Ôn tập cuối kì - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa

Ôn tập cuối kì - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Văn hóa dân gian 43 tài liệu

Trường:

Đại học Khánh Hòa 399 tài liệu

Thông tin:
16 trang 9 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Ôn tập cuối kì - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa

Ôn tập cuối kì - Văn hóa dân gian | Trường Đại học Khánh Hòa được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

48 24 lượt tải Tải xuống
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu 1: Các phương pháp tiếp cận lịch sử văn minh Thế Giới?
- Khi tiến hành tiếp cận nghiên cứu LSVMTG chúng ta phải lưu ý đến nền tảng ý thức hệ
để nghiên cứu – đó chính là nền tảng Mácxit – tức là chúng ta dựa vô triết học Mác Lênin
để nghiên cứu. Dựa trên nền tảng Mácxit đó hình thành nên 2 phương pháp nghiên cứu.
Đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
* Phương pháp lịch sử: là phương pháp cho phép chúng ta trình bày các vấn đề, các sự
kiện, các nội dung căn bản nhất.
* Phương pháp logic: Dựa trên những liệu đã được trình bày, chúng ta bắt đầu tiến
hành hệ thống, phân tích, nhận xét, đánh giá và kết luận để từ đó đưa ra các quy luật, các
nội dung căn bản nhất, các giá trị và bài học rút ra. Đó chính là phương pháp logic.
- Kết hợp cả phương pháp lịch sử và logic đó là cơ sở để nghiên cứu về mặt khoa học,
trong đó nghiên cứu về LSVMTG. khi tiếp cận LSVMTG thì bắt buộc phải tiếp
cận các nền văn minh cụ thể mà khi tiếp cận các nền văn minh cụ thể thì đầu tiên phải bắt
đầu xuất phát từ nền tảng ý thức hệ là quan trọng nhất, đó chính là định hướng để nghiên
cứu, rồi xuất phát từ ý thức hệ đó mới có phương pháp để đi vào nghiên cứu một nền văn
minh. Và khi tiếp cận nền văn minh theo phương pháp Mácxit thì bắt buộc đi từ các cơ sở
hình thành văn minh cho đến các thành tựu.
Cơ bản là có 5 cơ sở hình thành văn minh:
+ Tự nhiên: Cho chúng ta biết không gian xác định của một nền văn minh.
+ Dân cư: Cho chúng ta biết chủ nhân sáng tạo của một nền văn minh.
+ Tiến trình lịch sử: Cho chúng ta biết thời gian để xuất hiện một nền văn
minh
+ Kinh tế: Là tiền đề quan trọng thúc đẩy sự xuất hiện, phát triển của một nền
văn minh
+ Chính trị - hội: Tức tìm hiểu về cấu trúc hội, ý thức hệ chính trị
thúc đẩy sự ra đời, định hướng sự phát triển của một nền văn minh cũng như sự suy tàn,
sự suy vong và sự phục hưng của một nền văn minh.
- Từ các sở hình thành văn minh trên chúng ta đi sâu vào bản chất của một nền
văn minh thông qua các thành tựu căn bản như: chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến
trúc, điêu khắc, hội hoạ, khoa học tự nhiên, thiên văn, lịch pháp, y học, tôn giáo,
tín ngưỡng, Tuy nhiên, không phải nền văn minh nào củng bao hàm hết các
thành tựu trênkhông bao hàm hết các thành tựu như thế nhưng đối với một
số nền văn minh điển hình như Ai Cập với các thành tựu: chữ viết, văn học, khoa
học tự nhiên thì cũng đủ để thúc đẩy sự ra đời của một nền văn minh, biến
thành một nền văn minh vĩ đại và tạo ra sản phẩm đặc trưng của nền văn minh đó.
8 yếu tố của thành tựu văn minh bao gồm:
1. Chữ viết: quá trình hình thành, phát triển, cải tạo, ứng dụng... chữ viết, sự tác
động của chữ viết đến văn minh,..
2. Văn học: những sang tác văn học thể hiện niềm tin, ý chí, tình cảm của bộ phận
dân cư sang tại ra nền văn minh.
3. Sử học: quá trình hình thành nền sử học cùng những nhận xét, nhận định về các
sự kiện trong tiến trình lịch sử.
4. Nghệ thuật: tổng thể các mặt như hội họa, âm nhạc, điêu khắc,kiến trúc,...
5. Khoa học tự nhiên: các phát minh về toán học, vật lý, hóa học, sinh học,..xuất
phát từ nhu cầu cuộc sống.
6. Triết học: hệ thống tưởng quan điểm của bộ phận dân đó về cuộc sống,
con người, xã hội...
7. Tôn giáo: các niềm tin và tín ngưỡng
8. Luật pháp: hệ thống quy tắc tổ chức, quản lý xã hội.
Phương pháp đồng đại: Thực chất của nó là xác định các hiện tượng, quá trình khác
nhau xảy ra cùng một thời điểm (có liên quan đến nhau). Phương pháp này giúp
chúng ta bao quát được toàn vẹn và đầy đủ quá trình lịch sử ; so sánh được cái gì đã
xảy ra trong cùng một thời gian, ở các nước khác nhau, cũng như so sánh các quá
trình có tính chất khác nhau xảy ra trên cùng một lãnh thổ (Ví dụ như phong trào
công nhân, phong trào nông dân, phong trào trí thức, phong trào trong quân đội,
v.v...).
Phương pháp lịch đại: Phương pháp này cho phép nghiên cứu quá khứ lần theo các giai
đoạn phát triển trước kia của nó. Dựa vào quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về sự thống nhất giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, dựa vào quan niệm biện chứng
cho rằng trong một quá trình phát triển mỗi giai đoạn tiếp sau đều mang trong mình
nó những đặc điểm và những yếu tố của giai đoạn trước.
Phương pháp liên ngành: Do LSVM đề cập đến các lĩnh vực của rất nhiều ngành
khoa học khác (ngôn ngữ học, triết học, tôn giáo,...), phải nắm vững và vận dụng
đúng đắn, sáng tạo các tri thức khoa học liên ngành để nghiên cứu LSVM.
Ngoài ra còn cần sử dụng nhiều phương pháp khác như phương pháp khảo sát, nghiên
cứu thực địa, phương pháp phân kỳ, phương pháp phân tích so sánh,...
Câu 2:Thành tựu văn minh Ai Cập
- VĂN HỌC
Nội dung văn học Ai Cập giai đoạn này có 3 điểm chính cần lưu ý:
giai đoạn đầu, văn học mang đậm tính tôn giáo như ca ngợi các thần, miêu tả
nghi lễ thờ cúng và tang lễ.
Đến giai đoạn Trung Tân vương quốc, văn học bắt đầu phản ánh những mâu
thuẫn xã hội, phê phán bọn quan lại và nói những người lao động.
dụ: Một số tác phẩm phê phán tầng lớp quan lại: Chuyện kể của Ipouer, truyện
Sinouhé, tập truyện người nông phu biết nói những điều hay…
Thơ ca trữ tình: Các bài thơ ngắn ca ngợi tình yêu và sự gắn bó giữa con người với
thiên nhiên được tập hợp chủ yếu trong cuốn Papynus Hais 500
Văn học mang tính chất triết lí: trong cuốn “Đối thoại 1 người thất vọng với linh
hồn” nói đến sự suy sụp của người Ai Cập trước sự đổ vỡ các giá trị truyền thống
với tâm trạng chán đời.
- CHỮ VIẾT
Chữ viết một hệ thống hiệu đặc biệt để ghi lại tiếng nói của con người, 1
phương pháp để truyền tải thông tin qua thời gian và không gian.
Thời Tảo vương quốc, người Ai Cập đã sáng tạo ra chữ viết. Lúc đầu chữ viết bắt
đầu từ những hình vẽ mang tính thông báo tin tức rất giống với các sinh vật mà người ta
muốn miêu tả gọi là chữ tượng hình.
Đối với các khái niệm trừu tượng hoặc phức tạp thì phải dùng phương pháp mượn ý.
Ví dụ như muốn viết chữ “khát” thì vẽ hình con bò đứng bên cạnh chữ nước. chữ
chính nghĩa thì vẽ lông Đà Điểu, vì lông Đà Điểu hầu như dài bằng nhau.
Tuy nhiên, chữ tượng hình không thể diễn đạt được những khái niệm phức tạp, trừu
tượng.Do vây, chỉ có giới quý tộc mới học được loại chữ này.
Chữ tượng hình được tìm thấy trong các đền đài, cung điện, hầm mộ trên giấy
Papyrus-1 loại giấy làm từ cây Papynus với độ bền rất cao.
Tuy nhiên,2 phương pháp ấy chưa đủ để ghi mọi khái niệm, vậy dần dần xuất
hiện những hình vẽ biểu thị âm tiết.Những hình vẽ biểu thị âm tiết này vốn là những chữ
biểu thị 1 từ nhưng đồng âm với âm tiết mà người ta muốn sử dụng.
Về sau, người ta đã cải tiến chữ viết theo hướng giản đơn hơn, nghĩa là sẽ lấy 1 phần
điển hình nào đó của vật thể để biểu đạt, rồi dần dần phát triển tới hình thức kết hợp cả
kí hiệu tượng hình và dấu hiệu chỉ âm.
Sau khi Ai Cập bị sáp nhập vào đế quốc La Mã, loại chữ này dần dần trở thành tử
ngữ. Nhiều nhà ngôn ngữ tìm cách giải mã nhưng không thành công.
Vào cuối thế kỉ XVIII, đoàn quân chinh phục Ai Cập của Napoléon đã phát hiện
phiến đá ROSETTA trên đó chia làm 3 phần chữ ghi khác nhau: chữ tượng hình, chữ
Cope và chữ Hy Lạp cổ.
Năm 1822, nhà ngôn ngữ học người Pháp F.Champollion đã giải toàn
bộ chữ tượng hình Ai Cập.
Sự kiện trên cũng chính thức khai sinh ra ngành Ai Cập học (Egyptology).
- KHOA HỌC TỰ NHIÊN
- Thiên Văn – lịch pháp
Để nắm vững thời tiết lvà khai thác nguồn thủy lợi sông Nile phục vụ canh tác nên
Ai Cập sớm ra đời thiên văn học, lịch pháp.
Từ rất sớm người Ai Cập đã dùng những dụng cụ thô như sợi dây dọi, mảnh
ván có khe hở và ngồi trên nóc các đền miếu để quan sát bầu trời.
Người Ai Cập sớm phát hiện ra các chòm sao đã soạn ra bản đồ các thiên thể,
nó được vẽ lên các trần của những đền đài cổ.
Họ biết nhiều hành tinh khác như: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Bản đò 12 cung
hoàng đạo có từ thời vương triều XIV.
Từ thời Tảo và cổ vương quốc, người Ai Cập đã biết dựa vào mực nước sông Nile
để tính quy luật thời gian và phục vụ các nghi lễ tôn giáo.
Việc xây dựng lịch gắn liền với việc quan sát sao Lang(Sirius) trên bầu trời. Theo
đó 1 năm 365 ngày-khoảng cách giữa 2 lần sao Lang xuất hiện đường chân
trời. Tháng có 30 ngày, còn dư để vào cuối năm làm ngày lễ.
Việc tính toán vị trí các ngôi sao trên trời việc phát minh ra đồng hồ mặt trời,
đồng hồ nước là những thành tựu quan trọng thời Tân vương quốc.
- Toán học
Do nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình kiến trúc, tính
toán…là những nguyên nhân thúc đẩy toán học ra đời.
Những quan niệm về số học xuất hiện từ thiên niên kỉ thứ III TCN.Đến đầu thiên
niên kỉ thứ II thì người Ai Cập đã phát triển thành công hệ số đếm của mình.
Họ đã biết dùng hệ đếm thập phân, biết làm các phép cộng trừ, còn nhân
chia thì thực hiện bằng cách cộng trừ nhiều lần. Họ thể giải được phương
trình bậc nhất.
Về hình học, họ biết tính diện tích tam giác, tứ giácbiết rằng bình phương của
cạnh huyền bằng tổng bình phương của 2 cạnh trong tam giác vuông.
Họ còn tính được số Pi=3.16.
- Y học
Do tục ướp xác thịnh hành nên họ hiểu biết khá sớm về thể con người khá
nổi tiếng với các nước láng giềng: Vua Ba Tư đã xin vua Ai Cập thầy thuốc chữa
mắt, Hêrôđốt rất khâm phục con số đông đảo trình độ chuyên môn cao của
người Ai Cập về: răng, đầu, mắt, bụng bệnh nội thương. Đặc biệt họ sống rất
sạch sẽ và “ là người mạnh khỏe nhất”.
Người Ai Cập biết rằng nguyên nhân của bệnh tật không phải do ma quỷ hay phù
thủy gây ra mà do sự không bình thường của mạch máu. Họ cũng nhận thức về óc
và tim là 2 bộ phận quan trọng của cơ thể.
Câu 3: Thành tựu văn minh Ấn Độ
- VĂN HỌC
Văn học Ấn Độ có 3 điểm cần lưu ý như sau:
Tôn giáo: Tập trung trong kinh Vêda ( sau thành bộ kinh của đạo la môn),tam
tạng kinh điển(Phật giáo).
Sử thi:
Sử thi Mahabharata bản trường ca gần110.000 khổ thơ (220.000 câu) nói ivy
cuộc đấu tranh trong nội bộ của một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ.
Được coi1 bộ “bách khoa toàn thư” của Ấn Độ, Ramayana dài 48.000 câu thơ,
là thiên tình sử đầy trắc trở giữa hoàng tử Rama tuấnvà conga chúa kiều diếm
Sita
Thơ:
Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta(thế kỉ V). Tác phẩm tiêu
biểu nhất của ông vở kịch Sơcuntla. một nhà soạn nhạc cung đìnhanhr
hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư
tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối lừa gạt, không
chung thủy của giai cấp thống trị trên chừng mực nhất định đã chống lại quan
niệm về đẳng cấp.
Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ.
- CHỮ VIẾT
- Khoảng 3500 năm TCN, nền văn minh sông Ấn đã chữ viết riêng của mình,
người ta thường gọi đó là chữ hình dấu( hình chữ nhật, vuông, tam giác, thoi).
- Chữ viết đầu tiên Ấn được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa. Tại các di chỉ
thuộc nền văn minh sông Ấn đã phát hiện hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa.
- Đến nay, chữ hình dấu vẫn chưa được giải mã. Mãi đến cách đây vài chục năm,
một nhà khảo cổ học Ấn là tiến sĩ S.R.Rao đã khám phá được sự bí ẩn của loại chữ
này. Theo ông, đây là loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm ghi vần, trong số 3.000
con dấu đó có 22 dấu cơ bản, chủ yếu viết từ phải sang trái.
- Ở phía Bắc của nền văn minh sông Hằng, khoảng năm 500 TCN đã có chữ viết là
chữ Kharosthi và chữ Brathmi( các văn bia của Asoka đều viết bằng loại chữ này).
- Cả hai chữ viết đều nguồn gốc tchữ viết của người Lưỡng cổ đại, được
dùng trong triều đình với các bản báo cáo về thuế khóa, tình hình đất nước hoặc sự
kiện trọng đại trong mỗi vương triều.
- Khi đạo Hinđu phát triển cực thịnh với thời kì Bàlamôn, tôn giáo này đã sáng tạo 1
thể loại chữ viết mới( chữ Sanscrit-chữ Phạn) hệ thống ngữ pháp phức tạp
thường ko có quy tắc, vì vậy nó đã được cải tiến và chỉnh sửa rất nhiều lần.
- Chữ Phạn chữ viết rất quan trọng của nền văn minh sông Ấn, lưu giữ toàn
bộ các bộ kinh Vêđa, bộ luật kinh Upanisad…kể cả 2 tác phẩm văn học rất nổi
tiếng của Ấn.
- Đạo Phật ra đời đã sử dụng chữ Pali để ghi lại kinh kệ nhà Phật.
- Ấn Độ là 1 trong những quốc gia có hệ thống chữ viết phức tạp nhất trên Thế Giới
(Ấn Độ có 5 chữ viết được coi là chữ quốc gia trong đó có tiếng Anh).
- KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Thiên văn
Người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi
tháng có 30 ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm
vào một tháng nhuận.
Toán học
Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta
quen gọi số Arập. Đóng góp lớn nhất của họđặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi
toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã
mà sử dụng số Arập trong toán học). Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu
biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác, Pi = 3,1416.
Vật lí
Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông
thái ở Ấn Độ đã viết “Trái đất do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”.
Y học
Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp
ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai
quyển sách là “Y học toát yếu” và “Luận khảo về trị liệu”.
Câu 4: Văn học Trung Hoa
Văn học Trung Quốc ra đời trước khi thống nhất các vương triều thường được gọi
là giai đoạn văn học tiền Tần mà mốc khởi đầu là kinh thi.
Kinh thi là tập thơ cổ nhất do nhiều tác giả sáng táct ừ đầu tời Xuân Thu đến giữa
Tây Chu
Kinh Thi hiện còn khoảng 305 bài được phân làm 3 loại: Phong, Nhã, Tụng, trong
đó Phong chiếm số lượng nhiều nhất và có giá trị nhất.
Kinh thi phản ánh 1 cách chân thực và sinh động đời sống hội Trung Quocowr
thời đại đó.
Ngoài kinh thi còn phú thời Hán, thơ Đường, kịch thời Nguyên tiểu thuyết
thời Minh Thanh.
Câu 4: Thành tựu văn minh Hy Lạp
Nguyên nhân thành tựu:
2.1. Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp phát triển khá hoàn hão. Nó đã mở ra một sự phân
công trong xã hội tạo sự cách biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Nô lệ đảm
đương tất cả mọi việc. Trí thức, quý tộc, chủ nô thoát ly lao động, có thì giờ và điều kiện
để nghiên cứu triết học, khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật.
2.2. Trước khi có văn học viết nhân dân Hy Lạp đã có một pho thần thoại phong phú,
hoặc để giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người, hoặc để nói lên
khát vọng của những con người Cổ đại, hay để ca ngợi thành quả lao động của những
người anh hùng...
2.3. Cùng với sự phát triển của chế độ tư hữu trong thời kỳ chế độ nô lệ hình thành vai trò
của cá nhân trong xã hội cũng được đề cao, vì thế thơ ca trữ tình xuất hiện. Loại thơ ca
này nhằm biểu hiện một tình cảm thuần túy bên trong mỗi cá nhân, hoặc nói lên cảm nghĩ
của nhà thơ về một đối tượng nào đó.
2.4. Người Hy Lạp hàng năm có tục tế thần Dyonisos vào mùa xuân. Quần chúng tham
gia đông đảo, hóa trang nhảy múa đủ các kiểu, dần dần phát triển thành loại hình ca kịch.
2.5. Truyền thống hùng biện đã có từ lâu ở người Hy Lạp, nay được phát triển thành loại
hình văn xuôi hùng biện.
2.6. Vai trò của thần quyền ở Hy Lạp không quan trọng. Ðiều đó góp phần giải phóng
trong chừng mực nào đó sự phát triển của văn học, khoa học và triết học khỏi những ràng
buộc tôn giáo và những tư tưởng duy tâm thần bí.
2.7. Cần chú ý rằng nền văn học Cổ đại Hy Lạp cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của các nền
văn minh lâu đời ở các quốc gia phương đông Cổ đại. Người Hy Lạp đã biết học tập tiếp
thu tinh hoa của những người đi trước và biết phát huy nhũng tinh hoa đó thành một nền
văn học phong phú và đầy tính sáng tạo.
Những thành tựu cơ bản của nền văn minh Hy Lạp
* Chữ viết:
Về chữ viết, người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người Phênixi
(Phoenicia) rồi cải tiến, bổ xung thành một hệ thống chữ cái mới gồm 24 chữ cái. Từ chữ
Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà
nhiều dân tộc trênthế giới ngày nay đang sử dụng.
* Văn học:
Từ khi có bút tích văn học đến khi Hi Lạp trở thành chư hầu, rồi nhập vào địa phận của
La Mã, văn học Hi Lạp chia ra 3 thời kì lớn.
1.Thời kì thứ nhất (thời thượng cổ), bắt đầu từ khi có những bút tích văn học đầu tiên
đến thế kỷ V trước công nguyên .
2.Thời kỳ cổ điển (còn gọi Atich) từ chiến tranh Ba Tư - Hi Lạp đến thế kỷ II tr. CN .
3.Thời kỳ chủ nghĩa Helen (hoặc Alexandre) có một nền văn chương thần thoại phong
phú vào bậc nhất thế giới .Từ những chất liệu thần thoại đẹp đẽ giàu giá trị nhân văn, triết
lý này, những ca sĩ dân gian đã sáng tác những bài ca bất tử về các vị thần, các anh hùng
thành bang. Những bài ca ấy lại được Homer kế thừa để sáng tạo nên hai thiên anh hùng
ca (sử thi) vĩ đại Illiade và Odyssee . Sau Homer, nhiều nhà thơ sáng tác về các truyền
thuyết thành Troie và thành Thebes, thơ giáo huấn của Hesiode... nhưng ít có giá trị. Văn
học Hy Lạp cổ đại có thể chia ra làm ba bộ phận chủ yếu có liên quan với nhau, đó là
thần thoại, kịch, thơ.
- Người Hy Lạp có một hệ thống thần thoại rất phong phú để mô tả thế giới tự nhiên, nói
lên kinh nghiệm cuộc sống và cả tâm tư sâu kín của con người. Hầu như trong cuộc sống
thời đó có việc gì thì đều có thần bảo trợ, lo về công việc đó. Kho tàng thần thoại Hy Lạp
mãi tới ngày nay còn được nhiều môn nghệ thuật ở các nước trên thế giới khai thác. Đây
là một dân tộc có một kho tàng thần thoại mà nhiều dân tộc lớn trên thế giới phải ghen tị.
Khoa học tự nhiên (mở rộng giá trị ngày nay) Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến
cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Ơclit
(Euclide), Pitago (Pythagoras), Talét (Thales), Acsimet (Archimede), ....
Toán học, Vật lý, Thiên văn học:
Talet: Phát minh quan trọng nhất của Ông là tỷ lệ thức nhờ sáng tạo ra tỷ lệ thức mà ông
có thể đo chiều cao của Kim Tự Tháp thông qua đo bóng của chúng, Ông còn là một nhà
thiên văn học vĩ đại khi tính đúng ngày xảy ra nhật thực vào năm 585 TCN.
Pytago: tiếp thu thành tựu toán học phương Đông ông đã sáng tạo ra định lý mang tên
mình về mối quan hệ giữa 2 cạnh góc vuông và cạnh huyền trong tam giác vuông. Ông
còn phân biệt các loại số chẳn, lẻ, và số không chia hết. Về thiên văn học Ông đã nhận
định được trái đất hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo nhất định.
Ơ clit: Tổng kết thành tựu của các nhà toán học đi trước ông tổng hợp thành sách Toán
học sơ đẳng là cơ sở của môn hình học trong đó có tiên đề Ơclit nổi tiếng.
Acsimet: Ông đã tính ra số Pi chính xác nhất trong lịch sử phương Tây (nằm giữa 3 và
3).Ông tính được diện tích toàn phần và thể tích của nhiều hình khối. Trong lĩnh vực vật
lý ông có 2 phát minh quan trọng đó là về nguyên lý đòn bẩy và lực đẩyAcsimet.
Với nguyên lý đòn bẩy người ta có thể dùng một lực nhỏ để nâng một vật nặng thông qua
hệ thống đòn bẩy, điều này tạo điều kiện cho sự phát triển của xây dựng các công trình
lớn, giảm hao phí lao động...nguyên lý này còn đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật
quân sự, ông chế tạo ra máy ném đá Để đánh quân La Mã, máy phóng gỗ để bắn thuyền
quân địch, gương 6 mặt để đốt thuyền... Lực đẩy Acsimet: mọi vật khi ở dưới nước đều
chịu một lực bằng đúng trọng lượng của nó, từ đây ông phát minh ra máy hút nước ra
khỏi thuyền khi thuyền bị thủng...
Arixtac: Ông là người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời, ông tính toán khá chính
xác thể tích mặt trời, mặt trăng và quả đất, tính toán khoảng cách giữa chúng...Ông cho
rằng trái đất quay quanh mặt trời.
Ptolome: là một nhà Thiên văn học, toán học, địa lý thiên tài, ông đúc kết các kiến thức
về thiên văn học và soạn ra sách Tổng hợp kết cấu toán học, trong đó ông cho rằng trái
đất hình cầu và mặt trời quay xung quanh trái đất. Ông còn soạn sách Địa lý học gồm 8
chương về các vùng của thế giới, bản đồ này được xem là chính xác nhất thời bấy giờ.
Y học: Hipocrat người cho rằng bệnh tật phải dùng thuốc và mổ xẻ để chữa bệnh, mở
đường cho y học phát triển, giải phóng y học khỏi mê tín dị đoan. Nhà giải phẫu học
Hecropin đã chứng minh rằng não là khí quan tư duy, cảm giác do hệ thần kinh truyền
đạt, xem mạch để chuẩn đón bệnh...Nhà phẫu thuật Heerraclit đã biết dùng thuốc mê khi
phẫu thuật bệnh nhân.
Câu 5: Phật giáo
- Bối cảnh hình thành:
Xã hội:
Khoảng giữa thiên niên kỉ thứ I TCN, từ những công xã cổ xưa đã hình thành hàng
loạt những tiểu quốc hai bên bờ sông Hằng.
Các vương quốc này luôn mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính lẫn nhau.
Các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên làm tình hình chính trị bất ổn, tâm n
chúng bất an.
Mâu thuẫn giữa đẳng cấp tăng lữ và quý tộc: sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ.
+ Tăng lữ(Brahman): Thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần,vét tài
sản, bắt dân chúng nộp thuế cao và nghĩa vụ khác.
+ Quý tộc(ksatria): bảo vệ trực tiếp cai trị đất nước, người giữ vai trò
quyết định trong chiến tranh nhưng địa vị lãnh đạo lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp
tăng lữ.
+ Dân thường(Vaisya): Cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa
nhưng thuế không giảm và những áp lực của tôn giáo đè nặng.
+ lệ-kẻ thấp hèn(Soudra): 1 số dân thường bị phá sản trở thành lệ, 1
số phải đi ăn xin.Họ chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lí chán nản tuyệt vọng.
Vì thế, chế độ đẳng cấp trở thành nỗi bức xúc lớn trong xã hội lúc bấy giờ.
Kinh tế:
Công cụ kim loại đồng thau sau đó đồ sắt đã làm thay đổi bản chất của sản
xuất.
Nhiều ngành kinh tế đã ra đời ngày càng mở rộng làm xuất hiện tầng lớp
thương nhân. Họ tầng lớp tiềm lực về kinh tế, nên muốn thay đổi địa vị
trong hệ thống đẳng cấp. tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng cấp nào
và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp Soudra.
Tôn giáo:
Cuộc sống cực khổ càng làm người dân lao động thêm căm ghét kẻ bóc lột mình,
oán ghét chế độ đẳng cấp (Varna), không còn tin vào các vị thần Bàlamôn.
Những nghi lễ phức tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo ngày càng khó hiểu
làm cho người dân ngàycàng xa rời tôn giáo này.
Trong bối cảnh đó, vào thế kỉ VI TCN, Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái
tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh thực tại ( khổ hạnh, ép xác, tieu cực, tự
kỉ-Jain) nhưng 1 điểm chung là: trực tiếp gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn
chế đọ đẳng cấp. Phật giáo cũng một trong những trào lưu đó được xem
là 1 phản đề của đạo Bàlamôn.
- Quá trình truyền bá của Phật Giáo:
Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, vào thời điểm rất hưng thịnh
của đạo Bàlamôn chế độ đẳng cấp. Với giáo đề cao lòng từ bi của con người với
đồng loại, chống lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng chinh
phục được đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao động nên
sau khi ra đời đạo Phật nhanh chóng được truyền bá ở miến Bắc Ấn Độ.
Từ thế kỷ V trước công nguyên đến thế kỷ V sau công nguyên quá trình truyền
phát triển đạo Phật, từ khi Đức Phật viên tịch cho đến khi đạo Phật không còn phổ biến
Ấn Độ. Quá trình đó trải qua 4 hội nghị kết tập :
Hội nghị kết tập lần 1
Ngay sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, để tránh sự sai biệt, bảo tồn các giáo pháp và luật
lệ cho được toàn vẹn. Được tổ chức tại Vương thuộc Magada vào thế kỷ V Trước
công nguyên . 500 đại biểu tham dự, kéo dài trong 7 tháng. Kết thúc hội nghị hình
thành bộ Kinh tạng và Luật tạng.
Nội dung thống nhất được 2 phần:
Pháp: gồm những lời thuyết giáo của Phật được nhớ lại theo ức của các đệ tử
lúc bấy giờ.
Luật: là quy chế của hội Phật giáo do Đại hội thảo ra.
Hội nghị kết hợp tập lần 2
Sau 100 năm có nhiều người muốn thay đổi một số điều chi tiết trong giới luật.
Diễn ra vào khoảng thế kỷ IV Trước công nguyên với 700 tăng ni tham dự, diễn ra trong
8 tháng.
Trong Đại hội này, một số tỳ kheo khác lại chủ trương canh tân, đưa ra 10 điều luật mới
sửa lại luật, họ bị Đại hội trục xuất nên đã thành lập một phái riêng gọi là Đại chúng bộ,
là mầm móng của phái Đại thừa sau này.
Hội nghị kết tập lần 3
Diễn ra vào khoảng thế kỉ III Trước công nguyên với 1000 tăng ni tham dự trong 9 tháng.
Hội nghị thảo luận hình thành phần Luận tạng. Với sự giúp đỡ của vua Asoka, nhiệm
vụ chính là chấn chỉnh lại tổ chức và giáo lý của giáo hội, đồng thời đặt ra kinh kệ và các
nghi thức . Asoka cho y dựng nhiều chùa tháp, thành lập nhiều tăng đoàn, khuyến
khích việc truyền bá đạo Phật đến nhiều vùng đất trên báo đảo Ấn Độ và một số quốc gia
khác (Sri Lanka, Mianma,...) Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo, đã thống nhất được
Tam Tạng Kinh. Tuy nhiên sau khi vương quốc Magada tan rã, đạo Phật cũng suy yếu
dần.
Hội nghị kết tập lần 4
Diễn ra vào thế kỷ I SCN với sự giúp đỡ của vua Kanisca với 500 tăng ni tham dự
Casmia.
Thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách và phái Phật giáo này được gọi là phái Đại thừa
để phân biệt với phái Phật giáo cũ (gọi là phái Tiểu Thừa). Phái Tiểu thừa nghĩa là “cỗ xe
nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp”, cho rằng những người xuất gia đi tu mới được cứu
vớt.
Quan niệm Niết bàn cảnh giới yên tĩnh, gắn với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền
não khổ đau, không còn nhân quả luân hồi, cũng tức là hư vô. Phật Thích Ca là người đầu
tiên đạt đến cảnh giới Niết bàn lúc 35 tuổi. Phái Đại Thừa nghĩa là “cỗ xe lớn” hoặc “con
đường cứu vớt rộng”, cho rằng không chỉ những tu hành mà cả những người quy y cũng
được cứu vớt. Quan niệm Niết bàn như thiên đường, tức vương quốc của các vị Phật,
cũng tức là nơi Cực lạc.
Đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.
- Nội dung cơ bản của Phật Giáo:
Phật giáo tiếp thu tưởng luân hồi(Samsara) và nghiệp(Karma) của Upanisad: mọi vật
mất đi chỗ này để sinh ra chỗ khác, quá trình thác sinh luân hồi đó do nghiệp chi
phối theo nhân quả.
Về Thế Giới quan: nội dung bản thuyết duyên khởi ( chư pháp do nhân
duyên nhi khởi) nghĩa là các pháp đều do nhân duyên mà ra. Pháp là quy luật phát
triển của sự vật, đồng thời cũng là bản thân sự vật. Mọi vật có liên quan mật thiết
với nhau, không có một thực thể nào tồn tại riêng biệt.
Về mặthội: Phật giáo không thừa nhận có chế độ đẳng cấp vì nguồn gốc xuất
thân của mỗi người không phải là điều kiện cản trở cứu vớt.
tưởng Phật giáo: nội dung tưởng “chỉ ra cái chân về nỗi khổ đau sự
giải thoát nỗi khổ đau”
Thuyết “Tứ Diệu đế”: Chỉ ra nguyên nhân của nỗi khổ con đường giải thoát
nỗi khổ để đi đúng đường.
- Nguyên nhân Phật Giáo được chấp nhận ở Ấn Độ
Vì học thuyết Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên được
quần chúng hoan nghênh. Giai cấp cầm quyền cũng nhận thấy đạo Phật không làm
hại đến quyền lợi của mình cũng không hài lòng với địa vị được ưu đãi của những
người Bàlamôn nên họ cũng ủng hộ đạo Phật.
Nguyên nhân Phật giáo được chấp nhận ở Ấn Độ
Giai cấp cầm quyền cho rằng Phật giáo không làm tổn hại đến lợi ích của họ, đồng thời
cũng không hài lòng với địa vị ưu đãi của những người theo đạo Bàlamôn nên họ ủng hộ
đạo Phật.
Học thuyết Phật giáo nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên được
quần chúng hoan nghênh.
- Nguyên nhân suy yếu Đạo Phật ở Ấn Độ:
Sau những thế kỉ rất thịnh đạt trong khoảng 1000 năm, từ triều đại GUPTA (TK 5 sau
TC) đạo Phật biểu hiện suy thoái, đó không thống nhất về học thuyết tổ chức.
Chỉ phát triển trong thành phố, những nơi hẻo lánh theo Phật giáo không nhiều. Trong khi
đó Hindu đã từ rất lâu, bám rễ chặt cả ở nông thôn, còn Phật giáo đã yếuthành phố
là suy yếu hẳn.
Trong 3 thế kỷ,Vaisya cảm thấy không có lợi gì, không phải là chỗ dựa, thay đổi xã hội.
Đạo Bàlamôn - Hindu bớt khắt khe, nới lỏng đồng thời kế thừa một số ưu điểm của Phật
giáo nên dần thu hút dân chúng. Đạo Phật được một số vua cho là quốc giáo nhưng mang
tính chất áp đặt nên khi nhà vua chết, đạo Phật cũng dần mất vị trí. Giáo lý ngày càng trở
nên uyên thâm, khó hiểu xa lạ đối với quần chúng, nên khi đã suy yếu thì không còn
cơ hội quay trở lại đời sống tinh thần.
Câu 6: Thiên Chúa
Bối cảnh ra đời
Cơ sở kinh tế - xã hội : Năm 63 Trước công nguyên , tại Palestin nơi người Do Thái
sống xảy ra một cuộc nội chiến. Một trong những bên tham chiến đã cầu viện La .
Pompei - một trong ba nhân vật trong chế độ tam hùng lần thứ nhất trong lịch sử La
đem quân chinh phục vùng đất này, trực tiếp cai trị hoặc chỉ định hoàng tử Palestin cai trị
theo chủ trương, quyền lợi của người La Mã .
lệ, dân nghèo, thợ thủ công đều phải gánh chịu cuộc sống cực khổ, bất công, bị áp
bức, cuộc sống không lối thoát.
Vì thế, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống lại sự thống trị, bóc lột của nhà nước - chủ
nô La Mã đặc biệt là người Zealot, nhưng đều bị đàn áp hết sức dã man. Khối quần chúng
nhất làlệ, dân nghèo nảy sinh tâmbi quan, chán nản, tuyệt vọng, mất niềm tin vào
tự do, hạnh phúc trong cuộc sống hiện thực. Họ tìm lối thoát trong ảo tưởng về tôn giáo,
trông chờ vào sự cứu giúp của một lực lượng siêu nhiên thể giúp họ thoát khỏi ách
thống trị, xây dựng một vương quốc công bằng, bình đẳng. Do vậy, Kitô giáo trở thành
tôn giáo của những người bị áp bức.
Cơ sở tư tưởng, tôn giáo :
Hình thành dựa trên thần thoại của các tôn giáo cổ phương Đông. Tổ tiên của người
Do thái người Hebre, một tộc người sống du mục. Khoảng giữa thế kỷ XIII Trước
công nguyên, dưới sự dẫn dắt của Moises, người Do Thái đã từ Ai Cập trở về Palestin
lập nên quốc gia Do Thái. Kể từ đó, người Do Thái đi theo một tôn giáo nhất thần - thờ vị
thần duy nhất là Chúa Giêhôva . Họ tin rằng dân tộc Do thái là dân được Chúa trọn, Chúa
chỉ nói chuyện với người Do Thái thông qua Sứ giả là Moises.
Năm 586, quốc gia Do thái bị Tân Babilon cai trị, nền độc lập của quốc gia này đã không
còn tồn tại trong thời gian dài. Trong bối cảnh như vậy, các nhà tiên tri Do Thái giáo đã
dự đoán rằng sẽ có một vị Chúa Cứu Thế sắp xuống trần gian để cứu vớt loài người, tiêu
diệt kẻ xấu, giải thoát những đau khổ, kiếp nô lệ của con người.
Về tưởng triết học: Từ giữa thế kỷ I Trước công nguyên trở đi, nhà nước La
chuyển dần từ hưng thịnh sang suy thoái. Giai cấp chủ nô muốn lợi dụng tôn giáo để duy
trì trật tự hội. Do vậy triết học La chuyển dần sang duy tâm luận, quay về với
trường phái triết học khắc kỷ - Stoicism đựoc hinh thành Hy Lạp khoảng cuối thế kỷ
IV Trước công nguyên. Tiêu biểu cho trường phái này La các tưởng của
Seneque và Philo.
Seneque : ông muốn thiết lập một hệ thống luân lý dựa trên nguyên tắc khiêm nhường
và nhẫn nhục.
Philo: cho rằng thế giới vật chất, con người can nguyên của tội lỗi, thể xác ngục
thất của linh hồn.
Quá trình truyền bá và phát triển
Giai đoạn 1: Kitô giáo bị đàn áp rất khốc liệt, chỉ một bộ phận tín đồ Palestine
tham gia. Sau cái chết của Chúa Jesus, các tông đồ đã bắt đầu đem giáo của ngài
truyền ra ngoài Palestine. Năm 62, thánh Paulo sang Roma để truyền đạo thì thấy
đây đã có nhiều tín đồ Kitô giáo.
Ban đầu giới cầm quyền La giữ thái độ khoan dung đối với Kitô giáo. Nhưng Chúa
Jesus cho rằng đế quốc La Mã là một "mụ đàn bà đầy tội lỗi – tức lên án tầng lớp giàu có,
thống trị đế quốc La sẽ sớm bị diệt vong", tín đồ Kitô giáo sẽ được sống trong
vương quốc của Chúa. Đây chính là những yếu tố mới phủ nhận sự tồn tại của chế độ và
nhà nước chiếm hữu lệ La Mã. Điều đó khiến giới cầm quyền quý tộc căm ghét
Kito giáo, cho rằng tín đồ Kitô phiến loạn tiến hành đàn áp khốc liệt, đẫm máu
nhất vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông. Cho càng đàn áp thì Kitô
giáo vẫn càng phát triển.
Nguyên nhân : Chế độ chiếm hữu nô lệ càng phát triển thì sự phân hoá giai cấp trong
hội càng sâu sắc, sự bần cùng hoá, áp bức, đàn áp, bóc lột càng tăng lên. Kitô là tôn giáo
duy nhất giới lao động những người nghèo khổ thể tìm thấy được con đường
giải phóng.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất
tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Họ giúp người lao động, người nghèo
tìm công ăn việc làm. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội. Cuộc
vận động Kito giáo trong buổi đầu mang một ý nghĩa xả hội rất tích cực: Đó là cuộc vận
động của dân nghèo chống chế độ áp bức.
Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho
Chúa trời” tức không dính dáng đến chính trị. Sau hơn 200 năm truyền bá, Kitô giáo đã
tạo được một thế lực hết sức chặt chẽ, chủ yếu tại các thành phố lớn . Trước sự phát triển
này đàn áp mãi không được, giới cầm quyền La quyết định “sống chung” , thay
đổi chính sách đối với Kito giáo.
Giai đoạn 2: Năm 311, Hoàng đế Galerius đình chỉ việc sát hại các tín đồ Kitô giáo. Năm
313, Hoàng đế Constantin xác định địa vị hợp pháp của giáo hội Kitô, nâng Kitô giáo lên
địa vị quốc giáo. Năm 325, Hoàng đế Constantin ra lệnh triệu tập Đại hội Kitô giáo lần
thứ nhất tại Nicée. Đại hội đã giải quyết được 2 vấn đề lớn:
Thống nhất lại cuối cùng nội dung của Kinh thánh : Chọn ra 4 phần tương đối trùng
khớp, ít mâu thuẫn, loại bỏ bớt yếu tố mê tín dị đoan, thống nhất rồi đưa vào Tân ước
Chấn chỉnh tổ chức giáo hội.
Sau đại hội này, Kitô giáo trở thành một bộ phận trong bộ máy của giai cấp thống trị La
Năm 337, Constantin hoàng đế La đầu tiên theo Kitô giáo. Các quan lại đua nhau
theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được
truyền bá rộng khắp ra các tầng lớp xã hội quanh Địa Trung Hải. Đến giai đoạn này, tính
chất tiến bộ ban đầu của Kito giáo không còn nữa, các giáo sĩ dần dần trở thành các quan
lại của nhà nước, giáo hội trở thành công cụ trong tay giai cấp thống trị. Do bất đồng
trong sự giải thích thuyết “tam vị nhất thể” và cả việc đụng chạm nhau về khu vực truyền
đạo nên đến năm 1054, giáo hội Kitô La đã bị chia làm hai : giáo hội Thiên chúa
và giáo hội Chính thống
Về ý nghĩa lịch sử, Kitô giáo ra đời biểu hiện phong trào phản kháng của đông đảo
quần chúng bị áp búc sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong hội. Trải qua bao
thăng trầm lịch sử, Kitô giáo từ chỗtôn giáo của những người nghèo, chống lại chính
quyền cai trị, đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất của chính quyền
Rôma và là một bộ phận của chính quyền thống trị La Mã. Kito giáo ra đời là một sự kiện
lịch sử rất lớn lao vì sau này đã tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế,
hội và tư tưởng của người Châu Âu.
| 1/16

Preview text:

LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Câu 1: Các phương pháp tiếp cận lịch sử văn minh Thế Giới?
- Khi tiến hành tiếp cận nghiên cứu LSVMTG chúng ta phải lưu ý đến nền tảng ý thức hệ
để nghiên cứu – đó chính là nền tảng Mácxit – tức là chúng ta dựa vô triết học Mác Lênin
để nghiên cứu. Dựa trên nền tảng Mácxit đó hình thành nên 2 phương pháp nghiên cứu.
Đó là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
* Phương pháp lịch sử: là phương pháp cho phép chúng ta trình bày các vấn đề, các sự
kiện, các nội dung căn bản nhất.
* Phương pháp logic: Dựa trên những tư liệu đã được trình bày, chúng ta bắt đầu tiến
hành hệ thống, phân tích, nhận xét, đánh giá và kết luận để từ đó đưa ra các quy luật, các
nội dung căn bản nhất, các giá trị và bài học rút ra. Đó chính là phương pháp logic.
- Kết hợp cả phương pháp lịch sử và logic đó là cơ sở để nghiên cứu về mặt khoa học,
trong đó có nghiên cứu về LSVMTG. Và khi tiếp cận LSVMTG thì bắt buộc phải tiếp
cận các nền văn minh cụ thể mà khi tiếp cận các nền văn minh cụ thể thì đầu tiên phải bắt
đầu xuất phát từ nền tảng ý thức hệ là quan trọng nhất, đó chính là định hướng để nghiên
cứu, rồi xuất phát từ ý thức hệ đó mới có phương pháp để đi vào nghiên cứu một nền văn
minh. Và khi tiếp cận nền văn minh theo phương pháp Mácxit thì bắt buộc đi từ các cơ sở
hình thành văn minh cho đến các thành tựu.
Cơ bản là có 5 cơ sở hình thành văn minh: +
Tự nhiên: Cho chúng ta biết không gian xác định của một nền văn minh. +
Dân cư: Cho chúng ta biết chủ nhân sáng tạo của một nền văn minh. +
Tiến trình lịch sử: Cho chúng ta biết thời gian để xuất hiện một nền văn minh +
Kinh tế: Là tiền đề quan trọng thúc đẩy sự xuất hiện, phát triển của một nền văn minh +
Chính trị - xã hội: Tức là tìm hiểu về cấu trúc xã hội, ý thức hệ chính trị
thúc đẩy sự ra đời, định hướng sự phát triển của một nền văn minh cũng như sự suy tàn,
sự suy vong và sự phục hưng của một nền văn minh.
- Từ các cơ sở hình thành văn minh trên chúng ta đi sâu vào bản chất của một nền
văn minh thông qua các thành tựu căn bản như: chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến
trúc, điêu khắc, hội hoạ, khoa học tự nhiên, thiên văn, lịch pháp, y học, tôn giáo,
tín ngưỡng, … Tuy nhiên, không phải nền văn minh nào củng bao hàm hết các
thành tựu trên và dù không bao hàm hết các thành tựu như thế nhưng đối với một
số nền văn minh điển hình như Ai Cập với các thành tựu: chữ viết, văn học, khoa
học tự nhiên thì nó cũng đủ để thúc đẩy sự ra đời của một nền văn minh, biến nó
thành một nền văn minh vĩ đại và tạo ra sản phẩm đặc trưng của nền văn minh đó.
8 yếu tố của thành tựu văn minh bao gồm:
1. Chữ viết: quá trình hình thành, phát triển, cải tạo, ứng dụng... chữ viết, sự tác
động của chữ viết đến văn minh,..
2. Văn học: những sang tác văn học thể hiện niềm tin, ý chí, tình cảm của bộ phận
dân cư sang tại ra nền văn minh.
3. Sử học: quá trình hình thành nền sử học cùng những nhận xét, nhận định về các
sự kiện trong tiến trình lịch sử.
4. Nghệ thuật: tổng thể các mặt như hội họa, âm nhạc, điêu khắc,kiến trúc,...
5. Khoa học tự nhiên: các phát minh về toán học, vật lý, hóa học, sinh học,..xuất
phát từ nhu cầu cuộc sống.
6. Triết học: hệ thống tư tưởng quan điểm của bộ phận dân cư đó về cuộc sống, con người, xã hội...
7. Tôn giáo: các niềm tin và tín ngưỡng
8. Luật pháp: hệ thống quy tắc tổ chức, quản lý xã hội.
Phương pháp đồng đại: Thực chất của nó là xác định các hiện tượng, quá trình khác
nhau xảy ra cùng một thời điểm (có liên quan đến nhau). Phương pháp này giúp
chúng ta bao quát được toàn vẹn và đầy đủ quá trình lịch sử ; so sánh được cái gì đã
xảy ra trong cùng một thời gian, ở các nước khác nhau, cũng như so sánh các quá
trình có tính chất khác nhau xảy ra trên cùng một lãnh thổ (Ví dụ như phong trào
công nhân, phong trào nông dân, phong trào trí thức, phong trào trong quân đội, v.v...).
Phương pháp lịch đại: Phương pháp này cho phép nghiên cứu quá khứ lần theo các giai
đoạn phát triển trước kia của nó. Dựa vào quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về sự thống nhất giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, dựa vào quan niệm biện chứng
cho rằng trong một quá trình phát triển mỗi giai đoạn tiếp sau đều mang trong mình
nó những đặc điểm và những yếu tố của giai đoạn trước.
Phương pháp liên ngành: Do LSVM đề cập đến các lĩnh vực của rất nhiều ngành
khoa học khác (ngôn ngữ học, triết học, tôn giáo,...), phải nắm vững và vận dụng
đúng đắn, sáng tạo các tri thức khoa học liên ngành để nghiên cứu LSVM.
Ngoài ra còn cần sử dụng nhiều phương pháp khác như phương pháp khảo sát, nghiên
cứu thực địa, phương pháp phân kỳ, phương pháp phân tích so sánh,...
Câu 2:Thành tựu văn minh Ai Cập - VĂN HỌC
Nội dung văn học Ai Cập giai đoạn này có 3 điểm chính cần lưu ý:
 Ở giai đoạn đầu, văn học mang đậm tính tôn giáo như ca ngợi các thần, miêu tả
nghi lễ thờ cúng và tang lễ.
 Đến giai đoạn Trung và Tân vương quốc, văn học bắt đầu phản ánh những mâu
thuẫn xã hội, phê phán bọn quan lại và nói những người lao động.
Ví dụ: Một số tác phẩm phê phán tầng lớp quan lại: Chuyện kể của Ipouer, truyện
Sinouhé, tập truyện người nông phu biết nói những điều hay…
 Thơ ca trữ tình: Các bài thơ ngắn ca ngợi tình yêu và sự gắn bó giữa con người với
thiên nhiên được tập hợp chủ yếu trong cuốn Papynus Hais 500
 Văn học mang tính chất triết lí: trong cuốn “Đối thoại 1 người thất vọng với linh
hồn” nói đến sự suy sụp của người Ai Cập trước sự đổ vỡ các giá trị truyền thống
với tâm trạng chán đời. - CHỮ VIẾT
Chữ viết là một hệ thống kí hiệu đặc biệt để ghi lại tiếng nói của con người, 1
phương pháp để truyền tải thông tin qua thời gian và không gian.
Thời Tảo vương quốc, người Ai Cập đã sáng tạo ra chữ viết. Lúc đầu chữ viết bắt
đầu từ những hình vẽ mang tính thông báo tin tức rất giống với các sinh vật mà người ta
muốn miêu tả gọi là chữ tượng hình.
Đối với các khái niệm trừu tượng hoặc phức tạp thì phải dùng phương pháp mượn ý.
 Ví dụ như muốn viết chữ “khát” thì vẽ hình con bò đứng bên cạnh chữ nước. chữ
chính nghĩa thì vẽ lông Đà Điểu, vì lông Đà Điểu hầu như dài bằng nhau.
Tuy nhiên, chữ tượng hình không thể diễn đạt được những khái niệm phức tạp, trừu
tượng.Do vây, chỉ có giới quý tộc mới học được loại chữ này.
Chữ tượng hình được tìm thấy trong các đền đài, cung điện, hầm mộ và trên giấy
Papyrus-1 loại giấy làm từ cây Papynus với độ bền rất cao.
Tuy nhiên,2 phương pháp ấy chưa đủ để ghi mọi khái niệm, vì vậy dần dần xuất
hiện những hình vẽ biểu thị âm tiết.Những hình vẽ biểu thị âm tiết này vốn là những chữ
biểu thị 1 từ nhưng đồng âm với âm tiết mà người ta muốn sử dụng.
Về sau, người ta đã cải tiến chữ viết theo hướng giản đơn hơn, nghĩa là sẽ lấy 1 phần
điển hình nào đó của vật thể để biểu đạt, rồi dần dần phát triển tới hình thức kết hợp cả
kí hiệu tượng hình và dấu hiệu chỉ âm.
Sau khi Ai Cập bị sáp nhập vào đế quốc La Mã, loại chữ này dần dần trở thành tử
ngữ. Nhiều nhà ngôn ngữ tìm cách giải mã nhưng không thành công.
Vào cuối thế kỉ XVIII, đoàn quân chinh phục Ai Cập của Napoléon đã phát hiện
phiến đá ROSETTA trên đó chia làm 3 phần chữ ghi khác nhau: chữ tượng hình, chữ Cope và chữ Hy Lạp cổ.
Năm 1822, nhà ngôn ngữ học người Pháp – F.Champollion đã giải mã toàn
bộ chữ tượng hình Ai Cập.
Sự kiện trên cũng chính thức khai sinh ra ngành Ai Cập học (Egyptology). - KHOA HỌC TỰ NHIÊN
- Thiên Văn – lịch pháp

 Để nắm vững thời tiết lvà khai thác nguồn thủy lợi sông Nile phục vụ canh tác nên
ở Ai Cập sớm ra đời thiên văn học, lịch pháp.
 Từ rất sớm người Ai Cập đã dùng những dụng cụ thô sơ như sợi dây dọi, mảnh
ván có khe hở và ngồi trên nóc các đền miếu để quan sát bầu trời.
 Người Ai Cập sớm phát hiện ra các chòm sao và đã soạn ra bản đồ các thiên thể,
nó được vẽ lên các trần của những đền đài cổ.
 Họ biết nhiều hành tinh khác như: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Bản đò 12 cung
hoàng đạo có từ thời vương triều XIV.
 Từ thời Tảo và cổ vương quốc, người Ai Cập đã biết dựa vào mực nước sông Nile
để tính quy luật thời gian và phục vụ các nghi lễ tôn giáo.
 Việc xây dựng lịch gắn liền với việc quan sát sao Lang(Sirius) trên bầu trời. Theo
đó 1 năm có 365 ngày-khoảng cách giữa 2 lần sao Lang xuất hiện ở đường chân
trời. Tháng có 30 ngày, còn dư để vào cuối năm làm ngày lễ.
 Việc tính toán vị trí các ngôi sao trên trời và việc phát minh ra đồng hồ mặt trời,
đồng hồ nước là những thành tựu quan trọng thời Tân vương quốc. - Toán học
 Do nhu cầu của sản xuất nông nghiệp, xây dựng các công trình kiến trúc, tính
toán…là những nguyên nhân thúc đẩy toán học ra đời.
 Những quan niệm về số học xuất hiện từ thiên niên kỉ thứ III TCN.Đến đầu thiên
niên kỉ thứ II thì người Ai Cập đã phát triển thành công hệ số đếm của mình.
 Họ đã biết dùng hệ đếm thập phân, biết làm các phép cộng và trừ, còn nhân và
chia thì thực hiện bằng cách cộng và trừ nhiều lần. Họ có thể giải được phương trình bậc nhất.
 Về hình học, họ biết tính diện tích tam giác, tứ giác và biết rằng bình phương của
cạnh huyền bằng tổng bình phương của 2 cạnh trong tam giác vuông.
 Họ còn tính được số Pi=3.16. - Y học
 Do tục ướp xác thịnh hành nên họ hiểu biết khá sớm về cơ thể con người và khá
nổi tiếng với các nước láng giềng: Vua Ba Tư đã xin vua Ai Cập thầy thuốc chữa
mắt, Hêrôđốt rất khâm phục con số đông đảo và trình độ chuyên môn cao của
người Ai Cập về: răng, đầu, mắt, bụng và bệnh nội thương. Đặc biệt họ sống rất
sạch sẽ và “ là người mạnh khỏe nhất”.
 Người Ai Cập biết rằng nguyên nhân của bệnh tật không phải do ma quỷ hay phù
thủy gây ra mà do sự không bình thường của mạch máu. Họ cũng nhận thức về óc
và tim là 2 bộ phận quan trọng của cơ thể.
Câu 3: Thành tựu văn minh Ấn Độ - VĂN HỌC
Văn học Ấn Độ có 3 điểm cần lưu ý như sau:
 Tôn giáo: Tập trung trong kinh Vêda ( sau thành bộ kinh của đạo Bà la môn),tam
tạng kinh điển(Phật giáo).  Sử thi:
 Sử thi Mahabharata là bản trường ca gần110.000 khổ thơ (220.000 câu) nói ivy
cuộc đấu tranh trong nội bộ của một dòng họ đế vương ở miền Bắc Ấn Độ.
 Được coi là 1 bộ “bách khoa toàn thư” của Ấn Độ, Ramayana dài 48.000 câu thơ,
là thiên tình sử đầy trắc trở giữa hoàng tử Rama tuấn tú và conga chúa kiều diếm Sita  Thơ:
 Caliđaxa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta(thế kỉ V). Tác phẩm tiêu
biểu nhất của ông là vở kịch Sơcuntla. Là một nhà soạn nhạc cung đìnhanhr
hưởng của đạo Bàlamôn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư
tưởng tự do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả dối lừa gạt, không
chung thủy của giai cấp thống trị và trên chừng mực nhất định đã chống lại quan niệm về đẳng cấp.
 Sơcuntla và Caliđaxa là niềm tự hào của nhân dân Ấn Độ. - CHỮ VIẾT
-
Khoảng 3500 năm TCN, ở nền văn minh sông Ấn đã có chữ viết riêng của mình,
người ta thường gọi đó là chữ hình dấu( hình chữ nhật, vuông, tam giác, thoi).
- Chữ viết đầu tiên ở Ấn được sáng tạo từ thời văn hóa Harappa. Tại các di chỉ
thuộc nền văn minh sông Ấn đã phát hiện hơn 3.000 con dấu khắc chữ đồ họa.
- Đến nay, chữ hình dấu vẫn chưa được giải mã. Mãi đến cách đây vài chục năm,
một nhà khảo cổ học Ấn là tiến sĩ S.R.Rao đã khám phá được sự bí ẩn của loại chữ
này. Theo ông, đây là loại chữ dùng hình vẽ để ghi âm và ghi vần, trong số 3.000
con dấu đó có 22 dấu cơ bản, chủ yếu viết từ phải sang trái.
- Ở phía Bắc của nền văn minh sông Hằng, khoảng năm 500 TCN đã có chữ viết là
chữ Kharosthi và chữ Brathmi( các văn bia của Asoka đều viết bằng loại chữ này).
- Cả hai chữ viết đều có nguồn gốc từ chữ viết của người Lưỡng Hà cổ đại, được
dùng trong triều đình với các bản báo cáo về thuế khóa, tình hình đất nước hoặc sự
kiện trọng đại trong mỗi vương triều.
- Khi đạo Hinđu phát triển cực thịnh với thời kì Bàlamôn, tôn giáo này đã sáng tạo 1
thể loại chữ viết mới( chữ Sanscrit-chữ Phạn) có hệ thống ngữ pháp phức tạp
thường ko có quy tắc, vì vậy nó đã được cải tiến và chỉnh sửa rất nhiều lần.
- Chữ Phạn Là chữ viết rất quan trọng của nền văn minh sông Ấn, nó lưu giữ toàn
bộ các bộ kinh Vêđa, bộ luật kinh Upanisad…kể cả 2 tác phẩm văn học rất nổi tiếng của Ấn.
- Đạo Phật ra đời đã sử dụng chữ Pali để ghi lại kinh kệ nhà Phật.
- Ấn Độ là 1 trong những quốc gia có hệ thống chữ viết phức tạp nhất trên Thế Giới
(Ấn Độ có 5 chữ viết được coi là chữ quốc gia trong đó có tiếng Anh).
- KHOA HỌC TỰ NHIÊN Thiên văn
Người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi
tháng có 30 ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận. Toán học
Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta
quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi
toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã
mà sử dụng số Arập trong toán học). Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu
biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác, Pi = 3,1416. Vật lí
Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông
thái ở Ấn Độ đã viết “Trái đất do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”. Y học
Y học cũng khá phát triển. Người Ấn Độ cổ đại đã mô tả các dây gân, cách chắp
ghép xương sọ, cắt màng mắt, theo dõi quá trình phát triển của thai nhi. Họ để lại hai
quyển sách là “Y học toát yếu” và “Luận khảo về trị liệu”.
Câu 4: Văn học Trung Hoa
 Văn học Trung Quốc ra đời trước khi thống nhất các vương triều thường được gọi
là giai đoạn văn học tiền Tần mà mốc khởi đầu là kinh thi.
 Kinh thi là tập thơ cổ nhất do nhiều tác giả sáng táct ừ đầu tời Xuân Thu đến giữa Tây Chu
 Kinh Thi hiện còn khoảng 305 bài được phân làm 3 loại: Phong, Nhã, Tụng, trong
đó Phong chiếm số lượng nhiều nhất và có giá trị nhất.
 Kinh thi phản ánh 1 cách chân thực và sinh động đời sống xã hội Trung Quocowr thời đại đó.
 Ngoài kinh thi còn có phú thời Hán, thơ Đường, kịch thời Nguyên và tiểu thuyết thời Minh Thanh.
Câu 4: Thành tựu văn minh Hy Lạp
Nguyên nhân thành tựu:
2.1. Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp phát triển khá hoàn hão. Nó đã mở ra một sự phân
công trong xã hội tạo sự cách biệt giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Nô lệ đảm
đương tất cả mọi việc. Trí thức, quý tộc, chủ nô thoát ly lao động, có thì giờ và điều kiện
để nghiên cứu triết học, khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật.
2.2. Trước khi có văn học viết nhân dân Hy Lạp đã có một pho thần thoại phong phú,
hoặc để giải thích những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người, hoặc để nói lên
khát vọng của những con người Cổ đại, hay để ca ngợi thành quả lao động của những người anh hùng...
2.3. Cùng với sự phát triển của chế độ tư hữu trong thời kỳ chế độ nô lệ hình thành vai trò
của cá nhân trong xã hội cũng được đề cao, vì thế thơ ca trữ tình xuất hiện. Loại thơ ca
này nhằm biểu hiện một tình cảm thuần túy bên trong mỗi cá nhân, hoặc nói lên cảm nghĩ
của nhà thơ về một đối tượng nào đó.
2.4. Người Hy Lạp hàng năm có tục tế thần Dyonisos vào mùa xuân. Quần chúng tham
gia đông đảo, hóa trang nhảy múa đủ các kiểu, dần dần phát triển thành loại hình ca kịch.
2.5. Truyền thống hùng biện đã có từ lâu ở người Hy Lạp, nay được phát triển thành loại hình văn xuôi hùng biện.
2.6. Vai trò của thần quyền ở Hy Lạp không quan trọng. Ðiều đó góp phần giải phóng
trong chừng mực nào đó sự phát triển của văn học, khoa học và triết học khỏi những ràng
buộc tôn giáo và những tư tưởng duy tâm thần bí.
2.7. Cần chú ý rằng nền văn học Cổ đại Hy Lạp cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của các nền
văn minh lâu đời ở các quốc gia phương đông Cổ đại. Người Hy Lạp đã biết học tập tiếp
thu tinh hoa của những người đi trước và biết phát huy nhũng tinh hoa đó thành một nền
văn học phong phú và đầy tính sáng tạo.
Những thành tựu cơ bản của nền văn minh Hy Lạp * Chữ viết:
Về chữ viết, người Hy Lạp cổ đại đã dựa trên hệ thống chữ viết của người Phênixi
(Phoenicia) rồi cải tiến, bổ xung thành một hệ thống chữ cái mới gồm 24 chữ cái. Từ chữ
Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ Latinh và chữ Slavơ. Đó là cơ sở chữ viết mà
nhiều dân tộc trênthế giới ngày nay đang sử dụng. * Văn học:
Từ khi có bút tích văn học đến khi Hi Lạp trở thành chư hầu, rồi nhập vào địa phận của
La Mã, văn học Hi Lạp chia ra 3 thời kì lớn.
1.Thời kì thứ nhất (thời thượng cổ), bắt đầu từ khi có những bút tích văn học đầu tiên
đến thế kỷ V trước công nguyên .
2.Thời kỳ cổ điển (còn gọi Atich) từ chiến tranh Ba Tư - Hi Lạp đến thế kỷ II tr. CN .
3.Thời kỳ chủ nghĩa Helen (hoặc Alexandre) có một nền văn chương thần thoại phong
phú vào bậc nhất thế giới .Từ những chất liệu thần thoại đẹp đẽ giàu giá trị nhân văn, triết
lý này, những ca sĩ dân gian đã sáng tác những bài ca bất tử về các vị thần, các anh hùng
thành bang. Những bài ca ấy lại được Homer kế thừa để sáng tạo nên hai thiên anh hùng
ca (sử thi) vĩ đại Illiade và Odyssee . Sau Homer, nhiều nhà thơ sáng tác về các truyền
thuyết thành Troie và thành Thebes, thơ giáo huấn của Hesiode... nhưng ít có giá trị. Văn
học Hy Lạp cổ đại có thể chia ra làm ba bộ phận chủ yếu có liên quan với nhau, đó là thần thoại, kịch, thơ.
- Người Hy Lạp có một hệ thống thần thoại rất phong phú để mô tả thế giới tự nhiên, nói
lên kinh nghiệm cuộc sống và cả tâm tư sâu kín của con người. Hầu như trong cuộc sống
thời đó có việc gì thì đều có thần bảo trợ, lo về công việc đó. Kho tàng thần thoại Hy Lạp
mãi tới ngày nay còn được nhiều môn nghệ thuật ở các nước trên thế giới khai thác. Đây
là một dân tộc có một kho tàng thần thoại mà nhiều dân tộc lớn trên thế giới phải ghen tị.
Khoa học tự nhiên (mở rộng giá trị ngày nay) Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến
cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Ơclit
(Euclide), Pitago (Pythagoras), Talét (Thales), Acsimet (Archimede), ....
Toán học, Vật lý, Thiên văn học:
Talet: Phát minh quan trọng nhất của Ông là tỷ lệ thức nhờ sáng tạo ra tỷ lệ thức mà ông
có thể đo chiều cao của Kim Tự Tháp thông qua đo bóng của chúng, Ông còn là một nhà
thiên văn học vĩ đại khi tính đúng ngày xảy ra nhật thực vào năm 585 TCN.
Pytago: tiếp thu thành tựu toán học phương Đông ông đã sáng tạo ra định lý mang tên
mình về mối quan hệ giữa 2 cạnh góc vuông và cạnh huyền trong tam giác vuông. Ông
còn phân biệt các loại số chẳn, lẻ, và số không chia hết. Về thiên văn học Ông đã nhận
định được trái đất hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo nhất định.
Ơ clit: Tổng kết thành tựu của các nhà toán học đi trước ông tổng hợp thành sách Toán
học sơ đẳng là cơ sở của môn hình học trong đó có tiên đề Ơclit nổi tiếng.
Acsimet: Ông đã tính ra số Pi chính xác nhất trong lịch sử phương Tây (nằm giữa 3 và
3).Ông tính được diện tích toàn phần và thể tích của nhiều hình khối. Trong lĩnh vực vật
lý ông có 2 phát minh quan trọng đó là về nguyên lý đòn bẩy và lực đẩyAcsimet.
Với nguyên lý đòn bẩy người ta có thể dùng một lực nhỏ để nâng một vật nặng thông qua
hệ thống đòn bẩy, điều này tạo điều kiện cho sự phát triển của xây dựng các công trình
lớn, giảm hao phí lao động...nguyên lý này còn đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật
quân sự, ông chế tạo ra máy ném đá Để đánh quân La Mã, máy phóng gỗ để bắn thuyền
quân địch, gương 6 mặt để đốt thuyền... Lực đẩy Acsimet: mọi vật khi ở dưới nước đều
chịu một lực bằng đúng trọng lượng của nó, từ đây ông phát minh ra máy hút nước ra
khỏi thuyền khi thuyền bị thủng...
Arixtac: Ông là người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời, ông tính toán khá chính
xác thể tích mặt trời, mặt trăng và quả đất, tính toán khoảng cách giữa chúng...Ông cho
rằng trái đất quay quanh mặt trời.
Ptolome: là một nhà Thiên văn học, toán học, địa lý thiên tài, ông đúc kết các kiến thức
về thiên văn học và soạn ra sách Tổng hợp kết cấu toán học, trong đó ông cho rằng trái
đất hình cầu và mặt trời quay xung quanh trái đất. Ông còn soạn sách Địa lý học gồm 8
chương về các vùng của thế giới, bản đồ này được xem là chính xác nhất thời bấy giờ.
Y học: Hipocrat người cho rằng bệnh tật phải dùng thuốc và mổ xẻ để chữa bệnh, mở
đường cho y học phát triển, giải phóng y học khỏi mê tín dị đoan. Nhà giải phẫu học
Hecropin đã chứng minh rằng não là khí quan tư duy, cảm giác do hệ thần kinh truyền
đạt, xem mạch để chuẩn đón bệnh...Nhà phẫu thuật Heerraclit đã biết dùng thuốc mê khi phẫu thuật bệnh nhân. Câu 5: Phật giáo
- Bối cảnh hình thành: Xã hội:
 Khoảng giữa thiên niên kỉ thứ I TCN, từ những công xã cổ xưa đã hình thành hàng
loạt những tiểu quốc hai bên bờ sông Hằng.
 Các vương quốc này luôn mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính lẫn nhau.
 Các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên làm tình hình chính trị bất ổn, tâm lí dân chúng bất an.
 Mâu thuẫn giữa đẳng cấp tăng lữ và quý tộc: sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ.
+ Tăng lữ(Brahman): Thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần, vơ vét tài
sản, bắt dân chúng nộp thuế cao và nghĩa vụ khác.
+ Quý tộc(ksatria): bảo vệ và trực tiếp cai trị đất nước, là người giữ vai trò
quyết định trong chiến tranh nhưng địa vị lãnh đạo lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp tăng lữ.
+ Dân thường(Vaisya): Cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa
nhưng thuế không giảm và những áp lực của tôn giáo đè nặng.
+ Nô lệ-kẻ thấp hèn(Soudra): Có 1 số dân thường bị phá sản trở thành nô lệ, 1
số phải đi ăn xin.Họ chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lí chán nản tuyệt vọng.
Vì thế, chế độ đẳng cấp trở thành nỗi bức xúc lớn trong xã hội lúc bấy giờ. Kinh tế:
 Công cụ kim loại đồng thau và sau đó là đồ sắt đã làm thay đổi bản chất của sản xuất.
 Nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày càng mở rộng làm xuất hiện tầng lớp
thương nhân. Họ là tầng lớp có tiềm lực về kinh tế, nên muốn thay đổi địa vị
trong hệ thống đẳng cấp. tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng cấp nào
và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp Soudra. Tôn giáo:
 Cuộc sống cực khổ càng làm người dân lao động thêm căm ghét kẻ bóc lột mình,
oán ghét chế độ đẳng cấp (Varna), không còn tin vào các vị thần Bàlamôn.
 Những nghi lễ phức tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lí ngày càng khó hiểu
làm cho người dân ngàycàng xa rời tôn giáo này.
 Trong bối cảnh đó, vào thế kỉ VI TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái
tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh thực tại ( khổ hạnh, ép xác, tieu cực, tự
kỉ-Jain) nhưng có 1 điểm chung là: trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn
và chế đọ đẳng cấp. Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem
là 1 phản đề của đạo Bàlamôn.
- Quá trình truyền bá của Phật Giáo:
Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, vào thời điểm rất hưng thịnh
của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Với giáo lý đề cao lòng từ bi của con người với
đồng loại, chống lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng chinh
phục được đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao động nên
sau khi ra đời đạo Phật nhanh chóng được truyền bá ở miến Bắc Ấn Độ.
Từ thế kỷ V trước công nguyên đến thế kỷ V sau công nguyên là quá trình truyền bá và
phát triển đạo Phật, từ khi Đức Phật viên tịch cho đến khi đạo Phật không còn phổ biến ở
Ấn Độ. Quá trình đó trải qua 4 hội nghị kết tập :
Hội nghị kết tập lần 1
Ngay sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, để tránh sự sai biệt, bảo tồn các giáo pháp và luật
lệ cho được toàn vẹn. Được tổ chức tại Vương xá thuộc Magada vào thế kỷ V Trước
công nguyên . Có 500 đại biểu tham dự, kéo dài trong 7 tháng. Kết thúc hội nghị hình
thành bộ Kinh tạng và Luật tạng.
Nội dung thống nhất được 2 phần:
Pháp: gồm những lời thuyết giáo của Phật được nhớ lại theo ký ức của các đệ tử lúc bấy giờ.
Luật: là quy chế của hội Phật giáo do Đại hội thảo ra.
Hội nghị kết hợp tập lần 2
Sau 100 năm có nhiều người muốn thay đổi một số điều chi tiết trong giới luật.
Diễn ra vào khoảng thế kỷ IV Trước công nguyên với 700 tăng ni tham dự, diễn ra trong 8 tháng.
Trong Đại hội này, một số tỳ kheo khác lại chủ trương canh tân, đưa ra 10 điều luật mới
sửa lại luật, họ bị Đại hội trục xuất nên đã thành lập một phái riêng gọi là Đại chúng bộ,
là mầm móng của phái Đại thừa sau này.
Hội nghị kết tập lần 3
Diễn ra vào khoảng thế kỉ III Trước công nguyên với 1000 tăng ni tham dự trong 9 tháng.
Hội nghị thảo luận và hình thành phần Luận tạng. Với sự giúp đỡ của vua Asoka, nhiệm
vụ chính là chấn chỉnh lại tổ chức và giáo lý của giáo hội, đồng thời đặt ra kinh kệ và các
nghi thức . Asoka cho xây dựng nhiều chùa tháp, thành lập nhiều tăng đoàn, khuyến
khích việc truyền bá đạo Phật đến nhiều vùng đất trên báo đảo Ấn Độ và một số quốc gia
khác (Sri Lanka, Mianma,...) Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo, đã thống nhất được
Tam Tạng Kinh. Tuy nhiên sau khi vương quốc Magada tan rã, đạo Phật cũng suy yếu dần.
Hội nghị kết tập lần 4
Diễn ra vào thế kỷ I SCN với sự giúp đỡ của vua Kanisca với 500 tăng ni tham dự ở Casmia.
Thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách và phái Phật giáo này được gọi là phái Đại thừa
để phân biệt với phái Phật giáo cũ (gọi là phái Tiểu Thừa). Phái Tiểu thừa nghĩa là “cỗ xe
nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp”, cho rằng những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt.
Quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh, gắn với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền
não khổ đau, không còn nhân quả luân hồi, cũng tức là hư vô. Phật Thích Ca là người đầu
tiên đạt đến cảnh giới Niết bàn lúc 35 tuổi. Phái Đại Thừa nghĩa là “cỗ xe lớn” hoặc “con
đường cứu vớt rộng”, cho rằng không chỉ những tu hành mà cả những người quy y cũng
được cứu vớt. Quan niệm Niết bàn như thiên đường, tức là vương quốc của các vị Phật,
cũng tức là nơi Cực lạc.
Đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.
- Nội dung cơ bản của Phật Giáo:
Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi(Samsara) và nghiệp(Karma) của Upanisad: mọi vật
mất đi ở chỗ này để sinh ra ở chỗ khác, quá trình thác sinh luân hồi đó do nghiệp chi phối theo nhân quả.
Về Thế Giới quan: nội dung cơ bản là thuyết duyên khởi ( chư pháp do nhân
duyên nhi khởi) nghĩa là các pháp đều do nhân duyên mà ra. Pháp là quy luật phát
triển của sự vật, đồng thời cũng là bản thân sự vật. Mọi vật có liên quan mật thiết
với nhau, không có một thực thể nào tồn tại riêng biệt.
Về mặt xã hội: Phật giáo không thừa nhận có chế độ đẳng cấp vì nguồn gốc xuất
thân của mỗi người không phải là điều kiện cản trở cứu vớt.
Tư tưởng Phật giáo: nội dung tư tưởng “chỉ ra cái chân lí về nỗi khổ đau và sự
giải thoát nỗi khổ đau”
Thuyết “Tứ Diệu đế”: Chỉ ra nguyên nhân của nỗi khổ và con đường giải thoát
nỗi khổ để đi đúng đường.
- Nguyên nhân Phật Giáo được chấp nhận ở Ấn Độ
Vì học thuyết Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên được
quần chúng hoan nghênh. Giai cấp cầm quyền cũng nhận thấy đạo Phật không có gì làm
hại đến quyền lợi của mình và cũng không hài lòng với địa vị được ưu đãi của những
người Bàlamôn nên họ cũng ủng hộ đạo Phật.
Nguyên nhân Phật giáo được chấp nhận ở Ấn Độ
Giai cấp cầm quyền cho rằng Phật giáo không làm tổn hại đến lợi ích của họ, đồng thời
cũng không hài lòng với địa vị ưu đãi của những người theo đạo Bàlamôn nên họ ủng hộ đạo Phật.
Học thuyết Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên được quần chúng hoan nghênh.
- Nguyên nhân suy yếu Đạo Phật ở Ấn Độ:
Sau những thế kỉ rất thịnh đạt trong khoảng 1000 năm, từ triều đại GUPTA (TK 5 sau
TC) đạo Phật có biểu hiện suy thoái, đó là không thống nhất về học thuyết và tổ chức.
Chỉ phát triển trong thành phố, những nơi hẻo lánh theo Phật giáo không nhiều. Trong khi
đó Hindu đã có từ rất lâu, bám rễ chặt cả ở nông thôn, còn Phật giáo đã yếu ở thành phố là suy yếu hẳn.
Trong 3 thế kỷ,Vaisya cảm thấy không có lợi gì, không phải là chỗ dựa, thay đổi xã hội.
Đạo Bàlamôn - Hindu bớt khắt khe, nới lỏng đồng thời kế thừa một số ưu điểm của Phật
giáo nên dần thu hút dân chúng. Đạo Phật được một số vua cho là quốc giáo nhưng mang
tính chất áp đặt nên khi nhà vua chết, đạo Phật cũng dần mất vị trí. Giáo lý ngày càng trở
nên uyên thâm, khó hiểu và xa lạ đối với quần chúng, nên khi đã suy yếu thì không còn
cơ hội quay trở lại đời sống tinh thần. Câu 6: Thiên Chúa Bối cảnh ra đời
Cơ sở kinh tế - xã hội : Năm 63 Trước công nguyên , tại Palestin nơi người Do Thái
sống xảy ra một cuộc nội chiến. Một trong những bên tham chiến đã cầu viện La Mã .
Pompei - một trong ba nhân vật trong chế độ tam hùng lần thứ nhất trong lịch sử La Mã
đem quân chinh phục vùng đất này, trực tiếp cai trị hoặc chỉ định hoàng tử Palestin cai trị
theo chủ trương, quyền lợi của người La Mã .
Nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công đều phải gánh chịu cuộc sống cực khổ, bất công, bị áp
bức, cuộc sống không lối thoát.
Vì thế, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống lại sự thống trị, bóc lột của nhà nước - chủ
nô La Mã đặc biệt là người Zealot, nhưng đều bị đàn áp hết sức dã man. Khối quần chúng
nhất là nô lệ, dân nghèo nảy sinh tâm lý bi quan, chán nản, tuyệt vọng, mất niềm tin vào
tự do, hạnh phúc trong cuộc sống hiện thực. Họ tìm lối thoát trong ảo tưởng về tôn giáo,
trông chờ vào sự cứu giúp của một lực lượng siêu nhiên có thể giúp họ thoát khỏi ách
thống trị, xây dựng một vương quốc công bằng, bình đẳng. Do vậy, Kitô giáo trở thành
tôn giáo của những người bị áp bức.
Cơ sở tư tưởng, tôn giáo :
Hình thành dựa trên thần thoại
của các tôn giáo cổ phương Đông. Tổ tiên của người
Do thái là người Hebre, một tộc người sống du mục. Khoảng giữa thế kỷ XIII Trước
công nguyên, dưới sự dẫn dắt của Moises, người Do Thái đã từ Ai Cập trở về Palestin và
lập nên quốc gia Do Thái. Kể từ đó, người Do Thái đi theo một tôn giáo nhất thần - thờ vị
thần duy nhất là Chúa Giêhôva . Họ tin rằng dân tộc Do thái là dân được Chúa trọn, Chúa
chỉ nói chuyện với người Do Thái thông qua Sứ giả là Moises.
Năm 586, quốc gia Do thái bị Tân Babilon cai trị, nền độc lập của quốc gia này đã không
còn tồn tại trong thời gian dài. Trong bối cảnh như vậy, các nhà tiên tri Do Thái giáo đã
dự đoán rằng sẽ có một vị Chúa Cứu Thế sắp xuống trần gian để cứu vớt loài người, tiêu
diệt kẻ xấu, giải thoát những đau khổ, kiếp nô lệ của con người.
Về tư tưởng triết học: Từ giữa thế kỷ I Trước công nguyên trở đi, nhà nước La Mã
chuyển dần từ hưng thịnh sang suy thoái. Giai cấp chủ nô muốn lợi dụng tôn giáo để duy
trì trật tự xã hội. Do vậy triết học La Mã chuyển dần sang duy tâm luận, quay về với
trường phái triết học khắc kỷ - Stoicism đựoc hinh thành ở Hy Lạp khoảng cuối thế kỷ
IV Trước công nguyên. Tiêu biểu cho trường phái này ở La Mã là các tư tưởng của Seneque và Philo.
Seneque : ông muốn thiết lập một hệ thống luân lý dựa trên nguyên tắc khiêm nhường và nhẫn nhục.
Philo: cho rằng thế giới vật chất, con người là can nguyên của tội lỗi, thể xác là ngục thất của linh hồn.
Quá trình truyền bá và phát triển
Giai đoạn 1: Kitô giáo bị đàn áp rất khốc liệt, chỉ có một bộ phận tín đồ ở Palestine
tham gia. Sau cái chết của Chúa Jesus, các tông đồ đã bắt đầu đem giáo lý của ngài
truyền bá ra ngoài Palestine. Năm 62, thánh Paulo sang Roma để truyền đạo thì thấy ở
đây đã có nhiều tín đồ Kitô giáo.
Ban đầu giới cầm quyền La Mã giữ thái độ khoan dung đối với Kitô giáo. Nhưng Chúa
Jesus cho rằng đế quốc La Mã là một "mụ đàn bà đầy tội lỗi – tức lên án tầng lớp giàu có,
thống trị và đế quốc La Mã sẽ sớm bị diệt vong", tín đồ Kitô giáo sẽ được sống trong
vương quốc của Chúa. Đây chính là những yếu tố mới phủ nhận sự tồn tại của chế độ và
nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã. Điều đó khiến giới cầm quyền và quý tộc căm ghét
Kito giáo, cho rằng tín đồ Kitô là lũ phiến loạn và tiến hành đàn áp khốc liệt, đẫm máu
nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông. Cho dù càng đàn áp thì Kitô
giáo vẫn càng phát triển.
Nguyên nhân : Chế độ chiếm hữu nô lệ càng phát triển thì sự phân hoá giai cấp trong xã
hội càng sâu sắc, sự bần cùng hoá, áp bức, đàn áp, bóc lột càng tăng lên. Kitô là tôn giáo
duy nhất mà giới lao động và những người nghèo khổ có thể tìm thấy được con đường giải phóng.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất
tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Họ giúp người lao động, người nghèo
tìm công ăn việc làm. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội. Cuộc
vận động Kito giáo trong buổi đầu mang một ý nghĩa xả hội rất tích cực: Đó là cuộc vận
động của dân nghèo chống chế độ áp bức.
Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho
Chúa trời” tức không dính dáng đến chính trị. Sau hơn 200 năm truyền bá, Kitô giáo đã
tạo được một thế lực hết sức chặt chẽ, chủ yếu tại các thành phố lớn . Trước sự phát triển
này và đàn áp mãi không được, giới cầm quyền La Mã quyết định “sống chung” , thay
đổi chính sách đối với Kito giáo.
Giai đoạn 2: Năm 311, Hoàng đế Galerius đình chỉ việc sát hại các tín đồ Kitô giáo. Năm
313, Hoàng đế Constantin xác định địa vị hợp pháp của giáo hội Kitô, nâng Kitô giáo lên
địa vị quốc giáo. Năm 325, Hoàng đế Constantin ra lệnh triệu tập Đại hội Kitô giáo lần
thứ nhất tại Nicée. Đại hội đã giải quyết được 2 vấn đề lớn:
Thống nhất lại cuối cùng nội dung của Kinh thánh : Chọn ra 4 phần tương đối trùng
khớp, ít mâu thuẫn, loại bỏ bớt yếu tố mê tín dị đoan, thống nhất rồi đưa vào Tân ước
Chấn chỉnh tổ chức giáo hội.
Sau đại hội này, Kitô giáo trở thành một bộ phận trong bộ máy của giai cấp thống trị La Mã
Năm 337, Constantin là hoàng đế La Mã đầu tiên theo Kitô giáo. Các quan lại đua nhau
theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được
truyền bá rộng khắp ra các tầng lớp xã hội quanh Địa Trung Hải. Đến giai đoạn này, tính
chất tiến bộ ban đầu của Kito giáo không còn nữa, các giáo sĩ dần dần trở thành các quan
lại của nhà nước, giáo hội trở thành công cụ trong tay giai cấp thống trị. Do bất đồng
trong sự giải thích thuyết “tam vị nhất thể” và cả việc đụng chạm nhau về khu vực truyền
đạo nên đến năm 1054, giáo hội Kitô ở La Mã đã bị chia làm hai : giáo hội Thiên chúa
và giáo hội Chính thống
Về ý nghĩa lịch sử, Kitô giáo ra đời là biểu hiện phong trào phản kháng của đông đảo
quần chúng bị áp búc sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong xã hội. Trải qua bao
thăng trầm lịch sử, Kitô giáo từ chỗ là tôn giáo của những người nghèo, chống lại chính
quyền cai trị, đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất của chính quyền
Rôma và là một bộ phận của chính quyền thống trị La Mã. Kito giáo ra đời là một sự kiện
lịch sử rất lớn lao vì sau này nó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội và tư tưởng của người Châu Âu.