



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 58097008
CÁC CÂU HỎI CÔ GỬI
Câu 1: anh chị hãy phân tích quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sự-cụ thể của chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Vận dụng các quan điểm trên phân tích một vấn đề cụ thể của KT- XH?
* quan điểm toàn diện
Một là, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải xem xét áp tại tất cả các mặt, các mối liên
hệ, kể cả những mắt khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
V.I. cho Lênin viết: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất
cả các mặt tất cả các mối liên hệ và cho “quan hệ gián tiếp" của sự vật đó”Hai là, trong vô vàn
các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu, tức là xem xét một
cách có trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng. Từ quan
điểm toàn diện trong sự xem xét chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ trong hành động thực
tiễn: để cải tạo một sự vât bao giờ chúng ta cũng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống những
biện pháp nhất định. Tuy nhiên cũng như đã nói ở trên, đồng bộ không có nghĩa là dàn đều,
bình quân mà trong từng buớc, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu then chốt. Thực hiện quan
điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện, một chiều chỉ thấy một mặt mà không
thấy nhiều mặt hoặc có khi tuy có chú ý đến nhiều mặt nhưng không nhìn thấy được mặt bản
chất của sự vật. Quan điểm toàn diện cũng góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn.
Ba là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải đối chiếu với các
mối liên hệ còn lại để tránh mắc sai lầm trong nhận thức.
Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một mặt mà không
thấy nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên hệ khác). Năm là,
chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trảị (coi mọi mối liên hệ như nhau), có nghĩa là chống
lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
Sáu là, chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản
thành cái cơ bản; bằng lý lẽ, lập luận tưởng rằng có lý, nhưng thực chất là vô lý).
* Quan điểm lịch sử - cụ thể
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt kiện, mỗi chúng trong từng
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể; trong điều kiện, môi trường cụ thể; trong từng điều kiện
không gian, thời gian cụ thể nhất định; trong tùng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong
từng trường hợp cụ thể nhất định, trong từng hệ tọa độ cụ thể nhất định... Nét đặc trưng
của xã hội loài người là con người ta phải sản xuất thì mới có thể tồn tại và phát triển.
Thời đại nào cũng phải sản xuất hết. Như thế, nói theo ngôn ngữ biện chứng thì sản xuất
là một phạm trù “vĩnh viễn”, nghĩa là nó luôn luôn xảy ra, bất kể trong hình thái xã hội nào, ở giai đoạn nào.
Thứ hai, cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau
phải giải quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ
thể nhất định, như theo V. I. Lênin, “phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”, đó là “bản
chất” và “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác.
* Vận dụng các quan điểm trên phân tích một vấn đề cụ thể của KT-XH: Học tập
Vận dụng quan điểm toàn diện trong cuộc sống, học tập của bản thân 2.1.1. Học tập
Ngày nay, bản thân là sinh viên dễ dàng nhanh chóng nắm bắt được các kiến thức thông
qua nhiều nơi như học tại lớp, qua lớp học trực tuyến, qua giao tiếp, … nhưng ứng với
việc học là phải đi đôi với hành. “Học” là quá trình đạt được sự hiểu biết, kiến thức, hành
vi, kỹ năng, giá trị, thái độ và sở thích mới. Khả năng học hỏi được thấy ở con người,
động vật và một số máy móc; cũng có bằng chứng cho một số loại học tập ở một số loài
thực vật. “Hành” hiểu là thực hành là quá trình vận dụng, áp dụng mọi kiến thức bản
thân có sẵn hay học hỏi được, quá trình các bạn làm lại, thực hành lại những gì đã cũ
bằng những hành động cụ thể và đem lại kết quả thực tế. Hành còn hiểu là đưa lý thuyết
thực tế vào thực hành, thí nghiệm một cách khoa học nhằm đưa ra những kết luận chính lOMoAR cPSD| 58097008
xác nhất. Học tập còn xuất phát từ trong ý nghĩ, trong nhận thức và thôi thúc con người
tự nguyện thực hiện hành vi đúng đắn trong đời sống thường ngày; cần phải kiên trì, cố
gắng duy trì vì mục tiêu, lý tưởng sống cao đẹp và trong sáng.
2.1.2. Đánh giá con người
Sự tự nhận thức là bước đầu trong quá trình tạo ra một cuộc sống. Bên cạnh đó, sẽ có khả năng
nhận biết những suy nghĩ và cảm xúc của mình trong quá trình nhìn nhận đánh giá con người.
Qua thời gian, thì mới hiểu rõ được bản chất của sự việc đó, muốn biết và nhìn rõ bản chất sự
việc đánh giá con người nên quan sát họ, tiếp xúc đủ lâu. Từ đó, tránh mắc sai lầm trong việc đánh giá con người.
2.1.3. Rèn luyện đạo đức
Việc rèn luyện đạo đức cho sinh viên cũng được gắn liền với việc giáo dục pháp luật.
Sinh viên ngoài việc nắm bắt những nội qui, qui chế nhà trường còn cần có những hiểu
biết cơ bản về pháp luật, về an toàn giao thông, phòng chống ma tuý và các tệ nạn xã
hội… Rèn luyện cho sinh viên đạo đức và pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
giúp họ vừa có ý thức tự giác, chủ động vừa nhận thức được những giới hạn cụ thể trong
thái độ và hành vi của mình. Rèn luyện đạo đức cho sinh viên không thể chỉ ở việc tuân
thủ thực hiện những qui tắc, chuẩn mực cứng nhắc. Có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc định hướng, giáo dục những kỹ năng “mềm” để sinh viên có thể xử lý các tình huống
nảy sinh trong cuộc sống một cách tích cực nhất. i.
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể trong cuộc sống, học tập (ca dao tục ngữ:Trăng đến
rằm trăng tròn, sao đến tối thì sao mọc.)
2.2.1. Quan hệ bạn bè
Cần ứng xử, hành động sao cho hợp lí. Đối với bạn bè thân thiết, bản thân cần có quan
hệ tốt và bền vững đòi hỏi bạn phải biết lắng nghe. Lắng nghe cũng là một cách giao
tiếp văn minh và văn hóa. Lắng nghe là một chuyện nhưng để hiểu được ý của người
nói và bạn lắng nghe được những gì từ họ thì lại là một chặng đường dài. Đối với bạn
bè bình thường, cần quan tâm, giúp đỡ những người yếu thế hơn mình. Đối với bạn bè
chưa tốt thì cần phải bình tĩnh, nói chuyện hợp lí, cần tâm sự để giải bày mọi khúc mắc.
2.2.2. Hoạt động phong trào
Trong hoàn cảnh cụ thể, các phong trào hành động cách mạng của Đoàn là để góp phần
trực tiếp vào quá trình giáo dục, đào tạo thanh niên thành những người thừa kế xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu. Phong
trào hành động cách mạng của Đoàn đã trở thành đặc trưng của tuổi trẻ, là phương thức
hữu hiệu để Đoàn thực hiện chức năng “trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên”,
mở rộng mặt trận đoàn kết, tập hợp thanh niên, thu hút thanh niên rèn luyện, phấn đấu
vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Và qua các phong trào hành động cách
mạng, thanh niên trở thành chủ thể tích cực của tích cực thi đua học tập, đồng thời, thanh
niên được chăm lo, ngày càng trưởng thành, phát triển toàn diện hơn, ngày càng hiểu rõ hơn, tin tưởng.
2.2.3. Xây dựng lối sống văn hóa
Lối sống văn hoá không chỉ là một bộ phận cấu thành của nền văn hóa dân tộc mà còn có
tác động sâu sắc đến các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Xây dựng lối sống văn hóa
nói chung, là một nhiệm vụ cách mạng quan trọng, là sự nghiệp lâu dài, gian khổ, đòi hỏi
phải có quyết tâm cao của toàn xã hội và của sinh viên. lOMoAR cPSD| 58097008
Câu 2: Anh chị hãy phân tích làm sáng tỏ luận điểm của C.Mác “Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hòa nhũng mối quan hệ xã hội” . Vận dụng quan điểm này
vào việc rèn luyện, xay dựng phẩm chất đạo đức sinh viên trong giai đoạn hiện nay như
thế nào? *Khái niệm con người:
Theo Các- Mác: “Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Các mối quan hệ đó
quy định bản chất xã hội của cá nhân. Nhân cách là sản phẩm của mối quan hệ xã hội đồng thời
là người sáng tạo và xây dựng mối quan hệ đó”.
Là con người hiện thực, cụ thể-cảm tính. Con người với tư cách là một tổng thể tồn tại
bao gồm cả mặt tự nhiên và mặt xã hội. Đó là một “sinh vật” có tính loài, có ý thức, là “động
vật xã hội”, “động vật chế tạo công cụ” và “tự nhận thức được mình”. Vì vậy con người ở đây
là con người làm chủ tự nhiên và xã hội. Con người đã đặt mọi sự vật hiện tượng của thế giười
hiện thực vào phạm vi nhận thức của mình, do đó nó đã trở thành chủ thể của nhận thức, đồng
thời cũng là khách thể của nhận thức.
*Bản chất của con người:
Bản chất chính là cái chung của con người. Trong mỗi giai đoạn lịch sử bản chất con
người lại là những đặc điểm riêng. Giữa cái chung và cái riêng luôn luôn chuyển hoá lẫn nhau.
ở thời đại khác nhau con người cũng khác nhau bởi vì, xã hội loài người luôn luôn vận động từ
hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thành kinh tế-xã hội khác nên con người cũng phải biến
đổi cho phù hợp. Con người ở thời đại nào thì mang dấu ấn của thời đại ấy. Trong xã hội có giai
cấp, bản chất con người mang tính giai cấp, bản chất với tư cách là một bộ phận của toàn thể
xã hội không trực tiếp gắn với xã hội nữa, mà thuộc về các giai cấp nhất định trong xã hội.
Theo Mác bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng mà là sản phẩm của
tự nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử cụ thể, con người hiện thực, đó là con người cụ thể, cảm
tính, bản chất của con người hiện ra, tồn tại và phát triển trong lao động sản xuất, chinh phục
tự nhiên cải tạo xã hội, sự tồn tại hiện thực của con người không thể tách rời các mối quan hệ
xã hội. Tiêu biểu nhất trong các mối quan hệ xã hội của con người là hoạt động sản xuất để đáp
ứng những yêu cầu đầu tiên, mặt khác là duy trì sự sống của mỗi cá nhân, một mặt được coi là
quan hệ tự nhiên mặt khác là quan hệ xã hội. Ngay từ khi con người có hành vi sản xuất ra của
cải vật chất để tồn tại thì đồng thời cũng làm nảy sinh các quan hệ giữa các cá nhân. Đây là
những quan hệ do lịch sử quy định và vì vậy quan hệ giao tiếp giữa các cá nhân trong xã hội là nhu cầu tất yếu.
Bản chất con người -Tổng hoà các mối quan hệ xã hội:
Các quan hệ xã hội là những quan hệ giữa cộng đồng xã hội của con người,
xuất hiện trong quá trình sản sinh và tái sản sinh ra bản thân con người với tư cách
là chủ thể xã hội hoàn chỉnh.
Yếu tố đặc trưng trong nhân cách con người- yếu tố đặc thù để phân biệt con
người và vật. Xét bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội tức là xem con
người với tất cả các quan hệ xã hội của nó không những chỉ những quan hệ xã hội đã
có từ trước người đang sống mà cả những quan hệ xã hội đã có từ trước kia trong một
tổng thể với những mối liên hệ biện chững, bởi vì trong lịch sử của mình, con người
bắt buộc phải kế thừa những di sản, những truyền thống đã thúc đẩy con người vươn lên hay ngược lại.
Theo C Mác, bản chất con người không phải à sinh thành bất biến mà có sự
vận động, phát triển phù hợp với sự biến đổi của hoàn cảnh, của thời đại. Cụ thể là
bản chất xã hội của con người luôn luôn thay đổi cùng với năm cách sản xuất lớn với
những chế độ chính trị khác nhau. Mỗi con người dù muốn hay không, vừa cất tiếng
khóc chào đời đã bị khoác bởi cái áo xã hội họ đang sống, đó là những mối quan hệ xã hội. Ví dụ:
Bản thân mỗi người có rất nhiều mối quan hệ khác nhau như quan hệ với gia
đình, bạn bè, thầy cô, đồng nghiệp,... Những mối quan hệ ấy tồn tại một cách khách
quan, không ai có thể tồn tại mà không có bất kì một mối quan hệ xã hội nào cả.
Mỗi cá nhân đảm nhiệm không chỉ có một vai trò mà là nhiều vai trong xã lOMoAR cPSD| 58097008
hội: họ có thể vừa là giáo viên, vừa là một người bố, và là thành viên câu lạc bộ... những mối
quan hệ trong xã hội được hình thành trong cuộc sống. bất kì ai cũng có những mối quan hệ trong xã hội. Bài học rút ra:
Để phát triển bản thân thì cần phải chú trọng cả các mối quan hệ xã hội. Các
mối quan hệ xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc khẳng định bản chất của con người
Câu 3: Anh chị hãy trình bày khái niệm Triết học. Phân tích đặc trưng của Tri thức triết
học. Tri thức triết học giống và khác với tri thức của các môn khoa học khác như thế nào?
*Khái niệm: triết học là hệ thống quan điểm lí luận chung nhất về thế giới và vị trí con người
trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
*Đặc trưng của tri thức triết học
Tri thức khoa học triết học mang tính khái quát cao dựa trên sự trừu tượng hóa sâu sắc về thế
giới, về bản chất cuộc sống con người. 1.
Tính trừu tượng: Tri thức triết học tập trung vào việc tìm hiểu và nghiên cứu về các
vấn đề cơ bản và tổng quát về thế giới và sự tồn tại. Nó không chỉ quan tâm đến các sự việc cụ
thể và cá nhân, mà còn tìm kiếm những nguyên lý và quy luật ẩn sau chúng. 2.
Tính lý thuyết: Tri thức triết học là một hệ thống lý thuyết được xây dựng dựa trên tư
duy phân tích và lập luận logic. Nó đòi hỏi sự chính xác, logic và sự suy luận nghiêm ngặt
trong việc đưa ra các lập luận và quan điểm. 3.
Tính phân tích và suy luận: Tri thức triết học nhấn mạnh sự phân tích và suy luận để
hiểu và giải thích các vấn đề phức tạp. Nó sử dụng các phương pháp như phân tích logic, suy
diễn tiến và suy diễn ngược để xác định và kiểm chứng các lập luận và quan điểm. 4.
Tính hệ thống: Tri thức triết học cố gắng xây dựng các hệ thống ý niệm và quy luật để
giải thích và hiểu sự tồn tại. Nó liên kết các khái niệm và nguyên tắc để tạo ra một cái nhìn
tổng thể và toàn diện về thế giới và con người.
* Tri thức triết học giống và khác với tri thức của các môn khoa học khác như sau: Tương đồng: •
Cả tri thức triết học và các môn khoa học khác đều tìm kiếm sự hiểu biết và cố gắng
giải thích thế giới xung quanh chúng ta. Khác biệt: •
Phạm vi: Tri thức triết học tập trung vào các vấn đề cơ bản và tổng quát, trong khi các
môn khoa học khác thường tập trung vào nghiên cứu và áp dụng trong lĩnh vực cụ thể. •
Phương pháp: Tri thức triết học sử dụng phương pháp triết học phê phán và suy ngẫm,
trong khi các môn khoa học thường sử dụng phương pháp khoa học, dựa trên quan sát,
thử nghiệm và lý thuyết. •
Đối tượng nghiên cứu: Tri thức triết học tập trung vào các vấn đề tổng quát về tồn tại
và tri thức, trong khi các môn khoa học thường tập trung vào nghiên cứu các hiện tượng
và quy luật trong lĩnh vực cụ thể. •
Tiến trình: Tri thức triết học thường dựa trên suy ngẫm và trí tuệ, trong khi các môn
khoa học thường phát triển thông qua quá trình nghiên cứu và thực nghiệm.
Câu 4: Từ mối quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, anh chị hãy
phân tích làm rõ khảng định: “Cơ sơ kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng
đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”?
Khái niệm cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã
hội trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Cấu trúc
của cơ sở hạ tầng bao gồm: Quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản lOMoAR cPSD| 58097008
xuất mầm mống. Mỗi quan hệ sản xuất có một vị trí, vai trò khác nhau. Trong đó quan hệ sản
xuất thống trị đặc trưng cho cơ sở hạ tầng của xã hội đó.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội với những thiết chế
xã hội tương ứng cùng những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định. Cấu trúc của kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những quan điểm tư tưởng về
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học...cùng những thiết chế xã hội
tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể và tổ chức xã hội khác. Các yếu tố
về quan điểm tư tưởng và thiết chế xã hội có quan hệ với nhau, cùng với những quan hệ nội tại
trong các yếu tố đó hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội.
* Mối quan hệ biện chứng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một quy luật cơ
bản của sự vận động phát triển lịch sử xã hội. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt
cơ bản của xã hội gắn bó hữu cơ, có quan hệ biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng, còn kiến trúc thượng tầng tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với cơ sở hạ
tầng. Thực chất là sự hình thành, vận động và phát triển của các quan điểm tư tưởng cùng với
những thể chế chính trị - xã hội tương ứng xét đến cùng phụ thuộc vào quá trình sản xuất và tái
sản xuất các quan hệ kinh tế.
*“Cơ sơ kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít
nhiều nhanh chóng”
kinh tế là nội dung, là thước đo tính hợp lý của chính trị, còn chính trị là hình thức biểu
hiện của kinh tế. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của kinh tế có một trình độ
phát triển nhất định về chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị cũng
tương ứng như thế ấy. Sự biến đổi, phát triển của kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi biến đổi
xã hội và đảo lộn về chính trị. Các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, hay các quan hệ chính
trị nói chung chỉ là sự phản ánh các quan hệ lợi ích kinh tế, các mâu thuẫn trong quan hệ kinh
tế. Kinh tế phát triển thì chứng tỏ chính trị có sự tiến bộ nhất định; ngược lại, kinh tế khủng
hoảng là dấu hiệu cho thấy sự bất cập của chính trị và đòi hỏi chính trị phải có sự điều chỉnh.
Câu 5: Anh chị hãy phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức. Từ đó hãy rút ra ý nghĩa
đối với hoạt động nhận thức của bản thân?
* nguồn gốc, bản chất của ý thức
1.Nguồn gốc của ý thức
– Nguồn gốc tự nhiên của ý thức: gồm bộ óc con người và tác động của thế giới khách quan
lên bộ óc người tạo nên hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo.
+ Con người là kết quả phát triển lâu dài nhất của giới tự nhiên. Bộ óc người là nơi sản sinh ra
ý thức, là sản phẩm cao nhất của thế giới vật chất (14 tỷ noron thần kinh).
+ Tác động của thế giới khách quan lên bộ óc người: thế giới khách quan được phản ánh thông
qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức. + Phản
ánh là thuộc tính chung của mọi đối tượng vật chất nhưng chỉ có phản ánh ở bộ não người mới
là hình thức phản ánh cao nhất (phản ánh năng động, sáng tạo), có sự kế thừa phản ánh tâm lý động vật.
+ Tâm lý động vật là tiền đề sinh vật tất yếu dẫn đến hình thành của ý thức. Do vậy, ý thức
chỉ có ở con người, động vật chỉ hành động theo bản năng. – Nguồn gốc xã hội của ý thức:
gồm lao động và ngôn ngữ.
+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên, làm
biến đổi giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu tồn tại của con người. Đó là hoạt
động chủ động, sáng tạo và có mục đích. + Vai trò của lao động:
- Giúp hoàn thiện các giác quan, đặc biệt là giúp bộ não người phát triển. Nhờ lao động, con
người chuyển từ di chuyển bằng 4 chi thành 2 chi; không ăn sống nữa mà chuyển sang ăn
chín (phát hiện ra lửa). lOMoAR cPSD| 58097008
- Giúp sự vật hiện tượng bộc lộ thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động (đất này trồng café mà
lại dung trồng lúc => không được). - Giúp con người chế tạo ra công cụ lao động.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Từ trong quá trình
lao động, ngôn ngữ ra đời do nhu cầu giao tiếp và trao đổi thông tin. Karl Marx đã nói “Nó là
cái vỏ vật chất của tư duy”. Ngôn ngữ gồm 2 bộ phận: vỏ ngôn ngữ là vật chất, ruột bên trong là ý thức. + Vai trò của ngôn ngữ:
- Giúp con người phản ánh một cách khái quát và gián tiếp về đối tượng.
- Là phương tiện giao tiếp và là công cụ của tư duy
- Là công cụ truyền tin rất hiệu quả (tình cảm, tư tưởng, kinh nghiệm) Vd: ca dao, tục ngữNhư
vậy, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn gốc xã hội là điều kiện đủ.
* Bản chất của ý thức
A) Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan 1 cách năng động, sáng tạo của bộ óc con người -
Hiện thực khách quan là khách thể của nhận thức, con người là chủ thể của nhận thức
=> khách thể nhận thức quyết định chủ thể nhận thức -
Năng động là lựa chọn định hướng, đối tượng nhận thức tùy thuộc vào chủ thể nhận thức- Sáng tạo là:
+ Từ tri thức đã có, con người có thể tạo ra những hình ảnh biểu tượng không có thực tế +
Từ tri thức đã có, con người có thể tạo ra những tri thức mới thông qua những giả thuyết
khoa học (ví dụ: tam đoạn luận)
+ Nó thể hiện như 1 quá trình thống nhất bởi 3 mặt sau:
Mặt 1: Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh “Chủ thể phản ánh có chọn lọc định hướng”.
Mặt 2: Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng các hình ảnh tinh thần (so sánh con ong
xây tổ với kiến trúc sư).
Mặt 3: Chuyển từ mô hình trong tư duy quay trở lại hiện thực khách quan thông qua hành động thực tiễn. B)
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức xem xét sự vật hiện tượng
thông qua lăng kính chủ quan con người vì vậy đôi khi phản ánh sai lệch sự vật hiện tượng.
Theo C.Mác, “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người
và được cải biến đi trong đó.” C)
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: Ý thức luôn in dấu ấn cộng
đồng nơi ý thức sinh ra và phát triển.
* ý nghĩa đối với hoạt động nhận thức của bản thân?
Ý nghĩa của ý thức đốivới hoạt động nhận thức của bản thân là quan trọng vì nó ảnh
hưởng đến cách chúng ta hiểu và tương tác với thế giới xung quanh. Bằng cách nhận thức và
hiểu biết, ý thức giúp chúng ta xác định và đánh giá các sự kiện, thông tin và kinh nghiệm. Nó
là cơ sở cho quá trình suy nghĩ, lập luận và ra quyết định.
Ý thức cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tự nhận thức và nhận biết về bản thân.
Nó cho phép chúng ta nhận thức về suy nghĩ, cảm xúc, giá trị và mục tiêu của mình. Bằng cách
tự nhận thức, chúng ta có thể đánh giá và điều chỉnh hành vi, hướng dẫn hành động của mình
và thúc đẩy sự phát triển cá nhân.
Ngoài ra, ý thức còn liên quan đến khả năng đồng cảm và hiểu biết người khác. Khi
chúng ta có ý thức về tình trạng và trạng thái tâm lý của người khác, chúng ta có thể tạo ra sự
kết nối, đồng cảm và tương tác xã hội tốt hơn.
Câu 6: Anh chị hãy phân tích nội dung quy luật thống nhất của các mặt đối lập? Rút ra ý
nghĩa của nó đối với việc giải quyết mâu thuẫn của bản thân?
*Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ các bộ phận, các thuộc tính... có khuynh hướng
biến đổi trái ngược nhau, nhưng cùng tồn tại khách quan trong mỗi sự vật, hiện tượng của
tự nhiên, xã hội và tư duy. lOMoAR cPSD| 58097008
VD: Trong cơ thể người có hoạt động tự nhiên ăn và bài tiết cùng tồn tại khách quan, trong
thực vật có hai quá trình quang hợp và hô hấp,...
* Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách vừa thống nhất, vừa đấu
tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. VD: Nhân vật
phản diện và chính diện tồn tại thống nhất và đấu tranh lẫn nhau trong tác phẩm nghệ thuật,
mối quan hệ qua lại giữa sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế xã hội,... -
Tính khách quan: Mâu thuẫn là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không phải
đem từ bên ngoài vào. Tồn tại không phụ thuộc vào ý thức con người. -
Tính phổ biến: Mâu thuẫn diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn tồn
tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn này mất đi sẽ có mâu thuẫn khác thay thế. -
Tính phong phú, đa dạng: Sự vật, hiện tượng khác nhau sẽ có mâu thuẫn khác
nhau.Trong một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại nhiều mâu thuẫn khác nhau và có vị trí,
vai trò khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật đó. *Nội dung quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh lẫn nhau tạo
nên trạng thái ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng. -
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ giữa chúng
và được thể hiện ở việc:
Thứ nhất, các mặt đối lập cần đến nhau, nương tựa vào nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại.
Thứ hai, các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau thể hiện sự đấu tranh giữa cái
mới đang hình thành với cái cũ chưa mất hẳn.
Thứ ba, giữa các mặt đối lập có sự tương đồng. -
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại
theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng. -
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập có tính tạm thời, tương đối, có điều kiện, nghĩa
là sự thống nhất đó chỉ tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật, hiện tượng.
- Sự đấu tranh có tính tuyệt đối, nghĩa là đấu tranh phá vỡ sự ổn định tương đối của chúng
dẫn đến sự chuyển hóa về chất của chúng -
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập phát triển làm mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu
sắc và khi đến một mức độ nhất định, trong điều kiện nhất định thì mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật, hiện tượng chuyển hóa. -
Sự vật, hiện tượng mới ra đời tự nó lại có mặt đối lập mới, có mâu thuẫn mới, có
quá trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Tóm lại: Mọi đối tượng đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực lượng... đối
lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập là nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận động và phát triển, làm cho
cái cũ mất đi và cái mới ra đời. VD:
Trong kháng chiến chống Pháp, mâu thuẫn giữa nhân dân và thực dân
pháp được đẩy lên đến đỉnh điểm, tạo động lực cho dân ta đấu tranh và kết quả là
khai sinh ra nhà nước Việt Nam dân chủ.
Sự đấu tranh giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị đã tạo nên một hình
thái xã hội mới. Sự hình thành của xã hội mới lại làm phát sinh những mâu thuẫn mới trong xã hội đó.
* Ý nghĩa phương pháp luận: -
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển nên cần phải thừa
nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng; từ đó giải quyết mâu
thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan. Muốn phát hiện mâu thuẫn cần
tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng. -
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú nên khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét
quá trình phát sinh, phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối lOMoAR cPSD| 58097008
quan hệ giữa các mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích
cụ thể một mâu thuẫn và đề ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn đó. -
Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập,
không điều hòa mâu thuẫn cũng không nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn
còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.
* Vận dụng bản thân
Đối với em, tôn trọng mâu thuẫn trong học tập chính là phải tìm hiểu đầy đủ các thông
tin cần thiết để phục vụ cho quá trình học của mình. Chẳng hạn để chuẩn bị trở thành một sinh
viên năm nhất, em đã tìm hiểu đầy đủ chương trình học của mình, xác định định hướng và mục
tiêu của bản thân để chọn ra những môn học phù hợp, vạch ra kế hoạch học tập, rèn luyện cho
bốn năm đại học của mình và thực hiện kế hoạch đó để đạt được đích đến mà bản thân đề ra.
Ngoài ra, khi gặp bất cứ vấn đề nào, sợ hãi và lẩn trốn sẽ không giúp được gì cho chúng ta, vậy
nên ta không thể tránh né mâu thuẫn mà phải xem xét, phân tích cụ thể nó để tìm ra phương án
giải quyết. Từ đó ta mới có thể có thêm kinh nghiệm để phát triển bản thân. Trong việc học
cũng vậy, khi gặp một bài toán khó hoặc những bài tập không thể giải được, em thường nỗ lực
tìm tòi trên các trang mạng, các diễn đàn học tập hoặc trực tiếp hỏi giảng viên, anh chị, bạn bè
cách làm. Việc không từ bỏ trước khó khăn giúp em có thể nâng cao vốn kiến thức, biết được
mình nên làm gì nếu gặp lại dạng bài đó và hình thành thói quen tìm tòi, học hỏi cho bản thân.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn là nguyên nhân làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời, sự tồn tại của
mâu thuẫn khiến chúng ta nhận thức được rằng kiến thức không bao giờ là đủ. Khi ta giải quyết
được một vấn đề cũ thì sẽ tiếp tục gặp được rất nhiều vấn đề mới khác nên bắt buộc chúng ta
phải luôn đổi mới, sáng tạo. Là một sinh viên trong xã hội hiện đại, em nhận thức được kho
tàng kiến thức không chỉ nằm trong những bài giảng của thầy cô, trong giáo trình mình học mà
còn liên quan đến rất nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Vậy nên em không cho phép mình ngủ
quên trên một vài kiến thức nhất định nào mà thay vào đó em phải đi tìm tòi, học hỏi thêm
những điều mới. Sau khi học xong trên lớp, em phải xem lại bài hôm đó và tìm thêm những bài
tập có liên quan để tiếp thu thêm những điều không được dạy. Ngoài ra, việc thường xuyên đọc
sách cũng khiến em mở mang đầu óc và nâng cao tính sáng tạo của mình hơn. Bên cạnh việc
học lý thuyết, em cũng nỗ lực trau dồi thêm kỹ năng mềm cho bản thân để thích ứng kịp với xã
hội đang ngày càng phát triển và hội nhập.
Câu 7: Anh chị hãy phân tích cấu trúc của lực lượng sản xuất và giải thích câu nói: “
TRong thời đại ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”?
* Lực lượng sản xuất là phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất,
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội. Về cấu trúc, lực lượng sản xuất được xem xét
trên cả hai mặt, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và mặt kinh tế - xã hội (người lao
động). Lực lượng sản xuất chính là phương thức kết hợp giữa “lao động sống” với “lao động
vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã
hội ở các thời kỳ nhất định.
Người lao động là con người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng lao động và năng lực sáng
tạo nhất định trong quá trình sản xuất của xã hội. Người lao động là chủ thể sáng tạo, đồng thời
là chủ thể tiêu dùng mọi của cải vật chất xã hội. Đây là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt của sản xuất.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Đối tượng lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao
động con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với mục
đích sử dụng của con người. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện lao động.
Phương tiện lao động là những yếu tố vật chất của sản xuất, cùng với công cụ lao động
mà con người sử dụng để tác động lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất vật chất.
Công cụ lao động là những phương tiện vật chất mà con người trực tiếp sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi chúng nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu lOMoAR cPSD| 58097008
cầu con người và xã hội. Công cụ lao động là yếu tố vật chất "trung gian", "truyền dẫn" giữa
người lao động và đối tượng lao động trong tiến hành sản xuất. Đây chính là "khí quan" của bộ
óc, là tri thức được vật thể hóa do con người sáng tạo ra và được con người sử dụng làm phương
tiện vật chất của quá trình sản xuất. Công cụ lao động giữ vai trò quyết định đến năng suất lao
động và chất lượng sản phẩm.
*”Trong thời đại ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”
Khoa học cung cấp kiến thức và công nghệ để cải tiến quy trình sản xuất, tăng năng
suất và chất lượng sản phẩm. Các phát minh và ứng dụng khoa học đã giúp tạo ra các công
nghệ tiên tiến như tự động hóa, robot và trí tuệ nhân tạo, giúp tăng cường hiệu suất và giảm chi
phí sản xuất. Ngoài ra, Khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và phát triển
các sản phẩm và công nghệ mới. Các nhà khoa học và kỹ sư sử dụng phương pháp khoa học để
tìm hiểu về các nguyên lý cơ bản và áp dụng chúng để tạo ra các sản phẩm và công nghệ mới.
Các phát minh và khám phá khoa học đã thay đổi cuộc sống của chúng ta, từ việc phát triển các
loại thuốc mới đến việc tạo ra các thiết bị điện tử tiên tiến. Bên cạnh đó, Khoa học đã thúc đẩy
sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông, tạo ra một cuộc cách mạng trong việc
truyền thông và truy cập thông tin. Công nghệ thông tin đã thay đổi cách chúng ta làm việc,
giao tiếp và tiếp cận thông tin, tạo ra một môi trường kinh doanh mới và tăng cường sự phát
triển kinh tế. Hơn nữa, Khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững, bằng
cách nghiên cứu và áp dụng các phương pháp và công nghệ mới để giảm thiểu tác động tiêu
cực đến môi trường và tài nguyên. Các nghiên cứu về năng lượng tái tạo, quản lý môi trường
và phát triển nông nghiệp bền vững đều dựa trên kiến thức khoa học.
Câu 8: Anh chị hãy phân tích quy luật chỉ ra “cách thức của sự vận động và phát triển”
trong phép biện chứng duy vật. Từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận đối với bản thân?
* Quy luật lượng-chất:
* Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và
hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải cái khác.
- Chất của các sự vật là do những thuộc tính vốn có của sự vật kết hợp một cách hữu cơ với
nhau tạo thành, bản thân mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính của sự vật cũng
có một phức hợp những đặc trưng về chất của mình, khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất.
- Chất của sự vật không những được xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành sự vật mà còn
bởi cấu trúc của sự vật, bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố cấu thành sự vật đó. * Lượng
là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật biểu thị số lượng, quy mô, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó.
Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng chỉ là tương đối, phụ thuộc vào mối quan hệ xác
định. Nghĩa là có cái trong mối quan hệ này là chất, nhưng trong mối quan hệ khác nó lại là
lượng và ngược lại. Do vậy, cần tránh quan điểm siêu hình tuyệt đối hoá gianh giới giữa chất
và lượng. Xác định chất và lượng phải căn cứ vào từng mối quan hệ cụ thể.
* Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất:
1. Chất và lượng thống nhất với nhau:
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Chất và lượng của sựvật đều mang
tính khách quan. Trong sự tồn tại khách quan của mình, sự vật có vô vàn chất, do đó, nó cũng
có vô vàn lượng. Tuy nhiên, chất và lượng là hai mặt quy định lẫn nhau không thể tách rời; một
chất nhất định trong sự vật có lượng tương ứng của nó.
Trong quá trình vận động và phát triển chất và lượng cũng biến đổi. Sự thay đổi của
lượng và chất không diễn ra độc lập đối với nhau, trái lại chúng có quan hệ với nhau. Nhưng
không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng thay đổi căn bản chất của sự việc. Lượng của
sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản
chất của sự việc đó. lOMoAR cPSD| 58097008
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là
khoảng giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự
vật. Trong giới hạn của “độ” lượng và chất tác động biện chứng với nhau làm cho sự vật vận động.
2. Lượng thay đổi dần dần dẫn đến sự thay đổi về chất:
Trong giới hạn của “độ”, lượng là yếu tố động, nó thường xuyên biến đổi, quá trình này diễn ra
một cách từ từ theo cách thức tăng dần hoặc giảm dần. Nhưng sự thay đổi đó chưa làm thay đổi về chất.
Chất là yếu tố tương đối ổn định hơn. Khi lượng thay đổi đến giới hạn nào đó thì chất
căn bản của sự vật mới thay đổi, sự vật không còn là nó nữa, một sự vật mới ra đời thay thế nó.
Tại điểm giới hạn mà sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là điểm
nút. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút. 3. Sự thay đổi về chất tác động trở
lại đối với sự thay đổi về lượng:
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Sau khi ra đời,
chất mới có sự tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô
tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó * Các
hình thức của bước nhảy:
- Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần (cơ sở của sự phân chia: dựa trên thời gian của
sựthay đổi về chất và tính chất của bản thân sự thay đổi đó):
+ Những bước nhảy được gọi là đột biến khi chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở
tất cả các bộ phận cấu thành của nó.
+ Những bước nhảy được thực hiện một cách dần dần là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng
con đường tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của
chất cũ. Ví dụ: quá trình cách mạng đưa nước ta vốn là nước kinh tế lạc hậu quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một bước nhảy như thế. Bước nhảy dần dần là quá trình phức tạp, trong đó có
cả những quá trình tuần tự và những bước nhảy cục bộ.
- Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ:
+ Bước nhảy toàn bộ là loại bước nhảy làm thay đổi toàn bộ về chất tất cả các mặt các bộ phận,
các yếu tố cấu thành sự vật.
+ Bước nhảy cục bộ là loại bước nhảy làm thay đổi một số mặt một số yếu tố, một số bộ phận của sự vật đó.
Từ những điều trình bày trên có thể rút ra nội dung cơ bản của quy luật chuyển hoá từ những
sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại như sau: bất kỳ sự vật nào
cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của
độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác
động trở lại tới sự thay đổi của lượng.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất chúng
ta sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thức tiễn. -
Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó.
Những nhận thức ban đầu về chất (thấy sự khác nhau) của các sự vật chỉ trở nên đúng đắn và
được làm sâu sắc thêm khi đạt tới tri thức về sự thống nhất giữa chất và lượng của các sự vật
đó. - Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu bằng quá trình tích luỹ dần dần
về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi
về chất theo quy luật và chống cả hai khuynh hướng: tả khuynh và hữu khuynh. -
Trong hoạt động thực tiễn của mình, chúng ta còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình
thứccủa bước nhảy. Sự vận dụng linh hoạt đó sẽ tuỳ thuộc vào việc phân tích đúng đắn những
điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan cũng như sự hiểu biết sâu sắc quy luật này.
Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể mà chúng ta chọn
hình thức bước nhảy phù hợp. Chống giáo điều, rập khuôn, chống bảo thủ ngại khó khi điều
kiện thực hiện bước nhảy đã chín muồi. lOMoAR cPSD| 58097008 -
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động của mình, chúng ta phải biết cách tác động
vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật,
kết cấu của sự vật đó.
VD: Trên cơ sở hiểu biết về gien, con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các
nhân tố tạo thành gien làm cho gien làm biến đổi.
Câu 9: Anh chị hãy phân tích Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất? Tại sao nói
lực lượng sản xuất là yếu tố năng động, cách mạng nhất và thường xuyên biến đổi trong qúa trình sản xuất?
* Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất?(câu 7)
* “lực lượng sản xuất là yếu tố năng động, cách mạng nhất và thường xuyên biến đổi
trong qúa trình sản xuất”
Lực lượng sản xuất được coi là yếu tố năng động vì nó không ngừng phát triển và tiến
bộ theo thời gian. Công nghệ và cách thức sản xuất liên tục được cải tiến để tăng cường hiệu
suất và năng suất. Ví dụ, việc áp dụng công nghệ mới có thể giúp tăng cường quy trình sản
xuất, giảm thời gian và tăng chất lượng sản phẩm.
Lực lượng sản xuất cũng là yếu tố cách mạng vì nó thường xuyên trải qua các thay
đổi cơ bản trong cách thức sản xuất. Các cuộc cách mạng công nghiệp và công nghệ đã tạo ra
những bước tiến lớn trong lĩnh vực sản xuất. Ví dụ, từ cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên,
sự ra đời của máy móc đã thay đổi toàn diện cách thức sản xuất và tăng cường năng suất một cách đáng kể.
Cuối cùng, lực lượng sản xuất cũng là yếu tố thường xuyên biến đổi trong quá trình
sản xuất. Nhu cầu thị trường, yêu cầu khách hàng và tiến bộ công nghệ có thể thay đổi, và do
đó, hệ thống sản xuất cũng phải thích ứng. Các công ty và doanh nghiệp phải liên tục thay đổi
và cải tiến quy trình sản xuất để đáp ứng nhu cầu và tận dụng cơ hội mới.
Câu 10: Anh chị hãy vận dụng “Quy luật từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất và ngược lại” để giải quyết một vấn đề cụ thể của bản thân anh chị. ( Trong vấn đề
của anh chị, lượng là gì, chất là gì; bản thân cần làm gì để có sự thay đổi về lượng dẫn đến
sự chuyển hóa về chất hợp với quy luật khách quan và đồng thời cũng thỏa đáng mong
đợi của anh chị?) - Nội dung quy luật(câu 8)
+ Khái niệm lượng, chất(10)
+ Sự chuyển hóa của lượng và chất(20)
- Vấn đề: học tập
Đầu tiên, bản thân phải đặt mục tiêu cụ thể: Xác định rõ những gì bạn muốn đạt được
trong việc học tập. Mục tiêu cụ thể sẽ giúp bạn tập trung và có hướng đi rõ ràng. Ngoài
ra, Xác định những yếu tố đo lường có thể định lượng liên quan đến việc học tập của
bạn. Ví dụ, thời gian dành cho việc học, số lượng bài tập hoàn thành, số giờ đọc sách,
hay số lần tham gia lớp học. Bên cạch đó, Thiết lập kế hoạch hợp lý về cách bạn sẽ sử
dụng thời gian và nỗ lực của mình để đạt được mục tiêu học tập. Lập lịch cụ thể các
hoạt động học tập và tuân thủ kế hoạch đó. Cùng với đó, Để có sự thay đổi về lượng,
bạn cần tăng cường nỗ lực và tập trung vào việc học. Đặt một mức độ cao cho chính
mình và cố gắng vượt qua giới hạn hiện tại để đạt được mục tiêu. Ngoài ra, Định kỳ
đánh giá tiến trình của bạn và xem liệu bạn đang đạt được mục tiêu hay không. Nếu
cần thiết, điều chỉnh kế hoạch và phương pháp học tập để tối ưu hóa kết quả. Hơn nữa,
Để đảm bảo rằng sự thay đổi về lượng dẫn đến sự chuyển hóa về chất, bạn cần tự đánh
giá chất lượng của công việc học tập. Điều này có thể bao gồm việc đánh giá mức độ
hiểu biết, ứng dụng kiến thức vào thực tế, khả năng giải quyết vấn đề, hay sự tiến bộ
trong việc nắm vững một khái niệm. Bên cạnh đó, Để đạt được kết quả mong muốn,
bạn cần kiên nhẫn và kiểm soát trong quá trình học tập. Đừng nản
lòng nếu không thấy kết quả ngay lập tức, hãy tiếp tục nỗ lực và tập trung vào quá lOMoAR cPSD| 58097008 trình học tập.
Câu 11: Anh chị hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức theo
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng? Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ mối
quan hệ này đối với bản thân? *Khái niệm vật chất và ý thức
-Vật chất: Theo Lênin. “ là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh lại, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
- Ý thức: là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan trên
cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong
đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
* Vật chất quyết định ý thức.
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía cạnh sau:
-Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người. Con
người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thửc - một thuộc tính của bộ
phận con người - cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự
nhiên hiện đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái
có trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai. Vật
chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là
một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức
tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.
-Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý
thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan
vào trong đầu óc con người. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động
thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức
phản ánh. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực
mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý thức
con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.
-Thứ ba,vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự
phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh” hoặc là “phản ánh tâm lý”
như con vật mà lả phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Chính thực tiễn
là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức.
-Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất
thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một sinh vật có tính
xã hội ngày càng phát triên cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức - một hình thức phản
ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình thức phản ánh của nó.
VD: Loài người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của
họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi bước phảt triển của sản xuất,
tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng, đời sống tinh thần của con người
ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức được hiện tại, mà còn ý thức được cả
những vẩn đề trong quá khứ và dự kiến được cả trong tương lai, trên cơ sở khải quát ngày
càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
-Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chát sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thứ có
“đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc lOMoAR cPSD| 58097008
vào vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn
chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
-Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Nhờ họat động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những đỉều kiện, hoàn
cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người.
Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách
quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, bỉện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng
lợi mục tiêu đã xác định.
-Thứ ba, vai trò cua ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thanh công hay
thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ỷ thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác
cho hiện thực, có thể hình thành nên nhũng lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận
này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng
tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu
cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực. Ý thức tác động lại vật chất thì nó phát huy
tính năng động sáng tạo.
-Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời
đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tính năng
động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt quá tính quy định của
những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ
quan của các chủ thể hoạt động.
VD: Sau khi hiểu được tính chất vật lí của thép nóng chảy ở 1000 C , người ta đã tạo ⁰
ra các nhà máy sản xuất gang thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công cổ xưa
*Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên
tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động chủ
quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục
tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật
chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan, nếu không làm như
vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật hiện
tượng phải chân thực, đúng đắn, trách tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, không được gán
cho đối tượng cái mà nó không có.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người,
chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo Nhận thức
và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích, phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ
lợi trong nhận thức và hành động của mình.
* ý nghĩa pp luận đối với bản thân
Giúp nhận biết rằng ý thức cá nhân không tồn tại độc lập, mà nó được hình thành và ảnh hưởng
bởi các yếu tố xã hội, văn hóa, lịch sử và kinh tế. Ngoài ra, cung cấp cái nhìn rõ ràng về quyền
lực và thay đổi xã hội. Nó cho phép nhận thức rằng ý thức xã hội không phải là một thực thể
tĩnh, mà nó có thể thay đổi thông qua hoạt động xã hội và đấu tranh chính trị. Bên cạnh, giúp
nhận thức được sự ảnh hưởng của môi trường xã hội và văn hóa lên ý thức cá nhân, từ đó cho
phép bản thân phân định và lựa chọn theo những giá trị, quan điểm, và hành động tương thích
với lợi ích và giá trị cá nhân. Hơn nữa, khuyến khích nhận ra rằng ý thức xã hội có thể thay
đổi và tiến bộ thông qua hoạt động tập thể và phong trào xã hội.
Câu 12: Anh chị hãy phân tích làm rõ luận điểm của C.Mác: “Tôi coi sự phát triển của
các hình thái KTXH là một quá trình lịch sử, tự nhiên”?
Khái niệm: Hình thái kinh tế -xã hội là một phạm trù của cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
dùng để chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng lOMoAR cPSD| 58097008
cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra kết cấu xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định bao gồm ba yếu tố cơ bản, phổ biến: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (cơ sở hạ
tầng); kiến trúc thượng tầng
+ Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
thời đại kinh tế khác nhau, yếu tố xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội.
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ khách quan, cơ bản, chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội,
đồng thời là tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt bản chất các chế độ xã hội khác nhau.
+ Kiến trúc thượng tầng là sự thể hiện các mối quan hệ giữa người với người trong lĩnh vực
tinh thần, tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội.
KL: . Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội không chỉ mang tính trừu tượng, mà còn mang tính cụ
thể, cho phép xem xét xã hội ở từng quốc gia, dân tộc, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể với
các tiêu chícó thể xác định được với một quan hệ sản xuất đặc trưng, một trình độ phát triển
lực lượng sản xuất nhất định và một kiểu kiến trúc thượng tầng tiêu biểu cho bộ mặt tinh thần của xã hội đó.
VD: Công xã nguyên thủy – Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến – CNTB – XHCN.
* Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội:
- Phương pháp luận của sự phân tích các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế – xã hội:
Xã hội là tổng thể của nhiều lĩnh vực với những mối quan hệ xã hội hết sức phức tạp.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã vận dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng để phân tích đời sống xã hội, tiến hành trừu tượng hóa các quan hệ xã hội và phân tách
ra những quan hệsản xuất, tức là những quan hệ kinh tế tồn tại một cách khách quan, tất yếu
không phụ thuộc vào ý chí con người, tiến hành “giải phẫu” những quan hệ đó. Đồng thời phân
tích những quan hệ đó trong mối quan hệ phụ thuộc của nó với thực trạng phát triển của lực
lượng sản xuất hiện thực. Phân tích những quan hệ đó trong mối quan hệ vối toàn bộ những
quan hệ xã hội khác, tức với những quan hệ thuộc kiến trúc thượng tầng chính trị – xã hội, từ
đó cho thấy rõ xã hội là một hệ thống cấu trúc với các lĩnh vực cơ bản tạo thành. V.I. Lênin
từng nhấn mạnh rằng: “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất và
đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới
có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá
trình lịch sử – tự nhiên”.
*Các loại hình thái kinh tế - xã hội:
Theo chủ nghĩa Mác-Lenin thì trong lịch sử loài người đã sẽ tuần tự xuất hiện 5 hình thái kinh
tế xã hội từ thấp đến cao:
- Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy)
- Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ (giai cấp chủ nô mang sứ mệnh lịch sử chuyển từ
HTKTXH cộng sản nguyên thuỷ lên HTKTXH chiếm hữu nô lệ) gồm chủ nô và nông nô
- Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến (giai cấp phong kiến) gồm địa chủ và nông dân
- Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa (giai cấp tư sản) gồm tri thức, tiểu tư sản
- Hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa (giai cấp công nhân)
* Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên 1)
Sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà
tuân theo các quy luật khách quan: các quy luật của cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, và hệ
thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học,... mà trước
hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất và quy luật kiến trúc thưọng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng. 2)
Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội, đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ
sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó. V.I.Lênin từng nhấn mạnh một phương pháp
luận quan trọng khi nghiên cứu về xã hội là: "Chỉ cố đem quy những quan hệ xã hội vào những lOMoAR cPSD| 58097008
quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình
thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên". VD: CXNT – CHNL – PK – TBCN – XHCN. 3)
Quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau
của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và sự phát triển của lịch sử xã hội loài
người có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định
chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của quy luật khách quan
mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các
hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai nhất
định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử - tự nhiên, tức tính quy luật khách quan của sự vận động,
phát triển xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố
khác đối với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng
người cụ thể nói riêng. Đó là sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, tương quan
lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng
người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng
người trong lịch sử, v.v. Chính do sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của
mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo
nên tính phong phú, đa dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Tính chất phong phú, đa
dạng của tiến trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội có thể bao hàm những buớc phát
triển "bỏ qua" một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự "bỏ
qua" như vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Câu 13: Anh chị hãy phân tích các thành phần cơ bản của thế giới quan? Thế giới quan
có vai trò gì trong đời sống con người nói chung và đối với bản thân anh chị nói riêng?
*Khái niệm thế giới quan: Thế giới quan là khái niệm triết học chỉ hệ thống các tri thức, quan
điểm, tình cảm, niềm tin, lý tưởng xác định về thế giới và về vị trí của con người (bao hàm cả
cá nhân, xã hội và nhân loại) trong thế giới đó. Thế giới quan quy định các nguyên tắc, thái
độ, giá trị trong định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. * Phân tích các
thành phần cơ bản của thế giới quan: Những thành phần chủ yếu của thế giới quan là tri
thức, niềm tin và lý tưởng. Trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp hình thành thế giới quan, nhưng
tri thức chỉ gia nhập thế giới quan khi đã được kiểm nghiệm ít nhiều trong thực tiễn và trở thành
niềm tin. Lý tưởng là trình độ phát triển cao nhất của thế giới quan. Với tính cách là hệ quan
điểm chỉ dẫn tư duy và hành động, thế giới quan là phương thức để con người chiếm lĩnh hiện
thực, thiếu thế giới quan, con người không có phương hướng hành động. *
Thế giới quan có vai trò gì trong đời sống con người nói chung và đối với bản thân anhchị nói riêng
Thế giới quan không chỉ là cách chúng ta nhìn nhận thế giới xung quanh mà còn là nền
tảng định hình nhân cách, hành vi, đạo đức và chính trị của chúng ta. Nó ảnh hưởng đến mọi
khía cạnh của cuộc sống, từ hành động thực tế đến quá trình nhận thức thế giới và tự nhận thức
bản thân. Bên cạnh đó, Thế giới quan cung cấp hướng dẫn cho con người về lý tưởng sống, mục
tiêu, và cách thức hoạt động cụ thể. Nó giúp chúng ta xác định mục đích và ý nghĩa của cuộc
sống, và thông qua đó, chúng ta xác định cách chúng ta hành động và tư duy. Hơn nữa, Thế giới
quan cũng là công cụ để con người nhìn nhận và đánh giá thế giới xung quanh và bản thân
mình. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về môi trường sống và tự nhận biết về mục tiêu và ý nghĩa
sống, từ đó xác định được cách tiếp cận và hướng đi phù hợp trong cuộc sống. CÂU HỎI BỔ SUNG
Câu 1: Định nghĩa vật chất của Leenin: lOMoAR cPSD| 58097008 *
Vật chất: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
- Từ định nghĩa trên ta có thể nhận thấy có những nội dung được cơ bản như sau:
+Thứ nhất: Vật chất là phạm trù triết học: vật chất trong định nghĩa vật chất của Lênin
là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của
các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung,vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi.
+ Thứ hai: Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan: Vật chất tồn tại khách quan trong
hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách
quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩnvđể phân biệt cái gì là vật chất, cái gì
không phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì
vật chất vẫn tồn tại.
+Thứ ba: Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác: Có thể hiểu rằng
vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nóvtrực tiếp hay gián tiếp tác động đến
giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là
cái được ý thức phản ánh.
Quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác cho rằng vật chất (giới tự
nhiên) là có trước, là quyết định, còn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này
phù hợp với thực tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước mác
lại có những quan điểm khác nhau. -
Một là: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại thì đồng nhất
vật chất với những sự vật hiện tượng cụ thể như nước, lửa, không khí, nguyên tử… coi đó là
cái đầu tiên mà từ đó sinh ra mọi cái còn lại. Quan niệm này mang nặng tính trực quan, ngây
thơ, ấu trĩ và chưa khoa học nên đã bị khoa học bác bỏ. -
Hai là: Quan niệm của chủ nghĩa siêu hình thế kỷ XVII, XVIII quy vật chất về
các thuộc tính của vật như là khối lương, quảng tính, hay là kết cấu nguyên tử. Quan niệm này
đã có tính khoa học tuy nhiên nó còn mang nặng tính siêu hình cơ giới, máy móc. Do đó những
quan niệm này cuối cùng cũng bị khoa học bác bỏ. Từ đó đặt ra nhu cầu phải có một quan niệm
mới về vật chất. Lênin là người đầu tiên đưa ra được quan điểm này.
Từ đó, chúng ta có thể rõ ràng thấy rằng định nghĩa Vật chất của Lênin với quan
niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác có một điểm chung là đều cho rằng vật
chất có trước. Bởi lẽ, đối với quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác, ông
ấy đã khẳng định rằng vật chất quyết định ý thức. Còn với Lênin, khi khẳng định vật chất
là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh…, Lênin đã nhấn mạnh: Bằng
những phương pháp nhận thức khác nhau, con người có thể nhận thức được thế giới vật
chất. Như thế, luận điểm này đã phủ nhận thuyết không thể biết. Luận điểm này cũng trả lời
dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: Con người có nhận thức được thế
giới khách quan hay không? Lênin khẳng định là có.
Điểm khác biệt giữa định nghĩa Vật chất của Lênin với quan niệm về vật chất của
chủ nghĩa duy vật trước Mác là định nghĩa Vật chất của Lênin đã kế thừa, bảo vệ, phát triển
quan điểm của Mác về vật chất; khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong
quan niệm về vật chất của các thời kỳ trước; giải quyết được sự khủng hoảng về mặt nhận
thức luận trong khoa học tự nhiên ở đầu thế kỷ XX tạo nền tảng vững chắc cho chủ nghĩa duy vật phát triển.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học
trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng; cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương
pháp luận khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa
duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù
này.Đứng trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Lênin đã giải đáp các vấn đề cơ
bản của triết học như sau: lOMoAR cPSD| 58097008
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, song ý thức có thể
tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy con người phải
tôn trọng tính khách quan, đồng thời phát huy tính năng động, chủ quan của mình.
Câu 2: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến(khái niệm mối liên hệ, phân loại mối liên hệ, nội
dung, tính chất của mối liên hệ, ý nghĩa ppl (quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử -
cụ thể), liên hệ tt) *Khái niệm
+ Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau giữa
các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ví dụ: Mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người hay con người với xã hội.
+ Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều
sự vật và hiện tượng của thế giới
Ví dụ: Trong tư duy con người có những mối liên hệ kiến thức cũ và kiến
thức mới; cây tơ hồng; cây tầm gửi sống nhờ; muốn chung mục đích thì phải chung tay với nhau.
=> Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên
hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định.
Đồng thời, cũng tồn tại những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối
liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện
nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến đó tạo nên tính thống
nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của các
mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. *Phân loại
-Thực vật và động vật có mối liên hệ với nhau trong quá trình trao đổi chất -Giữa
các mặt trong cùng một sự vật liên hệ nhau.
Ví dụ: các bộ phận trong cơ thể người, các địa phương trong 1 nước liên hệ nhau.
-Giữa các quá trình phát triển của sự vật cũng liên hệ với nhau.
Ví dụ: Quá trình phát triển của con người theo tuổi tác, theo từng thời kỳ phát triển.
-Mối liên hệ có tính nhiều bề vô cùng phong phú đa dạng. Cụ thể là liên hệ bên trong,
liên hệ bên ngoài, liên hệ gián tiếp, trực tiếp, liên hệ cơ bản, không cơ bản, chủ yếu và không chủ yếu.
Quan điểm siêu hình:
Các sự vật hiện tượng tồn tại tách rời cô lập nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không
có sự phụ thuộc liên hệ lẫn nhau. Nếu có liên hệ thì chỉ là sự hời hợt bề ngoài.
Ví dụ: Xuất phát từ thế kỷ 17, 18, khi khoa học phát triển đã tách khỏi triết học, khi càng tách
rời thì càng đạt nhiều thành tựu, và từ thói quen ấy đem vào triết học đã nhìn sự vật trong trạng
thái tĩnh tại, tách rời cô lập.
Quan điểm biện chứng :
Các sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa liên hệ, qui định và chuyển hóa lẫn nhau.
Ví dụ: Ở đây chúng ta có thể hình dung ra 1 sự vật hiện tượng nào đó ở bất kỳ vị trí nào đó
trên thế giới thông qua mối liên hệ từ nhận thức kinh nghiệm *Nội dung
Thế giới được tạo thành từ vô số những sự vật, những hiện tượng, những quá trình khác nhau.
Trong lịch sử triết học những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng
tồn tại cô lập, tách rời nhau. Vớiquan điểm siêu hình giữa các sự vật, hiện tượng không có mối
liên hệ, ràng buộc quy định nhau. Khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại,
phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế
giới. Theo phép biện chứng duy vật, nguyên lý mối liên hệ phổ biến là sự khái quát các mối
liên hệ, tác động, ràng buộc, quy định, xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện lOMoAR cPSD| 58097008
tượng và các quá trình trong thế giới. Theo cách tiếp cận đó, phép biện chứng duy vật chỉ ra
rằng: mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến cùng ràng
buộc, chi phối lẫn nhau, vận động và biến đổi không ngừng. Trong thế giới không có sự vật,
hiện tượng tồn tại cô lập, biệt lập nhau. Phép biện chứng duy vật khẳng định cơ sở của mối liên
hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện
tượng trong thế giới dù có đa dạng và rất khác nhau, thì cũng chỉ là những dạng tồn tại cụ thể
của một thế giới duy nhất là vật chất. Ý thức của con người không phải là vật chất nhưng không
thể tồn tại biệt lập với vật chất bởi vì ý thức cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống
có tổ chức cao là bộ óc người; hơn nữa nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả phản ánh của
các quá trình vật chất.
Ví dụ về mối liên hệ phổ biến:
Trong tự nhiên có các mối liên hệ giữa động vật, thực vật, đất, nước,.. các nhân tố của môi
trường xung quanh. Như cây xanh quang hợp nhả ra khí oxi, động vật hít khí oxi, sau đó động
vật thảira chất thải tạo thành chất dinh dưỡng trong đất cho cây,…
* Tính chất của các mối liên hệ phổ biến +
Tính khách quan: Các mối liên hệ, tác động, suy cho đến cùng, đều là sự phản ánh
mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Liên
hệ là tất yếu, khách quan, vốn có củasự vật hiện tượng.
Ví dụ:- Con người luôn tồn tại trong mối liên hệ với môi trường tự nhiên và xã hội dù họ có ý
thức được hay không. Đó là điều khách quan và không thể thay đổi bởi ý chí con người +
Tính phổ biến: Mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau không những diễn ra ở mọi
sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy, mà còn diễn ra đối với các mặt,
các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:- Sự liên hệ qua lại bên trong cơ thể người có thể ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa người với người. +
Tính đa dạng, phong phú: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn
cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô
hạn của thế giới khách quan; tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải
thích được trong mối liên hệ phổ biến, được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức,vai trò khác nhau. Ví dụ: -
Mỗi người khác nhau thì có mối liên hệ với cha, mẹ, anh em, bạn bè khác nhau.Hay,
cùng làmối liên hệ giữa cha mẹ với con cái nhưng trong mỗi giai đoạn khác nhau có tính chất và biểu hiện khác nhau. -
Các loại cá,chim,thú đều có quan hệ với nước nhưng cá quan hệ với nước khác với
chim và thú. Cá không thể sống thiếu nước, không có nước thường xuyên cá không sống được,
nhưng các loài chim thú thì lại không sống trong nước thường xuyên được.
*Ý nghĩa của phương pháp luận:
+ Nhận thức sự vật trong mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt của chính sự vật và trong sự tác
động giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Ví dụ: Muốn đánh giá một người cần xem xét các mối liên hệ của người đó với gia đình, bạn bè,...
+ Biết phân loại từng mối liên hệ, xem xét có trọng tâm, trọng điểm, làm nổi bật cái cơ bản nhất
của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Một người có thể tốt trong mối quan hệ với người này nhưng lại xấu đối với người khác;
phải biết phân loại làm rõ thực chất của người đó.
+ Từ việc rút ra mối liên hệ bản chất của sự vật, ta lại đặt mối liên hệ bản chất đó trong tổng
thể các mối liên hệ của sự vật xem xét cụ thể trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Ví dụ: Trong thời điểm ra đời, Truyện Kiều bị người đời dè bỉu, hắthủi nhưng đến hiện tại, đó
là lại một kiệt tác của dân tộc. Vì vậy, con người không thể chỉ đặt trong thời điểm nhất định
để đánh giá sự vật hiện tượng mà phải trải qua giai đoạn lịch sử làm nổi bật cái bản chất.
+ Cần tránh phiến diện siêu hình và chiết trung, ngụy biện. Ví dụ: Thầy bói xem voi. lOMoAR cPSD| 58097008 YN pp luận -
Thứ nhất, từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật,
ta rút ra được nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nguyên
tắc này yêu cầu xem xét sự vật hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất của tất cả các mặt,
các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính cùng các mối liên hệ của chúng , nhận thức sự vật trong
các mối liên hệ giữa các yếu tố, các mặt của chính sự vật và trong sự tác động giữa các vật đó với các sự vật khác. -
Thứ hai, phải xem xét sự vật hiện tượng trong mối liên hệ giữa sự vật hiện
tượng này với sự vật hiện tượng khác và môi trường xung quanh, kể cả các mặt, các mối liên
hệ trung gian, gián tiếp.Nguyên tắc này yêu cầu phải biết phân loại từng mối liên hệ, xem xét
trọng tâm, trọng điểm làm nổi bật cái quan trong nhất , cơ bản nhất của sự vật hiên tượng -
Thứ ba: nguyên tắc lịch sử - cụ thể - phải xem xét sự vật hiện tượng trong
không gian, thời gian nhất định, có nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật hiện
tượng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể , trong quá khứ, hiện tại và tương lai. -
Thứ tư, nguyên tắc toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, chỉ thấy mặt
này mà không thấy mặt khác hoặc chú ý đến rất nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều,
không thấy bản chất của sự vật hiện tượng, rơi vào thuật ngụy biện và chủ nghĩa chiết trung.
Cần tránh phiến diện siêu hình và chiết trung ngụy biện.
Ví dụ: ý nghĩa của phương pháp luận của nguyên lí mối liên hệ phổ biển: nét đặc trưng của xã
hội loài người là con người ta phải sản xuất thì mới có thể tồn tại và phát triển; thời đại nào
cũng phải sản xuất. Như thế, nói theo ngôn ngữ biện chứng thì sản xuất là một phạm trù “vĩnh
viễn”, nghĩa là nó luôn luôn xảy ra, bất kể trong hình thái xã hội nào, giai đoạn nào.
Câu 3: *Nguyên lý về sự phát triển (khái niệm phát triển, nội dung, ý nghĩa ppl (quan
điểm phát triển), liên hệ tt). *Khái niệm
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự “phát triển” chỉ là sự tăng, giảm thuần túy
về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; đồng thời, nó cũng xem sự phát
triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp. Đối lập với
quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm “phát triển” dùng để chỉ quá trình vận
động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái niệm “phát triển” không đồng nhất với khái niệm
"vận động" (biến đổi) nói chung; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần
về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng
ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.“Phát triển” cũng là quá
trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là quá trình
thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật,
hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
2)TÍNH CHẤT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú. -
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu
thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, “phát triển” là thuộc tính tất yếu, khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức của con người.
Ví dụ: Hạt lúa, hạt đầu khi có nước, đất, chất dinh dưỡng, ánh sáng dù không có con người
nhưng nó vẫn phát triển. -
Tính phổ biến được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai
đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn
đến sự ra đời của cái mới, phù họp với quy luật khách quan.
+ Trong tự nhiên : Tăng cường khả năng thích nghi cơ thể trước sự biến đổi của môi trường lOMoAR cPSD| 58097008
Ví dụ: Người ở Miền Nam ra công tác làm việc ở Bắc thời gian đầu sẽ khó chịu với thay đổi
khí hậu họ nhưng dần họ sẽ quen và thích nghi.
+ Trong xã hội: Nâng cao năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội, tiến
tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người.
Ví dụ: Mức sống của dân cư xã hội sau lúc nào cũng cao hơn so với xã hội trước.
+ Trong tư duy : Khả năng nhận thức ngày càng sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn hơn với tự nhiên và xã hội.
Ví dụ: Trình độ hiểu biết của con người ngày càng cao so với trước đây. -
Tính đa dạng, phong phú được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung của
mọi sự vật. hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình
phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời gian khác nhau thì
sự vật, hiện tượng sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự
vật, hiện tượng còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác của
rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng
phát triển của sự vật, hiện tượng, thậm chí có thể làm cho sự vật, hiện tượng thụt lùi tạm thời,
có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác... Đó đều là những biểu hiện
của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
+)Chẳng hạn, nói chung, ngày nay trẻ em phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với
trẻ em ở các thế hệ trước do chúng được thừa hưởng những thành quả, những điều kiện thuận
lợi mà xã hội mang lại.
3. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN RÚT RA TỪ NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển của các sự vật, hiện tượng, chúng ta rút ra quan
điểm phát triển trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điển này đòi hỏi:
a. Khi xem xét các sự vật, hiện tượng, ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển. –
Ta cần phải nắm rõ được sự vật không chỉ như là cái nó đang có, đang hiện hữu trước mắt mà
còn phải nắm được khuynh hướng phát triển tương lai và khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư
duy khoa học, ta phải làm sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó. –
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt
đối hóa một nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, xem
đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ
đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng. b.
Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển
trong thực tiễn.Ta cần phải xác quyết rằng các sự vật, hiện tượng phát triển theo một
quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Do đó ta phải công nhận tính quanh co, phức tạp
của quá trình phát triển như một hiện tượng phổ biến, đương nhiên.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước thụt
lùi tương đối của sự vật, hiện tượng. Bi quan về sự thụt lùi tương đối sẽ khiến chúng ta gặp
phải những sai lầm tai hại. c.
Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của sự vật,
hiện tượng.– Ta phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong
mỗi sự vật, hiện tượng. Từ đó, xác định biện pháp phù hợp giải quyết mâu thuẫn để
thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển. Việc xác định những biện pháp cũng cần căn
cứ vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng. Vì sự phát triển diễn
ra theonhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. –
Vì trong sự phát triển có sự kế thừa, ta phải chủ động phát hiện, cổ vũcái mới phù hợp,
tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo. Ta cũng phải tìm cách kế thừa những
bộ phận, thuộc tính… còn hợp lý của cái cũ, đồng thời kiên quyết loại bỏ những gì thuộc cái
cũ mà lạc hậu, cản trở sự phát triển. Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến
thức thực tiễn. Tuyệt đối tránh bảo thủ, trì trệ trong tư duy và hành động. –
Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay đổi về
chất.Do đó, chúng ta phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho sự vật, hiện tượng tích
lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.