tần suất sử dụng rất lớn, bao gồm Hán - Việt cổ, Hán - Việt trung đại, Hán
- Việt cận đại (khẩu ngữ của người Hoa Nam bộ), từ ngữ yếu tố Hán - Việt. Trong
vốn từ tiếng Việt, đặc biệt lớp từ vựng văn hóa, số lượng các yếu tố gốc Hán chiếm
một tỷ lệ áp đảo, cả ở ba cấp độ: từ, ngữ, phụ tố. Bộ phận từ vựng gốc Hán này bao
gồm hầu hết các bình diện văn hóa mà cư dân Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán,
trong đó ảnh hưởng rõ rệt nhất là các hoạt động văn hóa tinh thần: cách thức tổ chức
hội cổ truyền (con người,họ tên, quan hệ thân tộc, tổ chức hành chính, tổ chức
quân sự, bộ máy quan lại...); tín ngưỡng, phong tục, lễ hội (tín ngưỡng, tôn giáo, giáo
dục, khoa cử, phong tục vòng đời, lễ hội...); văn học, nghệ thuật (thuật ngữ, các thể
văn hành chính khoa cử, các thể loại văn học bác học, một số loại hình sân khấu...);
ngôn ngữ (đặtđịa danh, vay mượn và sao phỏng từ ngữ, cấu tạo từ mới từ các yếu tố
gốc Hán...). Quá trình tiếp biến văn hóa Hán và Nho giáo trong ngôn ngữ ấy tồn tại
song hành với quá trình bảo tồn ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng gốc Môn - Khơme,
tiếp biến các ngôn ngữ Tày, Chăm, Hoa, Khơme, Pháp trong tiếng Việt.Về văn tự,
chữ Hán là văn tự chính thức của Việt
Nam trong suốt thời phong kiến tự chủ, và vì là phương tiện chuyên dùng chuyển tải
Nho giáo, nên chữ Hán thường được gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Quá trình tiếp
biến văn a Hán và Nho giáo trong chữ viết ấy tồn tại song hành với quá trình Việt
hóa các văn tngoại lai. Từ khi ra đời dưới thời Trần, chữ Nôm, loại văn tự phái sinh
từ chữ Hán, vừa được dùng để chuyển tải văn hóa dân gian, vừa được dùng để chuyển
tải văn hóa quan phương chính thống theo Nho giáo. đến đầu thế kỷ XX, với
phong trào Duy Tân - Đông Du, chữ Quốc ngữ, hình thành từ thế kỷ XVII, đã phát
triển thành văn tự của toàn dân, giúp chuyển tải những tư tưởng, tri thức mới, thoát
lOMoARcPSD| 61464806
ly Nho giáo.Như vậy, trong chặng đường hơn 2000 năm tiếp xúc văn hóa Hán của
Việt Nam, Nho giáo đã thật sự tác động mạnh vào hội Việt Nam trong hai giai
đoạn: Hậu (1428 - 1527) nhà Nguyễn (1802 - 1883). Hai đối tượng chịu ảnh
hưởng nhất của Nho giáo và văn hóa Hán là chủ thvăn hóa và văn hóa tinh thần.
Trong chủ thể văn hóa, Nho giáo đã tác động chủ yếu đến các giai cấp, tầng lớp trên
trong hội, chứ không ăn sâu bén rễ vào các giai cấp, tầng lớp dưới. Đối với văn
hóa tinh thần, Nho giáo đã góp phần làm nh thành dòng văn hóa quan phương
chính thống, chkhông thay thế được dòng văn hóa dân gian vốn có một bdày lịch
sử gắn với ý thức tộc người, làm nên cốt lõi của văn hóa tộc người. Tức là, Nho giáo
đã làm tách đôi kiến trúc thượng tầng ca xã hội Việt Nam, làm hình thành dòng văn
hóa quan phương theo Nho giáo, song hành đối lập với dòng văn hóa dân gian
bản địa. Hai dòng văn hóa này dung hợp lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Nho giáo ở
Việt Nam được Việt hóa một phần, khác với Nho giáo Trung Hoa. Văn hóa n
gian Việt cũng bị Nho giáo hóa một phần, nhiều phong tục gốc Hán và gốc Việt tồn
tại song song. Cho nên sẽ rất sai lầm nếu quan niệm hoặc tả văn hóa Việt như
một bản sao của văn hóa Hán. Hơn nữa, ảnh hưởng của Nho giáo văn hóa n
đối với văn hóa Việt Nam cũng chỉ kéo dài đến cuối thế kỷ XIX. Trong nền văn hóa
Việt Nam đương đại, Nho giáo không còn là tôn giáo, ý thức hhay họcthuyết chính
thống, chỉ là tàn dư trong một số phong tục và nghi lễ
CÂU 8.Đặc trưng văn hóa của làng Việt Nam. Liên hệ tác động của văn hoá
làng xã Việt Nam trong bối cảnh hội nhp.
Làng khối dân nông thôn làm thành một đơn vị đời sống riêng về nhiều
mặt và là đơn vị hành chính thấp nhất thời PK.
- Đặc trưng cơ bản của vh làng xã VN là tính cộng đồng và tính tự trị.
+ Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính
cộng đồng làng xã.
Tính cộng đồng sự lk các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng
tới những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại.
+ Sản phẩm của tính cộng đồng ấy là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào
biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình
PK. Mỗi làng là một “vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng (hương ước) và
“tiểu triều đình” riêng (nội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí lịch là cơ quan hành
pháp; nhiều làng tôn xưng 4 vị tuổi cao nhất làng là “tứ tr”). Sự biệt lập đó tạo nên
truyền thống “phép vua thua lệ làng”. Tình trạng này thể hiện quan hệ dân chủ đặc
biệt giữa nhà nước PK với làng xã ở VN.
Tính cộng đồng tự trị chính là 2 đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của
làng xã; chúng tồn tại // như 2 mặt của 1 vấn đề.
lOMoARcPSD| 61464806
- Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình bến nước – cây đa.
+ Làng nào cũng một cái đình. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mi
phương diện. Trước hết, nó là một trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi công việc
quan trọng, nơi hội họp, thu sưu thuế, giam giữ xử tội phạm nhânThứ đến,
đình là một trung tâm vh, nơi tổ chức các hội hè, ăn uống, nơi biểu diễn chèo tuồng.
Đình còn là một trung tâm về mặt tôn giáo. Thế đất, hướng đình được xem là quyết
định vận mệnh cả làng; đình cũng nơi thờ thần Thành Hoàng bảo trợ cho dân làng.
Cuối cùng, đình là một trung tâm về mặt tình cảm. Nói đến làng là nghĩ đến cái đình
với all những tình cảm gắn bó thân thương nhất: “Qua đình ngả nón trông đình
Đình bn ngói thương nh bấy nhiêu.”
+ Do ảnh hưởng của Trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của all mn dần chỉ còn
nơi chốn lui tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, pn quần tụ lại nơi bến nước
(những làng không sông chảy qua thì có giếng nước) – chỗ hàng ngày chị em gặp
nhau cùng rửa rau, vo gạo, giặt giũ, chuyện trò.
+ Cây đa cổ th mọc um tùm đầu ng, gốc cây miếu thờ lúc nào cũng khói
hương nghi ngút đó là nơi hội tụ của thánh thần: “Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo
cây đề”; “Sợ thần sợ cả cây đa”. Cây đa, gốc cây quán nước, còn là nơi nghỉ chân
gặp gỡ của những người đi làm đồng, những khách qua đường…
Nhờ khách qua đường, gốc cây đa trở thành cánh cửa s liên thông làng với TG bên
ngoài.
- Biểu tượng truyền thống của tính tự trị lũy tre. Rặng tre bao kín quanh làng,
trở thành một thứ thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không
được, đào đường hầm thì vướng rễ không qua. Lũy tre là một đặc điểm quan trọng
làm cho làng xóm phương Nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách đắp bằng
đất bao bọc.
- Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất. Do vậy nên người VN luôn sẵn
sàng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, coi mn trong cộng đồng như anh chị em trong nhà:
“tay đứt ruột xót”, “chị ngã em nâng”, “lá lành…” Do đồng nhất cho nên người VN
luôn tính tập thể rất cao, hòa đồng vào cuộc sống chung. Sự đồng nhất cũng chính
ngọn nguồn của nếp sống dân chủ - bình đẳng bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức
nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo giáp.
- Mặt khác, lại cũng chính do đồng nhất người VN, ý thức về con người
cá nhân bị thủ tiêu:
Người VN luôn hòa tan vào các mqh XH, gq các xung đột theo lối hòa cả làng. Điều
này khác hẳn với truyền thống p. T, nơi con người được rèn luyện ý thức cá nhân từ
nhỏ.
- Sự đồng nhất còn dẫn đến chỗ người VN hay dựa dẫm, lại vào tập thể: ớc
trôi thì bèo trôi”,
lOMoARcPSD| 61464806
“Nước nổi thì thuyền nổi”. Tệ hại hơn nữa là tình trạng “Cha chung không ai khóc”;
“Lắm sãi không ai đóng cửa chùa”… Cùng với thói dựa dẫm, lại tưởng cầu
an (an phận th thường) cả nể, làm cũng srút dây động rừng nên việc
thường chủ trương đóng cửa bảo nhau…
- Một nhược điểm trầm trọng t3 là thói cào bằng, đ kị, không muốn cho ai hơn
mình (để all đều giống nhau): “Xấu đều hơn tốt lơi”, “Khôn độc không bằng ngốc
đàn”…
Những thói xấu nguồn gốc từ tính cộng đồng này khiến cho ở VN, khái niệm
“giá trị” trở nên hết sức tương đối (KĐ đặc điểm tính chủ quan của lối duy nông
nghiệp): Cái tốt, nhưng là tốt riêng rẽ thì trở thành xấu; ngược lại, cái xấu nhưng
xấu tập ththì trở nên bình thường.- Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào sự khác
biệt. Khởi đầu là sự khác biệt của cộng đồng (làng, họ) này so với cộng đồng (làng,
họ) khác. Sự khác biệt sở của tính tự trị - tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng:
mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi việc. phải tự lo liệu nên người VN
truyền thống cầncù, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất bán lưng cho trời. cũng
tạo nên nếp sống tự cấp ttúc: mỗi làng tự đáp ng mọi nhu cầu cho c/s của làng
mình; mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà, ao cá – tự đảm bảo nhu cầu vềăn; có bụi tre,
rặng xoan, gốc mít – tự đảm bảo nhu cầu về ở.- Mặt khác, cũng chính do nhấn mạnh
vào sự khác biệt sở của tính tự trị - người VN thói xấu óc hữu ích
kỉ: “Bè ai người nấy chống”, “Ruộng ai người ấy đắp bờ”; “Ai có thân người ấy lo,
aicó bò người ấy giữ”… Óc tư hữu ích kỉ nảy sinh ra từ tính tự trị của làng xã VN
đã luôn bị chính người Việt phê phán : “Của mình thì gibo bo, của người thì để cho
ăn”…- Thói xấu t2 nguồn gốc từ tính tự trị óc phái, địa phương cục
bộ, làng nào chỉ biết làng ấy, chỉ lo vun vén cho địa phương mình: “Trống làng nào
làng nấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”; “Ta về ta tắm ao ta…”…- Một biểu hiện
của sự khác biệt nữa là óc gia trưởng – tôn ti. Tính tôn ti, sp của nguyên tắc tổ chức
nông thôn theo huyết thống, tự thân nó k phải xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia
trưởng, tạo nên tâm quyền huynh thế phụ, áp đặt ý muốn của mình cho người khác,
tạo nên tưởng thứ bậc lí: “Sống lâu lên lão làng”; “Áo mặc không qua khỏi
đầu” thì trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển hội, nhất khi
thói CN vẫn đang là một căn bệnh lan tràn.- Đặc điểm môi trường sống quy định
đặc tính duy. Cả hai quy định tính cách của dân tộc. Cuộc sống NN lúa nước
lối duy BC dẫn đến sự hình thành nguyên âm dương lối ứng xử nước đôi.
Cho nên tính chất nước đôi chính 1 đặc điểm tính cách của DT Việt. Người Việt
vừa có tính đoàn kết tương trợ lại vừa có óc hữu, ích kỉ và thói o bằng, vừa
tính tập thể hòa đồng lại vừa óc phái, địa phương; vừa nếp sống DC bình
đẳng vừa óc gia trưởng tôn ti; vừa tinh thần tự lập vừa xem nhẹ vai trò nhân;
vừa có tính cần cù và nếp sống tự cấp tự túc lại vừa có thói dựa dẫm ỷ lại. All cái tốt
xấu ấy cứ đi thành từng cặp đều tồn tại người VN; bởi lẽ all đều bắt nguồn
lOMoARcPSD| 61464806
từ 2 đặc trưng gốc trái ngược nhau là tính cộng đồng tính ttrị. Tùy lúc tùy nơi
mặt tốt hoặc xấu sẽ được phát huy: khi đứng trước nhữngkhó khăn lớn, những
nguy cơ đe dọa sự sống còn của cả cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tinh thần đoàn kết
tính tập thể, nhưng khi nguy ấy qua đi rồi thì thói hữu óc phái địa
phương lại nổi lên.Đến thời Nguyễn, việc khai phá DDBNB đã mang lại thêm một
khuôn mặt mới cho làng xã VN. Nét đặc trưng của làng xã NB là tính mở: Làng NB
không có lũy tre dày đặc bao quanh với cổng làng sớm mở tối đóng như làng BB. Ở
vùng đất cao, bờ tre chỉ còn một biểu tượng đánh dấu ranh giới các ấp thôn; vùng
sông nước, thôn ấp trải dài dc theo các kênh rạch. Thành phần dân cư của làng NB
thường hay biến động, người dân không bị gắn chặt với quê hương như làng BB.
Tính cách người nông dân NB cho vậy ng trở nên phóng khoáng hơn: làm bn ăn
bấy nhiêu, được đến đâu hay đến đó.Mọi sự đổi thay có lí do của nó. TPdân nơi
đây biến động vì nơi đây còn nhiều miền đất chưa được khai phá, người dân thể
rời làng để tìm đến nơi dễ làm ăn hơn. Việc tổ chức thôn ấp theo các dòng kênh các
trục giao thông thuận tiện là sp của thời đại, khi KT hàng hóa đã bắt đầu phát triển.
Tính cách phóng khoáng do thiên nhiên NB ưu đãi, khí hậu ổn định, hầu như ít
gặp thiên tai thất thường. làng NBcó cấu trúc mở, tính cách người NB phóng
khoáng, nên vùng này dễ tiếp cận hơn những ảnh hưởng từ bên ngoài của vh p.T (kể
cả những a.h tiêu cực thời Pháp, Mĩ).Tuy nhiên, hay biến động, người NB vẫn
sống thành làng với thấp thoáng bóng tre, mỗi làng vẫn một ngôi đình với tín
ngưỡng thờ thần Thành Hoàng (dù chỉ là Thành Hoàng chung chung), hàng năm cư
dân vẫn tụ họp nhau các lễ hội. làm ăn dễ dãi, người NB vẫn giữ nếp cần cù.
kinh tế hàng hóa có phát triển, họ vẫn coi trọng tính cộng đồng, yếu tố hàng xóm
vẫn đứng t2 trong thang bậc ưu tiên khi chọn nơi trú: Nhất cận thị, nhì cận lân,
tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền. Bức tranh đó của làng NB đã góp phần làm
nên tính thống nhất của DTVN, vh VN.
CÂU 12. Giao lưu và tiếp biến văn hóa. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây
vào Việt Nam. Phân tích tác động của toàn cầu hóa đến bản sắc văn hóa Việt
Nam.
Văn hóa một hệ thống hữu các giá trị vật chất tinh thần do con người sáng
tạo tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên hội (Trần Ngọc Thêm CSVHVN). Thuật ngữ giao
lưu tiếp biến văn hóa được sử dụng khá rộng i trong nhiều ngành khoa học
hội như khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học.. tức là những ngành khoa
học có đối tượng nghiên cứu là con người và xã hội, nhân văn. Giao lưu và tiếp biến
văn hóa là hai biểu hiện của cơ chế vận hành văn hóa.
Khái niệm giao lưu và tiếp biến văn hóa được dùng với nhieeuftuwf khác nhau.
lOMoARcPSD| 61464806
Người Anh dùng Cultural Change (trao đổi văn hoá), người Tây Ban
Nhau dùng transculturation. Khái niệm Acculturation của người Hoa Kỳ được các
nhà nghiên cứu ở Việt Nam dịch với những nét nghĩa khác nhau: đan xen văn hoá,
hỗn dung văn hoá, giao thoa văn hoá. Cách dịch được nhiều người chấp nhận là giao
lưu và tiếp biến văn hoá.
Nếu quy luật kế thừa là sự khái quát hoá qtrình phát triển văn hoá diễn ra theo
trục thời gian thì giao lưu và tiếp biến văn hoá nhìn nhận sự phát triển văn hoá trong
mối quan hệ không gian với nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau, tuỳ trình độ phát
triển và đặc điểm riêng của mỗi dân tộc.
Khái niệm: Giao lưu tiếp biến văn hoá sự gặp gỡ, thâm nhập học hỏi lẫn
nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung, tiếp nhận
làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển tiến bộ văn hoá. Giao lưu
văn hoá quá trình trao đổi thành tựu, thực hành văn hóa giữa các nền văn hóa. Quá
trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình thức: + Hình thức tự
nhiên: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi, du lịch, hôn nhân, quà
tặng...mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện. Nhà Lý, về tổ chức xã hội,
chính trị lấy cơ chế của Nho giáo làm gốc, và chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật Giáo.
Hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược thôn tính
đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này đối với một quốc gia khác. Trong
thời 1000 năm Bắc thuộc ngoài việc bóc lột Giao Châu về mọi phương diện, bộ
máy cai trị của người Hán còn thực hiện chính sách đồng hóa, tiêu diệt văn hóa của
dân bản địa. Trong một thiên niên kỉ Hán hóa, việc gigìn bản sắc dân tộc là một
việc không dễ dàng bởi kẻ xâm lược thì muốn đồng hóa, người xâm lược thì chống
đồng hóa. VH Việt luôn đứng trước thử thách lớn lao tồn tại hay không tồn tại. Giao
lưu văn vừa là kết quả của sự trao đổi vừa chính bản thân sự trao đổi. hiểu
như vậy mới thấy hết tầm quan trọng ca giao lưu văn hóa trong lịch sử nhân loại, vì
sản xuất, trao đổi là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Tiếp biến văn hóa là quá trình tiếp thu có cải biến những thành tựu văn hóa có nguồn
gốc ngoại sinh để yếu tố văn hóa mới không xung đột với yếu tố cũ. Phật giáo đến
VN tích hợp với sự sùng bái tự nhiên nên hình thành tín ngưỡng thờ Tứ pháp (Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Địa)
Quá trình giao lưu tiếp biến đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội
sinh đlựa chọn tiếp nhận cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá để làm giàu, phát
triển văn hoá dân tộc. Trong tiếp nhận các yếu tvăn hoá ngoại sinh, hệ giá trị hội
và tâm thức dân tộc vai trò rất quan trọng. Nó là "màng lọc" để tiếp nhận những
yếu tố văn hoá ca các dân tộc khác, giúp cho văn hoá dân tộc phát triển mà vẫn giữ
được sắc thái riêng của mình. Sự phát triển của cái cải biến đến mức độ nào đó sẽ
làm thay đổi chính thực thể văn hóa, giống như quy luật lượng đi dẫn đến chất đổi.
lOMoARcPSD| 61464806
Như vậy quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa diễn ra ở hầu khắc các nền văn hóa.
Nó là quy luật phát triển ca vh, quy luật tất yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên
của con người hiện tại
CÂU 2. Tọa độ, loại hình văn hóa. Phân biệt loại nh văn hoá Việt Nam
các nền văn hoá khác.
- K/n: loại hình văn hóa thuyết được đưa ra để giải sự tương đồng
khácbiệt giữa các nền văn hóa. Lí thuyết loại hình văn hoá được phân biệt dựa
trên sựtương đồng và khác biệt trong điều kiện tự nhiên, môi trường, phương
thức sảnxuất, phương thức sinh hoạt, điều kiện lịch sử-xã hội tạo ra nét khác
biệt về ngoạihình giữa các nền văn hóa của cộng đồng, quốc gia và khu vực.
- Theo Trần Ngọc Thêm 2 loại hình như sau: văn hoá gốc nông nghiệp
vănhoá gốc du mục (tương ứng là các nền văn hoá phương Đông phương
Tây).
- Do vtrí địa nằm góc tận cùng phía Đông-Nam Châu Á nên Việt Nam
thuộcloại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc
trưngcủa loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất
rõ nét trongđặc trưng văn hóa Việt Nam.
o Môi trường tự nhiên: xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên nhiều con
Môi trường tự nhiên: xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên nhiều
consông lớn và các vùng đồng bằng trù phú o Cư dân Việt Nam chủ yếu
sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xvới dân Việt Nam chyếu
sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với tự nhiên, do nghề trồng trọt
buộc người dân phải sống định cư đchờ cây cối lớn lên, đơm hoa, kết trái và
thu hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn đnh, cho rằngAn cư lạc nghiệp” .
o Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp có ý thức tôn
Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng
ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng ra là nói “ nhờ
trời”, “lạy trời”… Các tín ngưỡng và lễ hội sung bái tự nhiên rất phổ biến ở các tộc
người trên khắp mọi vùng đât nước. o nghề nông, nhất nghề nông nghiệp lúa
nước, cùng một lúc phụ thuộc nghề ng, nhất nghề nông nghiệp lúa nước,
cùng một lúc phụ thuộc vào nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,...
trông trời, trông đất, trông mây; trông a, trông gió, trông ngày, trông đêm…
nên về mặt nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp- biện chứng, nặng vkinh
nghiệm chủ quan cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay quen…
Người làm nông quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan
hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú
về các loại quan hnày: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61464806
HỌC PHẦN: CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM NỘI DUNG ÔN TẬP
6. Vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của văn hoá trong phát
triển ở Việt Nam hiện nay. Cho ví dụ minh hoạ.
9. Nguồn gốc và ý nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam.
11. Những yếu tố cấu thành chủ nghĩa yêu nước của người Việt.
CÂU 1: Định nghĩa/ Khái niệm về văn hoá. Phân biệt văn hoá với văn minh,
văn hiến, văn vật.
Phân tích định nghĩa văn hóa :
Trong ngôn ngữ của nhân loại, khái niệm văn hóa có rất nhiều cách định nghĩa và
quan niệm, hiện có từ vài trăm đến vài ngàn định nghĩa về văn hóa trên thế giới. Mỗi
định nghĩa đều có những cách nhìn văn hóa từ nhiều phương diện và thành tố khác
nhau.Với ánh sáng văn hóa của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự kết tinh tinh hoa văn hóa
ngàn năm của nhân dân Việt Nam, sự chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại kết hợp với
những hoạt động thực tiễn phong phú, Chủ tịch HCM đã sớm đưa ra một định nghĩa
văn hóa tiêu biểu trong mục Đọc sách ở cuối tập “Nhật kí trong tù” (1942-1943): “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hang ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự
sinh tồn.” (HCM toàn tập, NXB CTQG, H.2000, T3, tr431).
Định nghĩa văn hóa của HCM vừa mang tính khoa học vừa mang tính sáng tạo bởi
định nghĩa của Người dựa trên các quan điểm: -
Quan điểm hệ thống: Văn hóa là một hệ thống những phát minh do con người
sáng tạo ra trong quá trình lao động. Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh
tế, xã hội, tạo thành 4 nhân tố chủ yếu của đời sống xã hội. Thậm chí văn hóa có tác
động chi phối đến các mặt của xã hội. Nếu nền văn hóa của một quốc gia, một dân
tộc có sự biến đổi thì các mặt kinh tế, chính trị, và đặc biệt là xã hội cũng sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. -
Nó mang tính khoa học vì nội hàm văn hóa mà Người đưa ra không quá hẹp,
không quá rộng, nó phù hợp với mọi điều kiện đời sống xã hội trong quá trình phát
triển của con người. Bản chất văn hóa trong quanniệm của HCM là hướng đến chủ
nghĩa nhân văn cao cả. Văn hóa được hiểu đồng nghĩa với những giá trị Chân – Thiện
– Mỹ. Đây cũng chính là những nét tương đồng mà UNESCO mãi đến 1982 mới
thống nhất được. Đó chính là vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. lOMoAR cPSD| 61464806 -
Quan điểm phát triển: văn hóa là tổng hòa các phương thức sinh hoạt vật chất
và tinh thần của con người, cùng với quá trình xây dựng và phát triển văn hóa, con
người ngày càng hoàn thiện hơn. Văn hóa theo HCM là nét riêng biệt chỉ có ở loài
người, được hình thành từ “lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”. Trong
quá trình lao động sản xuất vật chất và tinh thần, văn hóa thể hiện trình độ Người
trong mỗi một con người. Do đó, phát triển văn hóa cũng chính là phát triển con người. -
Quan điểm toàn diện: theo HCM, văn hóa là một kiến trúc thượng tầng mà
trong đó bao gồm cả ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo…(văn hóa phi
vật thể) và các công trình kiến trúc được tạo ra do hoạt động thực tiễn của con người
(văn hóa vật thể). Điểm đặc biệt trong định nghĩa văn hóa của HCM đó chính là đã
đưa tôn giáo trở thành một thành tố cấu thành nên văn hóa. Đây là một điểm sáng
tạo của người so với các định nghĩa trước đó về văn hóa, kể cả với quan điểm của
CN M-L. CN Mác cho rằng: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân, ru ngủ nhân
dân”. Bác thì khẳng định: “Tôn giáo có ảnh hưởng đến đời sống và tinh thần của
nhân dân, đoàn kết tôn giáo cũng chính là đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn
phục vụ cho cách mạng. Bản thân Người cũng chính là sự hòa hợp của nhiều giá trị
tôn giáo, của tinh thần khoan dung tôn giáo. Tự do tín ngưỡng tôn giáo cũng là một
trong những quyền cơ bản của con người mà UNESCO đã nói đến trong thập kỉ 80.
Trong định nghĩa văn hóa của HCM, con người là trung tâm, văn hoá gắn chặt với
con người, thể hiện qua khía cạnh: Văn hóa do con người sáng tạo ra, con người là
chủ nhân trung tâm của những giá trị do chính họ phát hiện, sáng tạo, chiếm hữu…;
văn hóa phục vụ cho mục đích sống của con người, cho sự sinh tồn của con người;
văn hóa nâng cao giá trị của con người.
Tóm lại, theo ĐN trên, văn hóa vừa là nền tảng vật chất, tinh thần, vừa là động lực
phát triển của xã hội. ĐN văn hóa của HCM đã khắc phục những hạn chế, khuyết
điểm của các định nghĩa và quan niệm trước đó, xứng đáng là một trong những định
nghĩa tiêu biểu bậc nhất về văn hóa. 
Phân biệt văn hóa với văn minh
Từ văn hóa và văn minh hay bị dùng nhầm lẫn với nhau, thật ra, văn hóa là một hệ
thống hữu cơ các giátrị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên và xã hội. Còn văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương
diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại.
Như vậy, văn minh khác với văn hóa ở 4 điểm cơ bản: -
T1, trong khi văn hóa có bề dày của quá khứ thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại -
T2, trong khi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần thì văn minh
chỉ thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật. lOMoAR cPSD| 61464806 -
T3, trong khi văn hóa mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh thường mang tính
siêu dân tộc – quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi
lẽ cái vật chất thì dễ phổ biến và lây lan. -
T4, về nguồn gốc. Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp,
còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Trong quá trình phát triển
của lịch sử nhân loại, tại cựu LĐ Âu-Á (Eurasia) đã hình thành 2 vùng văn hóa lớn
là “p.Đ” và “p.T”: p. T là khu vực tây-bắc gồm toàn bộ châu Âu (đến dãy Uran), p.Đ
là khu vực đông-nam gồm châu Á và châu Phi. Các nền văn hóa cổ đại lớn mà nhân
loại biết đến đều xuất phát từ phương Đông: Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập.
Nền văn hóa phương Tây sớm nhất là Hy-La (Hi Lạp và La Mã) cũng có nguồn gốc
từ phương Đông, nó được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các
nền văn hóa Ai Cập và Lưỡng Hà. Các nền văn hóa phương Đông đều hình thành ở
lưu vực các con sông lớn là những nơi có địa hình và khí hậu rất thuận tiện cho
SXNN. Ở các ngôn ngữ p.T, từ “vh” bắt nguồn từ cultus tiếng Latinh có nghĩa là
“trồng trọt”, còn từ “vm” thì bắt nguồn từchữ civitas có nghĩa là “thành phố”.
Tuy nhiên, vì vh và vm đều chỉ những thành tựu hoạt động sáng tạo của con người,
nên vẫn có xu hướnglẫn lộn hai khái niệm đó với nhau. Hơn nữa, tuy khác nhau
nhưng văn hóa và vm lại có mqh với nhau, vì: -
Sự tiến bộ kĩ thuật nói riêng, sự chuyển đổi từ nền vm này sang nền vm khác
là một nhân tố quan trọng hàng đầu làm biến đổi nền văn hóa của cộng đồng. - Sự
biến đổi văn hóa ấy có thể diễn ra theo 2 hướng: hoặc tạo nên những giá trị văn hóa
mới trên cơ sở phát huy những giá trị của truyền thống văn hóa cũ, hoặc phá hủy
những giá trị truyền thống văn hóa cũ, gây nên sự mất ổn định trong đời sống văn
hóa-XH của cộng đồng, thậm chí có thể gây nên những nguy cơ diệt vong của cộng đồng. -
Do đó, văn hóa (các giá trị văn hóa) có vai trò quan trọng trong sự tiến bộ
không thể đảo ngược của vm; văn hóa không chỉ có vai trò quy định cách thức và
mục đích sử dụng những tiến bộ kĩ thuật, mà còn có vai trò quy định cả phương
hướng của sự tiến bộ kĩ thuật (cách ứng xử với TN, MT).  Ví dụ :
- Văn hóa: văn hóa Bắc Sơn, Hòa Bình, Đại Việt…
- Văn minh: văn minh VL-AL, văn minh trống đồng Đông Sơn…
C ÂU 4. Các đặc trưng cơ bản của văn hóa. Lấy ví dụ minh hoạ. Tính nhân sinh
+ Là đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa.Nói đến văn hóa là nói đến con
người.Văn hóa là sẳn phẩm của trình độ phát triển bản chất người,là nơi hình
thành,nuôi dưỡng nhân cách con người.Con người vừa là chủ thể,vừa là sản phẩm
và còn là đại biểu mang các giá trị văn hóa. lOMoAR cPSD| 61464806
+ Văn hóa được tạo thành bởi các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra.Thuộc tính này cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng xã hội với những sản
vật tự nhiên chưa qua bàn tay sáng tạo của con người.Theo đó,1 đất nước có thể giàu
khoáng sản,dầu mỏ,các nguồn lợi thiên nhiên nhưng chưa hẳn già có về văn hóa.Văn
hóa là thành quả lao động sáng tạo lao động của nhân loại.Những thành quả ấy phải
phục vụ sự phát triển toàn diện của con người.Phục vụ cuộc sống hạnh phúc trong
an toàn của toàn thể xã hội.
Tính nhân sinh là cơ sở làm nên giá trị nhân văn của văn hóa.Giá trị nhân văn là thực
chất của văn hóa, là cái tạo nên nội dung,bản chất của 1 nền văn hóa. Tính hệ thống
+ Là 1 tổ hợp hữu cơ,bao gồm nhiều thành tố có quan hệ khăng khít với nhau, tương
tác,tương thành,chi phối và chế ước lẫn nhau.Văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực hoạt
động của con người và xã hội,là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội..Văn hóa là sản
phẩm mang tính xã hội cao do mọi người cùng chung sức tạo ra. Tính lịch sử
+ Đây là thuộc tính được xác định bởi bề dày và chiều sâu của văn hóa.Một nề văn
hóa bao giờ cũng cũng được hình thành qua nhiều thế hệ trên chiều dài lịch sử.Văn
hóa là 1 quá trình vận động liên tục,không giá đoạn.Là sản phẩm của 1 xã hội,1 thời
đại nhất định,là di sản của xã hội,văn hóa đồng thời là 1 quá trình không ngừng tích
lũy,đổi mới.Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa.Đặc
trưng của truyền thống lại biểu hiện ở tính di tồn và tính cộng đồng. Tính giá trị
+ là đặc trưng quan trọng của văn hóa.Giá trị là những chuẩn mực được cộng đồng
chấp nhận và theo đuổi.Giá trị văn hóa là “thành quả mà dân tộc hay 1 con người đạt
được trong quan hệ với thiên nhiên,với xã hội và trong sự phát triển của bản than
mình.Nói tới giá trị vh là nói tới thái độ,trách nhiệm và những quy tắc ứng xử của
mọi người trong những quan hệ giữa bản thân mình với gia đình,xã hội và thiên
nhiên.Văn hóa chỉ bao gồm các giá trị,các vẻ đẹp.
Tính dân tộc của văn hóa
+ Là đặc trưng cho ta thấy cách thức tồn tại và biểu hiện của mọi cộng đồng,mọi nền
văn hóa.Một nền văn hóa cụ thể luôn chịu sự chi phối,chế ước của hoàn cảnh tự nhiên
và rất nhiều điều kiện sinh hoạt vật chất của con người.
Ví như:Có cây chè thì mới có văn hóa uống trà,có văn phòng tiếp khách và thời gian
nhàn rỗi mới có cái gọi là”văn hóa salong” của giới quý tộc châu Âu.
▪ Mỗi dân tộc sẽ có 1 ngôn ngữ chung,tuân thủ phong tục tập quán chung, cùng chia
sẻ những điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần,nuôi dưỡng thành tố chất tâm lí và
tính cách chung.Đó là biểu hiện tính dân tộc của văn hóa.
▪ Đặc trưng cơ bản của văn hóa có thể giúp chúng ta nhận thuwsc1 cách đầy đủ,toàn
diện hơn về bản chất của văn hóa.
CÂU 5. Các chức năng cơ bản của văn hoá. Lấy ví dụ minh hoạ. lOMoAR cPSD| 61464806
* chức năng tổ chức xã hội
▪ Tính hệ thống là thuộc tính hàng đầu của văn hóa. Khi nói đến đặc trung của văn
hóa ta đã nêu lên tính chất này để lưu ý rằng đây là một thuộc tính bản chất, thể hiện
mối liên hệ khăng khít hữu cơ, sự xâm nhập, tương tác, chi phooisvaf chế ước lẫn
nhau giữa các thành tố văn hóa cùng tạo nên diện mạo, sức sống và bản chất sâu xa
của 1 nền văn hóa. Văn hóa với tư cách là 1 hiện tượng xã hội, thẩm thấu, hiện diện
và bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhờ tính hệ thống mà thực hiện được
chức năng tổ chức xã hội. Đây là một chức năng quan trọng, nó duy trì kết cấu xã
hội, thực hiện sự liên kết và tổ chức đời sống cộng đồng thông qua các thiết chế xã
hội-văn hóa.Thiết chế xã hội là 1 chức năng hoạt động xã hội được đặt ra để duy trì
và phát triển các chức năng của xã hội, còn được xem như là đại diện của hệ thống
chuẩn mực xã hội, vận hành trong mọi sinh hoạt kinh tế,chính trị , pháp luật,tôn giáo,văn hóa-xã hội…
* Chức năng điều tiết xã hội
▪ Đặc trưng quan trọng thứ 2 của văn hóa là tính giá trị. Hiểu một cách ngắn gọn thì
giá trị là những chuẩn mực được cộng đồng thừa nhận và theo đuổi.Giá trị là nhân
tố quan trọng của hành vi cá nhân.Nó điều chỉnh các nguyện vọng và hành động của
1 con người, là cơ sở để đánh giá hành vi và định đoạt lợi ích xã hội của các thành
viên trong cộng đồng.Do đó giá trị xác định các tiêu chuẩn của thang bậc xã hội, làm
nền tảng cho cuộc sống chung.
▪ Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có nhiều nhu cầu và họ
phải thường xuyên lựa chọn các phương thức ứng xử thích hợp nhằm thỏa mãn các
nhu cầu của mình.Sự lự chọn đó giống như 1 hành động giá trị có liên quan mật thiết
với tiêu chuẩn của khung giá trị chung của cộng đồng.Với mức ổn định lớn, khung
giá trị này là cơ sở để các thành viên trong cộng đồng lựa chọn các phương thức hoạt
động, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với yêu cầu và chuẩn mực của xã
hội.Nền văn hó nào cũng có 1 bảng giá trị được coi như bộ chỉnh của xã hội.Bảng
giá trị xã hội làm nhiệm vụ định hướng cho mục tiêu phấn đấu của mỗi các nhân và
cộng đồng…Căn cứ vào đó mà xã hội thường xuyên chấp nhận, sàng lọc điều chỉnh
để duy trì sự ổn định và không ngừng tự hoàn thiện, văn hóa thực hiện được chức
năng quan trọng thứ 2 là điều tiết xã hội. * Chức năng giáo dục
▪ Đặc trưng quan trọng thứ 3 của văn hóa đó chính là tính lịch sử.Văn hóa là sản
phẩm của hoạt động con người, chứa đựng vốn kinh nghiệm xã hội.Tính lịch sử của
văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong 1 quá trình và được tích lũy
qua nhiều thế hệ.Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề daỳ,1 chiều sâu.Nó tạo nên các
trầm tích và truyền thống văn hóa.Nhờ đó, văn hóa thực hiện được chức năng giáo
dục.Nhân cách con người được tạo dựng và hun đúc, trước hết bởi các giá trị văn hóa
truyền thống của cộng đồng.Một đứa trẻ mới sinh chưa thực sự là con người bởi nó
chưa tiếp nhận được 1 phẩm chất xã hội nào của loài người truyền cho cả.Đúng như lOMoAR cPSD| 61464806
nhà xã hội học người Mĩ R.E Pacco đã nói :” Người k đẻ ra người. đưa trẻ chỉ trở
nên người trong quá trình giáo dục.Truyền thống văn hó luôn thực hiện chức năng
giáo dục của mình đối với con người.Bằng con đường giáo dục hữu thức và vô thức
từ khi chào đời cho đến khi trưởng thành, con người nhận được sự dạy bảo của truyền thống văn hóa.
Trong các chức năng của văn hóa thì chức năng giáo dục là chức năng bao trùm
nhất.Nó đóng vai trò định hướng giá trị, chuẩn mực xã hội cho con người, quyết định
việc hình thành và phát triển nhân cách con người.Từ chức năng này mà văn hóa
phát sinh thêm chức năng là đảm bảo tính kế tục lịch sử.Các chức năng khác như
nhận thức, thẩm mĩ, dự báo, giải trí có thể coi như là những tiểu chức năng hỗ trợ
cho việc thực hiện chức năng giáo dục của văn hóa.
*Chức năng giao tiếp
▪ Đặc trưng thứ 3 của văn hóa là tính nhân bản(nhân sinh).Đây là thuộc tính cốt lõi
của văn hóa.Nó cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng xã hội với các giá trị
tự nhiên.văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người.Sự tác động của con
người vào tự nhiên có thể mang tính chất như khai khoáng, đẽo gỗ hoặc tinh thần
như đặt tên, tạo truyền thống cho các cảnh quan thiên nhiên.
▪ Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội,, văn hóa trở
thành 1 công cụ giao tiếp quan trọng.Thông qua ngôn ngữ, chữ viết, con người tiếp
xúc với nhau, trao đổi với vói nhau, thông báo cho nhau, yêu cầu hoặc tiếp nhận ở
nhau các thông tin cần thiết về hoạt động của cộng đồng..Cùng với ngôn ngữ và vượt
lên trên tính trực tiếp của ngôn ngữ,văn hóa bằng hệ thống các giá trị chi phối cách
ứng xử và giáo tiếp của cá nhân với bản thân, gia đình và cộng đồng. Mọi nền văn
hóa đều hướng đến con người,vì cuộc sống của con người và cộng đồng.Nhờ đặc
điểm chung này, văn hóa còn đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa các thế hệ, các dân
tộc, quốc gia, tạo nên sự tiếp xúc, giao lưu giữa các nền văn hóa.Bằng tính vị nhân
sinh, văn hóa thwucj hiện được chức năng thứ 4 của mình đó là chức năng giao
tiếp.Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó. Văn hóa
được coi là sợi dây nối liền nhân dân các nước và các dân tộc…Sự hiểu biết lẫn nhau,
sự học tập và tôn trọng lẫn nhau xưa nay đều thể hiện sâu sắc qua văn lOMoAR cPSD| 61464806
hóa,nơi tập trung những biểu hiện rực rỡ nhất của tâm huyết và sức sáng tạo của con người. Lĩnh vực Thành tựu -
Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo và được các triều đại quan tâm. Kinh tế -
Thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển.
- Nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền được xây Chính trị
dựng và phát triển đến đỉnh cao dưới thời Lê Thánh Tông. -
Tư tưởng: dân tộc và thân dân. -
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và tổ tiên: tín ngưỡng
Tư tưởng, tôn giáo này tạo nên tinh thần cởi mở, hòa đông tôn giáo của người Việt. -
Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo có điều kiện phát
triển ở Việt Nam ở từng thời kì -
Chữ Nôm đánh dấu bước phát triển của nền văn hóa dân
tộc, ý thức tự cường và khẳng định vai trò, địa vị của tiếng Việt.
Giáo dục và văn học - Văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm và văn học dân gian tiếp tục phát triển. -
Sử học: đã hình thành nên các cơ quan chép sử của nhà
nước được gọi là Quốc sử, nhiều bộ sử được biên soạn. -
Địa lý học: công trình như Dư địa chí, Hồng Đức bản đồ
sách, Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí,… -
Toán học: tác phẩm như Lập thành toán pháp, Toán pháp
đại thành, Khải minh toán học,… Khoa học -
Khoa học quân sự: có sự phát triển mạnh mẽ với nhiều phát
minh như súng đại bác, thuyền chiến có pháo. Tư tưởng quân sự
cũng được xây dựng và hoàn thiện.
-Y học: bộ sách Nam dược thần hiệu, Hồng nghĩa giác tư y thư,
Hải Thương y tông tâm lĩnh,…Có nhiều danh y như Nguyễn Bá Tĩnh, Lê Hữu Trác,… lOMoAR cPSD| 61464806 Nghệ thuật - Âm nhạc:
CÂU 7: Những thành tựu và đặc điểm nổi bật của nền văn minh Đại Việt. lOMoAR cPSD| 61464806
+ Phát triển với nhiều thể loại: múa rối nước, ca đối đáp, hát ví giặm,…
+ Từ thời Lê, âm nhạc cung đình có vai trò quan trọng, gắn liền với quốc thể.
+ Nhiều lễ hội được tổ chức hằng năm đã trở thành truyền thống
chung của các cộng đồng dân tộc Việt Nam. - Nghệ thuật:
+ Kiến trúc phát triển mạnh dưới thời Lý – Trần.
+ Điêu khắc trên đá, trên gốm rất độc đáo, mang đậm đà bản sắc
dân tộc và có sự tiếp thu nghệ thuật điêu khắc của Trung Quốc và Chăm-pa.
Thành tựu mà em ấn tượng nhất đó chính là sự ra đời của chữ Nôm, vì: -
Chữ Nôm đánh dấu bước phát triển của nền văn hóa dân tộc, ý thức tự cường
và khẳng định vai trò, địa vị của tiếng Việt. -
Chữ Nôm ra đời đã đáp ứng được phần nào nhu cầu phát triển của nền văn hóa
dân tộc, giai đoạn nước Đại Việt vững bước trong kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất. -
Xuất hiện những thể loại văn học mới, như: ca trù, diễn ca, truyện thơ lục bát,
song thất lục bát và truyện thơ luật Đường, đây là những thể loại sử dụng ngôn ngữ thi ca dân tộc.
CÂU 8. Chức năng của phong tục tập quán trong văn hóa Việt Nam.
3.1.1. Trong văn hóa Việt Nam:
Phong tục, tập quán là một lĩnh vực của văn hóa, là những di sản văn hóa vô giá, làm
nên sự khác biệt của văn hóa dân tộc, và như đã nói, là lĩnh vực rộng lớn nhất của
văn hóa. Nói tới phong tục, tập quán là nói tới diện văn hóa, để phân biệt với lễ hội
là điểm văn hóa. Cũng giống như các lĩnh vực văn hóa khác, phong tục, tập quán
mang đặc điểm dân tộc, lịch sử, giai cấp rõ nét. Mỗi dân tộc, sắc tộc lại có phong tục,
tập quán của riêng mình.
Phong tục, tập quán góp phần làm nên bộ mặt của văn hóa từng thời đại, bởi tính
lịch sử của nó. Phong tục, tập quán cũng mang tính giai cấp, tính chính trị hay tư lOMoAR cPSD| 61464806
tưởng nhất định, nhất là những tư tưởng của giai cấp thống trị. Những “thói quen”
của các đấng bề trên, cả những thói quen tốt lẫn những thói quen xấu đều dễ dàng
được các tầng lớp xã hội bên dưới tập nhiễm, học theo. Không ít những phong tục,
tập quán quá khứ trở thành những nét đẹp văn hóa muôn đời, những mĩ tục, được
nâng niu, gìn giữ qua các thế hệ người Việt.
Nhưng cũng coi không ít những phong tục, tập quán quá khứ là những cái lạc hậu,
tiêu cực, những thủ tục cản trở con người trong cuộc sống, nhất là những thủ tục về
hôn nhân, ma chay, cưới xiu, những thủ tục mê tín dị đoan hay những thủ tục trói
buộc tự do và quyền bình đẳng của con người… Ngay trong thời hiện đại, nhiều thói
quen văn hóa tốt đẹp đã hình thành, trở thành những phong tục, tập quán tốt đẹp của
xã hội văn minh. Nhưng cũng xuất hiện những thói quen văn hóa, những phong tục
tập quán làm tổn hại đến đạo đức, nhân phẩm, tính trung thực, trọng hiền tài, tính
công minh chính đại của việc hành pháp.
Phong tục, tập quán mang nhũng giá trị văn hóa phố quát của cả cộng đồng. Đó là
những nguyên tắc, quy định, quy phạm văn hóa của cộng đồng, được mọi người
công nhận và thuân thủ theo. Phong tục, tập quán vừa là kết quả do con người tạo
ra, vừa là một yếu tố khách thế chi phối đời sống con người, như những luật lệ văn hóa bất thành văn…
Vai trò của phong tục, tập quán trong nền văn hóa còn thấy rõ ở chỗ nó phản ánh,
hay là kết quả, của những điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội, hoàn cảnh lịch sử,
điều kiện sống cụ thể của từng dân tộc, từng vùng miền. Nó cũng phản ánh đời sống
tinh thần, tâm hồn con người qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Phong tục, tập quán
thể hiện thói quen, nếp sống, điều kiện sống dân tộc, thể hiện đời sống tâm linh, tôn
giáo của các dân tộc khác nhau; nó cũng thể hiện nhu cầu, khát vọng sống của con
người, có tác dụng kích thích sản xuất, tiêu dùng, điều tiết sinh hoạt xã hội, hay củng
cố cấu trúc gia đình, làng xã, cộng đồng, chính quyền truyền thông
CÂU 10. Vai trò của Phật giáo và Nho giáo trong đời sống văn hoá người Việt.
PHẬT GIÁO là một tôn giáo lớn được truyền bá vào VN ngay từ đầu Công nguyên
bằng cả 2 con đường: đường thủy thông qua con đường buôn bán với thương gia Ấn
Độ, đường bộ thông qua giao lưu vh với TQ. Phật giáo VN mang cả 2 sắc thái: đại
thừa và tiểu thừa của TQ và Ấn Độ. Phật giáo sớm hòa nhập vào vh bản địa VN, góp
phần KĐ sự gắn bó của vh VN với cơ tầng vh Đông Nam Á tiền sử. Phật giáo có vai
trò rất lớn trong đs vh VN. -
Đối với dân tộc, Phật giáo đã từng là cơ sở của khối đại đoàn kết DT, luôn gắn
bó với qtr đtr dựng và giữ nước của DTVN.
+ Trong bc gần ngàn năm Bắc thuộc, Phật giáo VN đã hòa mình, gắn bó với DT
thông qua việc vận động tín đồ, Phật tử và nhân dân đoàn kết để phò vua, cứu nước,
đánh đuổi ngoại xâm, giành lại đl DT. lOMoAR cPSD| 61464806
LSDT CMR Phật giáo đã có nhiều đóng góp vào sn dựng và giữ nước. Tín đồ Phật
giáo cũng hiểu rằng ĐN có đl thì Phật giáo mới ổn định, phát triển và hưng thịnh. +
Phật giáo được xem là quốc giáo vào hai thời Lý (1010-1225) và Trần (12251400).
Các vị vua thời này đã tạo nên một triều đại lấy đức từ bi làm căn bản cho chính trị
và luôn sống vì dân nên đã cố kết lòng dân để vua tôi, dân chúng đoàn kết chung
lòng chống ngoại xâm, XD ĐN. -
Phật giáo còn thể hiện rõ tinh thần nhập thế, góp phần vào nhiệm vụ phát triển
chung của ĐN trong nhiều thế kỉ.
+ Phật giáo VN kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời. Vốn là một tôn giáo xuất thế,
nhưng nào VN, Phật giáo trở nên rất nhập thế.
+ Các cao tăng được nhà nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ
trọng. 971, vua Đinh Tiên Hoàng phong cho đại sư Khuông Việt làm tăng thống; ông
cùng pháp sư Đỗ Thuận từng được giao tiếp sứ thần nhà Tống. Trước khi xuất quân
đánh Tống, vua Lê Đại Hành đã hỏi ý kiến Sư Vạn Hạnh. Thời Lí, thiền sư Vạn Hạnh
trở thành cố vấn về mọi mặt cho vua Lí Thái Tổ. Thời Trần, các sử Đa Bảo, Viên
Thông…đều tham gia chính sự.
+ Sự gắn bó đạo – đời còn thể hiện ở việc nhiều vua quan quý tộc đi tu. Trong 6 thế
hệ đệ tử của phái Thảo Đường thì có tới 9ng là vua quan đương nhiệm, vua Trần sau
khi lên làm Thái Thượng hoàng thì xuất gia sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm....; ở
sân chùa Phổ Minh, quê hương nhà Trần có chiếc vạc đồng lớn (1 trong 4 “An Nam
tứ đại khí”) tượng trưng cho quyền lực.
+ Vẫn truyền thống đó, đầu TK XX, Phật tử VN hang hái tham gia vào các hoạt
động XH (cuộc vđ đòi ân xá PBC và đám tang PCT). Thời Diệm-Thiệu, Phật tử
Miền Nam đã tham gia tích cực vào pt đtr đòi hb và ddlDT, nổi bật là sự kiện Phật
tử xuống đường đtr phản đối nền độc tài của GĐ họ Ngô, đỉnh cao là sk hòa thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè 1963. -
Phật giáo đóng góp cho vh VN nhiều công trình kiến trúc quan trọng, đặc sắc.+
Một trong những đóng góp qtr của vh Phật giáo là ngôi chùa, rất đb mà cũng vô cùng
gần gũi, gắn bó với ng dân. Chùa đã hòa nhập vào làng xã mà biến thành Chùa làng.
Chùa làng là chùa của làng, nhiều nơi lấy tên làng để đặt tên cho chùa và thường
không phải chùa của sư, tuy rằng vẫn có sư trụ trì. Vai trò của chùa làng rất quan
trọng trong đs tinh thần của nhân dân vì ngôi chùa góp phần hình thành tư tưởng đạo
đức, nhân cách cho dân làng, trong đó phải kể đến vai trò to lớn của nhà sư. “Chùa
có sư như nhà có nóc”. Bởi vậy, một trong những điều đặc biệt là ĐN bị xâm chiếm
nhưng làng xã VN không mất, các sinh hoạt trong cộng đồng làng xã, trong đó ngôi
chùa vẫn cơ bản giữ được truyền thống, ít bị đồng hóa. Người dân từ nhiềuđời đã coi
ngôi chùa là trung tâm vh, là trường học góp phần GD nền đạo đức, lòng từ bi nên
khi vừa dời đô về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho XD nhiều chùa và tuyển chọn
hàng nghìn người ở kinh thành Thăng Long xuất gia đi tu. Vì thế, thời Lí-Trần, trung lOMoAR cPSD| 61464806
tâm sinh hoạt vh dân gian ở các làng xã quanh các ngôi chùa. Sang thời Lê, khi khi
những ngôi đình xh và phát triển thì chùa làng vẫn không giảm đi phần quan trọng.
Các ngôi chùa nổi tiếng còn tồn tại đến ngày nay: chùa Phật Tích, chùa Dạm, Phổ
Minh, Yên Tử, Một Cột…
+ Sách vở Trung Hoa đời Minh truyền tụng nhiều về bốn công trình nghệ thuật lớn
mà họ gọi là An Nam tứ đại khí: Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, Tháo Báo Thiên,
Chuông Quy Điền, Vạc Phổ Minh. Đáng tiếc là tuyệt đại bộ phận các thành tựu văn
hóa đều đã bị quân Minh tàn phá dã man. -
Đv mỗi ng dân VN dù là Phật tử hay không thì Phật giáo cũng góp phần nuôi
dưỡng, củng cố, phát triển CN nhân đạo, đức tính hòa hợp, tinh thần vị tha, những
phẩm chất quý báu của con ng VN. Người Việt tiếp nhận Phật giáo, đồng thời tiếp
nhận những tư tưởng bình đẳng, bác ái, vô ngã, vô thường…ở đạo Phật, những tư
tưởng này cùng với tư tưởng cộng đồng cổ truyền đã làm cản trở quá trình phân hóa
g/c, làm dịu những cung đột g/c trong XH.
Sự đoàn kết, hòa hợp của Phật giáo và phát huy truyền thống hòa quyện giữa Phật
giáo với Dân tộc trên con đường phát triển của mình chắc hẳn sẽ làm cho Phật giáo
đã, đang phát triển và sẽ còn sống mãi trong lòng DT và giữa nền văn hóa DG của
VN. Hiện nay, những giá trị văn hóa truyền thống DT nói chung và vh Phật giáo nói
riêng đang có dấu hiệu bị phai nhạt. Nhiều người không hiểu giáo lí Phật giáo mặc
dù đi chùa thường xuyên, trong đó có giới trẻ. Trong khi đó, sự cám dỗ về vc ngày
càng lớn, đạo đức XH xuống cấp nghiêm trọng, tệ nạn XH tràn lan, gây bất ổn cho
không ít GĐ và phức tạp cho XH, nhưng nhiều ng lại không tu học, không hiểu nhiều,
hiểu sâu. Đó là vđ cần được quan tâm để giữ gìn sự trong sáng của vh Phật giáo ở VN.
NHO GIÁO là hệ thống giáo lí của các nhà nho nhằm tổ chức XH có hiệu quả,
được cho là do Khổng Tử sáng lập. Sách kinh điển của Nho giáo gồm 2 bộ: Tứ thư
và Ngũ kinh. Nho giáo được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên,
Sĩ Nhiếp ra sức truyền bá một cách áp đặt vào nước ta từ đầu Công nguyên. Trải qua
hơn 2000 năm, Nho giáo đã tác động mạnh mẽ đến nhiều mặt đs vh người Việt, đb
là đs tinh thần và tổ chức XH. -
Nho giáo vào VN là Nho giáo của gđ PK tập quyền chứ không phải Nho giáo
nguyên thủy mang màu sắc phân quyền thời Khổng Tử nên nó là ý thức hệ đặc trưng
của tầng lớp cai trị PK. Sự thẩm thấu của Nho giáo vào đs ND vì thế cũng hạn chế.
+ Người dân coi Nho giáo là học vấn của g/c thống trị nên chỉ giữ thái độ “kính nhi
viễn chi”. Họ học Nho giáo để đi thi, làm quan nhiều hơn là học về lối sống. Người
dân tiếp thu nhân sinh quan của Nho giáo trong một chừng mực nhất định, không
xung đột với phong tục và không trái lệ làng. lOMoAR cPSD| 61464806
+ Nhà Nho không tách thành một giai tầng đặc biệt, đỗ đạt thì ra làm quan, không
đỗ/thôi quan thì trở về làm người dân bình thường. -
Trong các hoạt động văn hóa, Nho giáo tác động chủ yếu vào các hoạt động văn hóa tinh thần:
+ Trong văn hóa tổ chức cộng đồng, ở cấp độ GĐ, Nho giáo phối hợp với văn hóa
Hán làm hình thành chế độ GĐ phụ hệ đi đôi với nam quyền cực đoan, tồn tại song
hành với truyền thống trọng nam đi đôivới trọng nữ của vh DG. Trong GĐ, gia tộc,
quốc gia, Nho giáo trực tiếp làm hình thành chế độ tông pháp, trao quyền thừa kế,
thừa tự cho con trai trưởng chính dòng, song hành với tập quán trao quyền thừa kế,
thùa tự cho con trai út của DG. Trên bình diện QG, Nho giáo là cơ sở làm hình thành
tổ chức nhà nước của Đại Việt, bao gồm hệ thống hành chính, tổ chức quân sự, quan
chế, lương bổng…mô phỏng Trung Hoa, tồn tại song hành với tổ chức cộng đồng
cấp làng quê ra đời từ thời VL-ÂL
+ Về tín ngưỡng, nhà nho VN coi Nho giáo như tôn giáo, gạt bỏ, bài xích các tôn
giáo khác ngoại trừ những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích, như
lòng tin vào thiên mệnh, việc tế lễ, thờ cúng tổ tiên… Vì vật, trong Nho giáo là tôn
giáo của đàn ông người Việt, bên cạnh các tôn giáo dành cho các bà các cô như đạo Phật, đạo Mẫu…
+ Về phong tục, sự tác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một phần
các phong tục vòng đời, đặc biệt là phong tục hôn nhân, phong tục tang ma. Trong
thời trung đại, các phong tục này đều lấy hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán
làm chuẩn mực. Chính vì vậy mà cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều người viết sách
mô tả các phong tục và nghi thức ấy trong văn hóa Việt Nam hiện đại như thể chúng
làbản sao của phong tục Trung Hoa trung đại. Thật ra, bên cạnh các phong tục hôn
nhân, phong tục tang ma theo hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán trước đây,
người Việt ở các vùng miền khác nhau và các tôn giáo ở Việt Nam đều có cách thức
riêng để thực hiện các phong tục ấy.
+ Trong giáo dục, Nho giáo là cơ sở hình thành hệ thống giáo dục chính thống của
Việt Nam trung đại ở bốn cấp kinh đô - tỉnh/đạo - phủ - huyện/châu, và chế độ thi
tuyển gồm bốn cấp khảo hạch - thi Hương - thi Hội - thi Đình, để đào tạo ra quan lại
nhà nước, quan viên làng xã. Hệ thống giáo dục chính thống này tồn tại song hành
với mạng lưới giáo dục dân gian trong gia đình, làng xóm, làng nghề, nhằm giáo dục
cách ứng xử với gia đình, cha mẹ, ông bà, tổ tiên, họ hàng, làng xóm, thần linh...
Trong lịch sử 844 năm khoa cử Hán học ở Việt Nam (1075 - 1919), nền giáo dục
Nho giáo đã tạo ra hàng nghìn ông Nghè, ông Cử, ông Tú mà trong số đó nhiều người
đã nổi lên thành nhà văn hóa hay nhà khoa học, như nhà sử học Lê Văn Hưu, danh
nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Trạng Lường Lương
Thế Vinh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Bùng Phùng Khắc
Khoan, nhà bác học Lê Quý Đôn, thi hào Nguyễn Du, nhà bác học Phan Huy lOMoAR cPSD| 61464806 Chú…
+ Về văn học và nghệ thuật, Nho giáo đã góp phần làm hình thành các thể văn khoa
cử (kinh nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn sách, thơ, phú...), các thể loại văn học mô phỏng
Trung Hoa (thơ Đường luật, phú, từ, đối...), các điển tích văn học, các sách giáo khoa
truyền thụ Nho giáo, các tác phẩm văn học và nghệ thuật chịu ảnh hưởng của Nho
giáo. Những sản phẩm ấy làm thành dòng văn học nghệ thuật quan phương chính
thống, tồn tại song hành với dòng văn học dân gian, nghệ thuật dân gian.
+ Về ngôn ngữ và văn tự, quá trình tiếp biến văn hóa Hán nói chung, Nho giáo nói
riêng đã để lại dấuấn sâu đậm trong ngôn ngữ và chữ viết ở Việt Nam. Về ngữ âm,
tiếng Việt, tiếng Mường đã biến đổi các phụâm cuối, hình thành thanh điệu và rơi
rụng các âm tiết phụ của thời Môn - Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn rơi rụng
các tổ hợp phụ âm đầu. Về ngữ pháp, tiếng Việt, tiếng Mường đã rơi rụng các phụ tố
tạo từ của thời Môn - Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn hình thành các phụ tố tạo
từ gốc Hán - Việt, và mượn nhiềucách diễn đạt của tiếng Hán. Về từ vựng, trong
tiếng Việt, tiếng Mường đều có nhiều yếu tố gốc Hán; riêng tiếng Việt có đến 70%
từ gốc Hán. Hiện nay, tiếng Việt đang sử dụng một bộ phận từ vựng gốc Hán có số
lượng và tần suất sử dụng rất lớn, bao gồm Hán - Việt cổ, Hán - Việt trung đại, Hán
- Việt cận đại (khẩu ngữ của người Hoa Nam bộ), từ ngữ có yếu tố Hán - Việt. Trong
vốn từ tiếng Việt, đặc biệt là lớp từ vựng văn hóa, số lượng các yếu tố gốc Hán chiếm
một tỷ lệ áp đảo, cả ở ba cấp độ: từ, ngữ, phụ tố. Bộ phận từ vựng gốc Hán này bao
gồm hầu hết các bình diện văn hóa mà cư dân Việt chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán,
trong đó ảnh hưởng rõ rệt nhất là các hoạt động văn hóa tinh thần: cách thức tổ chức
xã hội cổ truyền (con người,họ tên, quan hệ thân tộc, tổ chức hành chính, tổ chức
quân sự, bộ máy quan lại...); tín ngưỡng, phong tục, lễ hội (tín ngưỡng, tôn giáo, giáo
dục, khoa cử, phong tục vòng đời, lễ hội...); văn học, nghệ thuật (thuật ngữ, các thể
văn hành chính và khoa cử, các thể loại văn học bác học, một số loại hình sân khấu...);
ngôn ngữ (đặtđịa danh, vay mượn và sao phỏng từ ngữ, cấu tạo từ mới từ các yếu tố
gốc Hán...). Quá trình tiếp biến văn hóa Hán và Nho giáo trong ngôn ngữ ấy tồn tại
song hành với quá trình bảo tồn ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng gốc Môn - Khơme, và
tiếp biến các ngôn ngữ Tày, Chăm, Hoa, Khơme, Pháp trong tiếng Việt.Về văn tự,
chữ Hán là văn tự chính thức của Việt
Nam trong suốt thời phong kiến tự chủ, và vì là phương tiện chuyên dùng chuyển tải
Nho giáo, nên chữ Hán thường được gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Quá trình tiếp
biến văn hóa Hán và Nho giáo trong chữ viết ấy tồn tại song hành với quá trình Việt
hóa các văn tự ngoại lai. Từ khi ra đời dưới thời Trần, chữ Nôm, loại văn tự phái sinh
từ chữ Hán, vừa được dùng để chuyển tải văn hóa dân gian, vừa được dùng để chuyển
tải văn hóa quan phương chính thống theo Nho giáo. Và đến đầu thế kỷ XX, với
phong trào Duy Tân - Đông Du, chữ Quốc ngữ, hình thành từ thế kỷ XVII, đã phát
triển thành văn tự của toàn dân, giúp chuyển tải những tư tưởng, tri thức mới, thoát lOMoAR cPSD| 61464806
ly Nho giáo.Như vậy, trong chặng đường hơn 2000 năm tiếp xúc văn hóa Hán của
Việt Nam, Nho giáo đã thật sự tác động mạnh vào xã hội Việt Nam trong hai giai
đoạn: Hậu Lê (1428 - 1527) và nhà Nguyễn (1802 - 1883). Hai đối tượng chịu ảnh
hưởng rõ nhất của Nho giáo và văn hóa Hán là chủ thể văn hóa và văn hóa tinh thần.
Trong chủ thể văn hóa, Nho giáo đã tác động chủ yếu đến các giai cấp, tầng lớp trên
trong xã hội, chứ không ăn sâu bén rễ vào các giai cấp, tầng lớp dưới. Đối với văn
hóa tinh thần, Nho giáo đã góp phần làm hình thành dòng văn hóa quan phương
chính thống, chứ không thay thế được dòng văn hóa dân gian vốn có một bề dày lịch
sử gắn với ý thức tộc người, làm nên cốt lõi của văn hóa tộc người. Tức là, Nho giáo
đã làm tách đôi kiến trúc thượng tầng của xã hội Việt Nam, làm hình thành dòng văn
hóa quan phương theo Nho giáo, song hành và đối lập với dòng văn hóa dân gian
bản địa. Hai dòng văn hóa này dung hợp lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Nho giáo ở
Việt Nam được Việt hóa một phần, khác với Nho giáo ở Trung Hoa. Văn hóa dân
gian Việt cũng bị Nho giáo hóa một phần, nhiều phong tục gốc Hán và gốc Việt tồn
tại song song. Cho nên sẽ rất sai lầm nếu quan niệm hoặc mô tả văn hóa Việt như
một bản sao của văn hóa Hán. Hơn nữa, ảnh hưởng của Nho giáo và văn hóa Hán
đối với văn hóa Việt Nam cũng chỉ kéo dài đến cuối thế kỷ XIX. Trong nền văn hóa
Việt Nam đương đại, Nho giáo không còn là tôn giáo, ý thức hệ hay họcthuyết chính
thống, chỉ là tàn dư trong một số phong tục và nghi lễ
CÂU 8.Đặc trưng văn hóa của làng xã Việt Nam. Liên hệ tác động của văn hoá
làng xã Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.
Làng là khối dân cư ở nông thôn làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều
mặt và là đơn vị hành chính thấp nhất thời PK.
- Đặc trưng cơ bản của vh làng xã VN là tính cộng đồng và tính tự trị.
+ Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã.
Tính cộng đồng là sự lk các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng
tới những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại.
+ Sản phẩm của tính cộng đồng ấy là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào
biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình
PK. Mỗi làng là một “vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng (hương ước) và
“tiểu triều đình” riêng (nội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí lịch là cơ quan hành
pháp; nhiều làng tôn xưng 4 vị tuổi cao nhất làng là “tứ trụ”). Sự biệt lập đó tạo nên
truyền thống “phép vua thua lệ làng”. Tình trạng này thể hiện quan hệ dân chủ đặc
biệt giữa nhà nước PK với làng xã ở VN.
 Tính cộng đồng và tự trị chính là 2 đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của
làng xã; chúng tồn tại // như 2 mặt của 1 vấn đề. lOMoAR cPSD| 61464806 -
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình – bến nước – cây đa.
+ Làng nào cũng có một cái đình. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi
phương diện. Trước hết, nó là một trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi công việc
quan trọng, nơi hội họp, thu sưu thuế, giam giữ và xử tội phạm nhân… Thứ đến,
đình là một trung tâm vh, nơi tổ chức các hội hè, ăn uống, nơi biểu diễn chèo tuồng.
Đình còn là một trung tâm về mặt tôn giáo. Thế đất, hướng đình được xem là quyết
định vận mệnh cả làng; đình cũng là nơi thờ thần Thành Hoàng bảo trợ cho dân làng.
Cuối cùng, đình là một trung tâm về mặt tình cảm. Nói đến làng là nghĩ đến cái đình
với all những tình cảm gắn bó thân thương nhất: “Qua đình ngả nón trông đình –
Đình bn ngói thương mình bấy nhiêu.”
+ Do ảnh hưởng của Trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của all mn dần chỉ còn
là nơi chốn lui tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, pn quần tụ lại nơi bến nước
(những làng không có sông chảy qua thì có giếng nước) – chỗ hàng ngày chị em gặp
nhau cùng rửa rau, vo gạo, giặt giũ, chuyện trò.
+ Cây đa cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng khói
hương nghi ngút – đó là nơi hội tụ của thánh thần: “Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo
cây đề”; “Sợ thần sợ cả cây đa”. Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân
gặp gỡ của những người đi làm đồng, những khách qua đường…
Nhờ khách qua đường, gốc cây đa trở thành cánh cửa sổ liên thông làng với TG bên ngoài. -
Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao kín quanh làng,
trở thành một thứ thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không
được, đào đường hầm thì vướng rễ không qua. Lũy tre là một đặc điểm quan trọng
làm cho làng xóm phương Nam khác hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách đắp bằng đất bao bọc. -
Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất. Do vậy nên người VN luôn sẵn
sàng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, coi mn trong cộng đồng như anh chị em trong nhà:
“tay đứt ruột xót”, “chị ngã em nâng”, “lá lành…” Do đồng nhất cho nên người VN
luôn có tính tập thể rất cao, hòa đồng vào cuộc sống chung. Sự đồng nhất cũng chính
là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ - bình đẳng bộc lộ trong các nguyên tắc tổ chức
nông thôn theo địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo giáp. -
Mặt khác, lại cũng chính do đồng nhất mà ở người VN, ý thức về con người cá nhân bị thủ tiêu:
Người VN luôn hòa tan vào các mqh XH, gq các xung đột theo lối hòa cả làng. Điều
này khác hẳn với truyền thống p. T, nơi con người được rèn luyện ý thức cá nhân từ nhỏ. -
Sự đồng nhất còn dẫn đến chỗ người VN hay dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: “Nước trôi thì bèo trôi”, lOMoAR cPSD| 61464806
“Nước nổi thì thuyền nổi”. Tệ hại hơn nữa là tình trạng “Cha chung không ai khóc”;
“Lắm sãi không ai đóng cửa chùa”… Cùng với thói dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởng cầu
an (an phận thủ thường) và cả nể, làm gì cũng sợ rút dây động rừng nên có việc gì
thường chủ trương đóng cửa bảo nhau… -
Một nhược điểm trầm trọng t3 là thói cào bằng, đố kị, không muốn cho ai hơn
mình (để all đều giống nhau): “Xấu đều hơn tốt lơi”, “Khôn độc không bằng ngốc đàn”…
 Những thói xấu có nguồn gốc từ tính cộng đồng này khiến cho ở VN, khái niệm
“giá trị” trở nên hết sức tương đối (KĐ đặc điểm tính chủ quan của lối tư duy nông
nghiệp): Cái tốt, nhưng là tốt riêng rẽ thì trở thành xấu; ngược lại, cái xấu nhưng là
xấu tập thể thì trở nên bình thường.- Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào sự khác
biệt. Khởi đầu là sự khác biệt của cộng đồng (làng, họ) này so với cộng đồng (làng,
họ) khác. Sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị - tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng:
mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi việc. Vì phải tự lo liệu nên người VN
có truyền thống cầncù, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Nó cũng
tạo nên nếp sống tự cấp tự túc: mỗi làng tự đáp ứng mọi nhu cầu cho c/s của làng
mình; mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà, ao cá – tự đảm bảo nhu cầu vềăn; có bụi tre,
rặng xoan, gốc mít – tự đảm bảo nhu cầu về ở.- Mặt khác, cũng chính do nhấn mạnh
vào sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị - mà người VN có thói xấu là óc tư hữu ích
kỉ: “Bè ai người nấy chống”, “Ruộng ai người ấy đắp bờ”; “Ai có thân người ấy lo,
aicó bò người ấy giữ”… Óc tư hữu ích kỉ nảy sinh ra từ tính tự trị của làng xã VN và
đã luôn bị chính người Việt phê phán : “Của mình thì giữ bo bo, của người thì để cho
bò nó ăn”…- Thói xấu t2 có nguồn gốc từ tính tự trị là óc bè phái, địa phương cục
bộ, làng nào chỉ biết làng ấy, chỉ lo vun vén cho địa phương mình: “Trống làng nào
làng nấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”; “Ta về ta tắm ao ta…”…- Một biểu hiện
của sự khác biệt nữa là óc gia trưởng – tôn ti. Tính tôn ti, sp của nguyên tắc tổ chức
nông thôn theo huyết thống, tự thân nó k phải xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia
trưởng, tạo nên tâm lí quyền huynh thế phụ, áp đặt ý muốn của mình cho người khác,
tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lí: “Sống lâu lên lão làng”; “Áo mặc không qua khỏi
đầu” thì nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội, nhất là khi mà
thói GĐ CN vẫn đang là một căn bệnh lan tràn.- Đặc điểm môi trường sống quy định
đặc tính tư duy. Cả hai quy định tính cách của dân tộc. Cuộc sống NN lúa nước và
lối tư duy BC dẫn đến sự hình thành nguyên lí âm dương và lối ứng xử nước đôi.
Cho nên tính chất nước đôi chính là 1 đặc điểm tính cách của DT Việt. Người Việt
vừa có tính đoàn kết tương trợ lại vừa có óc tư hữu, ích kỉ và thói cào bằng, vừa có
tính tập thể hòa đồng lại vừa có óc bè phái, địa phương; vừa có nếp sống DC bình
đẳng vừa có óc gia trưởng tôn ti; vừa có tinh thần tự lập vừa xem nhẹ vai trò cá nhân;
vừa có tính cần cù và nếp sống tự cấp tự túc lại vừa có thói dựa dẫm ỷ lại. All cái tốt
và xấu ấy cứ đi thành từng cặp và đều tồn tại ở người VN; bởi lẽ all đều bắt nguồn lOMoAR cPSD| 61464806
từ 2 đặc trưng gốc trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị. Tùy lúc tùy nơi
mà mặt tốt hoặc xấu sẽ được phát huy: khi đứng trước nhữngkhó khăn lớn, những
nguy cơ đe dọa sự sống còn của cả cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tinh thần đoàn kết
và tính tập thể, nhưng khi nguy cơ ấy qua đi rồi thì thói tư hữu và óc bè phái địa
phương lại nổi lên.Đến thời Nguyễn, việc khai phá DDBNB đã mang lại thêm một
khuôn mặt mới cho làng xã VN. Nét đặc trưng của làng xã NB là tính mở: Làng NB
không có lũy tre dày đặc bao quanh với cổng làng sớm mở tối đóng như làng BB. Ở
vùng đất cao, bờ tre chỉ còn là một biểu tượng đánh dấu ranh giới các ấp thôn; ở vùng
sông nước, thôn ấp trải dài dọc theo các kênh rạch. Thành phần dân cư của làng NB
thường hay biến động, người dân không bị gắn chặt với quê hương như ở làng BB.
Tính cách người nông dân NB cho vậy cũng trở nên phóng khoáng hơn: làm bn ăn
bấy nhiêu, được đến đâu hay đến đó.Mọi sự đổi thay có lí do của nó. TP cư dân nơi
đây biến động vì nơi đây còn nhiều miền đất chưa được khai phá, người dân có thể
rời làng để tìm đến nơi dễ làm ăn hơn. Việc tổ chức thôn ấp theo các dòng kênh các
trục giao thông thuận tiện là sp của thời đại, khi KT hàng hóa đã bắt đầu phát triển.
Tính cách phóng khoáng là do thiên nhiên NB ưu đãi, khí hậu ổn định, hầu như ít
gặp thiên tai thất thường. Vì làng NBcó cấu trúc mở, tính cách người NB phóng
khoáng, nên vùng này dễ tiếp cận hơn những ảnh hưởng từ bên ngoài của vh p.T (kể
cả những a.h tiêu cực thời Pháp, Mĩ).Tuy nhiên, dù hay biến động, người NB vẫn
sống thành làng với thấp thoáng bóng tre, mỗi làng vẫn có một ngôi đình với tín
ngưỡng thờ thần Thành Hoàng (dù chỉ là Thành Hoàng chung chung), hàng năm cư
dân vẫn tụ họp nhau ở các lễ hội. Dù làm ăn dễ dãi, người NB vẫn giữ nếp cần cù.
Dù kinh tế hàng hóa có phát triển, họ vẫn coi trọng tính cộng đồng, yếu tố hàng xóm
vẫn đứng t2 trong thang bậc ưu tiên khi chọn nơi cư trú: Nhất cận thị, nhì cận lân,
tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền. Bức tranh đó của làng NB đã góp phần làm
nên tính thống nhất của DTVN, vh VN.
CÂU 12. Giao lưu và tiếp biến văn hóa. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây
vào Việt Nam. Phân tích tác động của toàn cầu hóa đến bản sắc văn hóa Việt Nam.
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội (Trần Ngọc Thêm – CSVHVN). Thuật ngữ giao
lưu và tiếp biến văn hóa được sử dụng khá rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã
hội như khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, văn hóa học.. tức là những ngành khoa
học có đối tượng nghiên cứu là con người và xã hội, nhân văn. Giao lưu và tiếp biến
văn hóa là hai biểu hiện của cơ chế vận hành văn hóa.
Khái niệm giao lưu và tiếp biến văn hóa được dùng với nhieeuftuwf khác nhau. lOMoAR cPSD| 61464806
Người Anh dùng Cultural Change (trao đổi văn hoá), người Tây Ban
Nhau dùng transculturation. Khái niệm Acculturation của người Hoa Kỳ được các
nhà nghiên cứu ở Việt Nam dịch với những nét nghĩa khác nhau: đan xen văn hoá,
hỗn dung văn hoá, giao thoa văn hoá. Cách dịch được nhiều người chấp nhận là giao
lưu và tiếp biến văn hoá.
Nếu quy luật kế thừa là sự khái quát hoá quá trình phát triển văn hoá diễn ra theo
trục thời gian thì giao lưu và tiếp biến văn hoá nhìn nhận sự phát triển văn hoá trong
mối quan hệ không gian với nhiều phạm vi rộng hẹp khác nhau, tuỳ trình độ phát
triển và đặc điểm riêng của mỗi dân tộc.
Khái niệm: Giao lưu và tiếp biến văn hoá là sự gặp gỡ, thâm nhập và học hỏi lẫn
nhau giữa các nền văn hóa. Trong quá trình này, các nền văn hoá bổ sung, tiếp nhận
và làm giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, phát triển và tiến bộ văn hoá. Giao lưu
văn hoá là quá trình trao đổi thành tựu, thực hành văn hóa giữa các nền văn hóa. Quá
trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá thường diễn ra theo hai hình thức: + Hình thức tự
nhiên: Thông qua các hoạt động như buôn bán, thăm hỏi, du lịch, hôn nhân, quà
tặng...mà văn hoá được trao đổi trên tinh thần tự nguyện. Nhà Lý, về tổ chức xã hội,
chính trị lấy cơ chế của Nho giáo làm gốc, và chịu ảnh hưởng rất đậm của Phật Giáo.
Hình thức cưỡng bức: thường gắn liền với các cuộc chiến tranh xâm lược thôn tính
đất đai và đồng hoá văn hoá của một quốc gia này đối với một quốc gia khác. Trong
thời kì 1000 năm Bắc thuộc ngoài việc bóc lột Giao Châu về mọi phương diện, bộ
máy cai trị của người Hán còn thực hiện chính sách đồng hóa, tiêu diệt văn hóa của
cư dân bản địa. Trong một thiên niên kỉ Hán hóa, việc giữ gìn bản sắc dân tộc là một
việc không dễ dàng bởi kẻ xâm lược thì muốn đồng hóa, người xâm lược thì chống
đồng hóa. VH Việt luôn đứng trước thử thách lớn lao tồn tại hay không tồn tại. Giao
lưu văn hó vừa là kết quả của sự trao đổi vừa là chính bản thân sự trao đổi. có hiểu
như vậy mới thấy hết tầm quan trọng của giao lưu văn hóa trong lịch sử nhân loại, vì
sản xuất, trao đổi là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
Tiếp biến văn hóa là quá trình tiếp thu có cải biến những thành tựu văn hóa có nguồn
gốc ngoại sinh để yếu tố văn hóa mới không xung đột với yếu tố cũ. Phật giáo đến
VN tích hợp với sự sùng bái tự nhiên nên hình thành tín ngưỡng thờ Tứ pháp (Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Địa)
Quá trình giao lưu và tiếp biến đòi hỏi mỗi nền văn hoá phải biết dựa trên cái nội
sinh để lựa chọn tiếp nhận cái ngoại sinh, từng bước bản địa hoá nó để làm giàu, phát
triển văn hoá dân tộc. Trong tiếp nhận các yếu tố văn hoá ngoại sinh, hệ giá trị xã hội
và tâm thức dân tộc có vai trò rất quan trọng. Nó là "màng lọc" để tiếp nhận những
yếu tố văn hoá của các dân tộc khác, giúp cho văn hoá dân tộc phát triển mà vẫn giữ
được sắc thái riêng của mình. Sự phát triển của cái cải biến đến mức độ nào đó sẽ
làm thay đổi chính thực thể văn hóa, giống như quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi. lOMoAR cPSD| 61464806
Như vậy quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa diễn ra ở hầu khắc các nền văn hóa.
Nó là quy luật phát triển của vh, quy luật tất yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên
của con người hiện tại
CÂU 2. Tọa độ, loại hình văn hóa. Phân biệt loại hình văn hoá Việt Nam và
các nền văn hoá khác.
- K/n: loại hình văn hóa là lí thuyết được đưa ra để lí giải sự tương đồng và
khácbiệt giữa các nền văn hóa. Lí thuyết loại hình văn hoá được phân biệt dựa
trên sựtương đồng và khác biệt trong điều kiện tự nhiên, môi trường, phương
thức sảnxuất, phương thức sinh hoạt, điều kiện lịch sử-xã hội tạo ra nét khác
biệt về ngoạihình giữa các nền văn hóa của cộng đồng, quốc gia và khu vực.
- Theo Trần Ngọc Thêm có 2 loại hình như sau: văn hoá gốc nông nghiệp và
vănhoá gốc du mục (tương ứng là các nền văn hoá phương Đông và phương Tây).
- Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đông-Nam Châu Á nên Việt Nam
thuộcloại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc
trưngcủa loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất
rõ nét trongđặc trưng văn hóa Việt Nam. o
Môi trường tự nhiên: là xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên nhiều con
Môi trường tự nhiên: là xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm), tạo nên nhiều
consông lớn và các vùng đồng bằng trù phú o
Cư dân Việt Nam chủ yếu
sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với Cư dân Việt Nam chủ yếu
sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với tự nhiên, do nghề trồng trọt
buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, đơm hoa, kết trái và
thu hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn định, cho rằng” An cư lạc nghiệp” . o
Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp có ý thức tôn
Do sống phụ thuộc vào thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng và
ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng ra là nói “ nhờ
trời”, “lạy trời”… Các tín ngưỡng và lễ hội sung bái tự nhiên rất phổ biến ở các tộc
người trên khắp mọi vùng đât nước. o Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa
nước, cùng một lúc phụ thuộc Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước,
cùng một lúc phụ thuộc vào nhiều yếu tố thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,...
“ trông trời, trông đất, trông mây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm…”
nên về mặt nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp- biện chứng, nặng về kinh
nghiệm chủ quan cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay quen…
Người làm nông quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan
hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú
về các loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa