-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phẩm chất và năng lực - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Phẩm chất và năng lực - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Phẩm chất và năng lực - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương
Phẩm chất và năng lực - Văn học dân gian | Trường Đại học Hùng Vương được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Văn học dân gian (LITR1234) 42 tài liệu
Trường: Đại học Hùng Vương 153 tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
ĐỀ TÀI
“ phẩm chất và năng lực của
người giáo viên trung học phổ thông” A LỜI MỞ ĐẦU
I lý do chọn đề tài Cơ sở lý thuyết :
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, một chữ cũng thầy, nửa chữ cũng thầy. Điều này
cho thấy, nghề giáo là một nghề rất cao cả, luôn được xã hội kính trọng và yêu
quý từ ngàn xưa đến nay. Xã hội dù có phát triển đến đâu thì vị trí, vai trò của
người thầy giáo, cô giáo trong lòng mỗi con người vẫn được khẳng định với
sự kính yêu và tôn trọng. Với mỗi chúng ta, khoảng thời gian đi học là khoảng
thời gian đẹp nhất, với nhiều kỷ niệm đáng nhớ, đáng giữ gìn trân trọng nhất.
Trong ký ức đó, bạn bè, trường lớp và thầy cô là hình ảnh không bao giờ phai.
Thầy, cô giáo là những người đã truyền đạt các kiến thức, những kinh nghiệm
sống cho con người từ khi chập chững bước vào đời cho đến khi họ trưởng
thành, những kiến thức và kinh nghiệm đó có thể ở nhiều lĩnh vực khác nhau
của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và cả những kiến thức để hình thành
nhân cách con người, góp phần tạo dựng một xã hội tốt đẹp.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt”. Đại hội cũng đã xác định: Chăm lo xây dựng
đội ngũ giáo viên; xã hội hoá giáo dục, đào tạo; khuyến khích các hoạt động
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; mở rộng hợp tác quốc tế và
tăng ngân sách cho hoạt động giáo dục, đào tạo (GD-ĐT). Phát triển đội ngũ
nhà giáo với cơ cấu hợp lý, có chất lượng sẽ là động lực quan trọng để đổi
mới và nâng cao chất lượng GD-ĐT, góp phần quan trọng tạo ra nguồn nhân
lực có chất lượng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển của xã
hội và hội nhập quốc tế. Đồng thời, Đại hội cũng đã chỉ ra các giải pháp cơ
bản phát triển đội ngũ giáo viên, trong đó coi giải pháp: "xây dựng đội ngũ
giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng”, là khâu then chốt,
là tiền đề trong đổi mới GD-ĐT hiện nay. Chủ trương “Phát triển đội ngũ giáo
viên là khâu then chốt” trong “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào
tạo” thể hiện tư duy và nhận thức cách mạng, khoa học, toàn diện, triệt để và
sâu sắc của Đại hội XI. Cơ sở thực tiễn:
Bên cạnh những người thầy âm thầm cống hiến cho sự nghiệp trồng người,
hết lòng vì học sinh thân yêu,sẵn sàng hy sinh tính mạng của mình để cứu học
sinh trong bão lũ, và cảm động hơn nữa là không ít giáo viên đã chia sẽ phần
thu nhập ít ỏi của mình gúp học sinh nghèo vượt khó,học giỏi…những hành
động bình dị đó đã vun đúc lên sự vẻ vang của nền giáo dục nước nhà thì có
một bộ phận giáo viên tha hóa về đạo đức, nhân cách:lợi dụng học trò và phụ
huynh, chạy theo thành tích,thậm chí thầy cô đánh đập học sinh,dùng áp lực
xúc phạm đến nhân cach của học sinh….sống ngụy biện để lừa gạt dư luận,tự
lừa dối mình,đánh mất mình,làm mất lòng tin của xã hội,làm ảnh hưởng đến
uy tín chất lượng giáo dục.
Từ đó cho thấy muốn chấn hưng,phát triển và đưa nước ta hội nhập quốc tế
thì cần phải chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Để chấn hưng giáo dục, nâng
cao chất lượng giáo dục thì cần phải chấn hưng đội ngủ giáo viên, nâng cao
nhận thức của người giáo viên. Để giúp giáo viên nhận thức rõ vai trò vị trí
của mình đối với xã hội,hướng giáo viên rèn luyện tốt hơn trong sự nghiệp
trồng người, em đã chọn đề tài “ phẩm chất và năng lực của người giáo viên trung học phổ thông”.
II Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu lý luận và thực tiễn của vấn đề tôi đưa ra một số
giải pháp nhằm nâng cao phẩm chất và năng lực của người giáo viên trung học phổ thông(THPT)
III Nhiệm vụ nghiên cứu
-Tìm hiểu cơ sở lý luận về phẩm chất và năng lực của người giáo viên THPT
-Nghiên cứu thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao việc rèn
luyên phẩm chất và năng lực của người giáo viên THPT
IV Đối tượng và khách thể nghiên cứu:
-Đối tượng: phẩm chất và năng lực của người giáo viên THPT
-Khách thể: nhân cách của người giáo viên.
V Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nghiên cứu: phẩm chất và năng lực của người giáo viên.
- Phạm vi: ở trường THPT
VI Giả thuyết khoa học
Nếu đưa ra những giải pháp thiết thực góp phần nâng cao phẩm chất và năng
lực người giáo viên thì sẽ đáp ứng được sự nghiệp trồng người của xã hội.
VII Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phương pháp đọc tài liệu
-Phương pháp nghiên cứu thực tiễn :phương pháp quan sát, hỏi ý kiến chuyên
gia, phương pháp trò chuyện,phương pháp tổng kết kinh nhgiệm giáo dục.
VIII Đóng góp chính của đề tài
Giúp người giáo viên nhận thức về vị trí vai trò của người giáo viên trong
nền giáo dục nước nhà, hướng người giáo viên rèn luyện mình tốt hơn trong
nhiệm vụ “trồng người”. B NỘI DUNG
Chương I Cơ sở lý luận về nhân cách của người giáo viên THPT
1.1 Một số khái niệm có liên quan
1.1.1 Phẩm chất là gì?
Chất có nghĩa là cái vốn có; chất là tính quy định bên trong một vật này
khác với vật khác. Phẩm chất chỉ tính chất và đặc điểm vốn có của sự vật.
Khái niệm phẩm chất vừa có nghĩa hẹp vừa có nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp,
phẩm chất là khái niệm sinh lý học, chỉ đặc điểm sẵn có của cơ thể như hệ
thần kinh, các giác quan và cơ quan vận động. Đặc điểm sẵn có là cơ sở tự
nhiên để con người tiếp nhận những hiện tượng tâm lý và thuộc tính tâm lý.
Theo nghĩa rộng, phẩm chất chỉ các đặc điểm tâm lý như: tính cách, ý chí,
hứng thú, tính khí, phong cách của con người.
Như vậy có thể hiểu phẩm chất của người giáo viên không chỉ là những đặc
trưng đơn giản có sẵn của sinh lý học mà là tổng hòa các yếu tố bên trong,
trên cơ sở các phẩm chất sinh lý, hình thành các phẩm chất tâm lý thông qua
hoạt động, quan hệ giao lưu trong thực tiễn đời sống và trong công tác của người giáo viên
1.1.2 Năng lực là gì?
Theo quan điểm của những nhà tâm lý học: Năng lực là tổng hợp các đặc
điểm, thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một
hoạt động, nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
Các năng lực hình thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá nhân nó
đóng vai trò quan trọng, năng lực của con người không phải hoàn toàn đo tự
nhiên mà có, phần lớn do công tác, do tập luyện mà có.
1.1.3 Giáo viên THPT ?
Giáo viên là người giảng dạy, giáo dục cho học viên, lên kế hoạch, tiến
hành các tiết dạy học, thực hành và phát triển các khóa học nằm trong chương
trình giảng dạy của nhà trường trung học phổ thông đồng thời cũng là người kiểm tra, ra đề, chấm
điểm thi cho học sinh để đánh gia chất lượng từng học
trò. Giáo viên nam thường được gọi là thầy giáo còn giáo viên nữ thường được gọi là cô giáo.
1.1.4 Phẩm chất và năng lực của người giáo viên xưa và nay.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã sản sinh và nuôi dưỡng nhiều tấm gương nhà
giáo sáng ngời cả cốt cách và tâm hồn. Những con người đó đã tạo nên phẩm
chất đạo đức cao đẹp của người thầy trong truyền thống.Người thầy giáo Việt
Nam trong truyền thống là những con người đã vắt trọn công sức và tâm
huyết để trao lại cho học trò của mình một thứ tài sản vô giá: “đạo làm
người”. Ông thầy là người dẫn dắt con người trở thành con người có đạo đức
cao đẹp, có trí tuệ sâu rộng, có lòng yêu nghề tha thiết, vì tương lai của thế hệ
trẻ mà “hành nghề”. Hành nghề vì sự nghiệp giáo hoá chứ không phải vì danh
lợi. Họ là những người rất coi trọng tri thức, tôn vinh đạo thánh hiền, lấy “dạy
chữ, dạy người” làm lẽ sống, coi trọng danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết;
xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng tài năng và đức độ, bằng học vấn và
cống hiến. Ai sinh ra trên đời này cũng đều có cha mẹ, sự trưởng thành cũng
đều có công lao to lớn của người thầy. Người thầy không chỉ dạy ta chữ
nghĩa, kiến thức mà còn dạy ta biết làm người cho đúng nghĩa. Nhìn lại những
thời kỳ xa xưa nền văn hiến của dân tộc, chúng ta sẽ gặp biết bao nhà giáo
dục mẫu mực, lỗi lạc. Từ triều Lê, giáo dục nho học ở nước ta đã phát triển
rộng rãi, hầu như không có làng xã nào ở đồng bằng mà không có các lớp học
chữ Hán ở trình độ nhập môn. Dường như tất cả mọi người đã theo Nho học
đều là thầy dạy, dân ta quen gọi là thầy đồ. Thầy vừa dạy, vừa học, dạy hết
chữ thì để học sinh đi học thầy đồ khác. Đó là tình trạng phổ biến của trường lớp Nho học thời xưa.
Ngày nay với sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội đã tác động không
nhỏ tới đời sống đạo đức nói chung, đạo đức người thầy nói riêng. Sự tác
động hai mặt của kinh tế thị trường đang làm cho đạo đức xã hội biến đổi theo
hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Vì vậy, mỗi người thầy giáo Việt Nam
trong điều kiện hiện nay, để tiếp nối được truyền thống đạo đức cao đẹp của
người thầy giáo; để xứng đáng với lòng mong đợi của toàn xã hội; để đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hội nhập, phát triển thì phải không
ngừng trau dồi, hoàn thiện bản thân cả đức lẫn tài để đáp ứng được những đòi
hỏi và kỳ vọng của xã hội.Mỗi người thầy giáo cần phát huy những phẩm chất
cao đẹp của người thầy giáo trong truyền thống dân tộc. Mỗi người thầy giáo
hôm nay cũng luôn phải là người có lòng yêu nghề tha thiết, vì tương lai của
thế hệ trẻ mà hành động, phấn đấu. Hành nghề vì sự nghiệp giáo dục chứ
không phải vì quyền lợi vật chất. Họ cũng luôn luôn phải là người coi trọng
danh dự, lương tâm, giữ gìn khí tiết, xác lập vị trí của mình trong xã hội bằng
tài năng và đức độ chứ không phải bằng quyền lực chính trị, bằng tiền bạc…
Họ phải là những người rất coi trọng tri thức, coi trọng chữ nghĩa, tôn thờ đạo
thánh hiền.Người thầy ngày nay vừa phải chú trọng tri thức khoa học vừa
phải biết kết hợp với thực tiễn, phải thấm nhuần nguyên tắc về “sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn”, nói đi đôi với làm, học đi đôi với hành. Mỗi người
thầy không những phải trang bị cho học sinh tri thức mà còn phải giúp họ tìm
được phương pháp học tập và làm việc có hiệu quả cao.
1.2 Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giáo viên
1.2.1 Những yêu cầu về phẩm chất của người giáo viên
Người giáo viên trung học phổ thông cần có những phẩm chất sau:.
Phải có thế giới quan khoa học: người giáo viên là người giác ngộ XHCN gắn
liền với lý tưởng nghề nghệp trong sáng,luôn say sưa học tập không ngừng
nâng cao kiến thức trình độ cách mạng, có năng lực trình độ tổ chức thực hiện
thành công quá trình dạy học và giáo dục
- Lòng thương yêu học sinh:đây là một phẩm chất đạo đức cao quý của con
người và là một phẩm chất đặc trưng trong nhân cách của người giáo viên
- Luôn là tấm gương sáng cho mọi người: giáo viên vừa là người thầy vừa là
người bạn lớn thân thiết của học sinh. Giáo viên phải là tấm gương sáng soi
chiếu vào tâm hồn trong trắng, hồn nhiên của các em, giáo dục và rèn luyện thói quen tốt cho các em.
- Lòng yêu nghề: luôn tìm tòi nội dung, phương pháp để giáo dục sát đối
tượng, đảm bảo hiệu quả của các hoạt động giáo dục, biết lo lắng, thông cảm,
chủ động tìm ra các phương pháp dạy học phù hợp, tình yêu đối với học sinh
là động lực mạnh mẽ giúp người giáo viên vượt qua khó khăn, thử thách để
thực hiện chức năng “ người kĩ sư tâm hồn” với tinh thần trách nhiệm cao và
niềm say mê sáng tạo, ý chí không ngừng vươn lên hoàn thiện mình để cống
hiến cho sự nghiệp “ trồng người”.
- Ngoài ra người giáo viên còn có những phẩm chất: phải là công dân gương
mẫu có ý thức trách nhiệm cao, hăng hái tham gia vào sự phát triển của cộng
đồng và phải là người có phong cách mô phạm, sống khiêm tốn, dản dị chan
hòa,gần gũi, sẵn sằng giúp đỡ mọi người, là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
1.2.2 Những yêu cầu về năng lực của người giáo viên.
Yêu cầu về năng lực của người giáo viên hiện nay: giáo viên phải được
đào tạo ở trình độ cao về học vấn, toàn diện cả về khoa học tự nhiên, khoa
học ứng dụng kĩ thuật và công nhệ, cả về khoa học nhân văn và khoa học xã
hội. Người giáo viên phải không ngừng hoàn thiện và phát huy tính tự học
độc lập tự chủ sáng tạo trong hoạt động sư phạm cũng như biết phối hợp nhịp
nhàng với tập thể sư phạm nhà trường trong việc thực hiện mục têu giáo
dục.Cụ thể như:năng lực chuẩn đoán nhu cầu và đặc điểm đối tượng, năng lực
thiết kế kế hoạch dạy học,tổ chức thực hiện kế hoạch, giám sát đánh giá kết
quả của hoạt động và năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn gây ra.
Ngoài ra người giáo viên còn cần các năng lực sau: nắm vững tri thức khoa
học, thường xuyên tư học tự nghiên cứu bắt kịp với yêu cầu đổi mới không
ngừng trong nội dung và phương pháp giảng dạy, nắm vững các tư tưởng và
thành tựu khoa học tiên tiến. Người giáo viên phải có kiến thức và kĩ năng
giao tiếp ứng xử sư phạm, kĩ năng tổ chức thực hiện quá trình dạy học linh
hoạt, sáng tạo,kỹ năng nghiên cứu nắm vững đối tượng,nắm vững trình độ
phát triển nhân cách trẻ và kĩ năng đúc kết kinh nghiệm giáo dục của bản thân và đồng nghiệp.
1.3 Tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực của người giáo viên THPT.
1.3.1 Yêu cầu của xã hội đối với người giáo viên.
Thực tiễn phát triển xã hội đòi hỏi phải đẩy mạnh xây dựng đạo đức mới,
trong đó có đạo đức nghề nghiệp, đạo đức người thầy, làm cho dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước đang đặt ra những yêu cầu bức thiết đối với nền đạo đức xã
hội nói chung và việc lưu giữ, phát huy những giá trị cao đẹp của đạo đức
người thầy trong truyền thống nói riêng. Để tạo ra một lớp người Việt Nam
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trí tuệ, đủ năng lực đưa nước
ta hội nhập với văn minh nhân loại mà bản sắc dân tộc vẫn được giữ vững, là
nhiệm vụ của toàn xã hội nhưng trong đó người thầy giữ vai trò không nhỏ.Để
hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, mỗi người thầy phải không ngừng tự
đổi mới, hoàn thiện bản thân để đáp ứng yêu cầu mới, phải có ý thức quyết
tâm đi vào khoa học kỹ thuật, nhất là khoa học giáo dục, làm tốt công tác
“dạy chữ, dạy nghề, dạy người”. Tập thể người thầy, cá nhân người thầy
không ngừng nêu cao đạo đức, tác phong mẫu mực của nhà giáo xã hội chủ
nghĩa. Phải làm sao để mỗi người thầy không những là nhà sư phạm mà còn
là nhà mô phạm. Say mê, bền bỉ, cần cù, nghiêm túc và sáng tạo trong lao
động sư phạm, thành công không kiêu căng, thất bại không nản chí, thương
yêu, gần gũi học sinh, đoàn kết với đồng nghiệp, gắn bó với nhân dân, thực sự
là những “tấm gương sáng cho học sinh noi theo”.
1.3.2 Các tiêu chí đánh giá, xếp loại giáo viên
-Đánh giá phẩm chất người giáo viên THPT:gồm có 5 tiêu chí
Rèn luyện , tu dưỡng phẩm chất trị, chấp hành đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia các hoạt động chính trị
xã hội; thực hiện nghĩa vụ công dân. Có lòng yêu nghề, gắn bó với nghề dạy
học, thương yêu, tôn trọng, đối xử công bằng với học sinh, ứng xử với đồng
nghiệp, hợp tác, cộng tác với đồng nghiệp , Có lối sống lành mạnh, văn minh,
phù hợp với bản sắc dân tộc và môi trường giáo dục; có tác phong mẫu mực, làm việc khoa học.
- Đánh giá năng lực người giáo viên THPT: gồm có 5 tiêu chuẩn với 20 tiêu chí:
Giáo viên THPT cần rèn luyện về năng lực theo các tiêu chí sau:
Cần tìm hiểu đối tượng, môi trường giáo dục , có năng lực xây dựng kế
hoạch và thực hiện kế hoạch dạy như vận dụng các phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, phát triển
năng lực tự học của học sinh. . Có năng lực kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
và rèn luyện đạo đức của học sinh và có năng lực hoạt động chính trị, xã hội
* Đánh giá, xếp loại giáo viên
Việc đánh giá, xếp loại giáo viên phải căn cứ vào các kết quả đạt được
thông qua các minh chứng phù hợp với các tiêu chí trong từng tiêu chuẩn của
Chuẩn. Kết quả đánh giá, xếp loại thể hiện qua việc cho điểm theo các mức
của từng tiêu chí được quy định như sau :
Mức 1: 1 điểm, mức 2: 2 điểm, mức 3: 3 điểm, mức 4: 4 điểm. Nếu có tiêu chí
chưa đạt mức 1 thì không cho điểm. Với 25 tiêu chí, tổng số điểm tối đa đạt được là 100.
Xếp loại : Căn cứ vào tổng số điểm và mức độ đạt được theo từng tiêu chí,
giáo viên được xếp loại như sau:
- Loại xuất sắc: Tất cả các tiêu chí đạt từ mức 3 trở lên, trong đó phải có ít
nhất 15 tiêu chí đạt mức 4 và có tổng số điểm từ 90 đến 100.
- Loại khá: Tất cả các tiêu chí đạt từ mức 2 trở lên, trong đó phải có ít nhất 15
tiêu chí đạt mức 3, mức 4 và có tổng số điểm từ 65 đến 89.
- Loại trung bình : Tất cả các tiêu chí đều đạt từ mức 1 trở lên nhưng không
xếp được ở các mức cao hơn.
- Loại kém : Tổng số điểm dưới 25 hoặc từ 25 điểm trở lên nhưng có tiêu chí
chưa đạt mức 1 trong đánh giá.
Giáo viên tự đánh giá, xếp loại. Đối chiếu với Chuẩn, mỗi giáo viên tự đánh
giá và ghi điểm đạt được ở từng tiêu chí vào Phiếu giáo viên tự đánh giá
( Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học trung học phổ thông ban
hành kèm theo Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT). Ở từng tiêu chuẩn, giáo
viên chuẩn bị các minh chứng liên quan đến các tiêu chí đã được quy định tại
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học .
Chương II Thực trạng về nhân cách của người giáo viên THPT hiện nay
2.1 Đánh giá chung về tình hình đội ngủ giáo viên
Trước những yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong thời
kỳ CNH, HĐH, đội ngũ giáo viên phổ thông vẫn còn không ít những hạn chế.
Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, nhất là giáo viên có năng lực chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm tốt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số... Cơ cấu giáo viên vẫn còn mất cân đối giữa các môn học, bậc học, các
vùng, miền. Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt
chưa đáp ứng yêu cầu và truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của người học. Đối với bậc học THPT
vẫn còn một số trường thiếu giáo viên các môn có tính đặc thù như công
nghệ, âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, giáo dục công dân, ngoại ngữ... dẫn đến
tình trạng giáo viên dạy kiêm nhiệm không đúng chuyên môn đào tạo còn khá
phổ biến, không bảo đảm chất lượng giáo dục. Mặt khác, tỷ lệ giáo viên có
trình độ đạt chuẩn cao nhưng chưa tương xứng với yêu cầu về chất lượng, kỹ
năng sư phạm hạn chế, phương pháp giảng dạy chậm đổi mới. Số giáo viên có
khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ tin học còn chiếm tỷ lệ thấp. Đáng
chú ý, công tác đào tạo giáo viên chưa thật sự gắn kết với nhu cầu sử dụng
của từng địa phương, vùng miền. Công tác xây dựng quy hoạch, phát triển đội
ngũ chưa được các cấp quản lý quan tâm đúng mức. Nhất là chế độ, chính
sách vẫn còn những bất hợp lý, chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát huy
tiềm năng của đội ngũ giáo viên phổ thông. Để đáp ứng yêu cầu phát triển GD
và ĐT trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, cần xây dựng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục chuẩn hóa, bảo đảm chất lượng, đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu. Theo các chuyên gia giáo dục, trước hết, Bộ GD và ĐT
cần xây dựng kế hoạch củng cố, nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng của hệ
thống các trường sư phạm, khoa sư phạm trong các trường đại học, cao đẳng
và trường cán bộ quản lý giáo dục.Đồng thời tham gia vào việc đổi mới
chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy trong hệ thống
giáo dục. Ngành GD và ĐT cùng các địa phương đánh giá đúng thực trạng đội
ngũ nhà giáo về tư tưởng, đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương
pháp giảng dạy để tiến hành đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, nâng cao trình độ
đội ngũ nhà giáo. Đáng chú ý, việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định,
chính sách, chế độ đối với nhà giáo cũng như các điều kiện bảo đảm việc thực
hiện các chính sách, chế độ nhằm tạo động lực thu hút, động viên đội ngũ
giáo viên phổ thông toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục.
2.2 Đặc trưng phẩm chất và năng lực của người giáo viên THPT
Giảng dạy và giáo dục theo ý nghĩa chân chính của nó, không có nghĩa là
giáo dục và giảng dạy con người chung chung mà là giáo dục và giảng dạy
từng con người cụ thể. Trong thời kỳ hội nhập, yêu cầu của xã hội với người
giáo viên về năng lực, nhân cách và phẩm chất ngày càng cao. Người thầy
phải luôn có ý thức nâng cao trình độ, tiếp cận với khoa học và công nghệ
hiện đại để nâng cao chuyên môn từng ngày.
Nói về động lực chính thúc đẩy người thầy say mê với bục giảng, PGS.TS
Nguyễn Tấn Phát - nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT gói gọn trong dòng chữ:
“Tin - yêu - tinh thần trách nhiệm”. Để có được điều này, điều cần thiết nhất
là khi đến với nghề không thể mang theo sự toan tính, không thật tâm khám
phá và muốn cống hiến cho công việc. Ngành nghề nào cũng đòi hỏi điều này,
nhưng với nghề giáo càng đúng hơn. Một nhà giáo có trách nhiệm phải tìm
được những biện pháp giảng dạy và giáo dục thích hợp nhằm đảm bảo sự tiến
bộ của mỗi học sinh. Ai nói rằng làm nghề giáo là nhàn, là có nhiều thời gian
nhàn rỗi, thì chỉ đúng với giáo viên nào đó thiếu lương tâm và tinh thần trách
nhiệm, giảng dạy bằng cách đọc – chép, nặng về sỉ vả học sinh mà không hiểu
gì về hoàn cảnh của từng em. Trong lao động của nhà giáo, công việc chấm
chữa các bài tập là một công việc đòi hỏi lương tâm và tinh thần trách nhiệm.
Một nhà giáo có lương tâm không đầy đủ sẽ đọc rất nhanh bài làm, bỏ qua
nhiều lỗi và đưa ra một nhận xét rất chung chung và cho một điểm nào đó.
Học sinh có những sai lầm trong bài làm mà không được sửa chữa sẽ tiếp tục
giậm chân tại chỗ và nản chí trong học tập. Tuy nhiên có thể thấy rằng rằng
động lực thôi thúc người thầy cống hiến cho công việc còn phụ thuộc rất lớn
vào nhận thức của các cấp lãnh đạo; các chủ trương, chính sách về giáo dục.
Khi trường không ra trường, lớp không ra lớp thì người thầy cũng khó hoàn
thành chức trách. Dạy học là một hình thức lao động đặc biệt nên phẩm chất
và nhân cách nhà giáo được quy định nhiều yếu tố, nhưng cốt lõi vẫn là tri
thức và tình yêu thương học trò. Đối với nhà giáo thâm niên hay người mới
vào nghề, để tồn tại và phát triển được nghề nghiệp thì buộc họ luôn phải có ý
thức gia tăng hàm lượng tri thức trong tư duy và bồi đắp tình yêu thương,
trách nhiệm trong giáo dục với thế hệ trẻ. Bất kể thời kỳ nào xã hội cũng đòi
hỏi năng lực, nhân cách và phẩm chất của người thầy trong cuộc sống và nghề
nghiệp. Trong thời kỳ hội nhập, áp lực này càng cao và xã hội yêu cầu thêm
người thầy về phẩm chất là phải luôn có ý thức nâng cao trình độ, tiếp cận với
khoa học và công nghệ hiện đại để nâng cao chuyên môn từng ngày.
Muốn làm cuộc cải cách giáo dục “căn bản và toàn diện”, thì phải lấy
mục tiêu người thầy là hàng đầu. Từ thầy kém sẽ có một lớp học trò kém kế
tiếp. Muốn có thầy giỏi thì phải có nhiều chủ trương, chính sách, chế độ
nhưng cần nhất là quan điểm giáo dục đúng đắn hay còn gọi là tư duy giáo dục đúng đắn.
2.3 Thực trạng về phẩm chất và năng lực của người giáo viên THPT.
2.3.1 Việc tu dưỡng và rèn luyện nhân cách của người giáo viên THPT hiện nay
Truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Việt Nam ta được bắt đầu từ
nhân cách trong sáng của nhà giáo- những người làm nghề “cao quý nhất
trong những nghề cao quý”. Dẫu vẫn còn đây đó những “hạt sạn” như chuyện
nhà giáo vùng thấp nhận phong bì của học sinh, phụ huynh xin chuyển tuyến,
vào trường chuyên, lớp chọn, xin điểm hay dạy thêm tràn lan cho chính học
sinh lớp mình làm mất đi sự tôn trọng của học trò, nhưng ở vùng cao vẫn rất
nhiều nhà giáo hy sinh cả tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp giáo dục,
san sẻ cả đồng lương ít ỏi của mình cho những bữa ăn của đám học trò nghèo
xa nhà, thật đáng nể trọng. Nói về giáo viên có thành tích tốt trong giáo dục,
có thể thấy rất nhiều, dưới đây là những tấm gương tiêu biểu:
Rời xa gia đình lên miền núi, vùng đặc biệt khó khăn để dạy học, nhiều giáo
viên phải ở nhà tranh vách nứa, trèo đèo lội suối, đi bộ cả ngày đường để vận
động học sinh đến lớp.
Sáng 9/11/2012, Bộ GD&ĐT tổ chức gặp mặt, biểu dương 128 nữ nhà giáo
tiêu biểu đang công tác tại biên giới, hải đảo, vùng cao, vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Các cô đã chia sẻ những câu chuyện xúc
động về sự hy sinh, hết lòng vì sự nghiệp trồng người.
Cô Trần La Giang (THPT chuyên Sơn La) kể, ra trường cô về Sơn La công
tác và 20 năm qua gắn bó với mảnh đất nơi đây. Là giáo viên dạy giỏi môn
Vật lý, cô từng tham gia ôn luyện và phụ trách học sinh đi thi học sinh giỏi.
Thành quả cô thu được là 79 giải tỉnh, 33 giải quốc gia.
Không chỉ dạy trò giỏi, cô Giang còn dạy con rất giỏi khi Ngô Phi Long - học
sinh người dân tộc đầu tiên đoạt huy chương vàng Olympic Vật lý quốc tế.
"Đối với các tỉnh thì kết quả này không có gì to tát, nhưng ở tỉnh có kinh tế
khó khăn thì chuyên Sơn La phải nỗ lực hơn nhiều. Có lúc giáo viên phải đưa
học sinh về nhà, rồi bạn bè, người thân giúp đỡ các em mới vượt qua được
khó khăn", cô Giang cho hay.
Nhận bằng tốt nghiệp năm 1981, cô Hà Thị Hằng lên công tác ở trường THPT
Định Hóa (Thái Nguyên), nơi đặc biệt khó khăn. Lúc ấy, cuộc sống người dân
còn nghèo đói, trường học chỉ là những mái nhà tranh rách nát. Giáo viên ở
nhà tập thể, còn học sinh phải ở trọ với điều kiện sinh hoạt kham khổ. Ngoài
mấy bơ gạo cùng khoai sắn và một ít rau nhà mang theo, các em không có
tiền mua mắm, mỡ, mì chính và đặc biệt là bữa ăn không bao giờ có thịt, cá.
Đồng lương giáo viên không đủ sống, hàng nghìn thầy cô bỏ việc. Ở trường
Định Hóa, từ chỗ có 38 lớp với 50 cán bộ, giáo viên, sau chỉ còn 9 lớp với 29
giáo viên. Cô Hằng đã vượt qua gian khó để bám trụ với nghề. Cô chia sẻ, với
học sinh dân tộc còn chưa hiểu hết tiếng Việt, dễ bị tổn thương, thầy cô phải
gần gũi, thương yêu và chia sẻ với những khó khăn, áp lực mà các em phải trải qua.
Sinh ra ở mảnh đất cố đô Huế, cô Võ Đăng Mỹ Hảo rời xa gia đình đi nhận
nhiệm vụ tại Tây Nguyên. Dù xác định lên vùng cao là khổ, nhưng cô không
ngờ nơi mình đến là trường THPT Nguyễn Tất Thành (M' Drăk, Đăk Lăk) lại
hẻo lánh và khó khăn đến thế. Điện không có, thông tin quá ít, thiết bị dạy
học thiếu thốn. Học sinh dân tộc thiếu hiểu biết về xã hội, ở xa trường, dăm
ba bữa lại lên cơn sốt rét.
"Tôi trăn trở rất nhiều, rằng mình có thể làm tốt công việc và yên tâm công
tác với điều kiện thế này không? Vậy mà 20 năm trôi qua, tôi đã, đang và sẽ
tiếp tục gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên đầy khó khăn này", cô giáo Hảo tâm sự.
Hiện ngành giáo dục có 1,3 triệu nhà giáo, trong đó khoảng 800.000 nữ giáo
viên và cán bộ quản lý. Có trên 150.000 nữ nhà giáo đang công tác tại 3.900
xã vùng cao, miền núi, bãi ngang, điều kiện còn nhiều khó khăn. Nơi các cô
đang làm nhiệm vụ kéo dài từ Lũng Cú (Hà Giang) đến Đất Mũi (Cà Mau),
Phú Quốc, Thổ Chu (Kiên Giang), trải rộng từ ngã ba biên giới Việt - Lào -
Campuchia đến Hoàng Sa, Trường Sa.
Trường học là cái nôi đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, nguyên khí cho quốc gia.
Vì vậy, các thầy cô phải là những tấm gương soi cho học sinh trong lối sống,
trong cách ứng xử với nhau cũng như với học sinh. Bởi các em không chỉ học
ở trong sách vở mà còn học ở nhân cách của thầy, cô mình - những người
hàng ngày gần gũi đứng trên bục giảng. Mặt hạn chế
Tuy nhiên trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi nền kinh tế - xã hội
chịu nhiều tác động của những mặt trái của cơ chế thị trường thì một bộ phận
giáo viên, nhất là giáo viên ở các thành phố, thị xã đã sa sút phẩm chất, xa rời
đạo lý của người thầy, coi nghề nghiệp và cương vị làm thầy của mình là "bảo
bối" để "làm kinh tế".
Họ giảng cầm chừng ở giờ học chính, dành phần kiến thức chính để "phụ
đạo" học sinh tại nhà riêng, ép buộc học sinh phải học thêm. Nhiều thầy giáo
lợi dụng uy tín của mình để mở các trung tâm luyện thi, thu nhập rất cao.
Không ít trung tâm treo biển bên ngoài gồm các chuyên gia, thầy giáo có
tiếng, nhưng thực chất lại do những người có trình độ non kém giảng dạy.
Những giáo viên có ngôn ngữ và cách ứng xử phản sư phạm, rồi những hành
vi trái đạo đức như bán điểm, bán dâm, đánh đập học sinh, nhận tiền của phụ
huynh học sinh.Báo chí những ngày gần đây phản ánh một số trường hợp giáo
viên chửi mắng học sinh một cách thiếu văn hóa, thầy giáo gạ tình nữ
sinh..Đã đánh mất nhân cách, uy tín người thầy. Sự sa sút đạo lý làm thầy trên
đây là một trong những nguyên nhân chính yếu nhất dẫn đến chất lượng giáo
dục đại trà giảm sút, quan hệ thầy trò xuống cấp.
Vì những lý do trên, ngành giáo dục cần có những biện pháp nâng cao phẩm
chất đội ngũ giáo viên, mà điều quan trọng là phải có cơ chế ràng buộc
trách nhiệm của giáo viên thông qua chỉ tiêu về kết quả học tập của học sinh ở
lớp hay bộ môn mà từng người đảm nhận dạy, có chế độ khen thưởng hay kỷ
luật thỏa đáng. Kiên quyết không để người không đủ năng lực chuyên môn, tư
cách đạo đức kém đứng trên bục giảng.
2.3.2 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Phẩm chất đạo đức nhà giáo có ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín nghề nghiệp
và tương lai con người; do đó, vấn đề giữ gìn và nâng cao phẩm chất đạo đức
nhà giáo là rất quan trọng. Mặc dù vậy, do tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường, do công tác quản lý, giám sát đối với nhà giáo và cán bộ quản lý thiếu
nghiêm minh, nên đã có những biểu hiện cá biệt, nhưng rất nghiêm trọng về
sự xuống cấp phẩm chất đạo đức nhà giáo. Cá biệt, còn có những nhà giáo
mất phẩm chất, thiếu tính nhân văn, thiếu tính văn hóa, thiếu hiểu biết pháp
luật, có những hành vi phi giáo dục, gây sự bất bình trong xã hội, làm giảm sự
tôn vinh của xã hội đối với nhà giáo, tác động xấu đến giáo dục nhân cách học sinh, sinh viên. -Nguyên nhân khách quan:
Tiền lương và các chế độ, chính sách có liên quan chưa đủ tạo được động lực
để đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chuyên tâm với nghề nghiệp,
nên họ phải làm thêm nhiều công việc ngoài dạy học để tăng thu nhập, ít dành
thời gian tự học, nghiên cứu khoa học, chưa chuyên tâm cho việc nâng cao
chất lượng giảng dạy và quản lý theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.
Kinh phí từ Trung ương cấp cho các địa phương, cơ sở giáo dục cũng chỉ mới
đủ để chi trả lương, tỷ lệ ngân sách còn lại chi cho một số hoạt động hành
chính, tu sửa cơ sở vật chất, còn hoạt động chuyên môn hầu như chỉ mang
tính chiếu lệ, các sinh hoạt chuyên đề, chuyên môn gặp nhiều khó khăn vì
thiếu kinh phí. Ở những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cao còn
thiếu thốn quá nhiều những điều kiện tối thiểu để nhà giáo chuyên tâm thực
hiện công tác giáo dục, nhà công vụ được dựng hết sức tạm bợ.
Giáo dục nước ta cũng đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề nan giải từ sự
phân tầng xã hội, nhất là ảnh hưởng tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị
trường, khiến cho một bộ phận của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý vì quá
hám lợi ích vật chất mà đánh mất phẩm chất đạo đức, làm xói mòn những nét
đẹp về lương tâm nghề giáo và truyền thống tôn sư, trọng đạo của dân tộc.
Công tác dự báo và quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo
chưa được chú trọng đúng mức, dẫn đến tình trạng thừa tổng thể, thiếu cục
bộ, hụt hẫng giữa các thế hệ. - Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân giúp người giáo viên phấn đấu và đạt thành tích cao trong sự
nghiệp giáo dục là tinh thần luôn tìm tòi nội dung, phương pháp để giáo dục
sát đối tượng, đảm bảo hiệu quả của các hoạt động giáo dục, biết lo lắng,
thông cảm, chủ động tìm ra các phương pháp dạy học phù hợp, tình yêu đối
với học sinh là động lực mạnh mẽ giúp người giáo viên vượt qua khó khăn,
thử thách để thực hiện chức năng “ người kĩ sư tâm hồn” với tinh thần trách
nhiệm cao và niềm say mê sáng tạo, ý chí không ngừng vươn lên hoàn thiện
mình để cống hiến cho sự nghiệp “ trồng người”.
Nguyên nhân dẫn đến một bộ phận giáo viên xuống cấp về mặt đạo đức là do
ý thức về giáo dục không tốt, không có lòng yêu nghề,yêu trẻ, vì cái lợi trước
mắt mà đánh mất danh dự, phẩm chất người thầy.
Hệ thống văn bản pháp luật cũng như những quy chuẩn về số lượng, trình độ
chuyên môn, phẩm chất đạo đức nhà giáo được xây dựng khá chi tiết, nhưng
tác dụng điều chỉnh đối với nhà giáo và cán bộ quản lý lại kém hiệu quả.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo đạt chuẩn, trên chuẩn (theo văn bằng)
còn nặng về số lượng chưa được quan tâm nhiều đến chất lượng. Chương
trình, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng còn nặng về lý thuyết, chưa
sát thực tế, chưa trang bị cho người học những kỹ năng cần thiết cho công tác
dạy học, giáo dục. Công tác đào tạo, bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, đạo đức
nhà giáo tại các trường, khoa sư phạm còn chưa được quan tâm đúng mức,
đôi khi còn bị xem nhẹ, thả nổi.
Hệ thống các trường, các khoa, các cơ sở đào tạo sư phạm chưa được quan
tâm đầu tư, quy hoạch để bảo đảm các điều kiện tối thiểu cho công tác đào
tạo, một số loại hình đào tạo giáo viên phổ thông ngoài trường sư phạm phát
triển nhanh, các loại hình tại chức, từ xa, liên thông khá ồ ạt, thiếu kiểm soát,
dẫn đến không bảo đảm chất lượng.
Do tính dự báo thiếu sát thực, nên sinh viên tốt nghiệp sư phạm ra trường
ngày càng dôi dư nhiều, khó tìm kiếm việc làm (chưa kể còn có hiện tượng
tiêu cực trong xin tuyển biên chế, hợp đồng) nên đang dẫn đến tình trạng học
sinh phổ thông có học lực giỏi không thi vào trường sư phạm
Chương III Một số giải pháp.
3.1 Nâng cao nhận thức của người giáo viên trong sự nghiệp giáo dục
- Tổ chức cho giáo viên và cán bộ quản lí học tập theo hướng dẫn của Bộ, Sở
GD& ĐT về đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp quản lí trong nhà trường.
- Bỗi dưỡng nâng cao nhận thức về đổi mới để giáo viên, cán bộ quản lí hiểu
rõ đổi mới phương pháp dạy học và phương pháp quản lí như thế nào làm cho
họ nắm chắc được nội dung và vận dụng hiệu quả vào công tác chuyên môn cụ thể.
- Bỗi dưỡng nhận thức,bồi dưỡng kiến thức tin học, sử dụng công nghệ thông
tin, sử dụng đa phương tiện hiện đại vào qúa trình đổi mới phươngn pháp dạy
học, phương pháp quản lí.
- Chỉ đạo tổ chức bồi dưỡng linh hoạt phù hợp với năng lực chuyên môn của
giáo viên và của cán bộ quản lí trong nhà trường.
3.2 Nhà trường có những giải pháp trong việc nâng cao phẩm chất và
năng lực người giáo viên THPT.
Để có thể tiến hành đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam, công
tác đào tạo giáo viên nhất thiết phải đi trước một bước, với một số biện pháp sau:
- Tiến hành cải cách hệ thống sư phạm, xây dựng một số trường sư phạm
trọng điểm, chấn chỉnh lại việc tuyển sinh, đào tạo tại các trường sư phạm.
- Đào tạo giáo viên phải hướng tới mục tiêu tạo cung cấp nguồn nhân lực chủ
yếu cho sự nghiệp: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”.
- Nhà giáo là nhân lực chủ yếu của nền giáo dục mới, nên cũng phải được xác
định hình mẫu chung về chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức; từ đó
cụ thể hóa vào hình mẫu nhà giáo ở từng cấp học.
- Tổng kết sâu sắc, toàn diện mô hình đào tạo trong các trường, các khoa sư
phạm, đồng thời đánh giá, rút kinh nghiệm về một số mô hình đào tạo khác.
- Đổi mới nội dung đào tạo, gắn kết chặt chẽ với thực tiễn giáo dục của đất
nước và thế giới; đẩy mạnh ứng dụng nghiên cứu khoa học giáo dục; phát
triển năng lực hoạt động trong cộng đồng và khả năng lập nghiệp của nhà giáo tương lai.
- Đổi mới sâu sắc phương thức đào tạo theo hướng dạy cho nhà giáo tương lai
biết cách tự tìm kiếm kiến thức, rèn kỹ năng sư phạm, không ngừng tu dưỡng
phẩm chất đạo đức nghề giáo, có khả năng thích ứng với thực tiễn giáo dục.
- Đổi mới nội dung, chương trình, phương thức bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ
quản lý một cách khoa học, bảo đảm tính hiệu quả, thiết thực, đáp ứng yêu
cầu đổi mới giáo dục ở từng cấp, bậc học.
Ban hành chính sách ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
3.2.1 Nhà trường tổ chức kiểm tra đánh giá, phê bình và tự phê bình.
- Đối với giáo viên: Kiểm tra đánh giá trên các khâu
+ Đánh giá phẩm chất của giáo viên( đồng nghiệp, học sinh, giao tiếp
trong công việc, các buổi dự giờ)
+Chuẩn bị lên lớp( giáo án,phương tiện dạy học)
+ Dự giờ lên lớp để nắm được năng lực của giáo viên.
+Kiểm tra qua kết quả nhận thức của học sinh.
+Chỉ đạo đánh giá tiết dạy: về mục tiêu, phương pháp,về cấu trúc,và kết
quả học tập của học sinh.
+Sử dụng bài kiểm tra trắc nghiệm trong các giờ,thanh tra chuyên môn giờ
dạy thi giáo viên giỏi nhằm đánh giá năng lực chuyên môn của giáo viên.
+Chỉ đạo việc kiểm tra đánh giá kết quả năng lực chuyên môn của giáo
viên cần phải đảm bảo tính khách quan gắn với thực tiễn.
3.2.2Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên thể hiện mình,góp sức mình
vào sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Bảo đảm các điều kiện tối thiểu cho nhà giáo hoàn thành nhiệm vụ
- Trước hết là các điều kiện về tài liệu phục vụ tự học, tự nghiên cứu cho nhà
giáo có thể nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Việc bảo đảm các thiết bị dạy học hiện đại, phòng học bộ môn, phòng thực
hành, môi trường giáo dục tốt cũng là một trong những điều kiện quan trọng,
hỗ trợ cho nhà giáo và cán bộ quản lý hoàn thành nhiệm vụ trong đổi mới phương pháp dạy học.
- Ở những vùng khó khăn, cần có nhà công vụ để một bộ phận nhà giáo mới
ra trường, ở xa có thể ở lại để chuyên tâm việc chuyên môn.
- Tổ chức các hoạt động chuyên môn có tính chất “Câu lạc bộ”, “Tham quan,
học hỏi kinh nghiệm” tại các địa phương, tại các cơ sở quốc tế (trong điều
kiện cho phép) cũng là để làm tăng thêm “vốn” thực tế cho nhà giáo và cán bộ quản lý.
3.3 Giải pháp của xã hội để phát triển đội ngủ giáo viên.
Muốn tạo ra sự chuyển biến về chất cho nhà giáo cần thực hiện tốt một số chính sách sau:
- Xây dựng chế độ lương và phụ cấp ưu đãi cho nhà giáo đúng với tính đặc
thù lao động của họ. Nhà giáo đạt trình độ đào tạo nào thì được hưởng ngạch,
bậc lương của trình độ đào tạo đó.
- Đổi mới tuyển dụng giáo viên phù hợp với đặc trưng từng cấp, bậc học, sát thực tế vùng, miền.
- Hoàn thiện cơ chế kết hợp biên chế và hợp đồng trong các trường theo
hướng mở rộng diện tuyển giáo viên, giảng viên theo chế độ hợp đồng. Xây
dựng chế độ đãi ngộ hợp lý cho giáo viên, giảng viên kiêm nhiệm, hợp đồng
để khắc phục những bất cập hiện nay về số lượng và cơ cấu đội ngũ..
-Tổ chức và nhân rộng các hội nghị, học hỏi tấm gương điển hình tiên tiến.
giúp giáo viên phấn đấu, tạo điều kiện cho giáo viên cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
3.4 Không ngừng học hỏi rèn luyện,học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Để phát triển đội ngũ nhà giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục, trong thời gian tới, chúng ta rất cần tập trung triển khai
thực hiện một số giải pháp chủ yếu. Có nhiều giải pháp để phát triển đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, dưới đây là các giải pháp: Nhận thức và hành động đúng
Mỗi cấp, mỗi ngành, cơ quan chức năng liên quan đều phải nhận thức đúng và
hành động kịp thời để đưa các chủ trương, nghị quyết của Đảng trở thành hiện
thực trong cuộc sống. Trong đó cần tập trung làm chuyển biến cả về nhận
thức và hành động, mà trọng tâm là thực hiện tốt một số chủ trương của Đảng, trong các văn kiện sau:
Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 15-6-2004 của Ban Bí thư (khóa IX) về việc xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Chỉ
thị này nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được
chuẩn hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt
chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay
nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có
hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực,
đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”. Thông báo số 242-TB/TW - Kết luận của Bộ Chính trị
(khóa X) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương
hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020, trong đó xác định: “Xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đáp ứng
yêu cầu về chất lượng”. Nghị quyết Đại hội XI xác định: Đổi mới giáo dục
theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế”, trong đó “đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”.Đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý
Lao động của nhà giáo là loại hình lao động đặc biệt. Công cụ lao
động chủ yếu của nhà giáo không chỉ là kiến thức chuyên ngành, nghiệp vụ sư
phạm mà còn là toàn bộ nhân cách của mình. Nhân cách nhà giáo càng hoàn
hảo thì sản phẩm giáo dục càng hoàn thiện. Nhân cách nhà giáo bao gồm đạo
đức, tâm hồn, tư tưởng, phong cách sống... Kết quả lao động sư phạm của nhà
giáo cũng có nhiều điểm đặc biệt. Các loại lao động khác khi kết thúc quá
trình lao động thì thu được sản phẩm, còn quá trình lao động của nhà giáo
chưa thể kết thúc khi sản phẩm của họ ra đời. Hiệu quả lao động của nhà giáo
sống mãi trong nhân cách của người được đào tạo, nên lao động sư phạm vừa
mang tính tập thể rất sâu, vừa mang dấu ấn cá nhân rất đậm, đồng thời còn ẩn
chứa cả dấu ấn thời đại. Muốn quan tâm tới chất lượng giáo dục - đào tạo
nguồn lực con người một cách toàn diện phải bắt đầu bằng sự quan tâm tới
chất lượng đội ngũ giáo viên . Cùng với việc tự rèn luyện, gìn giữ, việc giáo
dục nhân cách cho các nhà giáo cần được tiến hành từ các trường sư phạm
đến các trường học nơi nhà giáo công tác. C KẾT LUẬN
Người xưa đã từng nói: “Không có nghề nào cao quý hơn nghề giáo”.
Quả vậy, nghề nhà giáo thật thanh tao và giản dị nếu chúng ta chưa một lần
được đứng trên bục giảng vì Thầy cô giáo không chỉ đơn thuần dạy học sinh
làm người qua con chữ mà phải đưa các em đến gần với chân-thiện-mỹ bằng
chính nhân cách sống của mình. Không có lý do gì mà ông cha ta đã truyền
dạy: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Dạy cho học sinh, sinh viên ngày nay là dạy
cái lễ trước khi dạy cái chữ. Điều đó có còn đúng với ngày nay không? Và
câu nói ngày xưa “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” được hiểu theo đúng nghĩa của
nó không? hay “bị quên lãng” và bị giả vờ không hiểu bởi những hư vô vì
quan điểm của các “thầy cô giáo trẻ” ngày nay?
Vì thế, thực tế ngày nay nói truyền chữ, dạy người thực ra là một cách nói cho
vần, ta vẫn phải đặt việc “dạy lễ” lên hàng đầu trong các trường học. Và để
việc dạy Lễ có thể “thẩm thấu” tới học sinh, thầy cô giáo trước hết, phải là
một tấm gương sáng về Lễ. Đạo đức phải chuẩn mực, ngôn phong phải sư
phạm, tư cách phải minh bạch. Không thể chấp nhận cho người Thầy yêu cầu
học sinh lễ phép với mình, khi mình cứ tùy tiện xưng hô “vô phép”…. với các
em, với những đại từ nhân xưng khó nghe và không thể chấp nhận trong môi
trường giáo dục như thế. Càng không thể có những người thầy yêu cầu các
em giữ vệ sinh chung, hoà nhã, thương yêu với bạn bè bằng cách đưa đến cho
các em một hình ảnh trái ngược từ chính những hành vi của bản thân mình.
Thầy phải ra thầy, thì trò mới có thể ra trò. Đạo lý này tưởng đơn giản, nhưng
bao năm qua, do thiếu hụt giáo viên, và do những lý do khách quan và chủ
quan khác, trong khâu tuyển chọn đầu vào ở những trường sư phạm có khi
cũng đã bỏ qua điều này.
“Tiên trách kỷ”, để xảy ra những sự cố đau lòng trong ngành giáo dục, để số
đông thầy cô giáo phải đối mặt với những sự việc đau lòng, dù chỉ là …rất cá
biệt từ đồng nghiệp mình. Vì thế, nên chăng đã đến lúc phải sàng lọc lại và
kiên quyết đưa ra khỏi ngành những nhà giáo xuống cấp về măc đạo đức, về
chuyên môn không đạt những phẩm chất nhất định, họ tự cho mình cái quyền
được thể hiện mà không nhận ra nhân cách đạo đức của mình bị che mờ bởi
những cái lợi vô lý của bản thân và sự ích kỷ, nhỏ nhen của mình để có thể dễ
dàng tiến thân, đạp đổ đạo lý “uống nước nhớ nguồn” để lấy lòng các lãnh
đạo nhằm nắm được một vị trí cho mình để đánh bóng bản thân. Nhân cách bị
hoen ố và có tài nhưng không có đức thì sao, lỗi này tại ai? nguyên nhân từ
đâu? Biết bao câu hỏi đặt ra trước một số trường hợp đặc biệt này.
Sản phẩm lao động của người thầy giáo là nhân cách của học sinh- đó là
nguồn gốc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Đó là giá trị
gốc “giá trị sinh ra mọi giá trị”. Những người thầy giáo của hôm nay và mai
sau hãy tự hào với truyền thống vẻ vang của nghề mình và cùng chung sức để
làm cho truyền thống đó ngày càng được tiếp thêm sức mạnh, góp phần xây
dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh.
Giáo viên có vai trò quyết định đối với chất lượng giáo dục, một bộ
phận không nhỏ giáo viên hiện nay, chưa đủ phẩm chất và năng lực thực hiện
sự đổi mới giáo dục, vì vậy cần phải tiến hành tích cực, khẩn trương bồi
dưỡng đội ngũ này theo tinh thần Chỉ thị 40-CT/TW. Cần tập trung bồi dưỡng
đạt chuẩn và nâng chuẩn, đảm bảo chất lượng các lớp bồi dưỡng. Đặc biệt,
phải chú trọng bồi dưỡng phân hóa theo các loại giáo viên và bồi dưỡng tại cơ
sở. Bồi dưỡng muốn có hiệu quả cần phải gắn liền với sử dụng, đãi ngộ và
sàng lọc. Tránh hình thức, hợp thức hóa, gây lãng phí tốn kém. MỤC LỤC
A LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................1
I lý do chọn đề tài..............................................................................................1
II Mục đích nghiên cứu.....................................................................................2
III Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................3
IV Đối tượng và khách thể nghiên cứu:............................................................3
V Giới hạn và phạm vi nghiên cứu...................................................................3
VI Giả thuyết khoa học.....................................................................................3
VII Phương pháp nghiên cứu............................................................................3
VIII Đóng góp chính của đề tài.........................................................................3
B NỘI DUNG....................................................................................................4
Chương I Cơ sở lý luận về nhân cách của người giáo viên THPT....................4
1.1 Một số khái niệm có liên quan....................................................................4
1.1.1 Phẩm chất là gì?.......................................................................................4
1.1.2 Năng lực là gì?.........................................................................................4
1.1.3 Giáo viên THPT ?.....................................................................................4
1.1.4 Phẩm chất và năng lực của người giáo viên xưa và nay...........................5
1.2 Những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giáo viên..................6
1.2.1 Những yêu cầu về phẩm chất của người giáo viên..................................6
1.2.2 Những yêu cầu về năng lực của người giáo viên.....................................7
1.3 Tiêu chí để đánh giá nhân cách của người giáo viên...................................8
1.3.1 Yêu cầu của xã hội đối với người giáo viên.............................................8
1.3.2 Các tiêu chí đánh giá, xếp loại giáo viên..................................................8
Chương II Thực trạng về nhân cách của người giáo viên THPT hiện nay......10
2.1 Đánh giá chung về tình hình đội ngủ giáo viên.........................................10
2.2 Đặc trưng phẩm chất và năng lực của người giáo viên THPT..................11
2.3 Thực trạng về nhân cách của người giáo viên..........................................12
2.3.1 Việc tu dưỡng và rèn luyện nhân cách của người giáo viên THPT hiện
nay...................................................................................................................12
2.3.2 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên....................................................15
Chương III Một số giải pháp...........................................................................18
3.1 Nâng cao nhận thức của người giáo viên trong sự nghiệp giáo dục.........18
3.2Nhà trường có những giải pháp trong việc nâng cao phẩm chất và năng lực
người giáo viên THPT.....................................................................................18
3.2.1 Nhà trường tổ chức kiểm tra đánh giá, phê bình và tự phê bình............19
3.2.2Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên thể hiện mình,góp sức mình vào
sự nghiệp giáo dục nước nhà...........................................................................20
3.3 Giải pháp của xã hội để phát triển đội ngủ giáo viên...............................20
3.4 Không ngừng học hỏi rèn luyện,học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh....................................................................................................21
C KẾT LUẬN.................................................................................................23 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1)
Giáo trình giáo dục học, tập 1, nhà xuất bản đại học sư phạm
2) vietbao.vn/Giao-duc/10-pham-chat-hang-dau-cua.../202/ 3) Diễn đàn: dantri.com.vn
4) Diễn đàn : baomoi.com.vn 5) Giaoan.violet.vn