Nội dung ôn tập tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Nội Vụ Hà Nội
1. Định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh.- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cáchmạng của Người được Đảng Cộng sản Việt nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồmnhững quan điểm về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủnhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiệncụ thể của Việt Nam.Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem.
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (TT)
Trường: Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45148588
Nội dung ôn tập tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng
của Người được Đảng Cộng sản Việt nam tổng kết, hệ thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những
quan điểm về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. - Cơ sở khách quan:
+ Hoàn cảnh lịch sử: tình hình trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược
của thực dân Pháp lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, thừa nhận nền bảo hộ của chúng trên toàn cõi Việt Nam.
Đầu thế kỷ XX, các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có sự biến chuyển và phân hóa.
Tình hình quốc tế, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai
đoạn độc quyền, xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới.
– Những tiền đề tư tưởng, lý luận
+ Truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng chiến đấu trong dựng nước và giữ nước,
truyền thống đoàn kết, sống có tình, có nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chảy xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chính truyền thống yêu nước của dân tộc đã trở thành sức mạnh động lực mạnh mẽ thúc giục Nguyễn Tất Thành
(Hồ Chí Minh) đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người
trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin. Hồ Chí Minh viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa
tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
+ Tinh hoa văn hoá nhân loại
Sự kết hợp của văn hóa phương Tây và văn hóa Phương Đông
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Đông. Người cũng đã tiếp thu
và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản
phương Tây và cách mạng Trung Quốc.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản
Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)…
Người đã vận dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn
hoá phương Đông phương Tây, nâng lên một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận Mácxít – lêninnít.
+ Chủ nghĩa Mác – Lênin
Khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong
khoảng thời gian đó, Hồ Chí Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ Tự
do, Bình đẳng, Bác ái. Khoảng cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động
chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp
(SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc tế II.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở thành người cộng sản vào cuối năm đó
đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư tưởng của Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lênin đã giúp
Hồ Chí Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối các cuộc cách mạng một
cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình để đề ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
Có thể khẳng định rằng Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. lOMoAR cPSD| 45148588
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (tháng 3-1919), phong trào
công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
phương Đông đã có quan hệ với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. – Nhân tố chủ quan
+ Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người sáng tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân
tố khách quan. Từ những trải nghiệm thực tế và việc được tiếp xúc với các nguồn tư tưởng mới đã hình thành tư tưởng của Người.
Ngay từ khi còn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu lòng nhân ái và sớm có chí cứu
nước, giúp nhân dân thoát khỏi khiếp nô lệ.
Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính dễ thấy
ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau,
giữa biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu, phân tích tổng hợp, khái quát hình thành những luận
điểm đúng đắn và sáng tạo, hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa
học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
3. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
1 . Từ nhỏ đến khi ra đi tìm đường cứu nước trước tháng 6/1911
• Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Xuất thân trong một
gia đình nhà nho yêu nước từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã hấp thụ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc,
nền văn hiến của nước nhà và những tinh hoa văn hoá phương Đông, Người lại được hưởng nền giáo huấn
yêu nước, thương nòi của gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng.
• Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành một
nhân cách giàu lòng yêu nước, nhân ái, thương người, có hoài bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý
chí độc lập tự cường của dân tộc. Vốn có tư chất thông minh, linh khiếu chính trị sắc sảo, với ý chí lớn tìm
đường cứu nước, cứu dân. Người không đi theo con đường phong kiến, lối mòn của các bậc tiền bối. Người
nói: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe những tiếng Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”. Thế là tôi muốn
làm quen với nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ mĩ miều ấy. Vì thế tôi nảy ra
ý muốn sang xem “Mẫu quốc” ra sao và tôi tới Pari để học hỏi”.
• Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri thức ban đầu rất quan trọng về văn hoá Đông - Tây
và lòng yêu nước nhiệt thành với chí hướng rõ rệt: trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của
các nhà yêu nước lớp trước.
2. Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản (1911 1920)
• Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người còn đến nhiều nước thuộc địa ở châu Á,
châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế quốc như Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi
lúc ra đi. Cuộc hành trình vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ đau của nhân loại là
các nước đế quốc “chính quốc”.
• Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối năm 1917, Người từ nước Anh trở lại
nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có
cảm tình sâu sắc với cuộc cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
• Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécxây (Pháp). Thực chất của hội nghị là
các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu dưới những lời lẽ “tự do”, “công bằng”, “nhân đạo”, theo
chương trình 14 điều của Uynxơn - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ.
• Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã gửi đến hội nghị “Yêu sách
của nhân dân An Nam” đòi các cường quốc thừa nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. lOMoAR cPSD| 45148588
Qua hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ““Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn” (6) ; các
dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản thân mình. Nhờ nhận thức rút
ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm đường cứu nước nên khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương
về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy những lời giải đáp đầy
thuyết phục cho những câu hỏi của mình. Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” (7) . Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu nước
của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp vô sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội theo quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc
tế Cộng sản do Lênin sáng lập (3-1919).
• Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc Hồ Chí Minh trở thành người
cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người - chủ nghĩa yêu nước chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính.
3. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
• Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào yêu nước, phong trào công nhân “chính quốc” và các nước
thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ xã hội và tri thức của mình. Nhờ thông hiểu nhiều ngoại ngữ và
giao tiếp rộng với nhiều bạn bè quốc tế mà Người tiếp thu được kiến thức cổ, kim, đông, tây, nắm được cốt
lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt động quốc tế và các buổi sinh hoạt lý luận bàn
về chiến lược sách lược cách mạng thế giới, qua thực tiễn công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách
mạng, Hồ Chí Minh đã tích lũy được nhiều tri thức cách mạng, dần dần trong tư duy của Người hình thành
nên một luận điểm đúng đắn: Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc
địa, giải phóng nhân loại. Cũng từ đó, lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, đã từng bước hình thành trong tư duy Hồ Chí Minh.
• Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Pháp và Quốc
tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân…, Hồ Chí Minh đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của mình
về nước chuẩn bị cho việc thành lập một Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các bài viết trên báo Người cùng khổ
(1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí Cộng sản, Đời sống thợ thuyền, Thông tin quốc tế,
các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ Chí Minh là những
công cụ quan trọng trong việc giáo dục những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước
truyền thống thành yêu nước theo lập trường cách mạng vô sản.
• Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, do việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh, phong
trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng theo xu hướng tư tưởng tư
sản đã xuất hiện nhiều tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt Nam cách mạng thanh niên
(5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản
Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (l-1930).
• Trước tình hình ở Đông Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 28-11-1929, Quốc tế Cộng sản đã có
nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ
Chí Minh đã chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930.
• Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn
tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo.
• Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Trong Cương lĩnh đầu tiên của
mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, “vì tư bản Pháp
hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thế mở mang được”… “nông nghệ một ngày
một tập trung... nông dân thất nghiệp nhiều” (8) . Đánh giá về giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp địa chủ,
Chánh cương vắn tắt có sự phân biệt rõ ràng: “Tư bản bản xứ không có thể lực gì ta không nên nói cho họ đi
về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một
sự đánh giá hết sức khách quan, chân thực, không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay “tả” khuynh. Từ
thực tế đó, Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” (9) . lOMoAR cPSD| 45148588
• Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của xã hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá
nhân trong lực lượng cách mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng. lOMoAR cPSD| 45148588
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản. 4.
Thời kỳ Hồ Chí Minh gặp những khó khăn, thử thách và sự kiên định của Người về cách
mạngViệt Nam (1930-1941)
• Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam. Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn
đề thuộc lý luận, chiến lược cách mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng như Quốc tế Cộng sản có đề
cập nhưng chưa đi sâu. Hơn nữa, vào cuối những năm 20, nửa đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế bị chi phối bởi những sai lầm tả khuynh, tư tưởng biệt phái, hẹp hòi. Điều đó
được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản (9-1928).
• Mặt khác, Quốc tế Cộng sản vì không sát tình hình các nước thuộc địa, nên đã phê phán đường lối cách mạng
Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra.
• Tuy bị phê phán, song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn. Đó
là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra chỉ thị thành lập Hội phản đế đồng minh (18-l l-1930), tiếp đó là Chỉ
thị về vấn đề thanh Đảng ở Trung kỳ (20-5-1931). Những chỉ thị này đã uốn nắn quan điểm xa rời thực tiễn
Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và vai trò của Mặt trận phản đế
trong sứ mệnh đoàn kết toàn dân đưa cách mạng đến thắng lợi.
• Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ của chủ nghĩa phátxít và chiến tranh
thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã nghiêm khắc tự phê bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị
quyết Đại hội VI của mình, thì những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về
đoàn kết các lực lượng cách mạng chống đế quốc đã trình bày trong Cương lĩnh mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận.
• Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người về công tác ở Đông Dương. Sau gần
30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ Chí Minh vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước.
Đây là điều kiện thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh quần chúng đưa cách mạng đến thắng lợi. 5.
Thời kỳ Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thời kỳ phát triển của
tưtưởng Hồ Chí Minh (1941-1969).
• Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của đảng về cơ bản là thống nhất.
• Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ 8 của Đảng. Quan điểm chủ đạo
của hội nghị này là nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người
kêu gọi: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ
bọn đế quốc và bọn Việt gian đảng cứu giống nòi rút khỏi nước sôi lửa nóng”. Đồng thời, ngày 195-1941,
Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, không phân biệt dân
tộc, giai cấp, đảng phái, tôn giáo v.v... nhằm đoàn kết mọi lực lượng yêu nước chống đế quốc giành độc lập
dân tộc. Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 8 và Chương trình của Việt Minh cùng với Kính cáo đồng
bào của Hồ Chí Minh ngày 6-6-1941, là những chủ trương, chính sách hợp lòng dân đã quy tụ toàn dân dưới
ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí Minh lãnh đạo, đưa Cách mạng tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
• Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng
trường Ba Đình (Hà Nội) tuyên bố nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Đó là nhà nước dân chủ nhân
dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền về nhà nước của dân, do dân, vì dân
có bước phát triển mới.
• Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ tự lập tự cường của dân tộc Việt
Nam và là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
• Nhân dân ta hưởng độc lập chưa được bao ngày thì thù trong giặc ngoài câu kết với nhau đẩy nước nhà lâm
vào cảnh “nghìn cân treo sợi tóc”… Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước
vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai với chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc. lOMoAR cPSD| 45148588
• Tháng 2-1951, cuộc kháng chiến đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành trung ương đảng
quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng. Đại hội khẳng định đường lối do Hồ Chí
Minh vạch ra từ ngày thành lập Đảng, tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn
diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”.
Đường lối đúng đắn mà Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng vạch ra đã dắt dẫn nhân dân ta tiến lên làm
nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên
phạm vi toàn thế giới. Hoà bình được lập lại nhưng đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính
trị khác nhau. Nắm vững bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã sớm xác
định kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là chủ nghĩa đế quốc Mỹ; đồng thời vạch ra
đường lối cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc,
dân chủ; miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Lần đầu tiên trong
lịch sử, một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thực hiện quá độ lên
chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản. Trong điều kiện ấy tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
• Trước thất bại của chiến tranh đặc biệt, năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ.
Chúng ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và
hải quân trên miền Bắc, hòng khuất phục quân và dân ta. Trước hành động leo thang xâm lược hết sức tàn
bạo của đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn
nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng
cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống
Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu
hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết
không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta
đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (10) .
• Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào và chiến sĩ cả nước phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách
mạng giữ vững lòng tin tưởng tuyệt đối với Người và Trung ương Đảng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
• Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc thiêng
liêng. Trong Di chúc, Người đã nói lên niềm tin tất thắng vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước; tổng kết sâu
sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam; đồng thời đề ra những phương sách lớn
để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh nhằm thực hiện mục tiêu: “Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” (11) .
• Di chúc là những lời căn dặn cuối cùng đầy nhiệt huyết, thắm đượm tình người của Chủ tịch Hồ Chí Minh;
một di sản tư tưởng vô cùng quý báu của dân tộc và nhân loại.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển cùng chiều với quá trình phát triển của xã hội Việt Nam và thời
đại. Khi đã phát triển hoàn chỉnh về cơ bản, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho
đường lối chính trị đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh
thần quý báu của dân tộc và nhân loại.
4. Ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta; đồng thời là sự kết
tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mang ý nghĩa hết sức to lớn: trang bị hệ thống quan điểm và phương
pháp cách mạng Hồ Chí Minh, nâng cao thêm lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng
cả mỗi người, để làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta.
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc. lOMoAR cPSD| 45148588
5.1 Về đường lối cách mạng: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi triệt để phải đi
theo con đường cách mạng
- Hồ Chí Minh khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
- Việc lựa chọn và quyết định đi theo con đường cách mạng vô sản, theo con đường cách mạng tháng Mười
Nga, theo Chủ nghĩa Mác - Lênin là một quyết định đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về mặt nhận thức tư
tưởng cách mạng của Nguyến Ái Quốc – Hồ Chí Minh, đồng thời mang tính bước ngoặt căn bản đối với cách mạng Việt Nam.
5.2 Về lực lượng lãnh đạo cách mạng
• Cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
• - Theo Hồ Chí Minh: “Cách trước hết phải có Đảng cách mệnh…Đảng có vững cách mệnh mới thành công
...Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt…Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1].
• - Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng
giải phóng dân tộc; thông qua Cương lĩnh, đường lối, Đảng tổ chức vận động, tập hợp các lý luận cách mạng
đấu tranh chống đế quốc phong kiến và giải phóng dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
5.3 Về lực lượng thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc
• Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên cơ sở lien minh công nông làm nòng cốt.
• - Cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của toàn dân. Trong đó: bộ phận trung tâm trong lý luận cách
mạng giải phóng dân tộc là công nhân, nông dân và khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
• - Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công nông
làm nòng cốt cho mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng
lớp nhân dân Việt Nam, huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
5.4 Về mối quan hệ giữa ccm giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở các nước chính quốc
• - Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động sáng tạo, có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
• - Quan điểm của Quốc tế cộng sản về cách mạng thuộc địa: công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa chỉ
có thể giành được thắng lợi khi giai cấp vô sản làm cách mạng vô sản thành công ở các nước tư bản tiên tiến.
• - Căn cứ vào tình hình thực tiễn cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh khẳng
định: cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể
giành thắng lợi trước và tạo điều kiện cho cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc.
• - Đây là một luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với phong trào
cách mạng thế giới, đóng góp vào kho tang lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và đã được thực tiễn của cách
mạng Việt Nam, cách mạng thế giới kiểm nghiệm và chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5.5 Về phương pháp cách mạng
• Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh
chính trị của quần chúng với đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
• - Căn cứ vào thực tiễn tình hình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, nghiên cứu quan điểm lý luận
về cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định để cứu nước, giải phóng dân tộc cách mạng Việt Nam phải
tiến hành bằng cách mạng bạo lực, kết hợp khởi nghĩa vũ trang với đấu tranh chính trị của quần chúng. Hồ lOMoAR cPSD| 45148588
Chí Minh coi đó là điểm tựa của lực lượng để phát triển lực lượng vũ trang, tổ chức các hình thức đấu tranh
vũ trang từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, phù hợp với từng nơi, từng thời kỳ cụ thể.
• - Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết của Lênin về cách mạng
thuộc địa, hình thành một hệ thống luận điểm khá hoàn chỉnh, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược
và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Ở Việt Nam thắng lợi của cách mạng lOMoAR cPSD| 45148588
Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã khẳng định tính khoa học, tính đúng đắn,
sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Phải tạo ra những điều kiện cần và
đủ về cơ sở vật chất; đồng thời, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để
tiến lên chủ nghĩa xã hội”(4). Trong đó, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo
nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”(5).
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ quá độ lên CNXH rất toàn diện. Trên lĩnh vực kinh
tế, phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề mấu chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa, cùng với thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ
trong thời kỳ quá độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản
lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất. Trên
lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; quan tâm củng
cố mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhằm không ngừng tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp xây dựng CNXH.
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng và mấu chốt của văn hóa là xây
dựng con người có đạo đức cách mạng, con người mới xã hội chủ nghĩa với đức - tài gắn bó hữu cơ với nhau, toàn
tâm toàn ý phục vụ nhân dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới. Về xã
hội, thực hiện sự phân phối theo lao động, thi hành chính sách xã hội vì toàn dân, bình đẳng.
7. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng nước ta đến thắng lợi.
Cách mạng vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi khi có Đảng cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo. Luận điểm đó của Mác, Ăngghen, và Lênin trước hết bắt nguồn từ vai trò của Đảng đối với cách mạng và từ
địa vị, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh đã nhận thức, quán triệt và vận dụng sáng tạo luận điểm trên của các nhà kinh điển Mác - Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người đặt vấn đề: "Cách mệnh trước hết phải có cái gì?"[3] và Người đã khẳng định:
"... trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc
bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"[4].
Ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh là làm sao nước nhà được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, được học hành. Muốn vậy, theo Người, Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Đây
là một cuộc cách mạng có nội dung rộng lớn, toàn diện, có tính chất triệt để nhất trong lịch sử phát triển của dân tộc
và nhân loại. Do vậy sự nghiệp cách mạng đó là của toàn thể dân chúng, không phải là việc riêng của một, hai người.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rằng để thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng đó, không có cách nào khác là phải dựa lOMoAR cPSD| 45148588
vào sức mạnh của nhân dân - nhân dân có tiềm năng và khả năng cách mạng to lớn, nhưng sức mạnh ấy chỉ được
phát huy khi đã được giáo dục, giác ngộ, tổ chức lại thành một đội quân thống nhất. Vì thế phải làm cho dân giác
ngộ, phải bày sách lược cho dân, phải đoàn kết nhân dân lại. Đó là nhiệm vụ của Đảng cách mạng - Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Cách mạng Việt Nam muốn giành thắng lợi trước hết phải dựa vào sức mình là chính, nhưng mặt khác cũng phải
biết kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, sức mạnh của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam do
đó phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng của các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và cách mạng vô sản ở các nước chính
quốc, giữ mối liên hệ đó là nhiệm vụ của Đảng.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là
đội tiền phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn kết, tập hợp, lôi kéo mọi tầng lớp nhân dân đứng lên đấu
tranh làm cách mạng - nhân tố hàng đầu quyết định mọi thằng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhận thức được vai trò quyết định của Đảng cộng sản đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam nên cuối năm 1924
Người đã về Quảng Châu (Trung Quốc) và từ năm 1925 đến đầu năm 1930 là thời gian cùng với việc thực hiện
nhiệm vụ của Quốc tế cộng sản giao, Người đã trực tiếp bắt tay vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Ngày 3.2.1930 Người trực tiếp lãnh đạo hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành chính đảng duy nhất -
Đảng Cộng sản Việt Nam. Người còn trực tiếp soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã có đường
lối cách mạng đúng đắn.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2.1930) đảm nhận sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam là đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi khách quan của xã hội Việt Nam lúc đó. Thực tiễn gần 80 năm qua đã chứng minh cách mạng Việt Nam
luôn luôn cần có Đảng lãnh đạo, nhân tố hàng đầu đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác,
không một lực lượng chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo đó.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Một trong những cống hiến xuất sắc của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là luận điểm của
Người về quy luật ra đời của Đảng cộng sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. lOMoAR cPSD| 45148588
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học đều quan niệm Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Luận điểm đó hoàn toàn đúng khi giai cấp công nhân đã bước lên vũ
đài chính trị với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập, được lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn
đường. Xuất phát từ tình hình Việt Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí
Minh thấy rằng việc ra đời Đảng cộng sản ở đây, nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào công nhân còn non yếu. Do đó phải kết hợp với phong trào
yêu nước rộng lớn của các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân; phong trào này diễn ra liên tiếp,
từ rất lâu trước khi có giai cấp công nhân và phong trào công nhân, phong trào yêu nước trong thời đại mới rất gần
với phong trào công nhân và đang bế tắc về đường lối cho nên rất dễ tiếp thu lý luận Mác - Lênin. Khái quát về quy
luật đặc thù của việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới sự thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào đầu năm
1930”[5]. Ở đây phong trào công nhân dù có tiên tiến nhất, nhưng nếu không gắn bó với phong trào yêu nước, trở
thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cũng không mở rộng được cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và
đưa cuộc đấu tranh đó đến thắng lợi.
Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, đó là con đường Hồ
Chí Minh và hầu hết những người cộng sản Việt Nam đã đi.
Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về sự ra đời của Đảng cộng sản vào điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam. Từ luận điểm trên của Hồ Chí Minh giúp Đảng ta vừa vững vàng về nguyên tắc, vừa mềm dẻo
trong sách lược để lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng như trong xây dựng Đảng. Đó cũng là điều kiện thuận lợi để
Đảng ta giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, giúp Đảng ta đề ra các chủ trương,
chính sách đúng đắn trong các thời kỳ cách mạng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, giữa mục
tiêu cơ bản lâu dài với mục tiêu cấp thiết trước mắt, đảm bảo cho Đảng không chỉ là lãnh tụ chính trị của giai cấp
công nhân mà của cả dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, từ quy luật ra đời đặc thù đó nên phần đông đảng viên của Đảng xuất thân từ nông dân, trưởng thành từ
phong trào yêu nước. Để tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính tiền phong của người cộng sản cho đội ngũ
đảng viên của Đảng, theo Hồ Chí Minh cần chú trọng phát triển đảng viên từ thành phần giai cấp công nhân. Mặt
khác, điều có ý nghĩa quyết định là Đảng phải giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện tăng cường bản chất giai cấp công
nhân cho đội ngũ đó. Trong bài "Hoa sen" đăng trên báo Nhân dân (30.3.1956), Người viết: "Thành phần giai cấp
nhất định có ảnh hưởng đến tư tưởng con người. Nhưng nó không phải là một ảnh hưởng quyết định, không khắc lOMoAR cPSD| 45148588
phục được. Khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng, đã được Đảng và nhân dân rèn luyện, người ta có thể đấu tranh
và thoát ly ảnh hưởng của giai cấp xấu, thoát ly những quan hệ xấu.
Thành phần giai cấp và quan hệ gia đình có ảnh hưởng thế nào, điều quyết định vẫn là do bản thân mỗi người đảng viên"[6].
3. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định Đảng cộng sản là Đảng của giai cấp vô sản, đấu tranh cho
lợi ích của giai cấp vô sản nước mình và giai cấp vô sản thế giới; Đảng gồm những phần tử tiên tiến nhất trong giai
cấp vô sản, đội tiền phong, bộ tham mưu của giai cấp vô sản. Đảng bao giờ cũng là đảng của một giai cấp, mang bản
chất của một giai cấp nhất định. Vì vậy xác định đúng bản chất giai cấp của đảng là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Quán triệt quan điểm đó vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi Đảng ta ra đời trong các văn kiện do
Hồ Chí Minh soạn thảo và được thông qua hội nghị thành lập Đảng, Người chỉ rõ: “Đảng là đội tiên phong của đạo
quân vô sản”, “Đảng là của giai cấp vô sản”. Tại Đại hội II của Đảng (tháng 2.1951), Hồ Chí Minh khẳng định:
“Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng
Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam”[7]. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nhắc lại luận điểm trên: “Đảng ta là Đảng
của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”[8].
Việc khẳng định như vậy không hề xoá nhoà bản chất giai cấp của Đảng như một số người lầm tưởng mà trái lại
chứng tỏ Hồ Chí Minh vừa quán triệt sâu sắc những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất giai cấp của
Đảng, về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời Người hiểu rất sâu sắc truyền thống dân tộc, thực
tiễn cách mạng Việt Nam.
Khi xem xét bản chất giai cấp của một chính đảng không phải xem đảng đó mang tên gì, thành phần xuất thân của
đảng viên mà vấn đề quyết định là phải căn cứ vào nền tảng tư tưởng, tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của đảng đó. Trước sau như một, dù là mang tên Đảng Cộng sản Việt Nam; Đảng Cộng sản Đông Dương; Đảng
Lao động Việt Nam, thì theo Hồ Chí Minh, Đảng ta vẫn mang bản chất giai cấp công nhân. Bởi vì tôn chỉ, mục đích,
nềng tảng tư tưởng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng ta mà Hồ Chí Minh chỉ ra đều luôn tuân thủ nghiêm
túc các nguyên tắc về xây dựng Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác Lênin. lOMoAR cPSD| 45148588
Theo Người, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân, tính dân tộc
sâu sắc. Đảng đó không chỉ đại biểu, đại diện, chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân mà còn của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Tổng kết thực tiễn hoạt động của Đảng ta, Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi
ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”[9].
Quán triệt sâu sắc quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng và
hoạt động đã gắn bó máu thịt với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam trong mọi thời kỳ
của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, tuyệt đại đa số những người dân Việt Nam, dù là đảng viên hay không phải là
đảng viên, dù thuộc giai tầng nào trong xã hội, ai ai đều cảm thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của mình, Đảng
ta, Đảng của chúng ta, tự hào với những thắng lợi, thành công của cách mạng do Đảng lãnh đạo, có trách nhiệm
trong xây dựng và bảo vệ Đảng, băn khoăn, lo lắng và thấy mình cũng có trách nhiệm trước những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin "làm cốt".
Nhận thức đúng vai trò to lớn của lý luận cách mạng đối với đảng cách mạng nên ngay trang đầu tác phẩm “Đường
cách mệnh” (1927), Nguyễn Ái Quốc đã nhắc lại lời chỉ dẫn của Lênin rằng: “Không có lý luận cách mệnh, thì không
có cách mệnh vận động. Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách
mệnh tiền phong”[10]. Người cũng chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”[11]. Lấy chủ nghĩa “làm cốt”, theo Hồ Chí Minh đó là cơ sở nền tảng tư tưởng,
nền tảng lý luận của Đảng; cơ sở để Đảng định ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược và mục tiêu cần đạt
tới của cách mạng; cơ sở của sự đoàn kết thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng.
Tính đúng đắn, tính cách mạng và khoa học của một lý luận mà chính đảng đã lựa chọn là điều kiện tiên quyết làm
nên thắng lợi của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”[12] và
“Phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”[13]. Nhờ lý luận ấy. Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước, đã
xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam và trang bị cho Đảng vũ khí tinh thần để Đảng làm tròn vai trò tiên phong, vai
trò lãnh đạo cách mạng.
Viết về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Đảng ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Là lực lượng tư tưởng hùng hậu chỉ
đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động,
hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”[14]. lOMoAR cPSD| 45148588
Khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững
bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin để vận dụng vào thực tiễn, Người viết: “Chủ nghĩa Mác
- Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”[15], do vậy: “Học tập cái tinh thần xử trí mọi
việc, đối với mọi người, và đối với bản thân mình; là học tập cái chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp
dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”[16]. Việc tổ chức học tập nâng cao trình
độ lý luận cho đảng viên phải phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng cụ thể. Học tập, tiếp thu những kinh nghiệm của các
Đảng cộng sản khác trên thế giới, kế thừa phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại,
đồng thời còn chú ý tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam để bổ sung, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác
- Lênin. Bên cạnh đó Người cũng phê phán, lên án những biểu hiện: “Học thuộc lòng, khi gặp thực tế thì máy móc,
lúng túng. Nói và làm không thống nhất... Học để trang sức, chứ không phải để vận dụng vào thực tiễn”.
Quá trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, nhất là 20 năm đổi mới càng chứng tỏ vị trí, vai trò nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống chính trị, tinh thần của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta: không một đường lối chính sách nào của Đảng, Nhà nước, cách mạng nước ta lại không bắt
nguồn từ sự phát sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó tiếp tục được Đảng ta khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[17]. Đó là sự khẳng định nhân tố hàng đầu đảm bảo tính tiền phong,
tính cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Theo Hồ Chí Minh, để Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất và mạnh mẽ của những
người cộng sản, một Đảng Mác - Lênin thì Đảng đó phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Một là, nguyên tắc tập trung dân chủ
Dân chủ trong sinh hoạt Đảng là điều mà Mác, Ăngghen đặc biệt chú ý trong xây dựng chính đảng vô sản. Lênin coi
tập trung dân chủ là một nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản - Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Hồ Chí Minh không chỉ tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam mà còn bổ sung, phát triển làm sáng tỏ bản chất của các thành tố trong nguyên tắc và mối quan hệ biện chứng của chúng. lOMoAR cPSD| 45148588
Vấn đề tập trung trong Đảng theo Hồ Chí Minh: “Có đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo
thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa
phương phải phục tùng Trung ương”[18], tất cả mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng.
Người chỉ ra rằng: khi chưa có nghị quyết thì tha hồ bàn cãi, nhưng khi có quyết định rồi thì không được bàn cãi
nữa, có bàn cãi cũng chỉ là bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, chứ không phải là đề nghị không thực hiện.
Gắn liền với việc coi trọng tập trung, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng việc mở rộng dân chủ thực sự trong xây dựng
Đảng cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng "chế độ ta là chế độ dân chủ", “dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân”[19], do đó cũng là của quý báu nhất của người đảng viên; đồng thời nếu thực hành dân chủ trong nội bộ
đảng tốt sẽ làm cho Đảng tập trung được trí tuệ, tạo ra bầu không khí chân thành, cởi mở, tin cậy lẫn nhau, làm cho
Đảng thoát khỏi tình trạng “u ám” thiếu đoàn kết. Mở rộng dân chủ còn chống được tệ độc đoán, chuyên quyền trong
Đảng - một nhân tố làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Người yêu cầu: “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng
viên bày tỏ hết ý kiến của mình”[20]. Theo Hồ Chí Minh, tập trung và dân chủ là hai vế của một nguyên tắc có quan
hệ biện chứng, không tách rời, không đối lập. Người chỉ rõ: "Tập trung trên nền tảng dân chủ. Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung”[21].
Theo Hồ Chí Minh, tập trung trên nền tảng dân chủ là cơ quan lãnh đạo của Đảng đều do quần chúng đảng viên bầu
lên, chủ trương nghị quyết của Đảng do tập trung kinh nghiệm, ý kiến của quần chúng đảng viên mà thành, quyền
lực của cơ quan lãnh đạo do quần chúng đảng viên giao phó, chứ không phải tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc
đoán. Còn dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung là từ việc bầu cơ quan lãnh đạo, đến ra nghị quyết đều có sự lãnh đạo,
chỉ đạo chặt chẽ, thống nhất chứ không phải dân chủ theo kiểu phân tán, tuỳ tiện, vô tổ chức, dân chủ và tự do quá trớn.
Hai là, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Hồ Chí Minh coi đây là “nguyên tắc” lãnh đạo của Đảng. Khi đề cập vấn đề dân chủ tập trung, Người nói: “Tập thể
lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung”[22]. Hồ Chí Minh đã giải thích rất cặn kẽ, về tập thể lãnh đạo:
một người dù khôn ngoan, tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của vấn đề, càng không thể thấy hết
được mọi việc. Vì vậy, cần phải có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo. Nhiều người thì nhiều kiến thức, nhiều kinh
nghiệm giúp cho tập thể thấy rõ được mọi mặt, mọi vấn đề và từ đó đề ra những chủ trương, biện pháp, những quyết
định chính xác, tránh được sai lầm. ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất giản đơn "dại bày hơn khôn độc".
Về cá nhân phụ trách, Người cũng chỉ rõ việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần
giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một nhóm người thì cũng có một người phụ trách chính. Như thế công lOMoAR cPSD| 45148588
việc mới chạy, mới tránh được thói ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể, thiếu trách nhiệm. Không xác định được cá nhân phụ
trách, thì giống như "nhiều sãi không ai đóng cửa chùa".
“Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau”[23], Người hướng dẫn rất cụ thể trong
thực hiện nguyên tắc này là cần phải chủ động, sáng tạo xuất phát từ tính chất, yêu cầu của công việc, điều kiện hoàn
cảnh nhất định để mang lại hiệu quả thiết thực, Người nhắc nhở: “Nhưng không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt,
một người vẫn có thể giải quyết được, cũng đưa ra bàn bạc - mới là tập thể lãnh đạo. Nếu làm như vậy là hiểu tập
thể lãnh đạo một cách máy móc. Kết quả cứ khai hội mà hết ngày giờ” và “những việc bình thường, một người có
thể giải quyết đúng, thì người phụ trách cứ cẩn thận giải quyết đi. Những việc quan trọng, mới cần tập thể quyết
định”[24]. Người kết luận “Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung”[25].
Ba là, tự phê bình và phê bình
Theo Hồ Chí Minh đây là nguyên tắc sinh hoạt, là quy luật phát triển của Đảng. Người chỉ ra rằng trong sinh hoạt và
hoạt động thực tiễn ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, chỉ khác nhau ở nặng nhẹ, ở trạng thái biểu hiện mà thôi
“Người đời không phải thần thánh, không ai tránh khỏi khuyết điểm”[26]; mỗi con người đều có cái thiện và cái ác
trong lòng. Phải làm sao để biết khuyến khích động viên cho cái tốt trong mỗi con người nẩy nở, phát triển và cái
xấu bị mất dần đi. Do đó, Hồ Chí Minh cho rằng: “Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”[27] và
Người cũng giảng giải rất cặn kẽ: “Phê bình là nêu ưu điểm và vạch rõ khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình
là nêu lên ưu điểm và vạch rõ khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là làm
cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa khuyết điểm”[28].
Hồ Chí Minh chỉ rõ đối tượng của tự phê bình và phê bình là: “Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”[29].
Theo Người, phê bình việc là gột rửa "cái bên ngoài" con người, không cho nó làm "ô nhiễm" con người; như là
dùng khăn mặt và xà phòng để rửa cái nhơ bẩn bám vào con người chứ không phải như cắt bỏ thân thể con người.
Đó là một tư tưởng nhân đạo xuất phát từ quan điểm thực tiễn, đạt tới đỉnh cao, cho phép tập hợp con người - xã hội
trong một thể thống nhất, mâu thuẫn, đa dạng và phức tạp, cùng hành động vì lợi ích chung, sự nghiệp chung, làm
cho con người ngày càng tốt hơn. Quan điểm đó cũng tránh cho con người không rơi vào cái “ tôi” vị kỷ, trả đũa,
tranh giành được thua, không đố kỵ, ghen ghét giữa con người với nhau.
Mặc dù vậy, nếu sử dụng “vũ khí thần diệu” tự phê bình và phê bình không đúng sẽ không mang lại hiệu quả như
mong muốn mà nhiều khi còn gây nên những hậu quả ngược lại, lường trước điều này Hồ Chí Minh chỉ ra phải có
một thái độ và phương pháp hợp lý: Thành khẩn, trung thực, kiên quyết, có văn hoá. Người căn dặn: “Phê bình mình lOMoAR cPSD| 45148588
cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và
khuyết điểm. Đồng thời chớ dùng lời mỉa mai, chua cay, đâm chọc...
Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán
ghét”[30]. ở đây Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở về thái độ, ý thức trách nhiệm của mỗi người khi tự phê bình cũng như
phê bình. Nếu là chủ thể phê bình thì phải có thái độ nghiêm túc, trung thực, động cơ trong sáng vì sự tiến bộ của
đồng chí mình chứ không phải vì tư thù cá nhân. Còn là đối tượng bị phê bình, đòi hỏi phải có thái độ thành khẩn,
cầu tiến bộ, dám nhận và quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, không được tỏ thái độ bất mãn, tiêu cực, hoặc thù oán,
trù dập người phê bình.
Với Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình còn phải xuất phát từ tình thương yêu đồng chí, phải thắm đượm lòng
nhân ái. Càng yêu thương bao nhiêu càng yêu cầu bấy nhiêu. Người yêu cầu cấp trên phải làm gương cho cấp dưới,
cấp uỷ làm gương cho đảng viên, đảng viên làm gương cho quần chúng. Mọi cán bộ, đảng viên và nhất là cán bộ
lãnh đạo cần phải biết lắng nghe tiếng nói phê bình của quần chúng, của cấp dưới và cần coi tiếng nói phê bình đó
như “tấm gương” phản chiếu gương mặt thật của mình.
Hồ Chí Minh không chỉ kêu gọi, nhắc nhở, căn dặn mà bản thân Người luôn luôn gương mẫu làm trước, thể hiện sự
nhất quán giữa lời nói với việc làm, giữa giáo dục và nêu gương. Với tinh thần thực sự cầu thị của một người cộng
sản, Người chân thành nhắc nhở, yêu cầu các đồng chí và cộng sự của mình cần thẳng thắn, đừng ngần ngại trong
góp ý kiến với Người. Người nói: “...tôi làm điều xấu, các đồng chí trông thấy, phải phê bình cho tôi sửa chữa ngay.
Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ "nể Cụ" không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên
trán thì không quan trọng nhưng nếu nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa, tức là hại người”[31].
Đó thực sự là một tấm gương sáng ngời của Hồ Chí Minh về sự tự phê bình và phê bình theo tinh thần của Lênin:
Bị một phen thất bại không nguy hiểm bằng không dám thừa nhận sự thất bại, không dám rút ra ở đây tất cả những kết luận.
Bốn là, kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Kỷ luật nghiêm minh là một đặc điểm cơ bản của chính đảng Mác-Lênin. Nó thể hiện bản chất cách mạng triệt để
của giai cấp công nhân và là một tiêu chuẩn để phân biệt đảng kiểu mới của giai cấp công nhân với bất cứ một đảng
cơ hội nào. Ngay từ bài học đầu tiên cho lớp thanh niên thời dựng Đảng, Người đã giáo dục ý thức phục tùng đoàn
thể là một trong những vẫn đề thuộc về tư cách của người cách mạng rằng: “Là người tin theo chủ nghĩa Đảng và
phục tùng phép luật của Đảng thì được vào”[32]. Đó không chỉ là tư cách mà còn là bổn phận của người đảng viên.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ nếu tổ chức không có kỷ luật chặt chẽ thì không những chỉ làm cho tổ chức suy yếu, không lOMoAR cPSD| 45148588
làm tròn sứ mệnh của mình, mà còn có thể dẫn tới thay đổi bản chất của tổ chức. Trong tác phẩm “Đường cách
mệnh” (1927) Người viết: “Đệ nhị quốc tế trước vẫn là cách mạng, nhưng vì kỷ luật không nghiêm, tổ chức không
khéo, để tụi hoạt đầu xen vào nhiều quá, sau hoá ra phản cách mạng[33].
Hồ Chí Minh nói: “Kỷ luật nghiêm để đảm bảo tư tưởng nhất trí và hành động thống nhất của toàn Đảng”[34]. Kỷ luật
của Đảng còn vượt qua mục đích tự thân của nó. Sự tập trung thống nhất ý chí và hành động trong kỷ luật của Đảng
là yêu cầu căn bản đem tới sự thống nhất về tư tưởng và hành động của quần chúng cách mạng. Đó là tấm gương và
là niềm tin của quần chúng đối với đội ngũ tiền phong của mình. Nếu “đảng viên phạm sai lầm, thì sẽ đưa quần
chúng đến sai lầm”[35].
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”[36]. Tính chất đó bắt nguồn
từ tính chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng. Sự nghiêm túc của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả các đảng
viên ở mọi cấp và tổ chức các cấp của Đảng phải chấp hành vô điều kiện đường lối chính sách, Điều lệ của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Yêu cầu đó không hề giảm bớt với ai, không có ngoại lệ. Người nói: “Không ai bắt buộc ai
vào Đảng làm chiến sĩ xung phong. Đó là do sự “tự giác”, lòng hăng hái của mỗi người mà tình nguyện làm đảng
viên, làm chiến sĩ xung phong"[37], vào Đảng thì có nhiệm vụ, có trách nhiệm của đảng viên, nếu sợ không phục vụ
được nhân dân, được cách mạng thì đừng vào. Người cũng đã chỉ rõ: “Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên
về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”[38]. Đây chính là điểm cơ bản thể hiện tính tiền phong trong kỷ luật của Đảng kiểu
mới và sự kết hợp giữa tính nghiêm túc và tính tự giác làm cho kỷ luật của Đảng thực sự là kỷ luật sắt.
Theo Hồ Chí Minh, kỷ luật của Đảng mà nội dung cơ bản trước hết là việc nhất trí và thi hành triệt để đường lối,
nghị quyết, điều lệ của Đảng. Trong điều kiện Đảng ta nắm chính quyền, đường lối của Đảng được thể chế hoá thành
pháp luật, kế hoạch, quy chế của Nhà nước thì kỷ luật Đảng buộc đảng viên và tổ chức các cấp của Đảng phải tôn
trọng quyền lực của cơ quan Nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, quyết định của cơ quan Nhà nước. Vi
phạm pháp luật của Nhà nước cũng là vi phạm kỷ luật của Đảng. Chính vì vậy Hồ Chí Minh yêu cầu: “Mỗi đảng
viên phải làm kiểu mẫu phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật của Đảng mà cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân
và của cơ quan chính quyền cách mạng”[39] .
Hồ Chí Minh cho rằng công tác xây dựng Đảng phải coi trọng việc giữ vững và tăng cường kỷ luật của Đảng và
Người cũng đề ra các biện pháp cơ bản cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đảm bảo thực hiện tốt công tác này.
Trước hết Người yêu cầu phải làm tốt công tác giáo dục chính trị, thống nhất tư tưởng trong Đảng, Người nói: “Vì
việc học tập chủ nghĩa còn kém, cho nên tư tưởng của nhiều cán bộ và đảng viên chưa thuần thục, trình độ lý luận
còn non nớt. Do đó, trong thi hành chính sách của Đảng và Chính phủ, đã xảy ra những khuynh hướng sai lầm hoặc
“tả” hoặc “hữu”[40]. Công tác giáo dục chính trị, thống nhất tư tưởng chủ yếu nhằm vào nâng cao kỷ luật, hiểu biết lOMoAR cPSD| 45148588
về tình hình, nhiệm vụ cho đảng viên, làm cho mọi người hiểu biết và nhất trí với đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước mà tự giác và nghiêm túc thực hiện một cách chính xác, hiệu quả. Mặt khác, theo Người còn phải mở
rộng dân chủ trong nội bộ Đảng, tăng cường tự phê bình và phê bình. Kỷ luật của Đảng bao giờ cũng dựa trên cơ sở
phát huy dân chủ nội bộ Đảng, những hiện tượng thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức, tệ độc đoán, chuyên quyền,
gia trưởng dẫn đến tình trạng tính chủ động, sáng tạo của đảng viên bị kìm hãm, không dám phê bình hoặc e dè, nể
nang bỏ qua khuyết điểm của cơ quan và người phụ trách, làm xuất hiện thói nịnh hót, bợ đỡ, cơ hội, kéo bè kéo
cánh, mất đoàn kết và là nguyên nhân gây ra hiện tượng tự do vô kỷ luật.
Một biện pháp cũng hết sức quan trọng và cần thiết để tăng cường kỷ luật của Đảng mà Hồ Chí Minh đưa ra là: Kỷ
luật của Đảng phải nghiêm minh, công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ. Thi hành kỷ luật là biện pháp để tăng
cường kỷ luật của Đảng, trước hết phải coi đây là một biện pháp giáo dục của Đảng đối với đảng viên, Người chỉ rõ:
“Sửa chữa sai lầm cố nhiên cần dùng cách giải thích, thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên
không dùng xử phạt. Lỗi lầm có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất loạt không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường
cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng
không đúng”[41]. Việc xét xử kỷ luật phải nghiêm minh, đúng người, đúng tội mới có tác dụng thiết thực. Hồ Chí
Minh còn cho rằng công tác kiểm tra giúp cho tổ chức đảng giữ gìn kỷ luật và đóng góp vào công tác xây dựng Đảng,
có tác dụng giáo dục đảng viên làm tròn nhiệm vụ đối với Đảng. Bởi vậy công tác kiểm tra phải chặt chẽ, chủ động,
phải lấy việc giáo dục và ngăn ngừa đảng viên vi phạm kỷ luật làm căn bản, chống quan liêu, qua loa, hình thức.
Năm là, đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng là một thuộc tính cơ bản của Đảng cộng sản, Đảng có đoàn kết thống nhất thì mới
đủ sức mạnh để giác ngộ, lôi cuốn và tập hợp được giai cấp, nhân dân vào trận tuyến cách mạng, lật đổ chế độ xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong
tư duy lý luận và hoạt động của Hồ Chí Minh. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Người
thường xuyên nhắc nhở: đoàn kết là sức mạnh của Đảng, là nhân tố đảm bảo thắng lợi của cách mạng. Trước lúc đi
xa Người căn dặn: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"[42].
Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng Cộng sản Việt Nam được Hồ Chí Minh vun đắp, xây dựng là dựa trên nền tảng
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự đoàn kết thống nhất của Đảng còn được dựa trên cơ sở đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng; dựa trên cơ sở một mục đích, một lý tưởng thống nhất. Mặt khác, đoàn kết thống nhất trong lOMoAR cPSD| 45148588
Đảng Cộng sản Việt Nam theo Hồ Chí Minh phải dựa trên những nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của
Đảng. Đây là cơ sở để tạo sự thống nhất về tư tưởng, về tổ chức, từ đó có sự thống nhất về hành động của toàn Đảng,
nhằm đưa đường lối, quan điểm của Đảng vào trong cuộc sống, biến các chủ trương của Đảng thành hành động cách
mạng trong nhân dân. Sự đoàn kết thống nhất thực sự lành mạnh, trong sáng, chân chính của Đảng cộng sản Việt
Nam chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở này. Xa rời cơ sở đó sẽ không có đoàn kết thống nhất.
Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng ngày càng bền vững, Hồ Chí Minh chỉ rõ cần chú ý làm tốt các yêu
cầu cơ bản như: thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ Đảng để đảng viên được bày tỏ hết ý kiến của mình, được
tham gia bàn bạc kỹ lưỡng những vấn đề hệ trọng của Đảng; thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với
tinh thần trung thực, chân thành, thẳng thắn, tự nghiêm khắc với chính mình và có tình thương yêu đồng chí; thường
xuyên tu dưỡng, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và cần phải chú trọng củng cố và
tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Vấn đề Đảng cầm quyền là một nội dung trọng yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam. Trong
Di chúc, Người đã khẳng định: “Đảng ta là Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”[43].
Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền. Vì từ đó Đảng lãnh đạo cách mạng
trong điều kiện có chính quyền và lãnh đạo chính quyền cách mạng trực tiếp, toàn diện. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng,
trở thành Đảng cầm quyền bản chất, mục tiêu lý tưởng của Đảng không thay đổi. Song có sự thay đổi căn bản về
mục tiêu đấu tranh, nhiệm vụ cách mạng cụ thể; nội dung lãnh đạo, phạm vi lãnh đạo và phương thức lãnh đạo có
bước phát triển mới. Đứng trước thực tế đó làm thế nào để quyền lực không tha hoá Đảng, không làm biến chất đảng
viên của Đảng, Hồ Chí Minh nhận thức rõ đó là một thử thách cực kỳ to lớn.
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, các nhà kinh điển Mác, Ăngghen, Lênin đều quan niệm rằng,
Đảng là người lãnh đạo và quần chúng nhân dân là đối tượng lãnh đạo của Đảng. Thấu suốt quan điểm đó, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh rằng: khi trở thành Đảng cầm quyền, quần chúng nhân dân vẫn là đối tượng lãnh đạo duy nhất của
Đảng. Song với nhãn quan chính trị sắc bén, tầm nhìn xa trông rộng với thực tiễn chỉ đạo xây dựng Đảng cộng sản
ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến kinh tế chậm phát triển, tàn dư tư tưởng lạc hậu của người sản xuất nhỏ; thấy
rõ nguy cơ của chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, xa rời quần chúng khi cách mạng đã giành được chính quyền, Đảng
cộng sản trở thành Đảng cầm quyền. Để đảm bảo cho mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân luôn luôn
được củng cố, phát triển đảm bảo nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của Đảng, Hồ Chí Minh đã bổ sung vào luận điểm