CHƯƠNG 1. Khảo sát những sự kiện chính ảnh hưởng đến sự hình thành tư
ởng HCM trong giai đoạn này
1. Bối cảnh trong ớc và thế gii ảnh hưởng đến sự hình thành tư
ởng HCM Tình hình Việt Nam:
Tình hình Việt nam trong những năm cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 chu
nhiu biến động, cũng như nhiều dân tộc khác ở châu Á, châu Phi, Việt nam
đã trở thành tm ngắm xâm lược của chủ nghĩa thực dân đế quc.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, xã hội Việt nam vẫn còn là một quốc gia
nghèo nàn với nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, lạc hậu và trì trệ là chủ yếu.
Bên cạnh đó, chế độ phong kiến hà khắc của nhà Nguyễn với đường lối tư
duy phn động, bảo thủ, ban hành những chính sách cổ hủ… đã không mở
ra con đường hội nhập quốc tế mà trái lại đã làm cho Việt Nam bỏ lỡ thời k
chuyn biến hết sức quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người.
Từ năm 1858, đứng trước sự lạc hậu, suy yếu ca chế độ phong kiến n
Nguyễn, thực dân Pháp từng bước ến hành xâm lược nước ta. Mở đầu là
1-9-1958, khi ham đội Pháp -Tây Ban Nha nổ súng ến công đánh chiếm bán
đảo Sơn Trà (Đà Nẵng).
Trước nh hình đó, với truyền thống yêu nước ngàn đời nay, các phong trào
đáu tranh chống Pháp liên tục nra đến cuối thế kỉ XIX ở cả ba miền Bắc,
Trung, Nam. Tiêu biểu phải kể đến là khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực,
Trương Định miền Nam. Khởi nghĩa của Đặng Như Mai, Trần tn min
Trung. Ở min Bắc thì có sự góp sức của cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám,
nơi nổ ra phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi phát động,… Tuy các
phong trào này rất anh dũng và dữ dội thế nhưng đều thất bại.
Ngày 25 - 8– 1883 Triều đình Nhà Nguyễn ký “Hiệp ước Harmand” ( Hòa ước
Quý Mùi) với nội dung chính là xác lập quyền lâu dài của Pháp trên toàn bộ
Việt Nam, nhìn chung có mấy điểm chính:
Điều 1: Triều đình Huế công nhận sự bảo hộ của Pháp. Mặt ngoại giao
kcảviệc giao thiệp với nước Tàu cũng phải có sự ưng thuận của Pháp
Điều 5: Khâm sứ Pháp ở Huế có quyền ra vào tự do yết kiến vua.
Điều 6: Pháp có quyn đặt công sứ ở các tỉnh đkiểm soát quan Việt
nhưngđại để vic nội trị không bị ảnh hưởng.Ngoài ra Hòa ước Quý
Mùi còn buộc triều đình Huế triệt thoái quân khỏi Bắc K.Việc thuế
má cũng sẽ do Pháp điều hành.
Và khi Hiệp ước Patenotre (Hòa ước Giáp Thân) kí vào 6- 61884, công nhận
quyn bảo hộ của Phápvới vùng lãnh thổ còn lại của Đại Nam. Dân tộc Việt
Nam đã mất nền độc lập.
Sau khi hoàn toàn bị Pháp xâm lược vào 1897, Việt Nam từ một quốc gia
phong kiến trở thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Sự xâm nhập
của chủ nghĩa tư bản Pháp cũng đã tác động mạnh mẽ đến dự chuyn biến
kinh tế-xã hội Việt Nam, làm nảy sinh thêm trong xã hội những giai cấp mới:
giai cấp công nhân, tư sản và ểu tư sản thành thị.
ới ách thống trị của thực dân Pháp, bị mất độc lp tự do, nhân dân ta
không ngừng nổi lên chống lại chúng. Từ đó, bên cạnh mâu thuẩn cơ bản
của xã hội lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến,
còn xuất hiện thêm các mâu thuẫn mới. Đó là mâu thuẫn giữa công nhân
với tư sản, giữa nhân dân Việt nam và đế quốc Pháp.
Những năm đầu thế kỉ XX, nhìn thấy kết quả khả quan của cuộc cách mạng
cải cách ở Trung Quốc và phong trào Duy tân ở Nht Bản. Việt Nam bắt đầu
xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, nổi
bật là: Phan Bội Châu với Phong trào Đông Du(1905-1909), đưa người sang
Nhật Bản hc tập. Phong trào Duy Tân (1906-1908), nâng cao dân trí, chấn
hưng dân khí, mở mang trình độ hiểu biết cho người dân… và một số phong
trào khác. Nhưng nhìn chung, với nh hình lúc bấy giờ, các phong trào yêu
ớc theo khuynh hướng này đều không thành công, đất nước lâm vào nh
trạng khủng hoảng đường lối. Cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ,
ởng chừng như không có đường ra.
Nguyên nhân thất bại sâu xa là do tư tưởng và lực lượng lúc bấy giờ còn non
trẻ. Nguyên nhân trực ếp chính là do những người lãnh đạo các phong trào
các cuộc khởi nghĩa này chưa m ra được con đường đúng đắn. và cũng
từ hai nguyên nhân trên, đã đặt ra một yêu cầu bức thiết cho dân tộc Việt
Nam: Cần một con đường cứu nước mới có thể dẫn dt dân tộc đi đến thắng
lợi và độc lập. Làm thế nào để cứu nước, giành lại độc lp tự do, giải phóng
dân tc đồng thời giải phóng con người, giải phóng xã hội
Giai cấp công nhân – giai cấp hứng chịu ba tầng áp bức, bóc lột của thực
dân, tư bản, phong kiến ra đời. Giai cấp này đã không ngừng vùng dậy đấu
tranh, được xem như là “ dấu hiệu mới” đầu thế kỉ XX trong bối cảnh lm
than của nước nhà lúc bấy giờ.
Tình hình thế giới cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX:
Nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa bản đã phát triển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh thành giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Với chín nước Anh,
Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Lan… đã chi phối toàn
bộ nh hình thế giới trthành mối đe dọa của các dân tộc thuộc địa. Vì
phần lớn các nước châu Á, châu Phi châu Mỹ Lanh đã trở thành thuộc địa
hoc phụ thuộc của chúng.
Trước nh hình đó, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản ngày càng trở nên
sâu sắc nhức nhối - mâu thuẫn giữa sản sản, chủ nghĩa đế quc
đã làm phát sinh một mâu thuẫn mi - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
với chủ nghĩa đế quc thực dân. Tình cảnh của giai cấp công nhân các tầng
lớp nhân dân lao động khác cùng khốn khổ, đặc biệt các nước ách
áp bức giai cấp chồng lên ách áp bức chủng tộc. Vì vậy, việc dành lại độc lập
dân tộc của các quốc gia thuộc địa đã trở thành mong muốn chung tđầu
thế kỷ XX, mở đầu phong trào giải phóng dân tộc trên khắp thế giới phát triển
mạnh mẽ, nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi.
Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành
chnghĩa Mác - Lênin. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin là một nhân tố đặc biệt
quan trng đối với việc ra đời, hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) là kết quả của chủ nghĩa
đế quốc và sự tranh chấp thuộc địa giữa chúng. Cuộc chiến tranh tàn bạo và
khốc liệt này đã làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa
làm cho chủ nghĩa bản thế giới dần suy yếu, là điều kiện cho Cách mạng
xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thành công 1917).Trước hoàn cảnh ấy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhân xét: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng
ời chiếu sángkhắp năm châu, thức tỉnh ng triệu người bị áp bức, bóc
lột trên trái đất.
Thật vậy, với thành tựu đầu ên này, đã lập nên một hội mới, mở ra con
đường mới cho các dân tộc bị áp bức và mở ra thời đại mới trong lịch sử thế
gii - thời đại quá độ từ ch nghĩa bản lên chủ nghĩa hội. Ngày
02/03/1919, Quốc tế Cộng Sản ra đi Matxcowva dưới dưới sự lãnh đo
của Lênin đã đẩy mạnh truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin kinh nghiệm thắng
lợi cách mạng Tháng Mười Nga ra rộng khắp, trở thành động lực hành động
của các đảng cộng sản trên toàn thế gii.
Tóm lại, trong bối cảnh thế giới nhiều sự thay đổi, những nhân tố : Cách
mạng Tháng Mười nga thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Viết, Quốc tế
Cộng sản thực ễn xây dựng chủ nghĩa hội Liên Xô cùng với sự phát
triển mnh mẽ phong trào cộng sản,công nhân và phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới,…đã tạo những ền đề điều kiện bản thúc đy tưởng
Hồ Chí Minh trên hành trình m ra con đường đúng đắn để cứu nước nhà.

Preview text:

CHƯƠNG 1. Khảo sát những sự kiện chính ảnh hưởng đến sự hình thành tư
tưởng HCM trong giai đoạn này
1. Bối cảnh trong nước và thế giới ảnh hưởng đến sự hình thành tư
tưởng HCM Tình hình Việt Nam:
Tình hình Việt nam trong những năm cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 chịu
nhiều biến động, cũng như nhiều dân tộc khác ở châu Á, châu Phi, Việt nam
đã trở thành tầm ngắm xâm lược của chủ nghĩa thực dân đế quốc.
Trước khi thực dân Pháp xâm lược, xã hội Việt nam vẫn còn là một quốc gia
nghèo nàn với nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, lạc hậu và trì trệ là chủ yếu.
Bên cạnh đó, chế độ phong kiến hà khắc của nhà Nguyễn với đường lối tư
duy phản động, bảo thủ, ban hành những chính sách cổ hủ… đã không mở
ra con đường hội nhập quốc tế mà trái lại đã làm cho Việt Nam bỏ lỡ thời kỳ
chuyển biến hết sức quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Từ năm 1858, đứng trước sự lạc hậu, suy yếu của chế độ phong kiến nhà
Nguyễn, thực dân Pháp từng bước tiến hành xâm lược nước ta. Mở đầu là
1-9-1958, khi ham đội Pháp -Tây Ban Nha nổ súng tiến công đánh chiếm bán
đảo Sơn Trà (Đà Nẵng).
Trước tình hình đó, với truyền thống yêu nước ngàn đời nay, các phong trào
đáu tranh chống Pháp liên tục nổ ra đến cuối thế kỉ XIX ở cả ba miền Bắc,
Trung, Nam. Tiêu biểu phải kể đến là khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực,
Trương Định ở miền Nam. Khởi nghĩa của Đặng Như Mai, Trần tấn ở miền
Trung. Ở miền Bắc thì có sự góp sức của cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám,
nơi nổ ra phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi phát động,… Tuy các
phong trào này rất anh dũng và dữ dội thế nhưng đều thất bại.
Ngày 25 - 8– 1883 Triều đình Nhà Nguyễn ký “Hiệp ước Harmand” ( Hòa ước
Quý Mùi) với nội dung chính là xác lập quyền lâu dài của Pháp trên toàn bộ
Việt Nam, nhìn chung có mấy điểm chính:
• Điều 1: Triều đình Huế công nhận sự bảo hộ của Pháp. Mặt ngoại giao
kể cảviệc giao thiệp với nước Tàu cũng phải có sự ưng thuận của Pháp
• Điều 5: Khâm sứ Pháp ở Huế có quyền ra vào tự do yết kiến vua.
• Điều 6: Pháp có quyền đặt công sứ ở các tỉnh để kiểm soát quan Việt
nhưngđại để việc nội trị không bị ảnh hưởng.Ngoài ra Hòa ước Quý
Mùi còn buộc triều đình Huế triệt thoái quân khỏi Bắc Kỳ.Việc thuế
má cũng sẽ do Pháp điều hành.
Và khi Hiệp ước Patenotre (Hòa ước Giáp Thân) kí vào 6- 61884, công nhận
quyền bảo hộ của Phápvới vùng lãnh thổ còn lại của Đại Nam. Dân tộc Việt
Nam đã mất nền độc lập.
Sau khi hoàn toàn bị Pháp xâm lược vào 1897, Việt Nam từ một quốc gia
phong kiến trở thành một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Sự xâm nhập
của chủ nghĩa tư bản Pháp cũng đã tác động mạnh mẽ đến dự chuyển biến
kinh tế-xã hội Việt Nam, làm nảy sinh thêm trong xã hội những giai cấp mới:
giai cấp công nhân, tư sản và tiểu tư sản thành thị.
Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, bị mất độc lập tự do, nhân dân ta
không ngừng nổi lên chống lại chúng. Từ đó, bên cạnh mâu thuẩn cơ bản
của xã hội lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến,
còn xuất hiện thêm các mâu thuẫn mới. Đó là mâu thuẫn giữa công nhân
với tư sản, giữa nhân dân Việt nam và đế quốc Pháp.
Những năm đầu thế kỉ XX, nhìn thấy kết quả khả quan của cuộc cách mạng
cải cách ở Trung Quốc và phong trào Duy tân ở Nhật Bản. Việt Nam bắt đầu
xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, nổi
bật là: Phan Bội Châu với Phong trào Đông Du(1905-1909), đưa người sang
Nhật Bản học tập. Phong trào Duy Tân (1906-1908), nâng cao dân trí, chấn
hưng dân khí, mở mang trình độ hiểu biết cho người dân… và một số phong
trào khác. Nhưng nhìn chung, với tình hình lúc bấy giờ, các phong trào yêu
nước theo khuynh hướng này đều không thành công, đất nước lâm vào tình
trạng khủng hoảng đường lối. Cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ,
tưởng chừng như không có đường ra.
Nguyên nhân thất bại sâu xa là do tư tưởng và lực lượng lúc bấy giờ còn non
trẻ. Nguyên nhân trực tiếp chính là do những người lãnh đạo các phong trào
và các cuộc khởi nghĩa này chưa tìm ra được con đường đúng đắn. và cũng
từ hai nguyên nhân trên, đã đặt ra một yêu cầu bức thiết cho dân tộc Việt
Nam: Cần một con đường cứu nước mới có thể dẫn dắt dân tộc đi đến thắng
lợi và độc lập. Làm thế nào để cứu nước, giành lại độc lập tự do, giải phóng
dân tộc đồng thời giải phóng con người, giải phóng xã hội
Giai cấp công nhân – giai cấp hứng chịu ba tầng áp bức, bóc lột của thực
dân, tư bản, phong kiến ra đời. Giai cấp này đã không ngừng vùng dậy đấu
tranh, được xem như là “ dấu hiệu mới” đầu thế kỉ XX trong bối cảnh lầm
than của nước nhà lúc bấy giờ.
Tình hình thế giới cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX:
Nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh thành giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Với chín nước là Anh,
Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Ý, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan… đã chi phối toàn
bộ tình hình thế giới và trở thành mối đe dọa của các dân tộc thuộc địa. Vì
phần lớn các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa
hoặc phụ thuộc của chúng.
Trước tình hình đó, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản ngày càng trở nên
sâu sắc và nhức nhối - mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản, chủ nghĩa đế quốc
đã làm phát sinh một mâu thuẫn mới - mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Tình cảnh của giai cấp công nhân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác vô cùng khốn khổ, đặc biệt ở các nước mà ách
áp bức giai cấp chồng lên ách áp bức chủng tộc. Vì vậy, việc dành lại độc lập
dân tộc của các quốc gia thuộc địa đã trở thành mong muốn chung từ đầu
thế kỷ XX, mở đầu phong trào giải phóng dân tộc trên khắp thế giới phát triển
mạnh mẽ, nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi.
Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành
chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin là một nhân tố đặc biệt
quan trọng đối với việc ra đời, hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) là kết quả của chủ nghĩa
đế quốc và sự tranh chấp thuộc địa giữa chúng. Cuộc chiến tranh tàn bạo và
khốc liệt này đã làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa
và làm cho chủ nghĩa tư bản thế giới dần suy yếu, là điều kiện cho Cách mạng
xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thành công 1917).Trước hoàn cảnh ấy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhân xét: “Giống như mặt trời chói lọi, cách mạng tháng
Mười chiếu sángkhắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất”.
Thật vậy, với thành tựu đầu tiên này, đã lập nên một xã hội mới, mở ra con
đường mới cho các dân tộc bị áp bức và mở ra thời đại mới trong lịch sử thế
giới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ngày
02/03/1919, Quốc tế Cộng Sản ra đời ở Matxcowva dưới dưới sự lãnh đạo
của Lênin đã đẩy mạnh truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm thắng
lợi cách mạng Tháng Mười Nga ra rộng khắp, trở thành động lực hành động
của các đảng cộng sản trên toàn thế giới.
Tóm lại, trong bối cảnh thế giới có nhiều sự thay đổi, những nhân tố : Cách
mạng Tháng Mười nga thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô Viết, Quốc tế
Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát
triển mạnh mẽ phong trào cộng sản,công nhân và phong trào giải phóng dân
tộc trên thế giới,…đã tạo những tiền đề và điều kiện cơ bản thúc đẩy tư tưởng
Hồ Chí Minh trên hành trình tìm ra con đường đúng đắn để cứu nước nhà.