Nội dung Triết - Giai cấp và dân tộc - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng
Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị. Điều này dẫn đến việc tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác trong một hệ thống sản xuất và chế độ KT - XH nhất định. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác -Lênin (THML01)
Trường: Đại học Tôn Đức Thắng
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Lời đầu tiên, em xin chào thầy và các bạn. Em xin tự giới thiệu em là Nguyễn Ngọc
Hoàn Vũ là thành viên của nhóm 1, hôm nay em rất vui và vinh hạnh khi được là
một trong hai thành viên cùng với bạn Tiểu Yến đại diện thuyết trình cho nhóm em.
Với chủ đề “Giai cấp và dân tộc” hi vọng rằng sẽ mang đến cho các bạn những kiến thức bổ ích.
Chắc hẳn ai trong số chúng ta cũng đã từng nghe qua những cụm từ như
“Giai cấp chủ nô”, “Giai cấp nô lệ”, “Giai cấp tư sản”, “Giai cấp vô sản”, Vậy
hai từ “Giai cấp” ở đây có nghĩa là gì? Sau đây xin mời bạn Yến giúp
chúng ta tìm hiểu về nó nhé.
GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC
I. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP:
Dẫn 1a: Phần này gồm có 3 mục nhỏ: Giai cấp; đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai
cấp của giai cấp của giai cấp vô sản. Như đã biết, đến nay, lịch sử nhân loại đã trải qua tất
cả là 5 chế độ xã hội. Bao gồm: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, cổ đại, tư bản chủ
nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Thì trước khi đi vào phần 1 nhỏ là giai cấp. Mình muốn mời 1
bạn ở đây có thể kể tên được các giai cấp đại diện cho từng thời kì XH có được không ạ? Đáp án:
- Chiếm hữu nô lệ ( 2 giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ)
- Phong kiến: có 2 giai cấp cơ bản là giai cấp thống trị và bị thống trị.
+ Ở phương Đông: địa chủ và nông dân lĩnh canh.
+ Ở phương Tây: lãnh chúa phong kiến và nông nô.
- Tư bản chủ nghĩa: Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. 1.Giai cấp:
a. Định nghĩa giai cấp:
Theo nhà xã hội học người Mỹ Rodney Stark :
"Giai cấp là nhóm người chia sẻ một vị trí giống nhau trong hệ thống phân tầng xã hội".. Theo V.I.Lenin:
Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị. Điều này dẫn đến việc
tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác trong một hệ thống sản xuất và chế
độ KT - XH nhất định. Họ có sự khác nhau đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức
lao động xã hội dẫn đến sự khác nhau về cách thức hưởng thụ và phần của cải xã hội mà họ
được hưởng. Giai cấp là một phạm trù mang tính lịch sử.
Lê nin đưa ra định nghĩa như thế là vì ông theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, với ông
giai cấp chỉ là một hiện tượng có tính chất lịch sử, gắn liền với những điều kiện lịch sử nhất định,
nó mang tính khách quan và quy luật nên ông đã đưa ra định nghĩa đó trong tác phẩm: “Sáng kiến vĩ đại”.
Dẫn 1b: V thì đó là khái niệm của giai cấp. Quay lại vấn đề ban đầu. Có thể
thấy ngay từ những buổi sơ khai là cộng sản nguyên thủy, lúc đó không hề có
sự phân chia giai cấp rõ rệt. Vậy thì vì sao mà ở những giai đoạn sau của xã hội
lại bắt đầu có sự phân chia giai cấp. các bạn có thể đưa ra ý kiến lý giải cho vấn đề này không ạ?
Có thể nhắc lại câu hỏi: Vì sao có sự xuất hiện của các giai cấp khác nhau trong xã hội?
b. Nguồn gốc giai cấp
Theo Các Mác: ‘ Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất’. Sự phân chia xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế’.
Cụ thể: trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp,
sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thủy. Để tồn tại họ phải sống nương tựa vào
nhau theo bầy đàn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên,
-> Giai cấp chưa xuất hiện.
Khi công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá dẫn đến việc năng suất lao
động tăng đáng kể, phân công lao động từng bước hình thành, của cải dư thừa xuất hiện, những
người có chức quyền trong các thị tộc bộ lạc đã chiếm đoạt của cải làm của riêng, chế độ tư hữu
ra đời, bất bình đẳng nảy ra trong nội bộ, công xã. Đó là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
Từ đó ta có thể thấy được rằng: Giai cấp là một hiện tượng xã hội xuất hiện lâu dài trong lịch sử
gắn với những điều kiện sản xuất vật chất của xã hội. Ví dụ:
+ Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối lập nhau trong xã hội cổ đại.
+ Phong kiến và nông nô (có cách gọi khác là địa chủ và tá điền) là hai giai cấp trong xã hội trung cổ.
+ Tư sản và vô sản là hai giai cấp đối lập trong xã hội cận đại và đương đại.
-Nguồn gốc trực tiếp: là do sự ra đời và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
-Nguồn gốc sâu xa: do sự phát triển của lực lượng sản xuất mới trong hình thái kinh tế – xã
hội nguyên thủy, tuy nhiên vẫn chưa đạt tới trình độ xã hội hóa cao.
Bên cạnh đó, giai cấp không chỉ được hình thành chủ yếu thông qua con đường kinh tế mà còn
được hình thành thông qua con đường bạo lực từ tù binh bắt được trong các cuộc chiến.
Đối mặt với câu hỏi: Làm thế nào để xóa bỏ giai cấp? Nhóm mình đã nhận ra rằng
Ở đâu còn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì ở đó còn sự tồn tại của
các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Giai cấp chỉ mất đi khi chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất hoàn toàn bị xóa bỏ.
Dẫn 1c: Và việc xóa bỏ hoàn toàn sự xuất hiện của giai cấp là có thể xảy ra hay
không. Theo quan điểm của mình. Điều này là không thể. Vì kể cả trong một xã
hội hiện đại như ngày ngày nay nói chung, hay như xã hội chủ nghĩa nói riêng,
khi mà tất cả mọi người dân khi sinh ra đều được pháp luật bảo hộ, thì xã hội
vẫn vô hình có một sự phân hóa nhất định .
Vậy thì vì sao tới thời điểm hiện tại mà sự phân chia giai cấp vẫn ko thể hoàn
toàn bị xóa bỏ. Điều này phải nói tới Kết cấu của giai cấp.
c. Kết cấu xã hội – giai cấp:
Theo các nhà kinh điển Mác-xít, con đường hình thành giai cấp rất phức tạp. Từ đó dẫn đến kết
cấu xã hội - giai cấp cũng rất đa dạng. Vậy kết cấu xã hội - giai cấp được hiểu như thế nào, được quy định ra sao?
- Định nghĩa: Kết cấu xã hội giai cấp là khái niệm dùng để chỉ tổng thể các giai cấp và mối
quan hệ giữa các giai cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, gắn với một
phương thức sản xuất.
- Kết cấu xã hội - giai cấp được quy định bởi trình độ sản xuất của các phương thức sản
xuất xã hội. Và trong một xã hội có giai cấp, tính đa dạng của kết cấu xã hội- giai cấp tỉ lệ
thuận với tính đa dạng của chế độ kinh tế, cơ cấu kinh tế.
- Cụ thể hơn, mỗi hình thái kinh tế – xã hội có một kết cấu giai cấp nhất định. Khi hình thái kinh tế
– xã hội này thay thế hình thái kinh tế – xã hội khác, kết cấu giai cấp cũng thay đổi. Xét đến cùng,
bản chất và tương quan của các giai cấp trong một kết cấu giai cấp bị quy định bởi bản chất và
tương quan của các phương thức sản xuất đương thời.
- Phân loại: Ở trình độ phát triển chín muồi của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định, kết cấu
giai cấp thường bao gồm hai giai cấp cơ bản, các giai cấp không cơ bản và các tầng lớp xã hội trung gian.
+ Giai cấp cơ bản: Các giai cấp cơ bản gắn liền với kiểu phương thức sản xuất thống trị, là
sản phẩm của những phương thức thống trị nhất định. Sự đối kháng và đấu tranh giữa các
giai cấp phản ánh mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất sinh ra chúng, cũng như quy định
một cách khách quan mâu thuẫn cơ bản của chế độ xã hội. Tương ứng với các kiểu phương thức
sản xuất bóc lột từng thống trị trong lịch sử là các cặp giai cấp cơ bản như: chủ nô – nô lệ ( trong
xã hội chiếm hữu nô lệ), phong kiến – nông nô ( trong xã hội phong kiến), tư sản – vô sản
(trong xã hội tư bản chủ nghĩa).
+ Giai cấp không cơ bản là những giai cấp gắn với ph :
ương thức sản xuất tàn dư, hoặc
mầm mống trong xã hội. Chẳng hạn như:
Giai cấp nô lệ trong buổi đầu xã hội phong kiến (gắn với phương thức sản xuất tàn dư)
Giai cấp tiểu chủ, tiểu thương, tư sản, vô sản trong cuối xã hội phong kiến (gắn
với phương thức sản xuất mầm mống)
Cùng với sự phát triển sản xuất, mỗi giai cấp trong một kết cấu giai cấp xã hội cũng có những biến
đổi nhất định. Những sự biến đổi ấy dẫn đến sự thay đổi địa vị của các giai cấp đó trong hệ thống
sản xuất xã hội. Điển hình như: thông thường, giai cấp do phương thức sản xuất tàn dư sinh ra sẽ
tàn lụi dần do sự phát triển của xã hội; giai cấp do phương thức sản xuất mầm mống sinh ra là
mặt phủ định xã hội cũ.
+ Các tầng lớp xã hội trung gian: là tầng lớp không bóc lột ai và không bị ai bóc lột trong
các chế độ bóc lột. Ví dụ: tri thức, nhân sĩ, giới tu hành,...
Các tầng này không có địa vị kinh tế độc lập nhưng có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh
tế, xã hội nói chung. Đồng thời, các tầng lớp xã hội trung gian này luôn bị phân hóa dưới sự tác
động của sự vận động nền sản xuất vật chất xã hội.
Ý nghĩa, mục đích của việc phân tích kết cấu xã hội - giai cấp: Phân tích kết cấu
xã hội - giai cấp và khuynh hướng vận động, phát triển của nó có vai trò vô cùng quan trọng về
lý luận và thực tiễn trong điều kiện xã hội hiện nay.
Liên hệ thực tế và tìm câu trả lời cho câu hỏi: Ở Việt Nam ta hiện nay có giai cấp không?
Câu trả lời là có. Thế nhưng bản chất của giai cấp ở Việt Nam đã khác đi ít nhiều so
với định nghĩa của Lênin. (với giai cấp của Lênin sẽ có giai cấp thống trị và bị trị và 2 giai cấp
này đối lập lợi ích với nhau. Còn với giai cấp ở Việt Nam ngày nay, mối quan hệ giữa các giai
cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm
tăng cường đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung
là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Dẫn 2: Nhưng, trước khi đi đến được sự hòa bình giữa các giai cấp như hiện
tại, Thế giới đã trải qua vô vàng những cuộc đấu tranh giai cấp. V thì lí do, mục
đích của các cuộc đấu tranh giai cấp đó là gì. Xin mời Vũ trình bày cho các bạn. ( TY)
2. Đấu tranh giai cấp:
Xin cảm ơn bạn Yến về phần trình bày hết sức hữu ích đã giúp chúng ta biết được những đặc
điểm của giai cấp. Và đúng như Yến nói, Trước khi được sống trong một cuộc sống yên bình
như ngày hôm nay, thế giới đã phải hứng chịu rất nhiều cuộc đấu tranh giai cấp. Nhân đây,
mình muốn hỏi rằng liệu có bạn nào có thể kể tên cho mình một vài cuộc đấu tranh giai cấp tiêu
biểu mà các bạn biết được không nhỉ? Cả ở trong và ngoài nước đều được.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nửa đầu thế kỉ XIX
Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917
Vâng xin cảm ơn các bạn rất nhiều. Các bạn thấy đấy có rất nhiều cái tên đã được nêu lên,
điều đó cho chúng ta thấy được tính tất yếu của đấu tranh giai cấp. Và sau đây chúng ta cùng tìm hiểu: a.
Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp:
-Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và tầng lớp bị trị,
chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt về
lao động mà còn bị áp bức về chính trị, xã hội và tinh thần. Những bất công như vậy làm tất yếu
nảy sinh cuộc đấu tranh giữa các giai cấp. C.Mác đã khẳng định: “lịch sử tất cả các xã hội cho đến
ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”. Trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ có đấu tranh giữa nô lệ
và chủ nô, đến thời phong kiến lại có cuộc đấu tranh của nông dân và địa chủ phong kiến, đến xã
hội tư bản thì có cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư bản.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Các Mác và Ăngghen trong điều kiện mới của lịch sử, V.I.Lênin
chỉ rõ: “đấu tranh giai cấp là đấu tranh của bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, đấu
tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi,
bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô
sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”. Điều đó có nghĩa rằng đấu tranh giai cấp là
một hiện tượng mang tính khách quan và quy luật chung và phổ biến của xã hội có giai cấp
- Đấu tranh giai cấp trước hết là đấu tranh của hai giai cấp cơ bản của phương thức sản xuất
thống trị, có lợi ích căn bản đối lập nhau, nhưng lôi kéo các giai cấp không cơ bản và các tầng lớp
trung gian trong xã hội tham gia tạo thành liên minh giai cấp ( dựa trên lợi ích giai cấp mà có liên
minh giai cấp lâu dài/ tạm thời) trong đấu tranh giai cấp
- Tính tất yếu của ĐTGC: sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa giữa các giai cấp đối
kháng nhau trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định, tất yếu dẫn đến ĐTGC. Tính tất yếu
của đấu tranh giai cấp xuất phát từ tính tất yếu kinh tế
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất yếu.
Trong nhiều văn kiện, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng, hiện nay và cả trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp.
+Cuộc đấu tranh đó có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội hóa ngày càng
sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện
của mâu thuẫn này về phương diện xã hội là: Mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến
bộ, đại diện cho phương thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị, bóc lột, đại biểu cho
những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
-Thực chất của ĐTGC: ĐTGC là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống
lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của chúng. Cách mạng xã hội là phương thức
tất yếu để lật đổ ách thống trị của giai cấp thống trị bóc lột, xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng
quan hệ sản xuất mới và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
=> Mục đích cao nhất mà cuộc đấu tranh giai cấp cần đạt được không phải là đánh đổ một giai
cấp cụ thể mà là giải phóng lực lượng sản xuất khỏi sự kìm hãm của những quan hệ sản xuất đã
lỗi thời, tạo điều kiện đẩy nhanh phát triển của lực lượng sản xuất và phát triển xã hội.
-Tính lịch sử của ĐTGC: ĐTGC chỉ xảy ra trong xã hội có giai cấp đối kháng và sự phát triển của
nó dẫn đến cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản- cuộc ĐTGC cuối cùng trong lịch sử.
- Hình thức đấu tranh giai cấp (cơ bản): đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị,...
Chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn về các hình thức đấu tranh này biểu hiện như thế nào và mục đích ra
sao ở phần đấu tranh giai cấp vô sản. Nhưng trước hết, mình xin trình bày về vai trò của đấu tranh
giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp. b.
Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phát triển của xã hội có giai cấp.
_ Đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp và quan trọng trong sự phát triển của xã hội có
giai cấp.(thông qua cuộc đấu tranh giai cấp, sự xung đột giữa lực lượng sản xuất mới
và quan hệ sản xuất lạc hậu được giải quyết, thực hiện bước quá độ từ một hình thái
kinh tế - xã hội lỗi thời sang một hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn)
_ Vai trò của các cuộc đấu tranh giai cấp trong lịch sử không giống nhau, được thể hiện
trong những thời kỳ tiến hóa xã hội. (nó còn phụ thuộc vào quy mô, tính chất của các
nhiệm vụ kinh tế,chính trị, xã hội mà cuộc đấu tranh đó phải giải quyết)
_Đấu tranh giai cấp vô sản là “đòn bẩy vĩ đại nhất” trong lịch sử xã hội có giai cấp. Vì đây là cuộc
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản - cuộc đấu tranh cuối cùng trong lịch sử. Có tính chất, quy mô
rộng lớn và triệt để nhiệm vụ mà nó phải giải quyết.
_ Đấu tranh giai cấp có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng xã hội phản động, cải tạo
bản thân các giai cấp cách mạng. (Vì thông qua thực tiễn đấu tranh giai cấp, giai cấp cách mạng
có sự trưởng thành về mọi mặt, họ cũng phải tự nâng mình lên đáp ứng được yêu cầu của lịch sử)
_ Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, nhưng không phải là động lực duy nhất mà
là một động lực trực tiếp và quan trọng.
_ Ví dụ cho đấu tranh giai cấp:
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa
chủ, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, một xã
hội không có người bóc lột người”.
Tiếp theo xin mời bạn Yến tiếp tục phần trình bày về sự đấu tranh của giai cấp vô sản
Dẫn 3: Cảm ơn Vũ. Vậy thì đó là khái quát về đấu tranh giai cấp nói chung. Sau đây TY sẽ đi sâu
vào sự đấu tranh giai cấp của một giai cấp vô cùng gần gũi với nước xã hội chủ nghĩa như chúng
ta. Đó là đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
Ở đây Yến xin phép chia ra làm 3 phần. Đó là đấu tranh giai cấp của GCVS khi chưa có chính
quyền. Đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung và Đấu tranh giai
cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa XH ở Việt Nam nói riêng.
3.Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
* Đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản khi chưa có chính quyền :
Như chúng ta đã được thông tin ở phần trước, đấu tranh giai cấp trong lịch sử là một điều tất yếu.
Điều này đã dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và đây cũng là cuộc
đấu tranh cuối cùng trong lịch sử.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát và chỉ ra ba hình thức đấu tranh cơ bản, đó là đấu tranh kinh
tế, đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng.
Đấu tranh kinh tế là một trong những hình thức cơ bản trong đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản. -> nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp vô sản, tập hợp những lực lưỡng, giác ngộ
quần chúng trong cuộc đấu tranh giai cấp nói chung. Với hạn chế là chỉ có thể hạn chế chứ
không thể xóa bỏ quyền hạn của giai cấp thống trị.
Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản. Mục tiêu
của đấu tranh chính trị là đánh đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, phản động, giành chính
quyền về tay giai cấp vô sản -> nhằm nâng cao giáo ngộ và bảo vệ lợi ích của giai cấp, phát
triển lực lượng cách mạng.-> là hình thức đấu tranh cao nhất, có ý nghĩa quyết định đến thắng
lợi của giai cấp vô sản.
Đấu tranh tư tưởng có mục đích đập tan hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, khắc
phục những ảnh hưởng của tư tưởng, tâm lý, tập quán lạc hậu trong phong trào cách mạng; vũ
trang cho họ hệ tư tưởng cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân - chủ nghĩa Mác
Lênin. Được diễn ra dưới hình thức rất đa dạng, phong phú: công khai - bí mật, tuyên truyền
cổ động, đấu tranh trên lĩnh vực báo chí, văn hóa nghệ thuật...
-> Ba hình thức đấu tranh trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, nhưng có vai trò
không ngang bằng nhau. Chúng vừa là tiền đề, vừa là cơ sở của nhau, thống nhất với nhau.
* Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
Có nội dung mới với mục tiêu xây dựng thành công CNXH. Đây là mục tiêu cuối
cùng của giai cấp vô sản. Trong giai đoạn này tàn dư của giai cấp bóc lột vẫn còn. Những tư
tưởng tâm lý và tập quán của giai cấp này vẫn chưa bị quét sạch. Chúng chỉ có thể bị thủ tiêu
thông qua cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. Tuy nhiên vẫn còn không ít các khó khăn và
thách thức đặt ra trên con đường đấu tranh giai cấp này. Vì vậy tính chất của cuộc đấu tranh là
hết sức gay go, quyết liệt và phức tạp.
Thực chất là cuộc đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN. Để GCVS
giành được thắng lợi trên con đường đấu tranh đó, họ phải xây dựng thành công CNXH, tạo ra
sức mạnh hiện thực để bảo vệ vững chắc thành quả của sự nghiệp cách mạng. Đây cũng là
nhiệm vụ phức tạp, khó khăn và lâu dài nhất trong cuộc đấu tranh của GCVS.
Cuộc đấu tranh giai cấp của vô sản diễn ra trong những điều kiện mới, với nội
dung mới, với những hình thức mới. Trong cuộc đấu tranh này, GCVS phải sử dụng tổng hợp
và kết hợp các hình thức đa dạng và phong phú áp dụng vào đúng tình hình KT, CT của mỗi
nước, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể quy định. Hình thức mới của ĐTGC còn được biểu hiện ở
việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của sự nghiệp cách mạng về các lĩnh như vực như kinh tế,
chính trị, tư tưởng và văn hóa.
*Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Có tính tất yếu khách quan, do chính các đặc điểm KT - XH của thời kỳ quá độ
quy định. Đấu tranh trong điều kiện mới. GC công nhân là giai cấp lãnh đạo. Khối liên
minh công nhân - nông dân - tri thức được củng cố vững chắc và trở thành nền tảng chế độ
XH mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được giữ vững và tăng cường gắn với
sự nghiệp Đổi mới đất nước hơn 30 năm. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi cơ bản trên thì
CM VN gặp không ít khó khăn, thời cơ và thách thức với thế lực thù địch vẫn hăm he muốn phá hoại nước ta.
Mục tiêu cuối cùng: là xây dựng thành công CNXH - một nhiệm vụ trọng đại
nhưng cũng rất khó khăn, phức tạp và lâu dài.
: thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và C Nội dung NXH, xã hội dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà biểu hiện cụ thể hiện nay là đấu tranh vì thắng
lợi của sự nghiệp CNH-HĐH: thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển, xóa bỏ bất công, tiêu
cực, lạc hậu và các thế lực phản động
- Đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng, có vị thế xứng đáng ở khu vực và trên trường quốc tế
- Thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, chống bất công, đấu tranh chống tham nhũng, ngăn chặn,
khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái
– Đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá Việt Nam của các thế
lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ đường lối đối nội và đối ngoại của Đảng, Nhà nước.
Dẫn sang mục II: Và đó là tất cả những gì mà nhóm của chúng mình đã tìm hiểu được về
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tiếp theo đây xin mời các bạn đến với nội dung chính còn lại
của bài thuyết trình hôm nay: II. Dân tộc. Trước khi bắt tay vào tìm hiểu ngay dân tộc là gì.
Thì TY xin mời Vũ khái quát cho các bạn về một vài các hình thức cộng đồng người trước khi
hình thành dân tộc nhé. Xin mời Vũ!
Vâng vừa rồi chúng ta đã được học về giai cấp thì bây giờ đây chúng ta sẽ tìm hiểu về
dân tộc. Như TY cũng đã nói thì trước khi mà hình thành dân tộc thì sẽ có các hình
thức cộng đồng người được hình thành trước. Không biết là các bạn còn nhớ không
nhưng ở môn Lịch sử lớp 10 chúng ta đã được tìm hiểu về vấn đề này rồi. Vậy một bạn
nào đó có thể mạnh dạn cho mình biết rằng có bao nhiêu hình thức cộng đồng người
trước khi hình thành dân tộc và đó là những hình thức nào được không ạ?
Vâng rất chính xác xin cảm ơn bạn, và đầu tiên mình xin được nói đến Thị tộc II. DÂN TỘC
1. Các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc: a. Thị tộc :
Thị tộc là gì? Đặc điểm của thị tộc
Thị tộc là 1 khái niệm quen thuộc trong lịch sử hình thành loài người. Ngay từ khi mới thoát khỏi
giới động vật, con người đã sống thành tập đoàn, đó là những bầy người nguyên thủy. Khi tiến
đến 1 trình độ cao hơn, những ‘’bầy người’’ đó phát triển thành thị tộc. Như Ph.Ăngghen đã từng
nói : Thị tộc là 1 thiết chế chung cho tất cả các dân dã man, cho tận đến khi họ bước vào thời đại
văn minh, và thậm chí còn sâu hơn nữa’’ Vậy chúng ta có thể định nghĩa thị tộc theo 1 khái niệm đơn giản như sau:
Thị tộc là hình thức tồn tại cơ bản của xã hội nguyên thủy , gồm khoảng vài trăm người có
cùng huyết thống với nhau. Đây vừa là thiết chế xã hội đầu tiên , vừa là hình thức cộng
đồng người sớm nhất.
Đặc điểm của thị tộc:
+Các thành viên trong thị tộc đều tiến hành lao động chung. (Vai trò của các thành viên phụ
thuộc vào vị trí của họ trong nền sản xuất nguyên thủy).
+Các thành viên trong thị tộc có chung tổ tiên, chung tiếng nói, chung tín ngưỡng , đều
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
+Về tổ chức xã hội thị tộc bầu ra tù trưởng, tộc trưởng, lãnh tụ quân sự để điều hành công
việc chung của thị tộc ( quyền lực của họ dựa trên uy tín, đạo đức cá nhân, và có thể bị bãi miễn
nếu không thực hiện được vai trò của mình)
+ Trong mỗi thị tộc hình thành những yếu tố văn hóa nguyên thủy mang sắc thái của cộng đồng sản sinh ra chúng.
+Mỗi thị tộc có tên gọi riêng.
VD : Thị tộc IROQUOIS , Thị tộc Hy Lạp
=> Hình thức liên hệ cộng đồng này tuy đơn giản, nhưng bền vững, thích hợp trong điều
kiện sản xuất thấp kém thời bấy giờ. b. Bộ lạc:
1/ Khái niệm :- Bộ lạc là một tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc do có quan hệ huyết
thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc.
PH. Ăngghen từng viết: “Một thị tộc đã được coi là một đơn vị cơ sở của xã hội, thì
toàn bộ chế độ thị tộc, bộ lạc và bộ tộc đều phát triển từ cái đơn vị ấy với một sự tất yếu hầu
như không thể ngăn nổi - bởi vì đó là điều hoàn toàn tự nhiên”
→ điều này giải thích cho một số đặc điểm của bộ lạc có điểm giống, khác và có phần hơn so với thị tộc 2/ Đặc điểm :
Cơ sở kinh tế của Bộ lạc là chế độ công hữu về đất đai và công cụ sản xuất (giống với
thị tộc)( các thành viên đều tiến hành lao động chung, quan hệ giữa các thành viên trong lĩnh
vực sản xuất vật chất là bình đẳng)
có tên gọi riêng ở mỗi bộ lạc ( cũng giống như thị tộc), trong đó họ sử dụng chung một
ngôn ngữ, phong tục tập quán, văn hóa tín ngưỡng.
Lãnh thổ của bộ lạc ổn định hơn so với thị tộc ( đặc trưng mới so với bộ tộc) (mặc dù chưa bền vững)
có hình thức sở hữu cao hơn thị tộc ( ngoài sở hữu riêng của thị tộc , bộ lạc còn có
các sở hữu khác bao gồm vùng lãnh thổ, nơi trồng trọt, săn bắt và chăn nuôi,....)
Tổ chức xã hội: đứng đầu là hội đồng các tù trưởng của các thị tộc tham gia bộ lạc,
trong đó có 1 thủ lĩnh tối cao
( nhưng mọi quyền hành quản lý bộ lạc đều do hội nghị các hội đồng và thủ lĩnh quân sự thông qua và quyết định.)
1 bộ lạc có thể tách ra các bộ lạc khác nhau, đồng thời có thể hợp nhất các bộ lạc thành liên minh
các bộ lạc( hình thức phát triển cao nhất của bộ lạc)
⇒ Bộ lạc là hình thức tốt nhất để phát triển sản xuất, chính trong thời kì này công cụ sản xuất
bằng kim loại đã được hình thành → hình thức phân công xã hội đầu tiên giữa trồng trọt - chăn
nuôi, nông nghiệp-thủ công nghiệp ⇒ tiền đề khách quan của sự xuất hiện sở hữu tư nhân ⇒ từ
đây bộ tộc ra đời thay thế cho hình thức bộ lạc và liên minh các bộ lạc c. Bộ tộc: Bộ tộc là gì?
Từ thị tộc, bộ lạc phát triển lên bộ tộc là một bước ngoặt lịch sử, vậy bộ tộc là gì?
- Bộ tộc là hình thức cộng đồng người hình thành khi xã hội phân chia thành giai cấp, là cộng
đồng các bộ lạc không cùng huyết thống sống trên một lãnh thổ nhất định.
(Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Do việc mua bán ruộng đất, do sự phát triển hơn nữa của phân công lao
động giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, giữa thương nghiệp và hàng hải, và những thành viên
của các thị tộc và bào tộc và bộ lạc chẳng bao lâu đã phải sống lẫn lộn với nhau; và lãnh thổ của
bào tộc và bộ lạc đã phải thu nhận những người tuy là đồng bào, nhưng lại không thuộc các tập
đoàn ấy, tức là những người lạ xét về nơi ở”) Đặc điểm:
(Như mình đã nói ở trên, bộ tộc hình thành khi XH phân chia giai cấp nên) Bộ tộc hình thành cùng
với chế độ chiếm hữu nô lệ, hoặc chế độ phong kiến.
Bộ tộc có sự hình thành và phát triển phức tạp hơn thị tộc và bộ lạc, có những nét đặc trưng chủ yếu sau:
Mỗi bộ tộc có tên gọi riêng;
Lãnh thổ riêng mang tính ổn định;
Đứng đầu một bộ tộc thường là một tộc trưởng hay tộc chủ
Một ngôn ngữ thống nhất. Song, tính thống nhất chưa cao vì : Bên cạnh tiếng nói
chung, thổ ngữ của các bộ lạc vẫn được sử dụng rộng rãi.
Xuất hiện những yếu tố chung về tâm lý, văn hoá, về tổ chức xã hội.
Việc điều hành công việc tổ chức xã hội thuộc về nhà nước. Nhà nước là công cụ do
giai cấp thống trị tổ chức ra và phục vụ lợi ích cho giai cấp đó.
Ý nghĩa: lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại có một hình thức cộng đồng người được hình thành
không theo huyết thống mà dựa trên những mối liên hệ về kinh tế, về lãnh thổ và văn hoá mặc dù
những mối liên hệ đó còn chưa thực sự phát triển (đời sống kinh tế vẫn chủ yếu là tự cung tự cấp)
dẫn đến sự ra đời hình thức cộng đồng người mới cao hơn bộ tộc, đó là dân tộc.
Ví dụ 1 số bộ tộc còn tồn tại:
Hadza (Tanzania - châu Phi) - bộ tộc lâu đời nhất (1,9 triệu năm,300-400 người)
Tộc Sentinelese (Ấn Độ) - bén mảng đến là chết (40-500 người)
Đó là toàn bộ kiến thức về các hình thức cộng đồng người trước khi hình thành dân tộc
bao gồm Thị tộc, Bộ lạc và bộ tộc. Và sau đây để hiểu rõ về dân tộc thì xin mời phần trình bày của Tiểu Yến.
Dẫn 2: Cảm ơn phần trình bài của Vũ. Để tiếp nối và liền mạch buổi tt. TY xin được nói phần
2 nhỏ của đề mục này. Đó là Dân tộc - Hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay.
Trước khi vào phần này. TY có một vài câu hỏi vui cho các bạn.
Các bạn có thể kể tên các dân tộc mà mình biết hay không?
Các bạn có biết VN mình có bao nhiêu dân tộc không? 54
2. Dân tộc – hình thức cộng đồng người phổ biến hiện nay:
a.Khái niệm dân tộc
- Dân tộc được khái niệm theo 2 nghĩa.
+ Nghĩa thứ nhất (nghĩa rộng) dùng để chỉ một quốc gia (ví dụ: dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan,...)
+ Nghĩa thứ hai (nghĩa hẹp) dùng để chỉ các dân tộc (đa số và thiểu số) trong một quốc gia (Kinh,
Nùng, Tày, Mường, Thái, Dao,...)
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Dân tộc là chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ
chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc
thù hay chỉ một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, quốc gia,
nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó
với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong
suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
ở đây chúng ta có 5 đặc trưng cơ bản
Các đặc trưng của dân tộc
là một cộng đồng thống nhất về ngôn ngữ.
Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thống nhất mà các thành viên của dân tộc coi là tiếng mẹ
đẻ.Tính thống nhất trong ngôn ngữ dân tộc trước hết thể hiện ở sự thống nhất của ngữ pháp và
kho từ vựng cơ bản Ngôn ngữ dân tộc là ngôn ngữ đã .
phát triển. Thống nhất về ngôn ngữ là một
trong những đặc trưng chủ yếu của dân tộc.
là một cộng đồng người ổn định trên một lãnh thổ thống nhất.
Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng, thống nhất, không bị chia cắt.Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan
trọng không thể thiếu của dân tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc. Không có
lãnh thổ thì không có khái niệm Tổ quốc, quốc gia.
là một cộng đồng thống nhất về kinh tế
Với dân tộc, tác dụng của nhân tố kinh tế – xã hội được biểu hiện ra thật mạnh mẽ. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã chứng minh rằng, tác nhân cơ bản dẫn đến việc chuyển hình thức từ cộng đồng
trước dân tộc lên dân tộc là tác nhân kinh tế.Các mối liên hệ về kinh tế thường xuyên và mạnh
mẽ, nhất là mối liên hệ về thị trường đã làm tăng tính thống nhất, bền vững, ổn định của cộng
đồng người đông đảo trong một lãnh thổ rộng lớn.
Dân tộc điển hình là dân tộc tư sản. Dân tộc này bao gồm các giai cấp, tầng lớp khác nhau, trong
đó tư sản và vô sản đối lập nhau về địa vị kinh tế. Song có quan hệ kinh tế
hai giai cấp đối lập này
chặt chẽ trong một hệ thống kinh tế duy nhất hình thành trên địa bàn dân tộc, đó là hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa.
là một cộng đồng bền vững về văn hóa, tâm lý, tính cách
Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người…
song nó vẫn là một nền văn hóa thống nhất không bị chia cắt. Tính thống nhất trong đa dạng là
đặc trưng của văn hóa dân tộc.
Văn hóa dân tộc hình thành trong quá khứ lâu dài của lịch sử, hơn bất cứ yếu tố nào khác, tạo ra
sắc thái riêng của từng dân tộc. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa độc đáo của mình.
Người ta có thể nhận biết tâm lý, tính cách một dân tộc qua sinh hoạt vật chất cũng như sinh hoạt
tinh thần của dân tộc ấy, đặc biệt là qua các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, đời sống văn hóa.
cộng đồng người có một nhà nước và pháp luật thống nhất
Do yêu cầu của thị trường và lưu thông hàng hóa phát triển, giai cấp tư sản đã xóa bỏ sự
phân tán, sự ‘cát cứ’ về kinh tế và chính trị, hình thành những quan hệ ‘liên minh’ về lợi ích,
dẫn đến hình thành “ một chính phủ thống nhất”, “ một pháp luật thống nhất”, “ một thuế quan
thống nhất”... Do vậy, nhà nước và pháp luật thống nhất là một đặc trưng của dân tộc và
ngày nay đây cũng là quan niệm phổ biến trên thế giới. Dân tộc-quốc gia- nhà nước là thống
nhất không thể tách rời
Như thế, chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ sự thống nhất biện chứng của các quan hệ cộng đồng;
đồng thời khẳng định vai trò quyết định, nếu xét đến cùng, của nhân tố kinh tế – xã hội, vai trò
quan trọng của nhân tố chính trị.
Dẫn 2b: V thì đó là khái niệm về dân tộc, nhưng dân tộc đã từng bước hình thành như thế
nào? Xin mời các bạn đến với phần tiếp theo.
b. Quá trình hình thành các dân tộc ở châu Âu và đặc thù sự hình thành dân tộc ở châu Á:
Quá trình hình thành các dân tộc ở châu Âu
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, ở châu Âu dân tộc hình thành theo hai phương thức chủ yếu gắn
liền với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản. 1. Phương thức thứ nhất:
dân tộc hình thành từ nhiều bộ tộc khác nhau trong một quốc gia
Quá trình hình thành dân tộc ở đây vừa là một quá trình thống nhất lãnh thổ, thị trường. Đồng
thời, cũng là một quá trình đồng hóa các bộ tộc khác nhau thành một dân tộc duy nhất, một quốc
gia dân tộc độc lập như ở các nước Pháp, Đức, Ý… 2. Phương thức thứ hai:
dân tộc được hình thành từ một bộ tộc - do điều kiện chế độ phong
kiến chưa bị thủ tiêu, chủ nghĩa tư bản phát triển còn yếu.
Ở đây không có quá trình đồng hóa các bộ tộc mà chỉ có quá trình thống nhất các lãnh thổ phong
kiến thành lập một quốc gia gồm nhiều dân tộc, trong đó mỗi dân tộc hình thành từ một bộ tộc
riêng, như trường hợp ở các nước Nga, Áo, Hung…
Như vậy, dân tộc có thể được hình thành từ một bộ tộc phát triển lên, song đa số trường hợp
được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc người hợp nhất lại.
Hình ảnh về cuộc cách mạng tư sản Pháp
Hình ảnh về cuộc cách mạng tư sản Anh
Sự hình thành và phát triển của dân tộc ở châu Âu trải qua các thời kỳ chính:
Gắn liền với cuộc cách mạng tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo
Gắn liền với phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc giải phóng dân tộc
Thời kỳ các dân tộc xã hội chủ nghĩa ra đời. Bản đồ châu Âu
Đặc thù sự hình thành dân tộc ở châu Á
Sự hình thành các quốc gia, dân tộc ở phương Đông có tính đặc thù riêng. Thực tiễn lịch sử cho
thấy, ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam… dân tộc được hình thành từ rất sớm, không phải chờ đến
khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản thế nên không gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Dựa
theo các điều kiện tự nhiên, văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội mà theo chính trị thì nhu cầu đấu
tranh chống lại thế lực bên ngoài hình thành nên cố kết dẫn đến sự cố kết dân tộc → hình thành nên dân tộc rất sớm.
(nhấn mạnh sự hình thành dân tộc ở châu Âu là gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản
còn châu Á thì ra đời từ rất sớm và không gắn liền với chủ nghĩa tư bản)
Tính đặc thù của sự hình thành dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm trong lịch sử gắn liền với nhu cầu dựng nước và
giữ nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm cần có sự cố kết dân tộc, hòa hợp dân tộc, đoàn kết
dân tộc; và cải tạo thiên nhiên - nhu cầu về đấu tranh chống lại thiên tai, lũ lụt, hạn hán… cần có
sự kết hợp giữa nhiều người, nhiều dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Lịch sử đã chứng minh
rằng từ hàng nghìn năm trước dân tộc Việt Nam đã có một ngôn ngữ, một lãnh thổ, một nền kinh
tế thống nhất, một nhà nước, luật pháp và một nền văn hóa thống nhất, đầy đủ các đặc trưng của một dân tộc.
Việc hình thành dân tộc cũng như việc hình thành nhà nước đều bắt nguồn từ nhu cầu chống
thiên tai và chống giặc ngoại xâm. Chính đặc trưng này đã tạo nên những nét độc đáo trong sự cố
kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Dẫn 3: Đó là tất cả những gì TY và các bạn trong nhóm đã tìm hiểu được về dân tộc. V thì chúng
ta đã biết được dân tộc là gì, giai cấp là gì, V giai cấp, dân tộc có mối quan hệ như thế nào với
nhau, và có tác động như thế nào đến với nhân loại? Xin mời Vũ trình bày phần cuối cùng của bài
thuyết trình ngày hôm nay:
3.Mối quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại:
a. Mối quan hệ giai cấp – dân tộc:
Quan hệ giai cấp - dân tộc: Cảm ơn Yến,
| Dân tộc và giai cấp là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, có vai trò lịch sử khác
nhau đối với sự phát triển của xã hội. Trong lịch sử nhân loại, giai cấp có trước dân tộc hàng
nghìn năm. Khi giai cấp mất đi, dân tộc vẫn còn tồn tại lâu dài. Trong một dân tộc có nhiều giai cấp
và ngược lại một giai cấp có thể tồn tại trong nhiều dân tộc.
* Giai cấp quyết định dân tộc.
Sự phát triển của phương thức sản xuất xã hội là nguyên nhân xét đến cùng quyết định sự
hình thành, phát triển của các hình thức cộng đồng người trong lịch sử. Phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa là động lực mạnh mẽ nhất của quá trình thay thế hình thức cộng đồng
bộ tộc bằng hình thức cộng đồng dân tộc. Trong quá trình đó, giai cấp tư sản đã đóng vai trò
chính của việc thúc đẩy sự hình thành dân tộc tư sản. Trong một thời đại lịch sử, mỗi dân tộc
đều do một giai cấp làm đại diện. Giai cấp đó quy định tính chất dân tộc.
- Quan hệ giai cấp quyết định khuynh hướng phát triển và tính chất của dân tộc: Giai cấp
thống trị trong xã hội cũng là giai cấp thống trị đối với dân tộc.
Giai cấp thống trị lỗi thời, phản động: lợi ích giai cấp của nó mâu thuẫn gay gắt với lợi
ích dân tộc, chúng sẵn sàng từ bỏ lợi ích dân tộc để bảo vệ lợi ích của chính mình,
chúng trở thành lực lượng kìm hãm sự phát triển của xã hội và của dân tộc. -> cần lật
đổ giai cấp thống trị, phản động để giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc và đây
cũng là yêu cầu tất yếu phải làm cách mạng . Bởi giai cấp này đã duy trì quan hệ áp
bức dân tộc và trở nên đối lập với lợi ích dân tộc. Để duy trì lợi ích cho bản thân mình
giai cấp tư sản đã tiến hành xâm lược các dân tộc khác tạo nên những mâu thuẫn và
bất bình đẳng dân tộc sâu sắc và đây cũng là cội nguồn của áp bức dân tộc.
Giai cấp thống trị có lợi đương nhiên sẽ có giai cấp chịu hại và đó chính là giai cấp tư sản
hay còn có tên gọi là giai cấp tiến bộ.
Giai cấp tiến bộ (Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, ở các nước Châu Âu từ thế kỷ thứ
XV, XVI giai cấp tư sản là lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất mới (phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa), bởi vậy nó là giai cấp tiến bộ và cách mạng) : đại
biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và xã hội cũng là giai cấp đại biểu cho
lợi ích chân chính của dân tộc. Giai cấp đó có khả năng nắm ngọn cờ dân tộc để tập
hợp đông đảo các giai cấp, các tầng lớp khác nhau trong dân tộc đấu tranh chống giai
cấp thống trị phản động, hoặc chống ách áp bức của các dân tộc khác. -> bởi nó có
lợi ích gắn liền với việc thủ tiêu các chế độ phong kiến và đưa tới sự hình thành các
quốc gia dân tộc tư sản.
- Áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản của áp bức dân tộc. Vì vậy, đánh đổ giai cấp tư sản
không những chỉ là vì lợi ích giai cấp vô sản và nhân dân lao động mà còn vì lợi ích của dân tộc.
Chính vì vậy chủ nghĩa Mác khẳng định, muốn xoá bỏ triệt để ách áp bức dân tộc thì phải xoá bỏ
nguồn gốc của nó là chế độ người bóc lột người.
* Vấn đề dân tộc có ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề giai cấp.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, dân tộc có vai trò quan trọng đối với vấn đề giai cấp. Sự hình thành
dân tộc mở ra những điều kiện thuận lợi hơn cho cuộc đấu tranh giai cấp. Nhưng giai cấp tư sản
càng phát triển thì kèm theo với nó là sự lớn mạnh của giai cấp vô sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ
rõ, trong cuộc đấu tranh của mình, giai cấp vô sản “Trước hết phải thanh toán xong giai cấp tư sản
nước mình đã” và “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn
lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc…”
| Đấu tranh giải phóng dân tộc là điều kiện, tiền đề cho đấu tranh giải phóng giai cấp. Thực tiễn
lịch sử khẳng định, trong điều kiện chưa có độc lập dân tộc thì giai cấp đại biểu cho phương thức