-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Nội dung ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khánh Hòa
Nội dung ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác 48 tài liệu
Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu
Nội dung ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khánh Hòa
Nội dung ôn tập - Triết học Mác - Lênin | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác 48 tài liệu
Trường: Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
1. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức (CSLL) -
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, VC và YT có MQH BC, trong đó VC quyết định YT, còn YT
tác động tích cực trở lại VC. -
Vật chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác. VC tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của mình,
không thể có VC không vận động và không có vận động ở ngoài VC. VC vận động trong không gian
và thời gian. Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của VC, là thuộc tính chung vốn có của các dạng VC cụ thể. -
Ý thức: là sp của QT phát triển của TN và LS-XH. Bản chất của YT là hình ảnh chủ quan của
TGKQ, là sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo TGKQ và bộ não người thông qua hoạt
động thực tiễn. Chính vì vậy, không thể xem xét hai phạm trù này tách rời, cứng nhắc, càng không
thể coi YT (bao gồm cảm xúc, ý chí, tri thức,…) là cái có trước, cái sinh ra và quyết định sự tồn tại,
phát triển của thế giới VC. -
Mối quan hệ biện chứng giữa VC và YT:
*Vật chất quyết định ý thức:
+ Thứ nhất, VC quyết định nguồn gốc của YT. VC “sinh” ra YT, vì YT xuất hiện gắn liền với sự xuất
hiện của con người cách đây từ 3-7tr năm, mà con người là kết quả của một QT phát triển, tiến hóa
lâu dài, phức tạp của giới TN, của TG VC. Con người do giới TN, VC sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên,
YT là 1 thuộc tính bộ phận của con người, cũng do giới TN, VC sinh ra. Các thành tựu của KHTN
hiện đại đã chứng minh rằng VC là cái có trước, còn YT là cái có sau; VC là tính thứ nhất, còn YT là
tính thứ hai. VC tồn tại khách quan, độc lập với YT và là nguồn gốc sinh ra YT. Bộ óc người là một
dạng VC có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành YT. Sự vận động của TG VC là yếu
tố quyết định sự ra đời của cái VC có tư duy là bộ óc người.
+ Thứ hai, VC quyết định nội dung của YT. YT dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản
ánh hiện thực khách quan. YT mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người. TGKQ, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn
có tính XH-LS của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà YT phản ảnh. YT chỉ là hình ảnh của
TGKQ. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất
quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, YT con người qua các thế hệ, qua
các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.
+ Thứ ba, VC quyết định bản chất của YT. Phản ánh và sáng tạo là 2 thuộc tính không tách rời trong
bản chất của YT. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc là
"phản ánh tâm lý" như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính
thực tiễn là hoạt động VC có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển
YT, trong đó YT của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo.
+ Thứ tư, VC quyết định sự vận động, phát triển của YT. Mọi sự tồn tại, phát triển của YT đều gắn
liền với QT biến đổi của VC; VC thay đổi thì sớm hay muộn, YT cũng phải thay đổi theo. Con người
là một sinh vật có tính XH ngày càng phát triển cả thể chất và TT, thì dĩ nhiên YT - 1 hình thức phản
ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó. ĐSXH ngày càng văn
minh và KH phát triển đã chứng minh điều đó. Trong ĐSXH, vai trò quyết định của VC đối với YT
được biểu hiện ở vai trò của KT đối với CTrị, ĐSống VC đối với ĐSống TT, tồn tại XH đối với YT
XH. Trong XH, sự phát triển của KT xét đến cùng quy định sự phát triển của VH; ĐS VC thay đổi
thì sớm muộn ĐS TT cũng thay đổi theo.
*YT có tính độc lập tương đối và tác động trở lại VC
+ Thứ nhất, tính độc lập tương đối của YT thể hiện ở chỗ, YT là sự phản ánh TG VC vào trong đầu
óc con người, do VC sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì YT có “ĐS” riêng, có quy luật vận động, phát 1
triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc vào VC. YT 1 khi ra đời thì có tính độc lập tương đối,
tác động trở lại TG VC. YT có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn
chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của TG VC.
+ Thứ hai, sự tác động của YT đối với VC phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ
hoạt đông thực tiễn, YT có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh VC, thậm chí còn tạo ra
“thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho CS của con người. Còn tự bản thân YT thì không thể biến đổi
được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về TGKQ, hiểu biết những quy luật khách quan,
từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định.
+ Thứ ba, vai trò của YT thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể
quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh
đúng hiện thực, YT có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên
những lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần
động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh VC được nhân lên gấp bội.
Ngược lại, YT có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
+ Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của YT ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay,
thời đại thông tin, KT tri thức, thời đại của cuộc CMKH&CN hiện đại, khi mà tri thức KH đã trở
thành LLSX trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức KH, của tư tưởng CTrị, tư
tưởng nhân văn là hết sức quan trọng. Tính năng động, sáng tạo của YT mặc dù rất to lớn, nhưng nó
không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề VC đã xác định, phải dựa vào các điều kiện
khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi
vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi
thất bại trong hoạt động thực tiễn.
VC quyết định sự hình thành và phát triển của YT. VC là cái có trước, nó sinh ra và quyết định YT.
Nguồn gốc của YT chính là VC. Bộ não ngưòi là cơ quan phản ánh TG xung quanh, sự tác động của
TG VC vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc TN. LĐ và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) trong hoạt
động thực tiễn cùng với nguồn gốc TN quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của YT. Mặt
khác, YT là hình ảnh chủ quan của TGKQ. VC là đối tượng, khách thể của YT, nó quy định nội
dung, hình thức, khả năng và quá trình vận động của YT, tác động trở lại của YT. YT do VC sinh ra
và quy định, nhưng YT lại có tính độc lập tương đối của nó. Hơn nữa,sự phản ánh của YT đối với
VC là sự phản ánh tinh thần, sáng tạo và chủ động chứ không thụ động, máy móc, nguyên si TG VC,
vì vậy nó có tác động trở lại đối với VC thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Dựa trên các
tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng, xác định phương pháp,
dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì vậy, YT tác động đến VC theo 2 hướng chủ yếu: Nếu YT
phản ánh đúng đắn điều kiện VC, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát
triển của VC. Ngược lại, nếu YT phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người
không phù hợp với quy luật khách quan, sẽ kìm hãm sự phát triển của VC. Tuy vậy, sự tác động của
YT đối với VC cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoă tc tiêu diệt các quy
luật vận động của VC. Suy cho cùng, dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh TG
VC. Biểu hiện ở MQH giữa VC và YT trong ĐSXH là QH giữa tồn tại XH và YT XH, trong đó tồn
tại XH quyết định YT XH, đồng thời YT XH có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại XH.
Ngoài ra, MQH giữa VC và YT còn là cơ sở để nghiên cứu, xem xét các MQH khác như: lý luận và
thực tiễn, khách thể và chủ thể, vấn đề chân lý… -
Ý nghĩa và phương pháp luận: Do VC là nguồn gốc và là cái quyết định đối với YT, cho nên để
nhận thức cái đ ng đắn SVHT, trước hết phải xem x+t nguyên nhân VC, tồn tại XH để giải quyết tận
gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân TT nào.“Tính khách
quan của sự xem x+t” chính là ở chỗ đó. Mặt khác, YT có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối
với VC, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem x+t đến vai trò của nhân tố TT. 2
Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết những nhiệm
vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử
dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố TT, tạo thành sức mạnh tổng hợp gi p cho hoạt
động của con người đạt hiệu quả cao. Không chỉ vậy, việc giải quyết đ ng đắn MQH trên khắc phục
thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và
thổi từng vai trò của từng yếu tố VC hoặc YT.
Từ mối quan hệ giữa VC và YT trong triết học Mác-Lênin, r t ra nguyên tắc PPL là TÔN TRỌNG
TÍNH KHÁCH QUAN KẾT HỢP PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN. Trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu, ch ng ta đều phải xuất phát từ
thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề VC hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo qui
luật khách quan, nếu không làm như vậy, ch ng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn
lường. Nhận thức SVHT phải chân thực, đ ng đắn, trách tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không
được gán cho đối tượng cái mà nó không có, phải nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh, đánh giá đ ng,
nói rõ sự thật. Nhận thức, cải tạo SVHT, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân SVHT đó với
những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh
chủ quan duy ý chí; CNDV tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan. Phải phát huy
tính năng động sáng tạo của YT, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ
động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của YT, coi trọng
công tác tư tưởng và GD tư tưởng, coi trọng GDLL chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM. Đồng
thời, phải GD và nâng cao trình độ tri thức KH, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí CM cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, KT tri thức, toàn cầu
hoá hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm
sự thống nhất giữa nhiệt tình CM và tri thức KH.
2. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật (cơ sở lý luận của 3 phương diện) (tr.65)
Các nguyên tắc rút ra khi nghiên cứu 2 nguyên lý của phép biện chứng duy vật
*Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến -
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát toàn cảnh TG trong những mối liên hệ chằng chịt giữa
các SVHT của nó. Tính vô hạn của TG, cũng như tính vô lượng các SVHT đó chỉ có thể giải thích
được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng các mối liên hệ có hình thức, vai trò khác
nhau. Mỗi SVHT tồn tại trong nhiều mối liên hệ, tác động qua lại với nhau; do vậy, khi nghiên cứu
đối tượng cụ thể cần tuân thủ nguyên tắc toàn diện. Từ nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, phép biện chứng khái quát thành NGUYÊN TẮC TOÀN DIỆN với những yêu cầu đối với chủ
thể hoạt động nhận thức và thực tiễn như sau:
+ Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất
cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, các mối liên hệ của chỉnh thể đó.
+ Thứ hai, chủ thể phải rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức
chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại, bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được
đầy đủ sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, QH và tác động qua lại của đối tượng.
+ Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung
quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp; trong không gian, thời gian nhất định,
tức cần nghiên cứu cả những mối liên hệ của đối tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó.
+ Thứ tư, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, một chiều, chỉ thấy mặt này mà
không thấy mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét dàn trải, không thấy mặt bản chất
của đối tượng nên dễ rơi vào thuật nguỵ biện (đánh tráo các mối liên hệ cơ bản thành không cơ bản 3
hoặc ngược lại) và chủ nghĩa chiết trung (lắp ghép vô nguyên tắc các mối liên hệ trái ngược nhau vào
một mối liên hệ phổ biến).
*Nguyên lý về sự phát triển -
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp nhận thức được rằng, muốn nắm được bản chất, nắm
được khuynh hướng phát triển của SVHT thì phải tự giác tuân thủ NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN,
tránh tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Nguyên tắc này yêu cầu:
+ Thứ nhất, khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi của nó
để không chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
+ Thứ hai, cần nhận thức được rằng, phát triển là QT trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc
điểm, tính chất, hình thức khác nhau nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc
thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
+ Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ đối tượng mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển;
chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
+ Thứ tư, trong QT thay thế đối tượng cũ bằng đối tượng mới phải biết kế thừa các yếu tố tích cực từ
đối tượng cũ và phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới. -
Sự vận dụng nội dung của 2 nguyên lý BCDV nêu trên vào hoạt động nhận thức và thực tiễn cần
tuân theo NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ xuất phát đồng thời từ chúng. Nói cách khác, cơ sở
LL của nguyên tắc này là đồng thời nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. -
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể có đặc trưng cơ bản là muốn nắm được bản chất của SVHT cần xem xét
sự hình thành, tồn tại và phát triển của nó vừa trong điều kiện, môi trường, hoàn cảnh vừa trong QT
lịch sử, vừa ở từng giai đoạn cụ thể của QT đó. Bản chất của nguyên tắc này là khi nhận thức SVHT
trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự vận động, phát triển
của SVHT ấy. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi chủ thể nhận thức phải vạch ra được tính tất
yếu và các quy luật chi phối sự thay thế lẫn nhau của các khách thể nhận thức (do khách thể nhận
thức chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác), đặc biệt là phải tách ra được “cái cơ bản nhất trong
chiều hướng phát triển, hay trong cái dây xích phát triển” của khách thể nhận thức.
PPL của quan điểm toàn diện -
Quan điểm toàn diện là quan điểm khi nghiên cứu và xem xét SV phải quan tâm đến tất cả các yếu
tố, các mặt kể cả khâu gián tiếp hay trung gian có liên quan đến SV, xuất phát từ mối liên hệ nằm
trong nguyên lý phổ biến của các SVHT trên TG. Phải có quan điểm toàn diện vì bất cứ MQH nào
cũng tồn tại SV. Và không có bất cứ SV nào tồn tại riêng biệt, cô lập, độc lập với các SV khác. -
CSLL: Theo quan điểm PPL KH của CNDVBC thì mối liên hệ giữa sự phát triển và sự phổ biến
dùng để cải tạo hiện thực và nhận thức. Đây cũng chính là cơ sở LL và PPL của quan điểm toàn diện.
Mọi SV, sự việc trên đời đều tồn tại song song trong các MQH phong phú và đa dạng. Khi nhận thức
về SVHT, sự việc trong CS chúng ta cần xem xét đến quan điểm toàn diện. Xem xét đến mối liên hệ
của sự vật này với sự vật khác nhằm tránh quan điểm phiến diện. Từ đó tránh được việc phán xét con
người hay sự việc một cách chủ quan. Không suy xét kỹ lưỡng mà đã vội kết luận về tính quy luật hay bản chất của chúng. -
Yêu cầu: Theo quan điểm toàn diện, con người cần nhận thức SV qua MQH qua lại. MQH này có thể
là giữa các yếu tố, các bộ phận, giữa SV này với SV khác, giữa mối liên hệ trực tiếp với gián tiếp.
Chỉ khi chúng ta nhìn nhận qua quan điểm toàn diện thì mới có thể đưa ra các nhận thức đúng đắn.
Không những thế quan điểm toàn diện còn đòi hỏi con người phải chú ý và biết phân biệt từng mối
liên hệ. Cụ thể hơn đó là các MQH chủ yếu với tất yếu, mối liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên
hệ về bản chất. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể hiểu rõ được bản chất của sự việc. Bên cạnh đó
quan điểm toàn diện còn đòi hỏi con người nắm bắt được khuynh hướng phát triển của sự vật trong 4
tương lai. Cũng như hiểu rõ về hiện tại đang tồn tại của SV. Con người cần nhận biết được sự biến
đổi kể cả biến đổi đi lên hay các biến đổi đi xuống. -
YNPPL: Khi nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xem xét SV trong mối liên hệ phổ biến, thấy
được vai trò của từng yếu tố, tránh quan điểm phiến diện, một chiều.
>>>QH giữa quan điểm TD và quan điểm LS cụ thể: Trong xử lý và nhận thức trong tình huống cần xem
xét đến đặc thù và tính chất của đối tượng nhận thức. Tình huống trong thực tiễn cần được giải quyết
một cách khác nhau trong thực tiễn. Cần phải đặt SV trong điều kiện thời gian và không gian cũng như
trong từng điều kiện LSCT với các MQH nhất định. Xem xét cụ thể MQH tác động từ bên trong và bên
ngoài. MQH khách quan và chủ quan, QH gián tiếp và trực tiếp của mỗi SV.
PPL quan điểm lịch sử cụ thể - CSLL: -
Yêu cầu: Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét SV trong các MQH và tình huống xác định,
các giai đoạn vận động, phát triển xác định; cũng tức là: khi nhận thức và xử lý các tình huống thực
tiễn cần phải tránh quan niệm chung chung trừu tượng, thiếu tính xác định lịch sử cụ thể; tránh chiết trung, nguỵ biện. -
Trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xem x+t đến những
tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn,
phải đặt SV trong từng điều kiện LSCT trong những điều kiện không gian và thời gian, với những
MQH nhất định. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau giữa các MQH giữa dân tộc thuộc địa và
đế quốc thực dân xâm lược, giữa nhân dân bị áp bức và kẻ đi áp bức, bóc lột nhân dân thuộc địa,
MQH giữa hoàn cảnh LS trong nước và hoàn cảnh LS TG, QH giữa GC nông dân – công nhân, QH
giữa chính đảnh lãnh đạo với quần ch ng nhân dân của đất nước bị bóc lột…. -
YNPPL: Nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xác định rõ tính đặc thù của đối tượng, hoàn cảnh,
thời gian, không gian xảy ra sự việc.
>>> Như vậy, khi thực hiện quan điểm toàn diện và phát triển cần phải luôn luôn gắn với quan điểm lịch
sử cụ thể thì mới có thể thực sự nhận thức chính xác được sự vật và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả đối
với các vấn đề thực tiễn
PPL quan điểm phát triển -
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải xem xét sự vật theo một quá trình không ngừng thay đổi về
chất ở trình độ cao hơn qua sự biểu hiện của nó ở các giai đoạn, các hình thái xác định, nhờ đó giúp
cho chúng ta nhận thức được sự vật theo một quá trình không ngừng phát triển của nó. Cũng từ đó có
thể dự báo được giai đoạn, hình thái phát triển trong tương lai của nó. -
Nguyên tắc là gì? Yêu cầu? Tôn trọng nguyên tắc sẽ mang lại kết quả gì? Ngược lại? Trong công
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước như thế nào? Vận dụng vào đời sống và học tập? (những quan
điểm khác tương tự)
Vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử-cụ thể, quan điểm phát triển (dựa vào ý nghĩa PPL tr.68, tr.70) -
Trong công cuộc đổi mới của ĐCSVN không những chú ý đến mối liên hệ nội tại mà còn chú đến
mối liên hệ giữa SV này với SV khác. Hơn 20 năm đổi mới Đảng ta đã sử dụng đồng bộ các phương
tiện cũng như biện pháp khác nhau để mang lại hiệu quả đổi mới cao nhất. Không những cần vận
dụng được nguồn lực đất nước mà còn cần tranh thủ sự giúp đỡ của các nước khác. Vừa tận dụng
được yếu tố chủ quan vừa tận dụng được yếu tố khách quan từ bên ngoài. Quan điểm toàn diện còn
được vận dụng trong học tập. Một cá nhân để đạt được kết quả tốt trong học tập cần đến nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan tác động. SV không những cần đến nỗ lực và trí tuệ của bản thân mà còn
cần học thêm các kiến thức từ sách vở và cuộc sống. Kiến thức cần bồi đắp từ cả lý thuyết và thực
tiễn thì mới có thể trở nên hoàn thiện. Một cá nhân không thể toàn diện nếu chỉ học tập tốt mà còn 5
cần đến lao động tốt và sống tốt, phẩm chất tốt, đạo đức tốt. Khi nhận xét về một người nào đó thì
không thể có cái nhìn phiến diện ở vẻ bên ngoài. Cần chú ý đến các yếu tố khác như bản chất con
người, các MQH của người này với người khác, cách cư xử cũng như việc làm trong quá khứ và hiện
tại. Chỉ khi hiểu hết về người đó mới có thể đưa ra các nhận xét. Trong quan hệ giữa người với
người, cần phải biết ứng xử sao cho phù hợp với từng người. Phải luôn cư xử lễ phép, tôn trọng đối
với người bề trên. Còn đối với bạn bè thì luôn tôn trọng, chân thành, thoải mái, TN. Khi nhìn nhận 1
người không nên chỉ xét ở quá khứ họ tốt hay xấu mà cần xem xét QT thay đổi họ theo hướng tiến bộ
hay thụt lùi. Khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem xét
chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý tốt. Khi ta học
kém đi, điểm số giảm, cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy. Do lười học, không hiểu bài,
không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được nguyên nhân cụ thể, chủ yếu thì sẽ tìm
được cách giải quyết đúng đắn. Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng
đắn thì mới có kết quả cao. Học hỏi, tìm tòi, khiêm tốn, trau dồi kiến thức, kinh nghiệm, học đi đôi
với hành, vận dụng vào thực tiễn. Ngoài ra cần phải rèn luyện cả về phẩm chất, đạo đức, “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Trong công cuộc
đổi mới đất nước cần quán triệt quan điểm toàn diện trong nhận thức và thực tiễn: đổi mới mọi mặt
lĩnh vực KT-CT-XH-ĐSTT; quan điểm LSCT: Đảng xác định lấy đổi mới KT là trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt, nhà nước ta luôn thực hiên mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân
chủ, văn minh, đã đề ra đường lối xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN, ưu tiên phát
triển LLSX, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng QHSX phù hợp, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập KT quốc tế để phát triển nhanh, bảo vệ và cải thiện môi
trường, kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường ANQP, xây dựng hệ thống CTrị vững mạnh, con
đường đi lên CNXH không theo công thức có sẵn mà được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo.
3. Quy luật lượng chất (tr.80)
*Cơ sở thực hiện bước nhảy (tr.83) -
Bước nhảy để chuyển hoá về chất của sự vật hết sức đa dạng, phong phú với nhiều hình thức khác
nhau. Dựa trên nhịp điệu thực hiện bước nhảy, người ta chia bước nhảy thành nhiều hình thức (bước
nhảy đột biến và bước nhảy dần dần, bước nhảy chậm và bước nhảy nhanh, bước nhảy cục bộ và bước nhảy toàn bộ…)
Bước nhảy đột biến, chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở tất cả các bộ phận cơ bản, cấu
thành sự vật. Bước nhảy dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích luỹ dần
dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ. Bước nhảy toàn bộ là
bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy
cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, bộ phận của sự vật đó. Trong lĩnh vực
xã hội, thay đổi về lượng được gọi là “tiến hoá”, thay đổi về chất được gọi là “cách mạng”.
*Cơ sở lý luận tư duy trừu tượng (tr.123) -
Cơ sở TN của tư duy đó là bộ óc con người và QT phản ánh hiện thực khách quan bởi bộ óc con
người. Còn cơ sở XH của tư duy đó là LĐ và ngôn ngữ. Trong đó, cơ sở XH đóng vai trò quyết định
đến sự hình thành và phát triển của tư duy. Về vấn đề này, Ph.Ăngghen đã có nhận x+t như sau:
“chính việc người ta biến đổi TN, chứ không phải chỉ một mình giới TN, với tính cách giới TN, là cơ
sở chủ yếu nhất và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song
với việc người ta đã học cải biến TN”. -
Ở thời kỳ đầu, khi ĐS của con người còn phụ thuộc vào giới TN bên ngoài, “một giới TN thù địch
đối lập và không hiểu nổi đối với họ” (từ dùng của Ph.Ăngghen), hiểu biết của con người về TG
xung quanh còn hạn chế thì con người chỉ có thể hình thành được một ít kinh nghiệm về một số lĩnh
vực nào đó có liên quan trực tiếp đến CS hàng ngày của họ mà thôi. Do đó YT của con người lúc này
“cũng mang tính động vật như chính ĐS XH ở giai đoạn ấy; đó là một YT quần cư đơn thuần”. 6
Nhưng khi LLSX phát triển (CCLĐ đã có những cải tiến nhất định), năng suất LĐ XH ngày một cao,
sp XH đã có dư thừa, PCLĐ xuất hiện, XH hình thành lớp người chuyên LĐ trí óc, đó cũng là lúc tư
duy loài người từng bước phát triển, con người có khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự vật
hiện tượng riêng lẻ để xây dựng nên hệ thống khái niệm, phạm trù, rút ra những quy luật. So với giai
đoạn thấp của thời đại mông muội, nhận thức của con người đã đạt đến một trình độ cao hơn về chất,
tư duy LL, tư duy KH ra đời. C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết rằng: “Phân công lao động chỉ trở
thành phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động
tinh thần. Bắt đầu từ l c đó,ý thức có thểthực sự tưởng tượng rằng nó là một cái gì khác chứ không
phải là ý thức về thực tiễn hiện có, rằng nó có thể thực sựđại biểu cho cái gì đó mà không đại biểu
cho một cái gì hiện thực cả; bắt đầu từ l c đó, ý thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và
chuyển sang xây dựng lý luận “thuần tuý”, thần học, triết học, đạo đức, v.v..”. -
Tư duy lý luận là QT con người phả
n ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, mang tính trừu
tượng và khái quát cao bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử
dụng ngôn ngữ và các thao tác tư duy để nắm bắt các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy
luật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức của con người. Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản:
+ Thứ nhất, sự xuất hiện của tư duy LL gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Cùng với sự
phát triển của SX, trao đổi và các MQH XH khác, các hành động và thao tác trí óc của con người
ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp hơn, nhờ đó tư duy LL từng bước xuất hiện và phát triển năng lực của mình.
+ Thứ hai, tư duy LL phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp, là sự sản sinh ra những tri
thức mới trên cơ sở những tri thức kinh nghiệm đã tích lũy được trong QT nhận thức. Những tri thức
LL được duy trì và hoạt động thông qua hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật lôgic.
+ Thứ ba, tư duy LL sử dụng các phương pháp nhận thức: lịch sử và lôgic; phân tích và tổng hợp;
quy nạp và diễn dịch; trừu tượng hóa và cụ thể hóa v.v…làm cho các phương pháp này trở thành nội
dung lôgic bên trong của sự vận động tri thức để nhận thức hiện thực khách quan.
+ Thứ bốn, đối tượng mới của tư duy LL là những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra. Tư duy LL phải có
nhiệm vụ trả lời những câu hỏi, đặc biệt là những vấn đề bức xúc mà CS đặt ra cho con người và XH loài người. -
So với tư duy kinh nghiệm, tư duy LL đóng một vai trò hết sức to lớn trong nhận thức và cải tạo thế
giới. Nhờ có tư duy LL KH mà con người mới phát hiện ra được các quy luật vận động và phát triển
của hiện thực khách quan, hướng sự vận động đó vào phục vụ lợi ích của con người. Ph.Ăngghen chỉ
rõ rằng: “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý
luận”. Tư duy LL có thể là KH nhưng cũng có thể không KH. Chỉ những tri thức LL nào phản ánh
đúng bản chất, vạch ra được mối liên hệ giữa các SVHT; chỉ ra được quy luật, xu hướng vận động,
phát triển v.v…của hiện thực khách quan (của TN,XH) thì đó mới là tư duy LL KH. -
Trong thời đại ngày nay, tư duy LL KH là tư duy LL mácxít. Về thực chất, tư duy LL mácxít là tư
duy BCDV KH (cả trong TN lẫn XH)-1 hình thái tư duy được hình thành trên cơ sở tổng kết những
kinh nghiệm thực tiễn, những tri thức KH mà loài người đã đạt được từ xưa đến nay và luôn luôn
được vận dụng một cách tiện lợi vào thực tiễn sinh động, phong phú để không ngừng bổ sung, hoàn thiện và phát triển. -
Xuất phát từ tình hình thực tế của xã hội Việt Nam trong những thập niên 80 thế kỷ XX; xuất phát từ
bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết Mác; đứng trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, đòi hỏi ch ng ta “phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy”, coi đổi
mới tư duy là khâu “đột phá” cho toàn bộ quá trình đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng ta khẳng định: “Để tăng cường sức chiến đấu và
năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư 7
duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”(5).
Nhờ chọn đ ng khâu đột phá mà Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó
khăn, thách thức và “đạt đượcnhững thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. -
Trong những năm qua, mặc dù chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, LL có bước được nâng lên.
Công tác tư tưởng được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng
thuận trong XH. Tuy vậy, so với yêu cầu, nhiệm vụ mới của CMVN, thì “Chất lượng và hiệu quả
công tác tư tưởng, LL chưa cao... Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu LL chưa đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới”. Để khắc phục tình trạng trên, tại Đại hội XII, Đảng ta xác định một trong
những nhiệm vụ trước mắt là: “Tiếp tục đổi mới tư duy LL, làm rõ cơ sở LL, thực tiễn, hoàn thiện hệ
thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN, đẩy mạnh công tác tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu LL, cung cấp các luận cứ KH, LL cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
Vận dụng quy luật lượng chất (dựa vào ý nghĩa PPL tr.83) -
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la vô tận, con người, bên cạnh việc phát triển về thể xác, TT còn
phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết là để phục vụ cho bản thân. Tri
thức tồn tại dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, do vậy con người có thể tiếp thu nó bằng
nhiều cách khác nhau. QT tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là khác nhau,
tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện…của mỗi người. QT tích lũy tri thức của con người
cũng không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về
tri thức cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất. QT biến
đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa dạng và phong phú. -
Là SV, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học PT kéo dài trong suốt 12 năm. Trong 12
năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi HS đều được trang bị những kiến thức cơ bản của các môn học
thuộc 2 lĩnh vực cơ bản là KHTN và KHXH. Bên cạnh đó, mỗi HS lại tự trang bị những kĩ năng,
hiểu biết riêng về CS, TN, XH. QT tích lũy về lượng (tri thức) của mỗi HS là một QT dài, đòi hỏi nỗ
lực không chỉ từ phía GĐ, nhà trường mà còn chính từ sự nỗ lực và khả năng của bản thân người
học. Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi HS dần tích lũy cho mình 1 lượng kiến thức nhất định
qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải BT ở nhà. Việc tích lũy kiến thức sẽ được đánh
giá qua các kì, trước hết là các kì thi học kì và sau đó là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng kiến
thức cần thiết sẽ giúp HS vượt qua các kì thi và chuyển sang một giai đoạn học mới. Như vậy, có thể
thấy rằng, trong QT học tập, rèn luyện của HS thì QT học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì
thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri thức của
HS bước sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất. Nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh
dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà HS nào cũng muốn vượt qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì
thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là
điểm nút quan trọng hơn, việc vượt qua điểm nút này chứng tỏ HS đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng,
tạo nên bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ HS chuyển thành SV. -
Để có được tấm bằng ĐH thì SV cũng phải tích lũy đủ các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc
tích lũy kiến thức ở bậc ĐH có sự khác biệt về chất so với học PT. Sự khác biệt nằm ở chỗ SV không
chỉ tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần mà phải tự tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những kĩ năng mà
GV đã cung cấp. Nói cách khác, ở bậc ĐH, việc học tập của SV khác hẳn về chất so với HS ở PT.
Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa đạng và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu,
từ đơn giản đến phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ sự thay đổi về chất do sự tich lũy về lượng trước đó (ở
bậc học PT) tạo nên, chất mới cũng tác động trở lại. Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như
quy mô nhận thức của SV cũng thay đổi, tiếp tục hướng SV lên tầm tri thức cao hơn. QT tích lũy các
học phần của SV chính là độ, các kì thi chính là điểm nút và việc vượt qua các kì thi chính là bước 8
nhảy, trong đó bước nhảy quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp. Vượt qua kì thi tốt nghiệp lại
đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chât so với giai đoạn trước. QT đó cứ liên tục
tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng ngay trong chính bản thân con người, tạo
nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của XH. -
Việc nhận thức quy luật lượng chất trong QT học tập của HSSV có ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn,
không chỉ với bản thân người học mà còn rất có ý nghĩa với công tác quản lý và đào tạo. Thực tế
trong nhiều năm qua, GD nước ta đã mắc phải nhiều sai lầm trong tư duy quản lý cũng như trong
hoạt động đào tạo thực tiễn. Việc chạy theo bệnh thành tích chính là thực tế đáng báo động bởi mặc
dù sự tích lũy về lượng của HS chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện “thành
công” bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng. Kết quả là trong nhiều
năm liền, GD nước ta đã cho ra lò những lớp người không “lượng” mà cũng chẳng có “chất”. -
Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta thực hiện những cải
cách quan trọng trong GD. Tiêu biểu là việc chống lại căn bệnh thành tích trong GD vẫn tồn tại hàng
thập kỉ qua. Bên cạnh đó là việc thay đổi phương hướng GD ở bậc PT và đào tạo ĐH. Việc chuyển từ
đào tạo niên chế sang đào tạo tín chỉ và cho phép người học được học vượt tiến độ chính là việc áp
dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong tư duy con người. -
“tích tiểu thành đại”, “góp gió thành bão”, “năng nhặt, chặt bị”, không nôn nóng, đốt cháy giai đoạn.
Cần phải tích lũy đủ về lượng thì mới có thể thay đổi về chất, tránh tư tưởng nóng vội chưa tích lũy
đủ về lượng đã muốn thay đổi về chất (chưa học xong đã muốn đi làm công việc mình đang học)
hoặc bảo thủ, trì trệ khi đã tích lũy đủ về lượng nhưng lại không muốn thay đổi về chất (học xong rồi
nhưng lại không muốn đi làm)
4. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (tr.84) -
CNDVBC có 3 quy tắc cơ bản là quy tắc sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược
lại, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập và quy luật phủ định của phủ định.
QLTNVĐTCCMĐL là hạt nhân của phép biện chứng, là nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của
quá trình vận động và phát triển. -
Mâu thuẫn dùng để chỉ sự liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa của CMĐL của mỗi SVHT
hoặc giữa các SVHT với nhau. -
MĐL dùng để chỉ những mặt, những khuynh hướng, những thuộc tính vận động trái ngược nhau
nhưng đồng thời lại là tiền đề để tồn tại của nhau. VD: điện tích âm và điện tích dương trong 1
nguyên tử, đồng hóa và dị hóa của 1 cơ thể sống… -
Các tính chất chung của MĐL:
+ Tính khách quan: mâu thuẫn là nguồn gốc vận động của mọi dạng vật chất. VC tồn tại khách quan
nên mâu thuẫn cũng tồn tại khách quan. Nó là cái vốn có trong SV, không lệ thuộc vào ý thức con
người và các lực lượng siêu nhiên.
+ Tính phổ biến: trong bất kể SVHT nào, ở bất cứ địa điểm, thời gian nào cũng tồn tại những MĐL.
+ Tính đa dạng, phong phú: thế giới vật chất có vô vàn các dạng, không gian, thời gian, mối liên hệ
khác nhau nên chúng có những mâu thuẫn khác nhau, không có dạng mâu thuẫn nào trùng lặp với
dạng mâu thuẫn nào. Có mâu thuẫn trong TN, trong XH, trong tư duy, mâu thuẫn bên trong và bên
ngoài, cơ bản và không cơ bản..VD: thống trị >< bị trị, sản xuất >< tiêu thụ, hít vào >< thở ra, tiếp
nhận dinh dưỡng >< thải ra, thành công >< thất bại, lực hấp dẫn >< lực li tâm, VC >< phản VC. -
Mâu thuẫn là 1 chỉnh thể, trong đó 2 MĐL vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau. Thống nhất dùng
để chỉ sự liên hệ ràng buộc không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các MĐL, mặt này lấy mặt
kia làm tiền đề để tồn tại và ngược lại. Sự thống nhất của các MĐL bao hàm cả sự thống nhất của các
mặt đó. VD: GCVSản và sự giàu có là 2 MĐL, chúng hợp thành 1 chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất,
chế độ tư hữu với tư cách là sự giàu có buộc phải duy trì vĩnh viễn ngay cả khi sự tồn tại của MĐL 9
của nó là GCVSản. Do có sự “đồng nhất” của các MĐL mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến 1
lúc nào đó, các MĐL có thể chuyển hóa lẫn nhau. Các MĐL không chỉ thống nhất, mà còn luôn “đấu
tranh” với nhau. Đó là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt
đó. Hình thức đấu tranh của các MĐL hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối liên
hệ qua lại giữa các MĐL và tùy điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng. -
Sự phát triển của SVHT gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn. Do đó
sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) chỉ là tương đối, còn đấu tranh là tuyệt đối.
VD: Trong XHCXNThủy, con người phải đấu tranh với TN, trình độ LĐ rất sơ khai. Để tồn tại, loài
người phát minh ra nhiều công cụ: rìu đá, lao, chăn nuôi…tức là giải quyết mâu thuẫn giữa sống và
chết đói. Nhờ công cụ cải tiến, của cải làm ra nhiều hơn mức tiêu thụ, dẫn đến của cải dư thừa tập
trung vào 1 số người, hình thành mâu thuẫn mới giữa người có của cải và không có của cải. Loài
người bước sang XH phân biệt GC (chiếm hữu nô lệ, PK, TBản). Khi GC bị áp bức tiêu diệt GC áp
bức (những người không có của cải tiêu diệt người có của cải) loài người bước sang XH mới: XHCN -
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của SV và là khách quan trong bản
thân SV nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của SV bằng cách phân tích SV để tìm ra những mặt,
những khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng. Phải biết phân
tích cụ thể 1 mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể, phù hợp với trình độ phát
triển của từng mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và
lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã chín muồi.
Vận dụng: Rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật, xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và
phương pháp học tập, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên tự kiểm tra dưới nhiều
hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống để nâng cao năng lực tư duy. Không biết thì phải
học. Nhiệm vụ ngày càng lớn nhưng đầu tư chưa theo kịp. Số lượng ngày càng tăng gây nguy cơ cao
giảm chất lượng. Điều kiện dạy và học: thấp kém; trong khi nhiệm vụ cứ nặng lên. (3 nhiệm vụ trước
đó: bản thân ngành GD không thể tự giải quyết, đó là trách nhiệm của nhà nước và toàn XH, nên chi
tiêu tiết kiệm và hiệu quả nhất ngân khoản khiêm tốn được cấp và số tiền đóng góp chắt chiu của
XH, dè sẻn minh bạch, không tham ô, thay đổi mục tiêu, chương trình, cách học, cách dạy để phù
hợp nhưng vẫn đạt hiệu quả nhất đối với nguồn lực eo hẹp hiện có). Sự mất cân đối nặng nề giữa
nguồn lực (ít ỏi) với nhiệm vụ (nặng nể) khiến người ta không biết nên coi đâu là những điểm nút để
tập trung tháo gỡ.íân tượng chung là càng gỡ, càng rối. Dạy cụ thể có xu hướng tăng lên, khiến dễ lơ
là dạy phương pháp. Sự nhồi nhét khiến người học mất năng lực tự học, trở thành thụ động. Khoa
học tiến nhanh nhưng năng lực thầy có hạn, không kịp cập nhật. Nội dung cần học: ngày càng nhiều,
nhưng khoá học không thể kéo dài. Chương trình muốn toàn diện, nhưng trò đã quá tải. Sức ỳ giáo
dục lớn, trong khu xã hội cứ phát triển nhanh. Học ở trường thì “một đường”; nhưng thực tế khi ra
trường lại... “một nẻo”. Riêng với Việt nam, liệu có nên kể thêm một mâu thuẫn: Nhiều thứ buộc
phải học nhưng không có ích khi ra đời, và càng vô dụng khi hoà nhập. (ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng và hiệu quả GD, phải giải quyết thỏa đáng, không để chúng trở nên gay gắt, gây lo lắng và bức
xúc chung, cải cách, đồng bộ “toàn diện, triệt để”, dự trù ngân sách “tạm đủ”, “liệu cơm gắp mắm”,
tránh sự lãng phí không cần thiết, chống bệnh thành tích, dạy nhồi nhét cho HS, quá tải, thay đổi
cách giảng dạy, nhóm, tranh ảnh trực quan, thuyết trình, đọc trước bài ở nhà, kiểm tra bài học bằng
thí nghiệm, đặt câu hỏi tại sao cho những hiện tượng thường gặp, học đủ, hệ thống nhưng không thừa, không nhồi nhét.
5. Quy luật phủ định của phủ định (tr.88) -
Qua 2 lần phủ định biện chứng, sự vật mới dường như quay trở về điểm ban đầu nhưng cao hơn về
chất. Nếu chỉ một lần phủ định thì chưa hoàn thành một chu kỳ phát triển của sự vật. -
Cái mới ra đời thay thế cái cũ nhưng trên nền tảng kế thừa cái cũ. Cái mới này trong QT phát triển
tiếp theo lại dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị phủ định bởi một cái mới cao hơn. Cứ như thế mà 10
thông qua số lần phủ định kế tiếp nhau mà SVHT sẽ phát triển không ngừng theo đường xoắn ốc. Sự
phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng
của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường xoáy ốc dường như thể hiện
sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ
thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc". -
YNPPL: Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về xu
hướng vận động, phát triển của SVHT. QT đó không diễn ra theo đường thằng, mà là con đường
quanh co, phức tạp, gồm nhiều giai đoạn, nhiều QT khác nhau. Tuy nhiên, tính đa dạng và phức tạp
của QT phát triển chỉ là sự biểu hiện của khuynh hướng chung, khuynh hướng tiến lên theo quy luật.
Cần phải nắm được đặc điểm, bản chất, các mối liên hệ của SVHT để tác động đến sự phát triển, phù
hợp với yêu cầu hoạt động, nhận thức biểu hiện của TGQ KH và nhân sinh quan CM trong mọi hoạt
động của chúng ta và trong thực tiễn. Khẳng định niềm tin vào xu hướng tất yếu là phát triển tiến lên
của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của TGQ KH và nhân sinh quan CM. Theo quy luật phủ định của phủ
định, trong TGKQ, cái mới tất yếu ra đời để thay thế cái cũ. Trong TN, cái mới ra đời và phát triển
theo quy luật khách quan. Trong ĐSXH, cái mới ra đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, YT tự giác
và sáng tạo của con người. Vì vậy, cần nâng cao tính tích cực của nhân tố chủ quan trong mọi hoạt
động, có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, ủng hộ cái mới và đấu tranh cho cái mới thắng lợi.
Do đó, cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới, làm trái
với quy luật phủ định của phủ định. Quan điểm BC về sự phát triển đòi hỏi trong QT phủ định cái cũ
phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua,
cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy theo hướng tiến bộ.
Vận dụng: Cái mới ra đời là tất yếu, cái mới thay thế cái cũ, nhưng dựa trên nền tảng cái cũ, tránh
phủ định sạch trơn cái cũ hoặc không đón nhận sự ra đời của cái mới. Nghề GV có mâu thuẫn (được
tôn trọng và không), vậy nên SV phải học tập, đổi mới, tự phát triển mình, trau dồi chuyên môn thực
tế…nhận thức đúng đắn và có hướng giải quyết hiệu quả SVHT bằng những cái mới nhưng có chọn
lọc, cái sau phải tiến bộ và có hiệu quả hơn cái trước, nâng cao tính tích cực, lạc quan, ủng hộ và đấu
tranh cho cái mới, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển, kế thừa phải
có phê phán, lọc bỏ những cái tiêu cực trái quy luật. Đội ngũ GV, SV tiếp cận các phương pháp dạy
học mới, CNTT, nghiên cứu KH, thí nghiệm bài học, giảng dạy bằng tranh vẽ của HS, rèn luyện
phẩm chất, đạo đức, thể lực, trau chuốt văn thể mỹ, trau đồi kinh nghiệm, cải tiến các cơ sở GD,
trường học theo phương thức hiện đại, tiện nghi, tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của HS
6. Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX (tr.160) -
Để tạo ra 1 sp bất kì cung cấp cho thị trường thì cần có hình thức XH của quá trình SX và những yếu
tố về VC, TT. LLSX và QHSX là 2 mặt cơ bản, tất yếu của QTSX, còn QHSX là hình thức XH của quá trình đó. -
LLSX là tổng hợp tất cả các yếu tố VC và TT để tạo thành sức mạnh cải biến TG TN phục vụ cho
nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, được cấu thành từ 2 yếu tố: người LĐ và TLSX (CCLĐ,
các yếu tố phụ trợ trong QTSX…) trong đó nhân tốc người LĐ giữ vai trò quyết định. -
QHSX là QH giữa người với người trong QTSX, bao gồm: các QHSH đối với TLSX, các QH trong
tổ chức QL và SX, các QH trong phân phối sp SX. -
MQH giữa LLSX và QHSX là MQH thống nhất biện chứng trong đó LLSX quyết định QHSX và
QHSX tác động ngược lại LLSX. Sự biến đổi của SX luôn theo chiều tiến bộ, bắt đầu từ sự biến đổi
và phát triển của LLSX, trước hết là CCLĐ. Cùng với sự phát triển đó, QHSX cũng hình thành và
biến đổi cho phù hợp với trình độ của LLSX. Đương nhiên, khi trình độ LLSX phát triển thì tính chất
của nó cũng phát triển. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ biến diễn ra trong mọi QTSX hiện thực của XH.
LLSX phát triển thì QHSX biến đổi theo phù hợp với tính chất và trình độ LLSX, làm cho LLSX 11
tiếp tục phát triển. Khi tính chất và trình độ LLSX đến phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với
QHSX hiện có, đòi hỏi xóa bỏ QHSX cũ để hình thành QHSX mới phù hợp với LLSX đang phát
triển, làm phương thức SX cũ mất đi, phương thức SX mới xuất hiện… Sự phát triển của LLSX từ
thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới
cao hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái KT-XH khác nhau từ thấp đến cao, với những kiểu
QHSX khác nhau. VD: Khi SX dựa trên công cụ thủ công, phân công LĐ kém phát triển thì LLSX
chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi SX đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công LĐ XH phát triển
thì LLSX có tính chất XH hóa. -
QHSX phù hợp với tính chất và trình độ LLSX sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của LLSX,
trở thành động lực cơ bản thúc đẩy, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Ngược lại, khi QHSX đã lỗi
thời, lạc hậu, không còn phù hợp với tính chất và trình độ LLSX thì nó sẽ trở thành xiềng xích trói
buộc, kìm hãm sự phát triển của LLSX. -
QHSX sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển của LLSX vì nó quy định mục
đích của SX, ảnh hưởng thái độ LĐ của quảng đại quần chúng, kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến
công cụ, áp dụng thành tựu KH-KT vào SX, hợp tác và phân công LĐ… -
Trong XH có GC đối kháng mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX biểu hiện thành mâu thuẫn GC và chỉ
thông qua đấu tranh GC mới giải quyết được mâu thuẫn đó và đưa XH tiến lên. Quy luật về sự phù
hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức SX
và biểu hiện tính tất yếu của sự thay thế phương thức SX này bằng phương thức SX khác cao hơn.
Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi XH, làm cho XH loài người phát triển từ thấp
đến cao. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ CXNT, qua chế độ CHNL, chế độ PK,
chế độ TBCN và đến XHCSản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật XH, trong đó
quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật cơ bản nhất. -
Cơ sở của sự tồn tại nền KT nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH, xét đến cùng, là do
quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX quy định. Trong thời kì quá độ đi lên
CNXH, đặc biệt ở các nước tiểu nông, do trình độ phát triển LLSX còn nhiều hạn chế và không đồng
đều nên tất yếu còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu, nhiều thành phần KT: hơn nữa, 1 số thành phần
KT của phương thức SX cũ còn có tác dụng tích cực nhất định đối với sự phát triển của LLSX. Điều
đó cho thấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã giải thích rất rõ tại sao phải phát triển
nền KT nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH. Nền KT nhiều thành phần ở nước ta hiện
nay là sp của quá trình Đảng và nhân dân ta nhận thức, vận động sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, thể
hiện tư duy mới của chúng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH.
Đề xuất giải pháp phát triển LLSX (tr.158)-vận dụng quy luật ở VN (tr.161) -
Ứng dụng thành tựu của KHCN hiện đại: cải biến CCLĐ (CCLĐ giản đơn được thay thế bằng dây
chuyền máy móc, sức LĐ của con người được giải phóng, LĐ chân tay dần được thay thế bằng LĐ
trí óc, LĐ giản đơn dần được thay thế bằng LĐ có chuyên môn hóa ngày càng cao), khai thác hiệu
quả các thế mạnh như dệt may, da giày, khoáng sản… -
Nâng cao kết cấu hạ tầng, khắc phục tình trạng thiếu tính đồng bộ và mất cân đối giữa các vùng
miền: giúp cho việc lưu thông hàng hóa, hiện đại hóa quá trình sản xuất mà còn là động lực thúc đẩy
quá trình sản xuất và hội nhập quốc tế, đảm bảo nhu cầu thông tin liên lạc… -
Cải thiện đội ngũ người LĐ: đầu tư GD, nâng cao tay nghề, công tác y tế, giải quyết việc làm cho người dân..
Phát triển KTTT theo hướng XHCN: -
Nhà nước kiến tạo phát triển tại VN: Xây dựng “Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành
động quyết liệt phục vụ người dân và doanh nghiệp” là một định hướng của Chính phủ nhận được sự
đồng tình, ủng hộ của XH. Việc xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển hay Nhà nước kiến tạo phát
triển rất phù hợp việc xây dựng KTTT định hướng XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 12 -
Vai trò phù hợp cho doanh nghiệp nhà nước: Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn đang là
trụ cột hàng đầu của nền KT, đóng góp tới 28,8% GDP. Vấn đề sắp xếp, đổi mới DNNN, hay gần đây
được sử dụng với thuật ngữ là tái cơ cấu DNNN đang được đặt ra. Tái cơ cấu là để nâng cao hiệu quả
hoạt động của DNNN, đặt DNNN ở một vị trí phù hợp trong nền KT, từ đó góp phần tạo ra động lực
phát triển cho chính DNNN và cho các loại hình doanh nghiệp khác, với mục đích cuối cùng là thúc
đẩy nhanh hơn sự phát triển đất nước, đồng thời bảo đảm công bằng XH. -
Tạo bệ phóng cho KT tư nhân: KT tư nhân được dùng để chỉ các thành phần KT dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân về TLSX, bao gồm KT cá thể, tiểu chủ và KT TB tư nhân. KT VN muốn phát triển vững
mạnh không thể thiếu khu vực KT tư nhân trong nước tăng trưởng hiệu quả và lớn mạnh. Thúc đẩy
sự phát triển của doanh nghiệp (DN) trong nước mà chủ yếu là DN tư nhân cả về số lượng và chất
lượng cũng chính là thúc đẩy sự phát triển KT đất nước. -
Chống chệch hướng sang CNTB thân hữu-Yêu cầu sống còn: "CNTB thân hữu" là thuật ngữ được
dùng để mô tả nền KT mà trong đó thành quả kinh doanh phụ thuộc vào các MQH thân thiết giữa các
doanh nhân và các quan chức chính quyền, cần phải ngăn chặn sự xâm lấn của CNTB thân hữu
7. Biện chứng của CSHT và KTTTầng (tr.163) -
CSHT: là toàn bộ các QHSX tác động qua lại lẫn nhau tạo nên cơ cấu KT của XH đó. Bao gồm
QHSX thống trị, QHSX tàn dư của XH trước và QHSX mầm mống, trong đó QHSX thống trị đóng
vai trò quyết định, chi phối các QHSX còn lại. -
KTTTầng: là toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái YT XH (YT CTrị, pháp quyền, tôn giáo) cùng
với các thiết chế CTrị XH (nhà nước, đảng phái, giáo hội) tương ứng được hình thành trên cơ sở KTTTầng nhất định. -
CSHT và KTTTầng là hai phương diện cơ bản của ĐSXH — đó là phương diện KT và phương diện
CT-XH. Chúng tồn tại trong MQH thống nhất BC với nhau, tác động lẫn nhau, trong đó CSHT đóng
vai trò quyết định đối với KTTTầng, đồng thời KTTTầng thường xuyên có sự tác động trở lại CSHT.
Vai trò của nhà nước đối với CSHT, ổn định nền KT vĩ mô -
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể "cất cánh" trừ phi nó có được nền tảng là một cơ sở hạ
tầng vững chắc. Vì thế, nhà nước phải đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định nền kinh tế vĩ mô của đất nước.
Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định
kinh tế là điều mà mọi nhà nước đều mong muốn vì nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, nhà nước
phải duy trì sự ổn định đó. Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để điều tiết nền
kinh tế, sử dụng ngân sách để tiến hành đầu tư công cho các công trình; xây dựng các dự án cơ sở hạ
tầng dựa trên căn cứ và tiêu chí kinh tế thích hợp nhằm giảm thiểu những gánh nặng chi phí của ngân
sách nhà nước và của nền kinh tế; tiến hành việc kiểm soát chi tiêu công và tiền vay của các tập đoàn
kinh tế nhà nước để duy trì sự ổn định nền kinh tế. Một thực tế hiện nay là các cơ quan hoạch định
chính sách của nhà nước ta phân quyền quá tản mạn nên khó thực hiện được giải pháp đồng bộ trong
việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, để bảo đảm việc điều tiết nền kinh tế được hiệu
quả, đòi hỏi nhà nước phải thực hiện những cải cách cơ bản để đơn giản hoá bộ máy hành chính và
phải tiến hành quản lý, kiểm soát chặt chẽ đầu tư công. Với tư cách chủ đầu tư, nhà nước hướng các
chương trình đầu tư của mình vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích của quốc gia. -
8. Sự phát triển các hình thái KT-XH là một quá trình LS-TN (tr.166) -
XH phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với một giai đoạn của sự phát triển là một hình
thái KT-XH. Đứng trên lập trường DV LS, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: “Sự phát triển của
những hình thái KT-XH là một quá trình LS-TN”. Luận điểm đó được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau đây: 13
+ Một là, SX VC là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại, vận động và phát triển của các hình thái KT-XH.
Sự vận động và phát triển của XH không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà tuân theo các
quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái KT-XH. Nói cách khác,
con người không được tự do lựa chọn hình thái KT-XH của mình. Mối quốc gia đều phải dựa trên cơ
sở nền tảng SX VC trong nước và TG mà xây dựng chọn hình thái KT-XH cho phù hợp.
+ Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của XH, của LS nhân loại, của mọi lĩnh vực KT,
CT, VH… của XH, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của LLSX của XH đó.
+ Ba là, sự vận động, phát triển của các hình thái KT-XH, tức là quá trình thay thế lẫn nhau của các
hình thái KT-XH trong LS nhân loại và đó là sự phát triển của LS XH loài người, có thể do sự tác
động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. -
Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà LS nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó, là QT
thay thế tuần tự của các hình thái KT-XH: Nguyên thủy, nô lệ, PK, TBCN và tương lai nhất định
thuộc về hình thái KT-XH CS CN.
đóng vai trò gì đối với tiến trình phát triển của Nhân tố chủ quan
lịch sử? Trong khi khẳng định tính chất LS-TN, tức tính quy luật khách quan của sự vận động, phát
triển XH, chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố khác đối với QT
phát triển của LS nhân loại nói chung và LS mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động
của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính trị của các GC, tầng lớp
XH, truyền thống VH của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của đối với tiến tình hình quốc tế
trình phát triển của mỗi cộng đồng người trong LS… -
Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể
diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính phong phú đa dạng trong
sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa dạng trong tiến trình phát triển của các
hình thái kinh tế – xã hội có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua” một hay một vài hình thái
kinh tế – xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều phải có những điều kiện khách
quan và chủ quan nhất định. Như vậy, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử phát triển của mỗi cộng
đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động đa dạng của các
nhân tố khác nhau, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người, nó đóng vai trò là các
nhân tố thuộc cơ chế vận động, phát triển của lịch sử nhân loại. Từ đó lịch sử phát triển của xã hội
được biểu hiện ra là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó.
YNPPL: Trước Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong KHXH. Với sự ra đời của
CNDVLS, trong đó hạt nhân là LL hình thái KT-XH đã cung cấp một PPL thực sự KH trong nghiên
cứu về lĩnh vực XH. Thứ nhất, theo LL hình thái KT-XH, SX VC chính là cơ sở của ĐSXH, phương
thức SX quyết định trình độ phát triển của nền SX và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát
triển của ĐSXH và LS nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ YT, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan
của con người để giải thích các HT trong ĐSXH, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển
của nền SX XH, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức SX XH với cốt lõi là trình độ phát
triển của LLSX hiện thực. Thứ hai, theo LL hình thái KT-XH, XH không phải là sự kết hợp một cách
ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các phương tiện của ĐSXH tồn
tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó QHSX đóng
vai trò là QH cơ bản nhất, quyết định các QH XH khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
chế độ XH khác nhau. Thứ ba, theo LL hình thái KT-XH, sự vận động, phát triển của XH là một QT
LS-TN, tức là QT diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do
vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của ĐSXH thì phải đi sâu
nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của XH. Những giá trị KH trên đây của LL hình thái KT-XH là
của việc nghiên cứu về XH và LS nhân loại, LS các
những giá trị về mặt PPL chung nhất
cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong các QT nghiên cứu về 14
từng lĩnh vực cụ thể của XH. V.I. Lênin từng dạy rằng: lý luận đó “không bao giờ có tham vọng giải
thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương pháp… “duy nhất khoa học” để giải thích lịch sử”.
9. Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay (tr.178) - Tính tất yếu: tr.178 - Mục tiêu: tr.181 - Nội dung: tr.181 -
Vai trò: Trước xu thế hoà bình-hợp tác, toàn cầu hóa, khu vực hóa và quá trình hội nhập quốc tế sâu
rộng, nhiều người dường như lãng quên vấn đề GC và đấu tranh GC. Ai nói đến đấu tranh GC liền bị
quy là "bảo thủ", "giáo điều". Ai nhắc nhở phải cảnh giác với âm mưu "diễn biến hòa bình" thì cho là
"thiếu thức thời", "tư duy cũ". Hóa ra là, vấn đề GC vẫn còn nguyên đó. Nó tồn tại tới khi nào không
còn GC đối kháng về lợi ích KT và lập trường CTrị. Vấn đề GC thể hiện ra ở tất cả các khía cạnh:
KT, CT, XH; thể hiện trong các cuộc đấu tranh tư tưởng, trong chính sách và hành động trước các sự kiện diễn ra trên TG. -
Thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh GC vẫn tiếp tục diễn ra theo đúng quy luật phát triển của XH loài
người; vẫn là cuộc đấu tranh "ai thắng ai" trên bình diện quốc tế, cũng như trong điều kiện cụ thể của
từng nước. Bất kì ở đâu, bất kể thời điểm nào, khi cố tình coi nhẹ hoặc không đếm xỉa đến tính phức
tạp của cuộc đấu tranh GC trên mặt trận tư tưởng; trên các lĩnh vực KT, CT, XH, tư tưởng và VH, thì
chính lúc đó, CM sẽ phải trả giá đắt. -
Có thể nói, trong thời đại ngày nay, cuộc đấu tranh GC vẫn diễn ra ở tất cả các chế độ XH, biểu hiện
ra nhiều mức độ khác nhau. Với chế độ TBCN, đấu tranh GC vẫn tiềm ẩn với sự bất công, phân cực
giàu nghèo ngày càng sâu sắc; thất nghiệp ngày càng đông; tính mạng, an ninh và trật tự XH luôn bị
đe dọa; sự phá hủy và suy đồi đạo đức XH ngày càng gia tăng vì cơn lốc của lợi nhuận. Nếu đi sâu
thêm, ta thấy rằng, nguồn gốc của sự xung đột GC trong XH TBản là do lôgic phát triển trong điều
kiện bất bình đẳng, đa số phải phục tùng lợi ích và quyền lực của thiểu số; đồng thời, đó là sự vận
hành trên cơ sở QH bóc lột và bị bóc lột giữa GCTS và người LĐ. Mặc dù GCTS đã có sự mềm dẻo
nhất định trong việc làm dịu mâu thuẫn giữa TB và LĐ, nhưng đấy vẫn chỉ là ở từng nơi, từng lúc,
còn về cơ bản, mâu thuẫn giữa TB và LĐ vẫn ngày càng gay gắt; thuế khóa, thất nghiệp, các tệ nạn
XH luôn đeo đẳng người nghèo. Điều đó, sẽ đẩy những mâu thuẫn XH lên đỉnh điểm, dẫn đến bùng
nổ XH. Cùng với QT toàn cầu hóa ngày càng tăng, những biện pháp điều chỉnh các QH KT và sở
hữu theo hướng công cộng hóa cũng ngày càng tăng; bảo đảm cho các cổ đông, các tổ chức công
đoàn và người LĐ ngày càng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia quản lý KT-XH. Những biến đổi trên,
vô hình dung đã trở thành những tiền đề của chế độ XH mới trong lòng CNTB. -
Mặc dù các nhà kinh doanh TS hiện đại đã biết linh hoạt và đôi khi ứng phó có hiệu quả trước diễn
biến của tình hình KT-XH, nhưng các lực lượng dân chủ, đội ngũ đông đảo những người làm công ăn
lương ở các nước TBCN hiện nay cũng đã khác trước. Họ hiểu biết và có nhiều hình thức đấu tranh
linh hoạt hơn, nhưng không kém phần mạnh mẽ, hiệu quả, tạo ra trong lòng XH TB những cơ cấu
mới và những QH mới, không mang tính chất TS. Cuộc đấu tranh GC của những người LĐ chống
bóc lột và bất công ở các nước TBCN hiện nay diễn ra không chỉ trong khuôn khổ cấu trúc thượng
tầng mà cả ở CSHT, làm thay đổi nền móng XH, làm biến dạng chế độ TS. Để có thể thích nghi với
thời đại, CNTB đã cố gắng tự điều chỉnh trên mọi lĩnh vực, nhưng cũng chính vì thế đã tự làm nảy
sinh những vấn đề mới, ngoài ý muốn của GCTS. Nó sẽ bị hút dần một cách không tự giác vào một
trật tự XH; mà ở đó, những mầm mống và yếu tố mới phát sinh trong lòng XH TB sẽ là những điều
kiện dẫn tới sự thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu trên cơ sở cuộc đấu tranh GC diễn ra theo một cách thức mới. 15 -
"Diễn biến hòa bình", “CM nhung”, “CM màu”... là những chiến lược tổng thể của chủ nghĩa đế
quốc, nhằm thực hiện mục tiêu nói trên. TG gọi đó là " ". Đây
cuộc chiến tranh không có khói s ng
thực chất là kế sách phá vỡ thành lũy của CNXH từ bên trong, là chiến thuật "mối xông nhà", nhằm
phá ruỗng cơ cấu KT-CT-XH của các nước XHCN. Các chính trị gia đề xuất chiến lược "Diễn biến
hòa bình" đã tổng kết: muốn xoá bỏ chế độ XHCN, không thể dùng vũ lực tấn công từ bên ngoài.
Thực tiễn diễn ra đúng như vậy. Để thực hiện điều đó, họ đã tìm mọi thủ đoạn phá hoại các đảng đó
về mặt tư tưởng và tổ chức. Nhằm phá hoại ĐCS cầm quyền về tư tưởng, họ lấy tư tưởng XH-dân
chủ thay cho chủ nghĩa Mác-Lênin. Để thực hiện "diễn biến hòa bình" ở các nước không theo con
đường TBCN, các thế lực chống cộng còn dùng thủ đoạn từng bước mua chuộc, lôi kéo các phần tử
dao động, bất mãn, gây dựng các tổ chức chống cộng ngay trong nội bộ ĐCS và các tổ chức XH ở các nước đó. -
Tất cả những thủ đoạn mà các thế lực đế quốc đã và đang sử dụng đối với các nước XHCN cũng như
đối với GC những người LĐ trên toàn TG cho thấy, cuộc đấu tranh GC hiện nay so với trước đây
không kém phần gay go, quyết liệt, phức tạp. Đối với các nước XHCN, nó thể hiện cả trong việc bảo
vệ lý tưởng cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin và trong việc giữ vững định hướng XHCN. Trong điều
kiện mở cửa và hội nhập với TG, sử dụng công cụ KT của CNTB để xây dựng CNXH, ĐCS cầm
quyền càng phải đề cao cảnh giác, mài sắc ý chí CM, kiên định lập trường GC, nhận dạng thật rõ các
hành động và âm mưu thù địch để có biện pháp đấu tranh có hiệu quả.
10. Quan điểm của CNDVLS về bản chất con người (tr.209) -
Con người là 1 trong những vấn đề trọng tâm của việc nghiên cứu triết học nói chung, của triết học
Mác-Lênin nói riêng. Triết học cổ đại: con người là 1 tiểu vũ trụ, là chúa tể muôn loài, chỉ sau thần
linh. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo: phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt
động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật: phần xác quyết định và
chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử, và quá trình nhận thức đó không ngừng được
phát hiện. Còn triết học Mác-Lênin kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời
khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Triết học
Mác-Lênin xuất phát từ con người và vì mục đích con người, vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng con
người và XH loài người. Điều đó chứng tỏ triết học Mác-Lênin là một học thuyết nhân đạo và mang
tính nhân văn sâu sắc. Triết học Mác-Lênin khẳng định rằng, trong sự tồn tại của mình, bất kì con
người nào cũng chịu sự chi phối của các hệ thống quy luật sau đây: (tr.209) -
Tóm lại, bản chất con người là 1 thể thống nhất của cái sinh vật và XH. Do đó, trong nhận thức và
thực tiễn chúng ta không được tuyệt đối hóa bất kì 1 mặt nào, mà cần phải xem xét chúng trong sự
thống nhất với nhau. Vì vậy, thứ nhất, để lý giải 1 cách KH những vấn đề về con người, phải căn cứ
vào phương diện TN và XH, trong đó vấn đề có tính quyết định là phương diện bản tính XH của nó,
từ những QH KTXH của nó. Thứ hai, động lực cơ bản của tiến bộ và phát triển xã hội là năng lực
sáng tạo lịch sử của con người, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người chính là phát huy
nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của XH. Thứ ba là sự nghiệp giải phóng
con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó phải hướng vào việc giải phóng những
QH KT-XH. Trên cơ sở đó có thể khẳng định giá trị căn bản nhất của CMXHCN là ở mục tiêu xóa
bỏ triệt để các QH KTXH áp bức, bóc lột nhằm giải phóng con người, phát huy cao nhất năng lực
sáng tạo của con người, đưa con người tới sự phát triển tự do và toàn diện.
Vận dụng để hoàn thiện nhân cách -
Miệt mài, năng nổ, sáng tạo, chủ động trong mọi việc -
Làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM -
Rèn luyện từ việc nhỏ nhất -
Gương mẫu trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 16 -
Tranh thủ mọi thời gian để xử lý công việc, bài học, chủ động ghi chép, lưu lại những việc đã làm để
chưa thực hiện tốt thì rút kinh nghiệm lần sau -
Tận tụy với công việc, có tinh thần cầu thị, tiến lên -
Gương mẫu tác phong, nói đi đôi với làm, sâu sắc thực tế, luôn học hỏi, ý thức rõ trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ -
Nhận thức đúng vị trí, vai trò trong XH (nhà giáo tương lai) suy ra…
Phát huy nguồn nhân lực -
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì con người, nguồn nhân lực được coi là nhân tố
quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành công hay thất bại, tính hiệu quả của quá trình này. Để đạt
được sự phát triển, tính hiệu quả của quá trình CNH –HĐH thì cần phải có những chính sách phát
triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lao động và cách phân bổ, sử dụng hợp lí. Ở nước ta con
người, nguồn nhân lực có nhiều ưu điểm, lợi thế song cũng có những mặt hạn chế. Vấn đề sử dụng
và đào tạo nguồn nhân lực lại chưa thực sự hợp lý. Chính vì vậy việc phát huy và sử dụng nguồn
nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một điều hết sức cần
thiết và cần có những sự quan tâm đúng mức. Con người là nhân tố chủ chốt, sử dụng các nguồn lực
khác phục vụ cho quá trình CNH –HĐH . Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt
còn nguồn lực con người là vô tận . Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn
+ Gắn kết chiến lược phát triển nhân lực và kinh tế: đổi mới đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại
hóa, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, nhu cầu của xã hội
và hội nhập quốc tế, chủ yếu là hội nhập kinh tế quốc tế. Cần phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân
lực để có một chất lượng đầu ra cao, đảm bảo những yêu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong
thời kì mới, phù hợp và đáp ứng có hiệu quả trong việc thực thi các chiến lược phát triển kinh tế.
Đào tạo nguồn nhân lực phải dựa trên cơ sơ của quá trình phát triển kinh tế. Chính phủ và các cơ
quan chức năng phải có chính sách, biện pháp kết hợp thật tốt giữa đào tạo nguồn nhân lực và sử
dụng nguồn nhân lực theo hướng đáp ứng nhu cầu của xã hội
+ Chính sách xã hội: dân chủ, công bằng xã hội, giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích. Mặt khác cần có
hệ thống pháp luật rõ ràng, nghiêm minh, bảo đảm an ninh trật tự, chống tham nhũng để tạo ra lòng
tin cho người lao động an tâm làm việc, nghiêm cấm làm giàu bất chính. Các doanh nghiệp cũng cần
kết hợp với nhà nước có các giải pháp kích thích tích cực của người lao động. Bên cạnh đó cần có
các chính sách tăng cường phúc lợi cho người lao động, nâng cao thu nhập bằng việc thay đổi điều
chỉnh mức lương, nhất là tiền lương tối thiểu đảm bảo mức sống cho người lao động. Xây dựng cơ
chế quản lý xã hội, quản lý nhà nước để người dân có điều kiện tham gia vào công việc nhà nước
khắc phục tình trạng trì trệ, bảo thủ trong một số cơ quan nhà nước. Thực hiện biện pháp làm giảm
dần khoảng cách chệnh lệch giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ. Quan tâm tới những
hộ nghèo, gia đình khó khăn, gia đình chính sách, vùng sâu vùng xa….làm cho mọi người dân
đều được hưởng thành quả y tế, giáo dục, văn hoá…Thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, tập
trung giải quyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm, trên cơ sở đó người lao động mới có
điều kiện nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề, mới có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống
hiến hết sức mình cho đất nước.
+ Giáo dục-đào tạo: phải đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục và quản lý hoạt động giáo dục-đào
tạo, mà thực chất là chuẩn bị và thực hiện một chiến lược cải cách giáo dục, hiện đại hóa giáo dục.
Muốn vậy, phải chú trọng giáo dục toàn diện theo cấu trúc nguồn nhân lực trẻ. Giáo dục- đào tạo
phải dựa trên một sự tổng hợp cao, với quan điểm gắn quyền lợi cá nhân với trách nhiệm xã hội.
Giáo dục phải được xã hội hóa, song phải chú ý đến mối quan hệ giữa 3 yếu tố: quy mô, chất lượng,
hiệu quả, trong đó chất lượng, hiệu quả giáo dục cần được đặt lên hàng đầu. Giáo dục phải theo
hướng kết hợp dạy người, nghề, trong đó, dạy người là mục tiêu cao nhất. Hơn bao giờ hết, mục tiêu
của công tác giáo dục- đào tạo là phải nỗ lực tạo ra bước chuyển biến về chất nguồn nhân lực thanh 17
niên, chuẩn bị cho họ một hành trang toàn diện cả về trí lực, đức, tài đủ sức thực hiện CNH, HĐH
đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. - Đối với sinh viên:
+ Học tập gắn liền với làm việc : Cần phải biết tư duy chủ động tránh tình trạng thụ động trên giảng đường.
+ Đánh giá đúng, chính xác về bản thân mình : Sinh viên đánh giá trung thực tự biết được mình đang
ở vị trí nào, thứ bậc nào từ đó cải thiện nâng cao trình độ, ý thức học.Chúng ta phải hết sức tránh lối
học tập hình thức, học vì bằng cấp.
+ Làm việc nhóm : Vận dụng trong việc nhóm đầu tiên, sinh viên cần phải xây dựng vai trò chính
trong nhóm, đó là, bầu ra một nhóm trưởng giúp phát triển quá trình làm việc nhóm, biết giải quyết
vấn đề, phân loại vấn đề sáng tạo và kích thích tiềm năng, phát triển vào từng thế mạnh của mỗi
thành viên phân công cho từng thành viên các nhiệm vụ cụ thể khác nhau phù hợp với năng lực của
mỗi người, tìm ra được một người có khả năng thuyết trình với mục đích cuối cùng đó là mang lại
hiệu quả tốt nhất cho bài thảo luận, hiệu quả công việc cao.
+ Trau dồi kinh nghiệm: các bạn sinh viên đã biết tham gia các câu lạc bộ, tìm kiếm việc làm thêm,...
khi đang còn ngồi trên ghế giảng đường. Như vậy sẽ giúp các bạn có nhiều kinh nghiệm sống , kinh
nghiệm làm việc dễ dàng cho công trong việc chính, chuyên ngành của mình sau này khi ra trường .
+ Thầy và trò đã ra sức phấn đấu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm xây
dựng một thế hệ thanh niên có tư tưởng CNXH,vừa có đức vừa có tài. Như vậy mỗi sinh viên phải
hội tụ trên hai mặt học tập và tu dưỡng đạo đức. Trước hết, sinh viên cần phải học tập tốt, đây là
nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta. Học tốt để có kiến thức, có khả năng tác nghiệp, khẳng định được
bản thân mình và cống hiến được cho đất nước, cho xã hội. Hai là sinh viên nên trau dồi đạo đức,
sống đẹp, sống lành mạnh, có kiến thức xã hội, có văn hoá. Hai điều này bổ trợ cho nhau để hình
thành nên một nhân cách một con người. 11. MỤC LỤC 1. Mốối quan h bi ệ n ch ệ ng gi ứ a v ữ t chấốt và ậ ý th c (CSLL) ứ
..........................................................................................1 2. Hai nguyên lý c a phép bi ủ n ch ệ ng duy v ứ t (c ậ s ơ lý lu ở n c ậ a 3 ph ủ ng di ươ n) (tr ệ
.65)...........................................3 3. Quy lu t l ậ ng chấốt (tr ượ
.80)...................................................................................................................................... 6 4.
Quy lu t thốống nhấốt và đ ậ ấốu tranh c a các m ủ t đốối l ặ p (tr ậ
.84).................................................................................8 5. Quy lu t ph ậ đ ủ nh c ị a ph ủ đ ủ nh (tr ị
.88).................................................................................................................10 6. Quy lu t QHSX phù h ậ p v ợ ới trình đ phát tri ộ n c ể a LLSX (tr ủ
.160).........................................................................11 7. Bi n ch ệ ng c ứ a CSHT và ủ
KTTTấầng (tr.163)..............................................................................................................12 8. S phát tri ự n các hình thái KT ể -XH là m t q ộ
uá trình LS-TN (tr.166).........................................................................13 9.
Tính tấốt yêốu, vai trò và n i dung c ộ a đấốu tran ủ
h giai cấốp trong giai đo n hi ạ n nay (tr ệ
.178)....................................14 10. Quan đi m c ể a CNDVLS v ủ êầ b n chấốt con ng ả i (tr ườ
.209)....................................................................................15 18