Nội dung phần 1 - sở luận về vấn đề nghiên cứu
Trình bày các khái niệm, quan điểm khoa học về vấn đề nghiên cứu dựa
trên tài liệu thu thập từ sách, báo, tài liệu, tạp chí khoa học,...
dẫn chứng quan điểm, khái niệm đó từ ai, trình bày “Theo…”
Phần này sau này sẽ chỉnh sửa thêm dựa trên bài của các bạn
khác, dụ như mình thấy trong bài các bạn còn lại xuất hiện
khái niệm mới thì mình sẽ yêu cầu thêm vào phần này.
1.2 cấu GDP
CHƯƠNG 1
Tăng trưởng kinh tế cấu GDP của Việt Nam
giai đoạn 2020 2023
[CƠ SỞ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ]
1.1 Tăng trưởng kinh tế
1.1.1 Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế sgia tăng của (GDP) tổng sản phẩm quốc nội
hoặc (GNP) hoặc quy sản lượng quốc gia tổng sản lượng quốc dân
tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản
(như vốn, ) đầu những tài sản này năng suấtlao động đất đai
hơn. đầu trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì Tiết kiệm
mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định
chính trị kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên,
trình độ y tế giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế.
Nguồn:
VSamuelson Paul A., Nordhalls William D, , Nhà xuất bản Tài Kinh tế học
chính (2007).
Begg David, Fischer Stanley, Dornbusch Rudiger, , Nhà xuất Kinh tế học
bản Thống (2007).
1.1.2. Quan điểm khoa học
Quan điểm khoa học về vấn đề tăng trưởng kinh tế dựa trên nhiều
thuyết kinh tế khác nhau, trong đó thể kể đến các trường phái chính
như Kinh tế học Cổ điển, Keynesian Tân Cổ điển. Mỗi trường phái
những quan điểm khác nhau về các yếu tố thúc đẩy duy trì tăng
trưởng kinh tế. Dưới đây một số quan điểm khoa học chính:
1. thuyết Tăng trưởng Cổ điển (Theo Adam Smith, David Ricardo)
Tăng trưởng kinh tế xuất phát từ sự tích lũy vốn lợi thế cạnh tranh.
Các nguồn tài nguyên tự nhiên (đất đai, lao động) vốn các yếu tố
quan trọng.
Tuy nhiên, quy luật năng suất giảm dần (diminishing returns) thể
khiến tăng trưởng chậm lại khi các yếu tố này không được cải thiện.
Do đó, hàm sản xuất của thuyết tăng trưởng tân cổ điển được sử
dụng để đo lường sự tăng trưởng cân bằng của một nền kinh tế.
Hàm sản xuất : Y = AF (K, L).
Tuy nhiên, do mối quan hệ giữa lao động công nghệ, hàm sản xuất
của nền kinh tế thường được viết lại thành Y = F (K, AL).
Nguồn: VietnamBiz.vn
2. thuyết Tăng trưởng Keynesian (Theo John Maynard Keynes)
thuyết tăng trưởng kinh tế của Keynes được biết đến trong cuốn
sách thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất tiền tệ, Nhà xuất bản
Đại học Glassgow ấn hành năm 1936. Tác phẩm này nền tảng cho sự
phát triển của cả một ngành kinh tế học công trình được nhắc đến
gây tranh cãi nhiều nhất đối với kinh tế học thế kỷ XX. Công trình này
tính chất phê phán những quan điểm kinh tế trước đó, đặc biệt
quan điểm cho rằng "bản thân cung sẽ tạo ra cầu của chính nó." Trong
tác phẩm này, Keynes đã đưa ra những nhân tố xác định mức sảnlượng
việc làm trong một quốc gia. Tuy rằng cuốn sách này của Keynes đề
cập khôngnhiều về chính sách kinh tế, nhưng đã góp phần cung cấp
một nền tảng thuyết cho cácđộng thái mang tính chính sách của
chính phủ trong việc ngăn chặn cuộc Đại suy thoái, thúcđẩy tăng trưởng
kinh tế hầu hết các quốc gia trong những năm 30 của thế kỷ trước.
Nguồn: ĐẠI HỌC QUỐC GIA NỘI
3. thuyết Tăng trưởng Tân Cổ điển (Theo Robert Solow)
Robert Solow một nhà kinh tế nhiều công trình, nhưng chính hai
tác phẩm mang tính kỹ thuật cao, được công bố vào các năm 1956
1957, mới làm nên sự nổi tiếng của ông giúp ông đoạt được giải
Nobel Kinh tế (1987). Hai nghiên cứu này được coi nền tảng tạo lập
thuyết tăng trưởng tân cổ điển hiện đại một cách chi tiết tỷ mỉ. Trong
bài viết năm 1956, Solow cho rằng sự tăng trưởng ổn định điều khả
thi bằng cách chỉ cần bỏ đi một giả thuyết của hình Harrod-Domar.
Theo ông, giả thuyết về tính cố định các hệ số sản xuất, nghĩa quan
hệ giữa số lượng lao động vốn được sử dụng trong sản xuất không
thực tế. Nếu mối quan hệ này tính linh hoạt thể tự điều chỉnh
theo những thay đổi của tiền công các nhân tố, thì sẽ tồn tại một con
đường phát triển ổn định trong nền kinh tế được đặc trưng bởi toàn
dụng lao động. Từ đó, thông điệp chính của Solow nhấn mạnh vai trò
của tiến bộ kỹ thuật trong sự phát triển, yếu tố cho đến lúc bấy giờ đã
bị bỏ qua. Khi đó, bức tranh tăng trưởng đã được giải thích hơn bởi
ba nhân tố: gia tăng vốn gắn với tiết kiệm; gia tăng lực lượng lao động
gắn với gia tăng dân số; một nhân tố còn lại, ngoại sinh, đó sự tiến
bộ kỹ thuật, sự đổi mới. Solow cho rằng chính nhân tố cuối này mới
quan trọng nhất chứ không phải tỷ lệ tiết kiệm.
Trong khi bài viết năm 1956 của ông trình bày một hình thuyết,
thì nghiên cứu công bố năm 1957 đã đưa ra các phương pháp đo lường
thực nghiệm các nguồn tăng trưởng, đặt nền tảng cho thuật ngữ "hạch
toán tăng trưởng" chúng ta đến nay vẫn đang dùng khá phổ biến
trong giảng dạy cũng như nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế. Ứng dụng
phương pháp này với các dữ liệu của nền kinh tế Mỹ trong các năm
1909-1949, Solow đã phát hiện ra rằng gia tăng của lượng vốn trên mỗi
giờ lao động chỉ giải thích được 1/8 mức tăng trưởng, phần còn lại do
sự tiến bộ kỹ thuật mang lại. Những bài báo này ảnh hưởng "được
kính trọng nhất trong thuyết kinh tế", đã chuyển đổi thuyết tăng
trưởng từ những cuộc tranh luận hồ về sự ổn định thành một
khuôn khổ hoàn chỉnh, linh hoạt để phân tích những tác động của
những thay đổi trong tiết kiệm, dân số, khấu hao, tiến bộ kỹ thuật
đến mức độ tốc độ tăng trưởng của sản lượng.
Theo Tác giả: GS Trần Thọ Đạt, Tuấn Thành (Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân)
Nguồn: CafeF.vn
4. thuyết Tăng trưởng Nội sinh
thuyết tăng trưởng nội sinh cho rằng tăng trưởng kinh tế chủ yếu
kết quả của nội lực chứ không phải ngoại lực. thuyết tăng trưởng nội
sinh cho rằng đầu vào vốn con người, đổi mới tri thức những
yếu tố đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. thuyết này cũng
tập trung vào các yếu tố bên ngoài tích cực tác động tràn của nền
kinh tế dựa trên tri thức sẽ dẫn đến phát triển kinh tế. thuyết tăng
trưởng nội sinh chủ yếu cho rằng tốc độ tăng trưởng dài hạn của một
nền kinh tế phụ thuộc vào các chính sách. dụ, trợ cấp cho nghiên cứu
phát triển hoặc giáo dục làm tăng tốc độ tăng trưởng trong một số
hình tăng trưởng nội sinh bằng cách tăng động đổi mới.
Một trong những thất bại chính của các thuyết tăng trưởng nội sinh
sự thất bại tập thể trong việc giải thích sự hội tụ điều kiện được báo
cáo trong các tài liệu thực nghiệm.
Một phê bình thường xuyên khác liên quan đến giả định nền tảng về
việc thu hồi vốn giảm dần. Stephen Parente cho rằng thuyết tăng
trưởng mới đã tỏ ra không thành công hơn thuyết tăng trưởng ngoại
sinh trong việc giải thích sự khác biệt về thu nhập giữa thế giới đang
phát triển đã phát triển (mặc thường phức tạp hơn).
Paul Krugman chỉ trích thuyết tăng trưởng nội sinh gần như không
thể kiểm tra bằng bằng chứng thực nghiệm; "Quá nhiều trong số đó liên
quan đến việc đưa ra các giả định về việc những thứ không thể đo
lường được ảnh hưởng như thế nào đến những thứ không thể đo lường
khác."
Nguồn: Wikipedia.com
5. Quan điểm bền vững
Tính bền vững bên trong quá trình phát triển kinh tế
Bền vững duy trì trạng thái phát triển liên tục trong một thời gian dài.
Thực tế cho thấy, những nền kinh tế được sự khởi đầu khá ấn
tượng (tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sự gia tăng của sản xuất công
nghiệp cao, đời sống của dân được cải thiện, hội chính trị ổn
định...), nhưng thời gian duy trì không lâu. Sau một thời gian ngắn, nền
kinh tế tỏ ra “hụt hơi”, “mất đà”, tốc độ tăng trưởng chậm, thậm chí
chuyển sang suy thoái. Đó tình trạng phát triển không hiệu quả
không bền vững.
Phát triển kinh tế bền vững phát triển kinh tế liên tục trong một thời
gian dài, nhân tố quyết định việc chuyển đổi trạng thái nền kinh tế từ
thấp lên cao.
Tăng trưởng kinh tế bền vững
Tại mỗi thời điểm nhất định, đối với mỗi nền kinh tế, công nghệ
nguồn lực đầu vào (đất đai, nguồn vốn, lao động tiềm năng) sẽ sản xuất
ra một mức giới hạn tổng sản lượng đầu ra. Khi nói về tăng trưởng kinh
tế, người ta vừa coi trọng chỉ số phần trăm tăng trưởng hằng năm của
các nền kinh tế, vừa quan tâm đến cách thức nền kinh tế đạt mức
tăng trưởng. một thời điểm nào đó, những nền kinh tế chỉ tăng
5%/năm, nhưng xuất phát điểm từ mức đã toàn dụng các tiềm năng sản
xuất sẵn có, nên 5 mức tăng trưởng này chủ yếu do mở rộng đường
giới hạn tiềm năng sản xuất. Ngược lại, nền kinh tế tăng trưởng tới
10%/năm, nhưng do xuất phát từ tình trạng chưa toàn dụng được các
tiềm năng sản xuất sẵn có, nay điều kiện tăng tốc chuyển sản lượng
về đường giới hạn tiềm năng sản xuất, hoặc thể kết hợp với mức thu
hút được các tiềm năng sản xuất từ bên ngoài, nhưng vẫn thể đánh
giá không cao bằng trường hợp chỉ tăng trưởng 5%. Thậm chí, mức tăng
10%, nhưng vẫn còn “dưới” tiềm năng sản xuất, nghĩa vẫn thể
đạt mức tăng trưởng hơn 10%. Ngoài ra, một mức tăng trưởng GDP
nhanh phải đủ ý nghĩa kinh tế - hội, tức phải sự cải thiện liên
tục mức sống của dân cư. Do vậy, ngưỡng tối thiểu của mức tăng
trưởng GDP được gọi cao khi lớn hơn mức tăng dân số.
Chuyển dịch cấu kinh tế (mang tính bền vững)
Về mặt thuyết, đối với một nền kinh tế, trong một giai đoạn nào đó,
tăng trưởng, nhưng không nhất thiết phải chuyển dịch (thay đổi)
cấu kinh tế ngược lại; tức thể tình huống chuyển dịch
(thay đổi) cấu kinh tế không tăng trưởng kinh tế2. Tuy nhiên
giả định trên chỉ đúng về ngắn hạn trong những điều kiện rất đặc thù
nào đó chứ không thể đúng trong dài hạn. Trong quá trình phát triển,
nhất với những nền kinh tế khi đã bước vào thời kỳ công nghiệp hóa,
quá trình tăng trưởng bao giờ cũng song hành với quá trình chuyển dịch
cấu kinh tế hai quá trình này luôn bổ sung, hỗ trợ nhau. Bản chất
kinh tế của tiến trình này sự chuyển dịch cấu lao động từ những
lĩnh vực, những khâu năng suất lao động thấp sang những lĩnh vực,
những khâu năng suất lao động cao hơn. Đặc biệt, sự chuyển dịch
cấu kinh tế không nhất thiết phải chuyển lao động ra khỏi ngành/lĩnh
vực họ đang làm việc, chỉ nâng cấp vị thế trong chuỗi giá trị
ngay tại những ngành/lĩnh vực đó. dụ, vẫn nông nghiệp, nhưng
canh tác bằng công nghệ mới; cũng dịch vụ, nhưng áp dụng công
nghệ thông tin hiện đại… Năng suất lao động cao hơn, hiệu suất sử
dụng các nguồn đầu vào cao hơn… thước đo đánh giá sự dịch chuyển
cấu kinh tế trong khuôn khổ của phạm trù phát triển kinh tế bền
vững.
Sự bình đẳng
Phát triển kinh tế bao hàm nội dung về mức độ bình đẳng trong phân
phối thu nhập, một trong những nội dung chủ yếu của bình đẳng hội.
Không hiếm những trường hợp một thời kỳ nào đó, nền kinh tế
mức tăng trưởng cao, cấu kinh tế sự dịch chuyển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng tình trạng đói nghèo tuyệt đối
của một bộ phận dân lại không được cải thiện. Trong trường hợp
như vậy, mức GDP bình quân đầu người đã ẩn mức chênh lệch thu
nhập đời sống giữa các bộ phận dân cư. Một sự bất bình đẳng quá
mức đi kèm theo đó tình trạng đói nghèo ngay khi kinh tế tăng
trưởng cấu kinh tế sự dịch chuyển theo hướng tiến bộ, vẫn
không được xem trạng thái kinh tế phát triển. Luận điểm này không
chỉ đơn thuần xuất phát từ do nhân đạo, chính do mang bản
chất kinh tế của sự phát triển vì: (i) Sự bất bình đẳng quá mức sẽ dẫn
đến bất ổn hội - chính trị, trực tiếp ảnh hưởng không tốt tới môi
trường kinh doanh, do đó cản trở đến sự phát triển kinh tế; (ii) Mức độ
bình đẳng trong phân phối thu nhập diễn ra cùng lúc với tăng trưởng
cao sẽ sở để nâng cao mức cầu, mở rộng thị trường gia tăng
tích lũy. Đây những nhân tố không thể thiếu của quá trình mở rộng
sản xuất.
Tính bền vững của sự bình đẳng trong phân phối thu nhập không chỉ
phụ thuộc vào phương thức phân phối các sản phẩm đã sản xuất ra,
trước hết mức độ bình đẳng về hội tham gia vào quá trình phát
triển nhờ đó đạt được sự bình đẳng về mức hưởng thụ các thành
quả phát triển. Như vậy, trên quan điểm về sự phát triển kinh tế, công
bằng hội không phải thành quả phát triển của hội được chia
đồng đều cho mọi người, trước hết sự bình đẳng trong hội tiếp
cận tham gia của mọi tầng lớp dân chúng vào quá trình phát triển
được hưởng thành quả tương ứng với sức lực, khả năng trí tuệ của
họ. thế, sự cách biệt về mức thu nhập từ sự đóng góp khác nhau của
mỗi người vào quá trình phát triển khách quan đó chính công
bằng hội, tình trạng đói nghèo được giảm thiểu những người đói
nghèo đối tượng được hội quan tâm nâng đỡ, ưu tiên trong việc
tiếp cận những hội để thoát ra khỏi tình trạng nghèo đói (tăng
trưởng cho tất cả mọi người). Về nguyên tắc, cần duy trì một khoảng
cách thỏa đáng trong phân phối thu nhập, vừa đảm bảo duy trì được
động lực (lợi ích) của sự tăng trưởng, vừa không để khoảng cách giàu
nghèo trong hội chuyển hóa thành tình trạng bất ổn trong hội.
Tính bền vững của phát triển kinh tế biểu hiện tính bền vững của bản
thân các thành tố cấu thành nên sự phát triển kinh tế, gồm: Sự bền
vững của tăng trưởng kinh tế; sự bền vững của chuyển dịch cấu kinh
tế; sự bền vững của mức độ bình đẳng trong việc thụ hưởng thành quả
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, tính bền vững của phát triển kinh tế còn
phụ thuộc một phần không nhỏ vào những điều kiện bên ngoài, những
nhân tố thường xuyên ảnh hưởng chi phối lẫn nhau giữa phát triển kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển hội xây dựng thể
chế.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính
1.2. GDP
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. GDP gì?
GDP (Gross Domestic Product) được hiểu tổng sản phẩm quốc nội
hay còn gọi tổng sản phẩm nội địa. Đây chỉ số đo lường tổng giá trị
thị trường của hàng hóa dịch vụ trong phạm vi quốc gia tại một thời
điểm nhất định.
GDP thể hiện giá trị của các loại hàng hóa trên thị trường được bán hợp
pháp thời điểm hiện tại. Đồng thời, GDP không thể hiện các loại
hàng hóa bất hợp pháp tại thị trường ngầm hàng hóa sản xuất trong
quá khứ.
đều được GDP danh nghĩa phản ánh tốc độ tăng giá của một nền kinh
tế. Nếu giá cả hàng hóa thị trường tăng hoặc giảm thì GDP sẽ thay đổi
cao hơn hoặc thấp hơn.
2.3. GDP thực tế
GDP thực tế được viết tắt của từ Real Gross Domestic Product hay real
GDP, đây chỉ số được xác định dựa trên tổng sản phẩm nội địa đã
điều chỉnh theo tốc độ lạm phát. Nếu lạm phát dương, trường hợp này,
GDP thực tế sẽ thấp hơn GDP danh nghĩa.
GDP thực tế được tính theo công thức:
GDP thực tế = GDP danh nghĩa/hệ số giảm phát GDP
2.4. GDP xanh
GDP xanh phần còn lại của tổng sản phẩm nội địa sau khi đã khấu trừ
các chi phí sử dụng cho việc phục hồi vấn đề môi trường do hoạt động
sản xuất gây ra.
Nguồn: Wikipedia.com
1.2.2. Quan điểm khoa học về GDP
Quan điểm khoa học về GDP không chỉ tập trung vào cách đo lường
còn phân tích những hạn chế tiềm năng của trong việc phản ánh
đúng thực trạng kinh tế hội. Dưới đây những điểm nhấn theo
quan điểm khoa học về GDP:
1. Công cụ đo lường kinh tế chính yếu:
GDP được khoa học kinh tế công nhận một chỉ số trung tâm để
đánh giá sức khỏe nền kinh tế, đo lường sự tăng trưởng kinh tế đưa
ra chính sách kinh tế.

Preview text:

Nội dung phần 1 - cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu
Trình bày các khái niệm, quan điểm khoa học về vấn đề nghiên cứu dựa
trên tài liệu thu thập từ sách, báo, tài liệu, tạp chí khoa học,...
Có dẫn chứng quan điểm, khái niệm đó từ ai, trình bày “Theo…”
Phần này sau này sẽ có chỉnh sửa thêm dựa trên bài của các bạn
khác, ví dụ như mình thấy trong bài các bạn còn lại có xuất hiện
khái niệm mới thì mình sẽ yêu cầu thêm vào phần này. 1.1 Tăng trưởng kinh tế 1.2 Cơ cấu GDP CHƯƠNG 1
Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu GDP của Việt Nam giai đoạn 2020 – 2023
[CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ]
1.1 Tăng trưởng kinh tế 1.1.1 Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia
tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, và lao động
) và đầu tư những tài sản này có năng suất đất đai hơn.
và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu t Tiết kiệm ư phải hiệu quả thì
mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định
chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và
trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế. Nguồn:
VSamuelson Paul A., Nordhalls William D, , Nhà xuất bản Tài Kinh tế học chính (2007).
Begg David, Fischer Stanley, Dornbusch Rudiger, , Nhà xuất Kinh tế học bản Thống kê (2007).
1.1.2. Quan điểm khoa học
Quan điểm khoa học về vấn đề tăng trưởng kinh tế dựa trên nhiều lý
thuyết kinh tế khác nhau, trong đó có thể kể đến các trường phái chính
như Kinh tế học Cổ điển, Keynesian và Tân Cổ điển. Mỗi trường phái có
những quan điểm khác nhau về các yếu tố thúc đẩy và duy trì tăng
trưởng kinh tế. Dưới đây là một số quan điểm khoa học chính:
1. Lý thuyết Tăng trưởng Cổ điển (Theo Adam Smith, David Ricardo)
Tăng trưởng kinh tế xuất phát từ sự tích lũy vốn và lợi thế cạnh tranh.
Các nguồn tài nguyên tự nhiên (đất đai, lao động) và vốn là các yếu tố quan trọng.
Tuy nhiên, quy luật năng suất giảm dần (diminishing returns) có thể
khiến tăng trưởng chậm lại khi các yếu tố này không được cải thiện.
Do đó, hàm sản xuất của lí thuyết tăng trưởng tân cổ điển được sử
dụng để đo lường sự tăng trưởng và cân bằng của một nền kinh tế.
Hàm sản xuất là: Y = AF (K, L).
Tuy nhiên, do mối quan hệ giữa lao động và công nghệ, hàm sản xuất
của nền kinh tế thường được viết lại thành Y = F (K, AL). Nguồn: VietnamBiz.vn
2. Lý thuyết Tăng trưởng Keynesian (Theo John Maynard Keynes)
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Keynes được biết đến trong cuốn
sách Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ, Nhà xuất bản
Đại học Glassgow ấn hành năm 1936. Tác phẩm này là nền tảng cho sự
phát triển của cả một ngành kinh tế học và là công trình được nhắc đến
và gây tranh cãi nhiều nhất đối với kinh tế học thế kỷ XX. Công trình này
có tính chất phê phán những quan điểm kinh tế trước đó, đặc biệt là
quan điểm cho rằng "bản thân cung sẽ tạo ra cầu của chính nó." Trong
tác phẩm này, Keynes đã đưa ra những nhân tố xác định mức sảnlượng
và việc làm trong một quốc gia. Tuy rằng cuốn sách này của Keynes đề
cập khôngnhiều về chính sách kinh tế, nhưng nó đã góp phần cung cấp
một nền tảng lý thuyết cho cácđộng thái mang tính chính sách của
chính phủ trong việc ngăn chặn cuộc Đại suy thoái, thúcđẩy tăng trưởng
kinh tế ở hầu hết các quốc gia trong những năm 30 của thế kỷ trước.
Nguồn: ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
3. Lý thuyết Tăng trưởng Tân Cổ điển (Theo Robert Solow)
Robert Solow là một nhà kinh tế có nhiều công trình, nhưng chính hai
tác phẩm mang tính kỹ thuật cao, được công bố vào các năm 1956 và
1957, mới làm nên sự nổi tiếng của ông và giúp ông đoạt được giải
Nobel Kinh tế (1987). Hai nghiên cứu này được coi là nền tảng tạo lập lý
thuyết tăng trưởng tân cổ điển hiện đại một cách chi tiết và tỷ mỉ. Trong
bài viết năm 1956, Solow cho rằng sự tăng trưởng ổn định là điều khả
thi bằng cách chỉ cần bỏ đi một giả thuyết của mô hình Harrod-Domar.
Theo ông, giả thuyết về tính cố định các hệ số sản xuất, có nghĩa là quan
hệ giữa số lượng lao động và vốn được sử dụng trong sản xuất là không
thực tế. Nếu mối quan hệ này có tính linh hoạt và có thể tự điều chỉnh
theo những thay đổi của tiền công các nhân tố, thì sẽ tồn tại một con
đường phát triển ổn định trong nền kinh tế được đặc trưng bởi toàn
dụng lao động. Từ đó, thông điệp chính của Solow là nhấn mạnh vai trò
của tiến bộ kỹ thuật trong sự phát triển, yếu tố cho đến lúc bấy giờ đã
bị bỏ qua. Khi đó, bức tranh tăng trưởng đã được giải thích rõ hơn bởi
ba nhân tố: gia tăng vốn gắn với tiết kiệm; gia tăng lực lượng lao động
gắn với gia tăng dân số; và một nhân tố còn lại, ngoại sinh, đó là sự tiến
bộ kỹ thuật, sự đổi mới. Solow cho rằng chính nhân tố cuối này mới là
quan trọng nhất chứ không phải tỷ lệ tiết kiệm.
Trong khi bài viết năm 1956 của ông trình bày một mô hình lý thuyết,
thì nghiên cứu công bố năm 1957 đã đưa ra các phương pháp đo lường
thực nghiệm các nguồn tăng trưởng, đặt nền tảng cho thuật ngữ "hạch
toán tăng trưởng" mà chúng ta đến nay vẫn đang dùng khá phổ biến
trong giảng dạy cũng như nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế. Ứng dụng
phương pháp này với các dữ liệu của nền kinh tế Mỹ trong các năm
1909-1949, Solow đã phát hiện ra rằng gia tăng của lượng vốn trên mỗi
giờ lao động chỉ giải thích được 1/8 mức tăng trưởng, phần còn lại là do
sự tiến bộ kỹ thuật mang lại. Những bài báo này có ảnh hưởng và "được
kính trọng nhất trong lý thuyết kinh tế", đã chuyển đổi lý thuyết tăng
trưởng từ những cuộc tranh luận mơ hồ về sự ổn định thành một
khuôn khổ hoàn chỉnh, linh hoạt để phân tích những tác động của
những thay đổi trong tiết kiệm, dân số, khấu hao, và tiến bộ kỹ thuật
đến mức độ và tốc độ tăng trưởng của sản lượng.
Theo Tác giả: GS Trần Thọ Đạt, Vũ Tuấn Thành (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) Nguồn: CafeF.vn
4. Lý thuyết Tăng trưởng Nội sinh
Lý thuyết tăng trưởng nội sinh cho rằng tăng trưởng kinh tế chủ yếu là
kết quả của nội lực chứ không phải ngoại lực. Lý thuyết tăng trưởng nội
sinh cho rằng đầu tư vào vốn con người, đổi mới và tri thức là những
yếu tố đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết này cũng
tập trung vào các yếu tố bên ngoài tích cực và tác động tràn của nền
kinh tế dựa trên tri thức sẽ dẫn đến phát triển kinh tế. Lý thuyết tăng
trưởng nội sinh chủ yếu cho rằng tốc độ tăng trưởng dài hạn của một
nền kinh tế phụ thuộc vào các chính sách. Ví dụ, trợ cấp cho nghiên cứu
và phát triển hoặc giáo dục làm tăng tốc độ tăng trưởng trong một số
mô hình tăng trưởng nội sinh bằng cách tăng động cơ đổi mới.
Một trong những thất bại chính của các lý thuyết tăng trưởng nội sinh là
sự thất bại tập thể trong việc giải thích sự hội tụ có điều kiện được báo
cáo trong các tài liệu thực nghiệm.
Một phê bình thường xuyên khác liên quan đến giả định nền tảng về
việc thu hồi vốn giảm dần. Stephen Parente cho rằng lý thuyết tăng
trưởng mới đã tỏ ra không thành công hơn lý thuyết tăng trưởng ngoại
sinh trong việc giải thích sự khác biệt về thu nhập giữa thế giới đang
phát triển và đã phát triển (mặc dù thường phức tạp hơn).
Paul Krugman chỉ trích lý thuyết tăng trưởng nội sinh là gần như không
thể kiểm tra bằng bằng chứng thực nghiệm; "Quá nhiều trong số đó liên
quan đến việc đưa ra các giả định về việc những thứ không thể đo
lường được ảnh hưởng như thế nào đến những thứ không thể đo lường khác." Nguồn: Wikipedia.com
5. Quan điểm bền vững
Tính bền vững bên trong quá trình phát triển kinh tế
Bền vững là duy trì trạng thái phát triển liên tục trong một thời gian dài.
Thực tế cho thấy, có những nền kinh tế có được sự khởi đầu khá ấn
tượng (tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sự gia tăng của sản xuất công
nghiệp cao, đời sống của dân cư được cải thiện, xã hội và chính trị ổn
định...), nhưng thời gian duy trì không lâu. Sau một thời gian ngắn, nền
kinh tế tỏ ra “hụt hơi”, “mất đà”, tốc độ tăng trưởng chậm, thậm chí
chuyển sang suy thoái. Đó là tình trạng phát triển không hiệu quả và không bền vững.
Phát triển kinh tế bền vững là phát triển kinh tế liên tục trong một thời
gian dài, là nhân tố quyết định việc chuyển đổi trạng thái nền kinh tế từ thấp lên cao.
Tăng trưởng kinh tế bền vững
Tại mỗi thời điểm nhất định, đối với mỗi nền kinh tế, công nghệ và
nguồn lực đầu vào (đất đai, nguồn vốn, lao động tiềm năng) sẽ sản xuất
ra một mức giới hạn tổng sản lượng đầu ra. Khi nói về tăng trưởng kinh
tế, người ta vừa coi trọng chỉ số phần trăm tăng trưởng hằng năm của
các nền kinh tế, vừa quan tâm đến cách thức mà nền kinh tế đạt mức
tăng trưởng. Ở một thời điểm nào đó, có những nền kinh tế chỉ tăng
5%/năm, nhưng xuất phát điểm từ mức đã toàn dụng các tiềm năng sản
xuất sẵn có, nên 5 mức tăng trưởng này chủ yếu do mở rộng đường
giới hạn tiềm năng sản xuất. Ngược lại, có nền kinh tế tăng trưởng tới
10%/năm, nhưng do xuất phát từ tình trạng chưa toàn dụng được các
tiềm năng sản xuất sẵn có, nay có điều kiện tăng tốc chuyển sản lượng
về đường giới hạn tiềm năng sản xuất, hoặc có thể kết hợp với mức thu
hút được các tiềm năng sản xuất từ bên ngoài, nhưng vẫn có thể đánh
giá không cao bằng trường hợp chỉ tăng trưởng 5%. Thậm chí, mức tăng
là 10%, nhưng vẫn còn “dưới” tiềm năng sản xuất, nghĩa là vẫn có thể
đạt mức tăng trưởng hơn 10%. Ngoài ra, một mức tăng trưởng GDP
nhanh phải có đủ ý nghĩa kinh tế - xã hội, tức là phải có sự cải thiện liên
tục mức sống của dân cư. Do vậy, ngưỡng tối thiểu của mức tăng
trưởng GDP được gọi là cao khi lớn hơn mức tăng dân số.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (mang tính bền vững)
Về mặt lý thuyết, đối với một nền kinh tế, trong một giai đoạn nào đó,
có tăng trưởng, nhưng không nhất thiết phải có chuyển dịch (thay đổi)
cơ cấu kinh tế và ngược lại; tức là có thể có tình huống có chuyển dịch
(thay đổi) cơ cấu kinh tế mà không có tăng trưởng kinh tế2. Tuy nhiên
giả định trên chỉ đúng về ngắn hạn và trong những điều kiện rất đặc thù
nào đó chứ không thể đúng trong dài hạn. Trong quá trình phát triển,
nhất là với những nền kinh tế khi đã bước vào thời kỳ công nghiệp hóa,
quá trình tăng trưởng bao giờ cũng song hành với quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và hai quá trình này luôn bổ sung, hỗ trợ nhau. Bản chất
kinh tế của tiến trình này là sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ những
lĩnh vực, những khâu có năng suất lao động thấp sang những lĩnh vực,
những khâu có năng suất lao động cao hơn. Đặc biệt, sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế không nhất thiết phải chuyển lao động ra khỏi ngành/lĩnh
vực mà họ đang làm việc, mà chỉ là nâng cấp vị thế trong chuỗi giá trị
ngay tại những ngành/lĩnh vực đó. Ví dụ, vẫn là nông nghiệp, nhưng
canh tác bằng công nghệ mới; cũng là dịch vụ, nhưng áp dụng công
nghệ thông tin hiện đại… Năng suất lao động cao hơn, hiệu suất sử
dụng các nguồn đầu vào cao hơn… là thước đo đánh giá sự dịch chuyển
cơ cấu kinh tế trong khuôn khổ của phạm trù phát triển kinh tế bền vững. Sự bình đẳng
Phát triển kinh tế bao hàm nội dung về mức độ bình đẳng trong phân
phối thu nhập, một trong những nội dung chủ yếu của bình đẳng xã hội.
Không hiếm những trường hợp ở một thời kỳ nào đó, nền kinh tế có
mức tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng tình trạng đói nghèo tuyệt đối
của một bộ phận dân cư lại không được cải thiện. Trong trường hợp
như vậy, mức GDP bình quân đầu người đã ẩn mức chênh lệch thu
nhập và đời sống giữa các bộ phận dân cư. Một sự bất bình đẳng quá
mức và đi kèm theo đó là tình trạng đói nghèo ngay khi kinh tế có tăng
trưởng và cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển theo hướng tiến bộ, vẫn
không được xem là trạng thái kinh tế phát triển. Luận điểm này không
chỉ đơn thuần xuất phát từ lý do nhân đạo, mà chính là lý do mang bản
chất kinh tế của sự phát triển vì: (i) Sự bất bình đẳng quá mức sẽ dẫn
đến bất ổn xã hội - chính trị, trực tiếp ảnh hưởng không tốt tới môi
trường kinh doanh, do đó cản trở đến sự phát triển kinh tế; (ii) Mức độ
bình đẳng trong phân phối thu nhập diễn ra cùng lúc với tăng trưởng
cao sẽ là cơ sở để nâng cao mức cầu, mở rộng thị trường và gia tăng
tích lũy. Đây là những nhân tố không thể thiếu của quá trình mở rộng sản xuất.
Tính bền vững của sự bình đẳng trong phân phối thu nhập không chỉ
phụ thuộc vào phương thức phân phối các sản phẩm đã sản xuất ra, mà
trước hết là mức độ bình đẳng về cơ hội tham gia vào quá trình phát
triển và nhờ đó mà đạt được sự bình đẳng về mức hưởng thụ các thành
quả phát triển. Như vậy, trên quan điểm về sự phát triển kinh tế, công
bằng xã hội không phải là thành quả phát triển của xã hội được chia
đồng đều cho mọi người, mà trước hết là sự bình đẳng trong cơ hội tiếp
cận và tham gia của mọi tầng lớp dân chúng vào quá trình phát triển và
được hưởng thành quả tương ứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của
họ. Vì thế, sự cách biệt về mức thu nhập từ sự đóng góp khác nhau của
mỗi người vào quá trình phát triển là khách quan và đó chính là công
bằng xã hội, tình trạng đói nghèo được giảm thiểu và những người đói
nghèo là đối tượng được xã hội quan tâm nâng đỡ, ưu tiên trong việc
tiếp cận những cơ hội để thoát ra khỏi tình trạng nghèo đói (tăng
trưởng cho tất cả mọi người). Về nguyên tắc, cần duy trì một khoảng
cách thỏa đáng trong phân phối thu nhập, vừa đảm bảo duy trì được
động lực (lợi ích) của sự tăng trưởng, vừa không để khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội chuyển hóa thành tình trạng bất ổn trong xã hội.
Tính bền vững của phát triển kinh tế biểu hiện ở tính bền vững của bản
thân các thành tố cấu thành nên sự phát triển kinh tế, gồm: Sự bền
vững của tăng trưởng kinh tế; sự bền vững của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế; sự bền vững của mức độ bình đẳng trong việc thụ hưởng thành quả
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, tính bền vững của phát triển kinh tế còn
phụ thuộc một phần không nhỏ vào những điều kiện bên ngoài, những
nhân tố thường xuyên ảnh hưởng chi phối lẫn nhau giữa phát triển kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển xã hội và xây dựng thể chế.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính 1.2. GDP 1.2.1. Khái niệm 1.2.1.1. GDP là gì?
GDP (Gross Domestic Product) được hiểu là tổng sản phẩm quốc nội
hay còn gọi là tổng sản phẩm nội địa. Đây là chỉ số đo lường tổng giá trị
thị trường của hàng hóa và dịch vụ trong phạm vi quốc gia tại một thời điểm nhất định.
GDP thể hiện giá trị của các loại hàng hóa trên thị trường được bán hợp
pháp và ở thời điểm hiện tại. Đồng thời, GDP không thể hiện các loại
hàng hóa bất hợp pháp tại thị trường ngầm và hàng hóa sản xuất trong quá khứ.
đều được GDP danh nghĩa phản ánh tốc độ tăng giá của một nền kinh
tế. Nếu giá cả hàng hóa thị trường tăng hoặc giảm thì GDP sẽ thay đổi cao hơn hoặc thấp hơn. 2.3. GDP thực tế
GDP thực tế được viết tắt của từ Real Gross Domestic Product hay real
GDP, đây là chỉ số được xác định dựa trên tổng sản phẩm nội địa đã
điều chỉnh theo tốc độ lạm phát. Nếu lạm phát dương, trường hợp này,
GDP thực tế sẽ thấp hơn GDP danh nghĩa.
GDP thực tế được tính theo công thức:
GDP thực tế = GDP danh nghĩa/hệ số giảm phát GDP 2.4. GDP xanh
GDP xanh là phần còn lại của tổng sản phẩm nội địa sau khi đã khấu trừ
các chi phí sử dụng cho việc phục hồi vấn đề môi trường do hoạt động sản xuất gây ra. Nguồn: Wikipedia.com
1.2.2. Quan điểm khoa học về GDP
Quan điểm khoa học về GDP không chỉ tập trung vào cách đo lường mà
còn phân tích những hạn chế và tiềm năng của nó trong việc phản ánh
đúng thực trạng kinh tế và xã hội. Dưới đây là những điểm nhấn theo
quan điểm khoa học về GDP:
1. Công cụ đo lường kinh tế chính yếu:
GDP được khoa học kinh tế công nhận là một chỉ số trung tâm để
đánh giá sức khỏe nền kinh tế, đo lường sự tăng trưởng kinh tế và đưa ra chính sách kinh tế.