



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61463864
Bài Tập Môn Triết Học
Câu 1: Vấn đề cơ bản của triết học.
- Vấn đề cơ bản của triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm
và vật, giữa ý thức và vật chất. Nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó
sẽ quyết định cơ sở để giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều
đó đã được chứng minh trong lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp của
triết học, mặt khác nó cũng là tiêu chuẩn để xác lập trường thế giới quan
của các triết gia và học thuyết của họ. Ăngghen cũng đã trả lời cho câu
hỏi “Vấn đề cơ bản của triết học là gì?”. Theo ông: “Vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa
tư duy và tồn tại”. Vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất
phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: 1.
Mặt thứ nhất, giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau?Cái
nào quyết định cái nào? 2.
Mặt thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới haykhông?
Việc giải hai mặt cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các trường phái triết học.
1. Ta có thể giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học dựa trên 3 cách sau:
. Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định đến ý thức
. Ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định đến vật chất
. Ý thức và vật chất tồn tại độc lập với nhau, không quyết định lẫn nhau
- Vấn đề cơ bản của triết học đã xuất hiện nhất nguyên luận khi lấy việc
thừa nhận chỉ một trong hai thực thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước
và quyết định cái kia, nghĩa là cho rằng thế giới chỉ có một nguồn gốc
duy nhất. Nhất nguyên luận bao gồm nhất nguyên luận duy tâm (chủ
nghĩa duy tâm, triết học duy tâm) và nhất nguyên luận duy vật (chủ nghĩa
duy vật, triết học duy vật).Chủ nghĩa duy tâm là trường phái triết học
xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới là ý thức, ý thức là tính thứ
nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có trước và quyết định vật chất. Chủ lOMoAR cPSD| 61463864
nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là sự xem
xét phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào
đó của quá trình nhận thức, đồng thời thường gắn với lợi ích của các giai
cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động.
- Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng thường có mối liên hệ mật
thiết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Chủ nghĩa duy tâm có hai
hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm
khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý
thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những
cảm giác của cá nhân. Đại biểu là Gióocgiơ Béccli ông là nhà triết học
duy tâm chủ quan, vị linh mục người Anh. Triết học của ông chứa đầy tư
tưởng thần bí, đối lập với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần. Ông
dựa vào quan điểm của các nhà duy danh luận thời trung cổ để khẳng
định rằng, khái niệm về vật chất không tồn tại khách quan, mà chỉ tồn tại
những vật thể cụ thể, riêng rẽ; sự tranh cãi về khái niệm vật chất là hoàn
toàn vô ích, khái niệm đó chỉ là cái tên gọi thuần tuý mà thôi.
Vậy đối với triết học Béccli thì các vật thể cụ thể cảm tính được hiểu như thế
nào? Với tính cách một nhà triết học duy tâm chủ quan, ông đưa ra một mệnh
đề triết học nổi tiếng “vật thể trong thế giới quanh ta là sự phức hợp của các
cảm giác”. Thí dụ, cái bàn, đó không phải là một vật thể hữu hình mà chỉ là
do mắt ta nhìn thấy nó có hình khối; màu sắc, hương vị của hoa quả cũng
chỉ do cảm giác của con người nhận biết. Chúng không tồn tại thật.
Nói tóm lại, theo Béccli, mọi vật thể chỉ tồn tại trong chừng mực mà người
ta cảm biết được chúng. Ông tuyên bố: tồn tại có nghĩa là được cảm biết.
Như vậy chủ nghĩa duy tâm chủ quan cuối cùng đã đưa triết học của Béccli
đến chủ nghĩa duy ngã, đến chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan, tồn tại
thật sự của sự vật, kể cả con người, chỉ loại trừ chủ thể đang nhận thức
(tức con người có cảm giác), loại trừ cái “tôi” mà thôi. Để cố gắng tránh
rơi vào chủ nghĩa duy ngã đầy phi lí, Béccli đã chuyển từ chủ nghĩa chủ
nghĩa duy tâm chủ quan sang chủ nghĩa duy tâm khách quan. Ông khẳng
định rằng: chủ thể nhận thức thì không phải chỉ có một, khi một vật nào
đó khi không còn nhận thức bởi một chủ thể này thì nó lại tiếp tục được
nhận thức bởi các chủ thể khác. Và thậm chí tất cả các chủ thể (con người)
không còn nữa thì vật thể vẫn tồn tại như là tổng số tư tưởng trong trí tuệ
Thượng đế. Và Thượng đế cũng là một chủ thể, nhưng tồn tại vĩnh cữu và
luôn luôn đưa vào trong ý thức những chủ thể riêng lẻ (con người) nội dung của cảm giác. lOMoAR cPSD| 61463864
- Về bản chất giai cấp, triết học Béccli là phản ánh hệ tư tưởng của giai
cấp tư sản đã giành được chính quyền, rất sợ tư tưởng tiến bộ, cách mạng.
Vì vậy không phải ngẫu nhiên trong triết học của mình, Béccli đã sử dụng
phép siêu hình, chủ nghĩa cơ giới để chống lại những tư tưởng tiến bộ
trong khoa học, như chống lại quan niệm của Niutơn về không gian như
bể chứa những vật thể trong tự nhiên; chống lại luận điểm của Lốccơ về
nguồn gốc của khái niệm vật chất và không gian. Do vậy, triết học của
Béccli là mẫu mực và là một trong những nguồn gốc của các lí thuyết
triết học tư sản duy tâm chủ quan cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan - thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần,
ý thức những tinh thần, ý thức ấy được quan niệm là tinh thần khách
quan, ý thức khách quan có trước và và tồn tại độc lập với giới tự nhiên
và con người. Thực thể tinh thần, ý thức khách quan này thường được
mang các tên gọi khác nhau như “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần
tuyệt đối”, “lí tính thế giới”. Đại biểu là Platôn (427- 347 TCN) ông là
nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học
duy tâm của Platôn là “học thuyết về ý niệm”. 2. Mặt thứ hai.
- Trong thuyết này, Platôn đưa ra quan điểm về hai thế giới: thế giới các
sự vật cảm biến là không chân thực, không đúng đắn, vì các sự vật không
ngừng sinh ra và mất đi, luôn luôn thay đổi, vận động, trong chúng không
có cái gì bền vững, ổn định, hoàn thiện. Còn thế giới ý niệm là thế giới
của cái phi cảm tính, phi vật thể, là thế giới của đúng đắn, chân thực sự
cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người, theo
Platôn không phải là phản ánh các sự vật cảm biến của thế giới khách
quan, mà là nhận thức về ý niệm. Thế ý niệm có trước thế giới các vật
cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Ví dụ: cái cây, con ngựa, nước sinh
ra. Hoặc khi nhìn các sự vật thấy là bằng nhau vì trong đầu ta đã có sẵn
ý về sự bằng nhau. Từ quan niệm trên, Platôn đưa ra khái niệm “tồn tại”
và không “tồn tại”. “Tồn tại” theo ông là cái phi vật chất, cái được nhận
biết bằng trí tuệ siêu nhiên, là cái có tính thứ nhất. Còn “không tồn tại”
là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Như vậy,
học thuyết về ý niệm và tồn tại của Platôn mang tính chất khách quan rõ
nét. Lí luận nhận thức của Platôn cũng có tính chất duy tâm. Theo ông
tri thức, là cái có trước sự vật cảm biết mà không phải là sự khái quát
kinh nghiệm trong quá trình nhận các sự vật đó. lOMoAR cPSD| 61463864
- Nhận thức cảm tính có sau nhận thức lý tính, vì linh hồn trước khi nhập
vào thể xác con người ở trần thế thì ở thế giới bên kia đã có sẵn các tri
thức. Do vậy nhận thức con người không phải phản ánh các sự vật của
thế giới khách quan, mà chỉ là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại của linh
hồn những cái đã lãng quên trong quá khứ. Platôn cho rằng, những ý
kiến xác thực được khơi dậy, được hồi tưởng lại nhờ các câu hỏi đối thoại
giữa loài người thì sẽ trở thành tri thức; Platôn gọi cách thức đối thoại
như vậy là phương pháp biện chứng.
- Ngược lại với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật là trường phái triết
học xuất phát từ quan điểm bản chất của thế giới là vật chất, vật chất là
tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định
ý thức. Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và
thực tiễn, thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong
lịch sử. Nó là kết quả của quá trình đúc kết khái quát kinh nghiệm đề vừa
phản ánh những thành tựu mà con người đã đạt được trong từng giai
đoạn lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ hoạt động
trên nền tảng của những thành tựu ấy. Chủ nghĩa duy vật là một hình
thức của thực hữu luận với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được
thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu
tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật
chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên
phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên
được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả
thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò một
học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên.
Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên
hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng,
chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm.
Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa duy vật đã trải qua 3 giai đoạn cơ bản:
chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật chất phác ra đời vào thời cổ đại ở Trung
Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật
thể hiện khá rõ ở các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Tuy những
quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình có tính chất kế thừa từ những
quan điểm của chủ nghĩa duy vật chất phác nhưng nó có sự phát triển hơn
do cơ học cổ điển thời kỳ này đạt được những thành tựu rực rỡ. Đến những
năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã ra đời mà C.Mác
và Ăngghen là những người xây dựng và Lênin là người hoàn thiện và bổ sung. lOMoAR cPSD| 61463864
- Ăngghen viết: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ,
nhưng căn bản là đúng ấy, là quan niệm của các nhà triết học Hy lạp thời
cổ, và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm ấy là Héraclite:
mọi vật đều tồn tại nhưng đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đều trôi
đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn ở trong quá trình
xuất hiện và biến đi”. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói
chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ chất phác vì chủ yếu dựa
vào quan sát trực tiếp, chưa dựa vào các thành tựu của các bộ môn khoa
học chuyên ngành vì lúc đó chưa phát triển. Tiêu biểu cho chủ nghĩa duy
vật cổ đại còn gọi là chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ là Đêmôcrít
(460 – 370 TCN). Ông là nhà Triết học duy vật cổ đại nhất trong thế giới
cổ đại. Ông là người hiểu biết sâu rộng rất nhiều lĩnh vực: Triết học, toán
học, đạo đức học, sinh vật học… là học trò và người kế tục phát triển
quan điểm của Lơxip. Nổi bật trong triết học duy vật của ông là học thuyết
về nguyên tử. Đêmôcrit cho rằng nguyên tử không nhìn thấy được, không
âm thanh, màu sắc và mùi vị. Chúng đồng nhất với nhau về chất nhưng
khác nhau về hình thức, thứ tự và tư thế. Ông quan niệm nguyên tử là vô
hạn về lượng và hình thức. Mỗi sự vật đều được cấu tạo bởi những nguyên
tử do sự kết hợp giữa chúng với nhau theo một trật tự và thế nhất định.
Sự biến đổi vật chất là do sự thay đổi trình tự sắp xếp của những nguyên
tử tạo thành còn bản thân nguyên tử thì không thay đổi. Nguyên tử luôn
vận động trong không gian ông thấy rõ quan hệ chặt chẽ giữa vật chất và
vận động. Vận động là vốn có của nguyên tử chứ không phải được đưa
từ ngoài vào. Nhưng ông chưa thấy được nguồn gốc của vận động và vận
động không chỉ là sự di chuyển trong chân không của các nguyên tử. Dựa
vào thuyết nguyên tử, Đêmôcrit thừa nhận sự ràng buộc lẫn nhau theo
quy luật nhân quả tính khách quan trong tính tất yếu của sự vật, hiện
tượng tự nhiên. Đó là đóng góp quan trọng của Đêmôcrit cho triết học
duy vật. Song ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên, ông coi ngẫu nhiên là
một hiện tượng không có nguyên nhân. Đêmôcrit bác bỏ quan nhiệm về
sự sản sinh ra sự sống và con người của thần thánh. Theo ông sự sống là
kết quả của quá trình biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh
vật đầu tiên sống ở dưới nước, sau đó chuyển lên cạn, cuối cùng con
người được ra đời. Ông coi cái chết là sự phân tích của các nguyên tử
tạo nên xác và của những nguyên tử cấu tạo lên tinh hồn chứ không phải
linh hồn rời khỏi thể xác. Tuy quan niệm của Đêmôcrit còn mang tính
mộc mạc song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống các quan
điểm duy tâm và tôn giáo về tính bất tử của linh hồn người.
- Đêmôcrit đã có công lao to lớn trong xây dựng lý luận nhận thức giải
quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm lOMoAR cPSD| 61463864
giác là điểm khởi đầu của nhận thức và tư duy trong việc nhận thức thế
giới. Hình thức cơ bản cuối cùng của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy
vật biện chứng đại biểu là Mác, Ăngghen, Lênin. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do Mác –
Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin phát
triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng
triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng, ngay
từ khi mới ra đời đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất
phác cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII – XVIII và nó đã thể hiện
được sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật khoa học và phương pháp nhận thức khoa học.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực
mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong xã hội
cải tạo hiện thực đó. Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những
thành tựu quan trọng nhất của tư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa
duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như đời sống xã hội
và tư duy con người. Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện
chứng và phương pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau.
Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện
chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả
năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng
duy vật không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là lý luận về thế giới
quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành
nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành
những nguyên tắc xuất phát điểm của phương pháp luận. Triết học Mác
– Lênin còn được coi là hệ thống các nguyên lý, phạm trù, quy luật cơ
bản của phép biện chứng và sự vận dụng nó trong việc nghiên cứu lịch
sử và nghiên cứu con người. Cho nên triết học Mác – Lênin còn được gọi
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nghiên cứu
triết học Mác – Lênin thực chất là việc khẳng định ý nghĩa bước ngoặt
cách mạng do Mác thực hiện trong lịch sử triết học và được Lênin bổ sung phát triển thêm.
- Triết học Mác – Lênin không chỉ giải thích về thế giới vật chất và vai trò
con người về mặt lí luận mà chủ yếu là sự vận dụng nó trong hoạt động
thực tiễn xã hội để khẳng định vai trò của triết học đối với đời sống xã
hội. Sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật Mác – Lênin
đã bao hàm sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
luận khoa học. Sự hình thành những quan điểm duy vật lịch sử của triết lOMoAR cPSD| 61463864
học Mác – Lênin được coi là cơ sở lí luận về mặt thế giới quan duy vật
và phương pháp luận khoa học để nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu con
người. Đó cũng là việc khẳng định sản xuất vật chất được coi là cơ sở
đối với sự tồn tại, vận động phát triển của xã hội, khẳng định con người
là chủ thể của lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là lực lượng
sáng tạo chân chính của lịch sử, đồng thời nhấn mạnh vai trò quyết định
tồn tại của xã hội, ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội. Triết học Mác – Lênin giải quyết mối quan hệ triết học và khoa học
hiện đại trên cơ sở nghiên cứu của triết học. Song, nó cũng là hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân thế giới, là cơ sở lí luận cho sự hoạt động của
đảng cộng sản trong quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân thế giới, và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, trong triết
học Mác - Lênin, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất hữu cơ
với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một
"công cụ nhận thức vĩ đại". Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối
quan hệ giữa triết học và khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều
kiện cho sự phát triển của triết học. Ngược lại, triết học Mác - Lênin đem
lại thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa học.
Trả lời mặt thứ nhất của “vấn đề cơ bản của triết học là gì” cũng đã xuất hiện
nhị nguyên luận khi lấy việc thừa nhận vật chất và ý thức là hai nguyên thể
song song tồn tại, không có cái nào trước, chúng là hai nguồn gốc tạo nên
thế giới, mà Đêcáctơ (1596-1650) là một nhà khoa học, đồng thời là một nhà
triết học lớn của Pháp và châu âu. Ông được đánh giá là một trong những
người sáng lập nên nền triết học của thời đại mới chống lại tôn giáo, chống
lại chủ nghĩa kinh viện và cũng xây dựng tư duy mới giúp cho việc nghiên
cứu khoa học-đề ra phương pháp mới trong vấn đề nhận thức: ”phương pháp
thực nghiệm”(emperism).
Câu 2: Định nghĩa vật chất của Lênin và ý nghĩa. I. Vật chất là gì?
-Vật chất được phản ánh với hình thức tồn tại cụ thể của nó. Dùng để chỉ
thực tại khách quan phản ánh qua cảm giác. Khi đó, vật chất mang đến hình thức
chứa đựng cụ thể và có dạng tồn tại hữu hình. Từ khái niệm này, có thể thấy được
với tính chất tồn tại được chứng minh. Từ đó, đánh giá được đưa ra dễ dàng với
các dạng tồn tại đó có được xác định là vật chất hay không. lOMoAR cPSD| 61463864
-Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác
ở con người. Con người thông qua cảm giác để đánh giá về sự tồn tại của vật
chất. Cũng như khẳng định được, phân biệt được giữa vật chất và ý thức. Hai
khái niệm này tách rời nhau, và mang đến các dạng tồn tại khác hoàn toàn. Khi
nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người. Vật chất là cái
được ý thức phản ánh bằng cảm giác thỏa mãn với khái niệm trên.
-Vật chất với tư cách là phạm trù triết học theo nghiên cứu. Là kết quả của sự
khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của
các sự vật, hiện tượng. Khi đó, hướng đến các giải thích cho sự tồn tại bên cạnh
ý nghĩa trong xác định. Nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh
ra, không mất đi. Vật chất có dạng tồn tại cố định hoặc không, nhưng được đảm
bảo cho cảm giác phản ánh.
-Định nghĩa vật chất được nêu trên của Lênin là kết quả của việc tổng kết từ
những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm, siêu
hình về phạm trù vật chất. Từ định nghĩa trên ta có thể nhận thấy có những
nội dung được đề cập như sau:
1. Thứ nhất: Vật chất là phạm trù triết học. Thông thường chúng ta nhắc đến
và hình dung về vật chất như một vật dụng, một tài sản của con người…
Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật chất của Lênin là kết quả của sự
khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có
của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận,
không sinh ra, không mất đi; do đó không thể đồng nhất vật chất với một
hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
2. Thứ hai: Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan. Vật chất tồn tại khách
quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức
của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là
tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Con người có nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
3. Thứ ba: Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác. Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở
con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con
người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất
là cái được ý thức phản ánh. lOMoAR cPSD| 61463864
- Phát hiện vật chất có trước và ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốckhách
quan của cảm giác, ý thức con người. Ý thức con người là sự phản ánh
của thực tại khách quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới.
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạmtrù
vật chất với sự phát hiện cật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức là nguồn gốc khách quan của cảm giác.
- Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm
về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác.
- Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của CNDV tầm thường
về vật chất, coi ý thức là một dạng vật chất.
- Định nghĩa vật chất của Lênin đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV
lịch sử thành một thể thống nhất (vật chất trong TN, vật chất trong xã hội
đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan)
Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin có những ý nghĩa sau:
+ Bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại
khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm
trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc
phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp
căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
+Với định nghĩa vật chất, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết
học đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức.
Đó là con người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép
lại, chụp lại, phản ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa
vật chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội.
Câu 3: Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vận động cách thức tồn tại, đồng
thời là hình thức tồn tại của vật chất; Không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
1. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. lOMoAR cPSD| 61463864
*Vận động: Với tư cách là một khái niệm triết học, vận động theo nghĩa
chung nhất là mọi sự biến đổi nói chung. Ăngghen định nghĩa: “Vận động
hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một phương thức tồn tại của
vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn
giản cho đến tư duy”
Những hình thức vận động cơ bản của vật chất.
- Theo quan niệm của Ăngghen: Vận động không chỉ thuần túy là sự thay
đổi vị trí trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn
ra trong vũ trụ”, vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là
một thuộc tính cố hữu của vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng
cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại cụ thể của mình; vận động của vật
chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vật
chất. Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân
chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật
lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội.
- Khác hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao
tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác
nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật
thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các
hình thức vận động thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động
thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức
vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi
hình thức vận động cao nhất mà nó có.
- Bằng việc phân loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở
cho việc phân loại, phân ngành, hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống
nhất nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là
cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đồng các hình thức vận động hoặc
quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
Vận động và đứng im .
- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đứng im là trạng thái
ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều
kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện
tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hoá của vật chất. lOMoAR cPSD| 61463864
• Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc
tính cố hữu của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng
định vận động là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật
biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; song đứng im, cân bằng
chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực chất đứng im, cân bằng
chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ
nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ
xảy ra trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các
hình thức vận động. Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn
tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một
hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những
quá trình biến đổi nhất định.
• Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:
- Dựa trên thành tựu của khoa học và thực tiến, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem
không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động.
- Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một
quảng tính nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với
những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là
không gian. Mặt khác, sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình
biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa,…những hình thức tồn
tại như vậy được gọi là thời gian.
- Ăngghen viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời
gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không
gian”. Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không
có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có không
gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động. Là những hình thức tồn tại
của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian, thời gian có những
tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan,
tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn. Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba
chiều còn thời gian chỉ có một chiều. Tính ba chiều của không gian và một
chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình
diễn biến của vật chất vận động.
• Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về không gian và thời
gian là cơ sở lý luận khoa học để đấu tranh chống lại quan niệm duy lOMoAR cPSD| 61463864
tâm, siêu hình tách rời không gian và thời gian với vật chất vận động.
Quan niệm đó đòi hỏi phải quán triệu nguyên tắc phương pháp luận về
tính lịch sử - cụ thể trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Câu 4: Nguồn gốc của ý thức.
1. Nguồn gốc của ý thức dựa vào quan điểm từ chủ nghĩa duy vật biện chứng gồm:
• Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được tạo bởi các yếu tố tự nhiên từ ý thức
chính là bộ óc và sự hoạt động cùng các mối quan hệ thế giới khách
quan và con người. Trong đó thì thế giới khách quan có sự tác động tới
bộ óc của con người tạo ra khả năng về sự hình thành ý thức từ con
người đối với thế giới khách quan. Tóm lại, ý thức là sự phản ánh về thế
giới khách quan từ con người.
- Phản ánh là sự tái tạo về đặc điểm dạng vật chất này bởi dạng vật chất
khác khi tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là 1 thuộc tính
từ tất cả các dạng vật chất nhưng phản ánh dưới nhiều hình thức như
phản ánh sinh học, phản ánh tâm lý, phản ánh vật lý hóa học, phản ánh
năng động sáng tạo. Trong đó, hình thức này sẽ tương ứng quá trình tiến
hóa vật chất tự nhiên.
- Phản ánh về hóa học vật lý là một hình thức thấp nhất và đặc trưng cho
vật chất vô sinh. Phản ánh đó được thể hiện qua biến đổi về lý, hóa, cơ
khi có sự tác động lẫn nhau bởi các dạng vật chất vô sinh. Hình thức
được phản ánh chưa định hướng lựa chọn mà chỉ mang tính thụ động
của vật nhận tác động.
- Phản ánh tâm lý: là sự phản ánh cho động vật đặc trưng đã được phát
triển đến trình độ mà có hệ thần kinh trung ương, phản ánh này thể hiện
dưới cơ chế phản xạ có điều kiện lên những tác động môi trường sống.
- Phản ánh ý thức là hình thức để phản ánh năng động và sáng tạo bởi con người
- Phản ánh sinh học: là hình thức được phản ánh cao hơn và đặc trưng
giới tự nhiên hữu sinh. Qúa trình phát triển giới tự nhiên hữu sinh, được
thể hiện qua tính kích thích, phản xạ và tính cảm ứng. lOMoAR cPSD| 61463864
Nguồn gốc xã hội của ý thức
- Lao động và ngôn ngữ chính là nhân tố cơ bản nhất, trực tiếp tạo thành
nguồn gốc xã hội của ý thức.
+ Lao động là một quá trình con người sử dụng về công cụ tác động với
giới tự nhiên để thay đổi giới tự nhiên phù hợp nhu cầu con người. Trong quá
trình lao động thì con người có sự tác động tới thế giới khách quan để bộc lộ
những kết cấu, thuộc tính, quy luật vận động, theo đó biểu hiện ra những hiện
tượng nhất định để con người quan sát được.
Những hiện tượng mà con người quan sát được đó, được thể hiện thông qua
hoạt động của các giác quan, có sự tác động vào bộ óc con người. Và thông
qua bằng bộ não con người sẽ tạo ra khả năng để hình thành những tri thức và ý thức.
• Tóm lại, ý thức được ra đời chủ yếu bởi hoạt động cải tạo thế giới
khách quan qua quá trình lao động.
+ Ngôn ngữ chính là cái vỏ của vật chất từ ý thức, hình thức vật chất nhân
tạo có vai trò trong thể hiện, lưu trữ nội dung ý thức. Sự ra đời ngôn ngữ được
gắn liền với lao động, theo đó lao động đã mang tính tập thể ngay từ đầu. Mối
quan hệ các thành viên đòi hỏi có sự giao tiếp, ý chí, trao đổi tri thức,… giữa
các thành viên của cộng đồng con người. Khi đòi hỏi các nhu cầu trên thì ngôn
ngữ được khởi nguồn và phát triển tồn tại trong lao động sản xuất, sinh hoạt xã
hội. Nhờ ngôn ngữ từ đó con người được giao tiếp và trao đổi, đồng thời truyền
đạt nội dung, lưu trữ nội dung ý thức của thế hệ này sang thế hệ khác.
2. Nguồn gốc của ý thức dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy tâm.
- Khi lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, các nhà triết học duy tâm cho
rằng, ý thức là nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân
sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
3. Nguồn gốc của ý thức dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
- Các nhà duy vật siêu hình phủ nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức,
tinh thần. Họ xuất phát từ thế giới hiện thực để lý giải nguồn gốc của ý
thức. Các nhà duy vậy siêu hình đã đồng nhất ý thức với vật chất. Họ coi
ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật chất sản sinh ra.
Câu 5: Bản chất và kết cấu của ý thức.
• Bản chất của ý thức : lOMoAR cPSD| 61463864
- Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc
con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp
nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên
cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát
hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo
của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá trình con người tạo ra
những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời sống tinh thần của
mình hoặc khái quát bản chất, qui luật khách quan, xây dựng các mô hình
tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là
hình ảnh về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui
định cả về nội dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y
nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính
chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất
được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn
tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ
của các qui luật sinh học mà chủ yếu là của các qui luật xã hội, do nhu
cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội qui
định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu
của thực tiễn xã hội.
Kết cấu của ý thức
- Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách
tiếp cận, nghiên cứu về kết cấu của ý thức. Ở đây chỉ tiếp cận kết cấu của
ý thức theo các yếu tố cơ bản nhất hợp thành nó. Theo cách tiếp cận này,
ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm và ý chí, trong
đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể bao gồm các yếu tố khác.
+ Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá
trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức
dưới dạng các loại ngôn ngữ. lOMoAR cPSD| 61463864
+ Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh
quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan.
+ Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng
trong mỗi con người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại, đạt mục đích đề ra.
Câu 6: Mối quan hệ bản chất giữa vật chất và ý thức.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là “Vấn đề cơ bản lớn cửa mọi
loại triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại’’. Tùy theo lập trường
thế giới khách quan, khi giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức mà hình thành hai đường lối cơ bản của triết học là chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Khẳng định nguyên tắc tính đảng
trong triết học, V.I.LÊ NIN đã viết: “Triết học hiện đại cũng có tính
đảng như triết học hai nghìn năm về trước. Những đảng phái đang
đấu tranh với nhau về thực chất, -mặc dù thực chất đó bị che giấu
bằng những nhãn hiệu mới của thủ đoạn lang băm hoặc tính phi
đảng ngu xuẩn- là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
- Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
• Vật chất quyết định ý thức
• Thứ nhất vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức
+ Vật chất tồn tại khách quan độc lập với ý thức nên vật chất là cái có
trước là tính thứ nhất. Ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất vào trong bộ óc
con người nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai
+ Phải có sự vận động vật chất trong tự nhiên (bộ óc người và thế giới
khách quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời của ý thức
• Thứ hai vật chất quyết định nội dung của ý thức lOMoAR cPSD| 61463864
+ Dưới bất kì hình thức nào ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan.
Nội dung của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người
+ Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết
định tính phong phú và độ sâu sắc nội dung của ý thức con người qua các thế hệ
• Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
+ Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan,
tức là thế giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải
biên trong đó . Vậy nên vật chất là cơ sở hình thành bản chất của ý thức.
• Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động phát triển của ý thức + Mọi sự
tồn tại gắn liền của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất vật
chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
+ Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát
triển cả về thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cả về nội
dung và hình thức phản ánh.
• Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất
• Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trông đầu óc con người nhưng khi đã
ra đời thì ý thức có đời sống riêng không lệ thuộc máy móc vào vật
chất và tác động trở lại vào thế giới vật chất.
• Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt
động thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn ý thức có thể
làm biến đổi các điều kiện hoàn cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
• Thứ ba, vai trò của vật chất thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động hành
động của con người nó có thể quyết định cho hoạt động con người
đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra
hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện
tượng khách quan để con người xác định mục tiêu kế hoạch hành động
nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng.
+ Tích cực: Khi phản ánh đúng hiện thực ý thức sẽ là động lực thúc đẩy
vật chất phát triển. lOMoAR cPSD| 61463864
+ Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực ý thức có thể kìm hãm sự
phát triển của vật chất.
• Thứ tư xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức càng to lớn nhất là
trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của
cuộc cách mạng khoa học công nghê và khoa học hiện đại, khi mà tri
thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tính năng động sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không
thể vượt quá quy định của những tiền đề vật chất đã xác định của
những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách
quan của chủ thể hoạt động.
Câu 7: Phân tích mối liên hệ phổ biến.
• Khái niệm : dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ chỉ những
mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật hiện tượng của thế giới hay nói cách
khác mối liên hệ phổ biến được dùng với hai nghĩa cơ bản đó là : dùng
để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ , dùng để chỉ sự khái quát của
những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất
• Quan niệm siêu hình: Các sự vật hiện tượng tồn tại tách rời cô lập
nhau , cái này bên cạnh cái kia , giữa chúng không có sự phụ thuộc
liên hệ lẫn nhau .Nếu có liên hệ chỉ là sự hời hợt bên ngoài
• Quan niệm biện chứng: Các sự vật hiện tượng quá trình khác nhau vừa
tồn tại độc lập vừa liên hệ quy định chuyển hóa lẫn nhau
• Tính chất của mối liên hệ
- Thứ nhất: Mối liên hệ phổ biến có tính phổ biến: Các bộ phận, yếu tố và
các khâu khác nhau bên trong tất cả các sự vật có mối liên hệ lẫn nhau.
Bên cạnh đó mọi thứ đều có mối liên hệ với mọi thứ khác xung quanh.
Không chỉ vậy tính phổ biến của mối liên hệ phổ biến thể hiện toàn bộ thế
giới là một thể thống nhất có mối liên hệ lẫn nhau.
- Thứ hai: Mối liên hệ phổ biến có tính khách quan: Tính khách quan thể
hiện sự cố hữu của bản thân sự vật, không thể thay đổi bởi ý chí con người.
- Thứ ba: Mối liên hệ phổ biến có tính đa dạng: Từ các khía cạnh khác nhau,
mối liên hệ phổ biến có thể được chia thành mối liên hệ phổ biến trực tiếp lOMoAR cPSD| 61463864
và mối liên hệ phổ biến gián tiếp. Mối liên hệ phổ biến bản chất và mối
liên hệ phổ biến hiện tượng. Mối liên hệ phổ biến chủ yếu và mối liên hệ
phổ biến thứ yếu. Mối liên hệ phổ biến tất nhiên và mối liên hệ phổ biến
ngẫu nhiên. Mối liên hệ phổ biến bên trong và mối liên hệ phổ biến bên
ngoài. Quan hệ nhân quả, mối liên hệ giữa tổng thể và bộ phận. Những
mối liên hệ phổ biến khác nhau có tác dụng khác nhau đến sự tồn tại và
phát triển của sự vật.
Ý nghĩa phương pháp luận: Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép
biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng: 1.
Trong chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố,
cácthuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng. 2.
Trong mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác
vàvới môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. 3.
Trong không gian, thời gian nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá
trìnhvận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và phán đoán cả tương lai của nó. 4.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện chỉ thấy mặt này
màkhông thấy các mặt khác; hoặc chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn
lan, dàn đều, không thấy được mặt bản chất của sự vật, hiện tượng rơi vào thuật
nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung.
Câu 8: Phân tích nguyên lý của sự phát triển.
Nguyên lý của sự phát triển:
Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta cần phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.
- Ta cần phải nắm được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang
hiện hữu trước mắt, mà còn phải nắm được khuynh hướng phát triển
tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, ta phải
làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
- Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ,
định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong
một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem đó là nhận thức duy nhất đúng lOMoAR cPSD| 61463864
về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa
chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong thực tiễn.
- Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một quá
trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh
co, phức tạp của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên
• Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách
quan đối với mỗi bước thụt lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi
quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp phải những sai lầm tai hại.
• Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật,hiện tượng.
- Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi
sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu
thuẫn để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển.
Việc xác định những biện pháp cũng cần căn cứ vào từng giai đoạn, hoàn
cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn ra theo nhiều
giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
- Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái
mới phù hợp, tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.
• Ta cũng phải tìm cách kế thừa những bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý
của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái cũ mà lạc
hậu, cản trở sự phát triển.
• Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.
• Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động.
- Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạora
sự thay đổi về chất. Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao
động để làm cho sự vật, hiện tượng tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.
Câu 9: Hãy phân tích cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Từ đó rút ra ý
nghĩa phương pháp luận? Hãy liên hệ với việc học tập. lOMoAR cPSD| 61463864 1. Khái niệm.
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc
tính, những mối quan hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
- Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng,
một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan.
- Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định. Cặp phạm trù cái riêng và cái
chung trong triết học gắn liền với “bộ ba” phạm trù là cái đơn nhất,
cái đặc thù, cái phổ biến. Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để
chỉ những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật
chất. Những mặt, những thuộc tính ấy không được lặp lại ở bất kỳ sự
vật, hiện tượng hay kết cấu vật chất nào khác. Cái đặc thù là phạm trù
triết học chỉ những thuộc tính… chỉ lặp lại ở một số sự vật, hiện tượng
hay kết cấu vật chất nhất định của một tập hợp nhất định. Cái phổ biến
là phạm trù triết học được hiểu như cái chung của tập hợp tương ứng.
2. Ý nghĩa phương pháp luận.
- Thứ nhất, nếu bất cứ cái chung nào cũng chỉ tồn tại trong cái riêng,
như một thuộc tính chung của một số cái riêng, nằm trong mối liên hệ
chặt chẽ với cái đơn nhất và mối liên hệ đó đem lại cho cái chung một
hình thức riêng biệt, thì các phương pháp thực tiễn dựa trên việc vận
dụng một quy luật chung nào đó đều không thể như nhau đối với mọi
sự vật, hiện tượng (cái riêng) có liên hệ với cái chung đó, Vì bản thần
cái chung trong mọi sự vật, hiện tượng không phải là một và không
giống nhau hoàn toàn, mà chỉ là biểu hiện của cái chung đã được cá
biệt hóa, thì các phương pháp xuất phát từ cái chung đó, trong mỗi
trường hợp cụ thể, cần phải thay đổi hình thức, phải cá biệt hóa cho
phù hợp với đặc điểm của từng trường hợp.
- Thứ hai, nếu bất kỳ một phương pháp nào cũng bao hàm cả cái chung
lẫn cái đơn nhất, thì khi sử dụng một kinh nghiệm nào đổ trong điều
kiện khác, không nên sử dụng hình thức hiện có của nó, mà chỉ nên rút
ra những mặt chung đối với trường hợp đó, chỉ rút ra những cái thích
hợp với điều kiện nhất định đó.
- Thứ ba, trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện
nhất định “cái đơn nhất” có thể biến thành “cái chung” và ngược lại
“cái chung” có thể biến thành “cái đơn nhất”, nên trong hoạt động