Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Kết nối tri thức
Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (Sơ đồ tư duy) Ngữ Văn 8 | Kết nối tri thức. Tài liệu được biên soạn dưới dạng file PDF bao gồm 135 trang tổng hợp các kiến thức chọn lọc giúp các bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời các bạn đón xem!
Chủ đề: Bài 7: Tin yêu và ước vọng (KNTT)
Môn: Ngữ Văn 8
Sách: Kết nối tri thức
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Dàn ý phân tích bài thơ Đồng chí
Dàn ý chi tiết số 1 I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài
quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất nhiều các tác giả tiêu biểu.
- Khái lược nét riêng độc đáo của Chính Hữu và Đồng chí - một bài thơ viết
theo đề tài người lính: Chính Hữu xuất hiện trên thi đàn với phong cách thơ
bình dị. Bài thơ Đồng chí tuy vẫn đi vào đề tài người lính nhưng đã vượt qua tất
cả những xáo mòn để mang đến những cảm xúc rất chân thực về tình đồng chí nơi trái tim. II. Thân bài
1. Đôi nét về hoàn cảnh sáng tác tác phẩm
• Bài thơ ra đời đầu năm 1948, giữa lúc nhà thơ và đồng đội hoạt động
chống lại cuộc tấn công của Pháp lên chiến khu Việt Bắc.
• Ra đời trong hoàn cảnh khó khăn nhưng bài thơ có thể đã như một lời
động viên tinh thần cho chính tác giả Chính Hữu, làm sang trọng thêm
hồn thơ chiến sĩ của ông.
2. 7 câu thơ đầu: Sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí
- Hai câu đầu: Hoàn cảnh xuất thân của những người chiến sĩ:
• Trước hết, tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó. 1
• Xuất thân từ ngư dân miền biển (nước mặn đồng chua) và nông dân (đất cày lên sỏi đá)
• Mối quan tâm hàng đầu của “anh” và “tôi” là đất đai: “nước mặn đồng
chua” - vùng ven biển, đất khó làm ăn; “đất cày lên sỏi đá” - vùng đồi núi
trung du, đất khó canh tác.
=> Đều chung cảnh nghèo khó.
⇒ Sự tương đồng về cảnh ngộ là cơ sở cho sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.
- Hai câu tiếp: Hoàn cảnh gặp gỡ:
• “Đôi người xa lạ”: Hai đối tượng “anh”- “tôi” vốn không quen biết
• “Chẳng hẹn quen nhau”: Tuy sự quen nhau là không hẹn trước, nhưng
chính việc cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng tham gia chiến đấu đã làm họ
nảy nở tình cảm cao đẹp.
- 3 câu thơ tiếp: Sự gắn kết trọn vẹn giữa những người đồng chí:
• Hình ảnh song hành “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”: Hình ảnh thơ có
sự sóng đôi; Tình đồng chí nảy nở và bền chặt khi họ chia sẻ với nhau
những khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ.
• Những người chiến sĩ còn chia sẻ với nhau những gian khó đời thường
“đêm rét chung chăn”, hiểu rõ về nhau để trở thành “tri kỉ”.
• Hai tiếng “Đồng chí!” vang lên làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của
một tình cảm cách mạng cao đẹp: tình đồng chí.
=> Câu thơ chỉ gồm hai chữ “Đồng chí” và dấu chấm than tạo thành một điểm
nhấn, như tiếng gọi thiết tha, xúc động, vừa như một phát hiện, một kết luận,
vừa như bản lề gắn kết hai đoạn thơ, làm nổi rõ một tất yếu: cùng hoàn cảnh 2
xuất thân, cùng chung lí tưởng sẽ trở thành đồng chí của nhau và mở ra những biểu hiện tiếp theo.
3. 10 câu thơ tiếp: Diễn tả những biểu hiện cụ thể vẻ đẹp và sức mạnh của
tình đồng chí đồng đội
- 3 câu đầu: Tình đồng chí là cảm thông những tâm sự thầm kín về hậu phương, quê hương
• Họ hiểu về hoàn cảnh ra đi của nhau: bỏ lại sau lưng những gì bình dị,
thân thuộc nhất, những gì đã gắn bó với họ từ lúc chào đời: “ruộng
nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa” (“Mặc kệ” là quyết ra đi, mang
dáng dấp trượng phu, nhưng vẫn nặng lòng gắn bó với quê hương; “Gian
nhà không”: vừa gợi cái nghèo nàn, xơ xác, vừa gợi cái trống trải trong
lòng người ở lại khi người đàn ông ra trận.)
• Họ cùng nhau xác định lí tưởng: ra đi để bảo vệ những gì thân thương
nhất, thái độ dứt khoát ra đi thể hiện quyết tâm chiến đấu
⇒ Tình cảm đồng chí thân thiết, họ chia sẻ với những gì riêng tư, thân thuộc nhất của họ
- 7 câu tiếp: Đồng chí là cùng chia sẻ với nhau những gian lao thiếu thốn trong đời lính
• Họ san sẻ cùng nhau, cùng nhau trải qua những “cơn ớn lạnh”, những khi
“sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi” ⇒ Hình ảnh chân thực, họ thương
nhau khi phải trải qua những cơn sốt rét
• Họ chia sẻ cho nhau, cùng nhau trải qua những thiếu thốn về vật chất
trong cuộc sống hằng ngày: “Áo anh rách vai...không giày”: Sự thiếu thốn
về vật chất không làm tình cảm của họ phai nhạt đi, ngược lại làm cho họ
quyết tâm hơn vì lí tưởng 3
• “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” Biểu hiện của tình đồng chí trực tiếp
nhất, họ nắm tay nhau - cái nắm tay để sẻ chia, truyền hơi ấm, để hi vọng,
để quyết tâm ⇒ Cử chỉ cảm động chan chứa tình cảm chân thành
4. 3 câu cuối: Biểu tượng đẹp, giàu chất thơ của tình đồng chí
- 2 câu đầu: Nhiệm vụ gian khổ của người lính
• Hoàn cảnh: đêm, rừng hoang, sương muối ⇒ hoàn cảnh khắc nghiệt
• Nhiệm vụ của những người lính chiến: đứng gác, phục kích sẵn sàng “chờ giặc tới”
⇒ Tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách, gian lao, hình ảnh của họ đứng
cạnh bên nhau vững chãi làm mờ đi sự gian khổ, ác liệt của chiến tranh, tình
đồng chí giúp họ lãng mạn và bình thản trong mọi hoàn cảnh
- Câu cuối “Đầu súng trăng treo”: hình ảnh kết thúc đầy bất ngờ, độc đáo, điểm
sáng của toàn bài, gợi liên tưởng thú vị:
• “Súng”: biểu tượng của chiến tranh
• “trăng”: biểu tượng cho thiên nhiên trong mát, cho hòa bình
⇒ Sự hòa hợp giữa trăng và súng làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính, vừa
nói lên ý nghĩa của việc họ cầm súng chiến đấu là bảo vệ cho cuộc sống thanh
bình nơi quê hương ⇒ Tình đồng chí của họ càng thêm cao cả và ý nghĩa bội phần III. Kết bài
- Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công
của bài thơ Đồng chí: thể thơ tự do, ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực 4
- Bài thơ là lời tuyên bố chân thực nhất, bình dị nhất nhưng lại sâu sắc và thiêng
liêng nhất về tình đồng chí đồng đội trong hoàn cảnh khó khăn tột cùng
- Liên hệ cảm nhận riêng của bản thân về tình bạn trong thời đại hiện nay.
Dàn ý chi tiết số 2 1. Mở bài:
Viết về đề tài tình cảm trong chiến tranh vốn là đề tài đước các văn nghệ sĩ hết
sức quan tâm. Đóng góp vào kho tàng ấy, nhà thơ Chính Hữu với bài thơ “Đồng
chí” đã tái hiện lại hình ảnh người lính chống Pháp một cách chân thực, giàu
tính lãng mạn. “Đồng chí” là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới
giữa người với người trong cách mạng và kháng chiến. Đó là tình cảm gắn bó,
sẻ chia được gửi vào hai tiếng “đồng chí” thân thương. 2. Thân bài:
* 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí:
Mở đầu bài thơ, tác giả giới giả giới thiệu cảnh ngộ của những người lính:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hai câu thơ sóng đôi nhau như những người bạn bên nhau. Giọng thơ tâm tình,
thủ thỉ, tâm tình, thân thiết. Hai cụm từ, hai thành ngữ: “nước mặn đồng chua,
đất cày sỏi đá” quen thuộc, gần gũi. Câu thơ mô tả cuộc sống nghèo khó của
những người lính. Họ là những người nông dân mặc áo lính, quen thuộc việc
cày cấy hơn là cầm súng ra chiến trận. Đất nước có loạn, họ buông tay cuốc tay
cày để cầm súng lên đường tiêu diệt kẻ thù chung.
Cùng thời, nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ “Nhớ” cũng viết về những người
nông dân mặc áo lính rất cảm động: 5 “Lũ chúng tôi”
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một hai Súng bắn chưa quen Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
Họ gặp nhau nơi chiến tuyến, trong cùng một đơn vị với bao ước mơ và khát
vọng lớn lao. Người lính nông dân áo vải bọc bạch với nhau những lời tâm sự
chân thành và thấu hiểu:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Hai từ “anh”, “tôi” vừa đứng ở hai dòng thơ, sang đến dòng thơ thứ ba đã hội
nhập lại làm một: “Anh với tôi”, trên cùng một dòng thơ. Đó là sự gặp gỡ, là sự
đồng tình, đồng cảm… Từ “đôi” mà Chính Hữu sử dụng vừa là vần vừa là điệu,
vừa thể hiện sự gắn chặt bên nhau giữa hai người lính, không thể tách rời.
Từ “xa lạ” đến “thân quen” là một sự hội ngộ bất ngờ. Sự hội ngộ ấy chính là sự
gặp gỡ của những người lính có những điểm chung. Trước hết, ở họ có chung
nhau nhiệm vụ chiến đấu, chung một kẻ thù:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”.
Cùng cầm súng bảo vệ tổ quốc. Họ là người lính vệ quốc. Họ có chung một lý
tưởng, một niềm tin: đánh tan giặc Pháp xâm lược, đuổi chúng về Tây, xây
dựng lại cuộc đời ấm êm, thanh bình của những người nông dân Việt Nam bên
ruộng đồng với con trâu, nhánh lúa, củ khoai… Hai từ mang nghĩa chuyển với
phương thức ẩn dụ: “súng, đầu” được luyến láy, lặp lại, càng khẳng định ước
mơ, lý tưởng ấy của họ. “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”, hai vế câu sóng đôi 6
với nhau như muốn hình tượng hóa những người lính bên nhau có nhau trong
cuộc chiến đấu thần kì, chống kẻ thù chung.
Họ chung nhau một cuộc chiến đấu gian khổ, thiếu thốn: “Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỷ”. Cái khó khăn của thời kì đầu kháng chiến chống Pháp mà họ
cần phải vượt qua, phải khắc phục và chiến thắng nó. Và cũng từ trong gian khổ,
khó khăn, ở họ lại hình thành một tình cảm mới: sự thấu hiểu, chia sẻ, tinh thần
đồng cam cộng khổ, họ gọi nhau, xem nhau là “tri kỷ”.
Hai câu thơ vừa như một lời tự sự, như một lời chia sẻ, đồng cảm thân thiết giữa
những người lính bộ đội cụ Hồ. Từ những điểm chung cao quý ấy, họ gọi nhau
là “đồng chí” đầy trìu mến. Hai tiếng đồng chí vừa bình dị vừa thiêng liêng.
Bình dị là bởi họ không cần điều chi lớn lao ngay lúc này ngoài việc cùng chung
chí hướng, cùng chiến đấu chống kẻ thù bảo vệ đất nước. Thiêng liêng là bởi
những người lính Việt Nam đã chọn một danh từ có hàm nghĩa sâu sắc để chỉ
một mối quan hệ mang tính thời đại – tình cảm gắn kết của những người cộng
sản trong mặt trận chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.
Hai tiếng thơ thân thương biết mấy của quá trình hình thành tình cảm đặc biệt
của những người lính: xa lạ → quen nhau → tri kỷ → đồng chí! Câu thơ chỉ có
một từ. Một từ lắng đọng. Một từ thiêng liêng, cao cả. Bởi nó khẳng định sự gắn
bó bền chặt của những người lính bên nhau, có nhau, không thể cắt rời. Hai
tiếng thơ thật tha thiết, cứ thấm dần, thấm dần vào lồng xương, ống máu; ở tận
tâm can của họ, động viên họ vượt qua gian khổ, khó khăn; sống chết có nhau,
cùng chia ngọt sẻ bùi…
Câu thơ như một nốt nhấn trong bản tình ca sâu lắng, là câu thơ chốt của toàn
đoạn thơ gồm bảy câu với ý tưởng: Như thế là đồng chí!
* 10 câu thơ tiếp theo: Biểu hiện của tình đồng chí: Hai câu đầu: 7
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay”.
– Giọng tâm tình, chia sẻ…
– Nỗi niềm: ruộng nương → gửi lại bạn thân,
Gian nhà → mặc kệ sự nghèo khó.
→ “bạn thân” là ai? → mẹ, chị, vợ, em gái của anh? (khi tất cả trai làng đều lên
đường đáp lười thiêng liêng của núi sông)
→ hai từ “gửi, mặc kệ” → thái độ dứt khoát của người lính: dứt áo ra đi, một
lòng lên đường kháng chiến bảo vệ tổ quốc:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy…”. (Nguyễn Đình Thi)
→ Vẻ đẹp của người lính: Đức hi sinh, quên mình, gác lại tình riêng, đáp lời sông núi.
→ Biểu hiện tình yêu nước, yêu làng quê của người nông dân sao mộc mạc,
dung dị, chân chất, không một chút hoa mỹ cầu kỳ, chau chuốt.
Câu tiếp: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
– “Giếng nước gốc đa” → Những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam
(lũy tre, đình làng, dòng sông, bờ ruộng, cầu ao, gốc rạ…) → Gợi đến hình ảnh
những người thân ở làng quê; hình bóng quê nhà; hậu phương vững mạnh…
đang dõi theo, đang đợi chờ, mong ngóng… 8
– Hình ảnh “Người ra lính” → mang ý nghĩa khái quát → chỉ chung những
người con của quê hương đang lên đường bảo vệ tổ quốc; những con người
đang xông pha giữa chiến trận gian lao, nguy hiểm, ở tiền tuyến xa xôi.
→ Cả hai hình ảnh gắn kết với nhau qua từ “nhớ”, sao thân thương, tha thiết.
Đó chính là sự giao hòa, đoàn kết, gắn bó giữa hậu phương và tiền tuyến bền
chặt bên nhau → Hai hình ảnh hoán dụ thật đặc sắc, độc đáo. Sáu câu tiếp:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày”.
– Những câu thơ ngắn, sóng đôi liên tiếp: “Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá” Và:
“Miệng cười buốt giá Chân không giày”.
Những câu thơ giàu sức biểu cảm, diễn đạt rất chân thực những khó khăn, thiếu
thốn hoặc những lúc ốm đau bệnh tật, những cơn sốt rét rừng trong cuộc sống
chiến đấu nhiều gian khổ mà hầu như người lính nao cũng trải qua. Những câu
thơ thật gần gũi, thân thuộc như chính cuộc sống chiến đấu lúc bấy giờ trải ra
trên trang thơ đến ấn tượng, khó có thể nào quên. 9
Chính Hữu cũng viết trong “Ngày về”
“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”.
Hai câu thơ bóng bẩy, hoa mỹ, thế nhưng ít người nhớ đến. Ngược lại, người
đọc nhớ mãi, xúc động đến không cùng những “cơn ớn lạnh, sốt run người, ướt
mồ hôi, áo rách vai, quần mảnh vá…” Thế mới thấy thơ hay là hay ở tiếng thơ,
lời thơ chân thực, dung dị, mộc mạc của cuộc sống.
Hai hình ảnh tưởng chừng đối lập: “Miệng cười buốt giá” và “Chân không giày”
làm sáng lên tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống chiến đấu lúc bấy giờ của những người lính vệ quốc.
Chính cuộc sống ở chiến trường gian khổ, cuộc sống của những người lính cùng
chia sẻ, đồng cảm với nhau giúp cho Chính Hữu thêm vốn sống, sự hiểu biết để
sáng tác những vần thơ truyền cảm đến vậy! Đồng thời nhưng hình ảnh thơ
chân thực, gần gũi với cuộc sống – chiến đấu gian khổ lúc bấy giờ của những
người lính vệ quốc đã có sức lôi cuốn gây xúc động mạnh trong lòng độc giả.
Nói như nhà thơ Xuân Diệu: “Chính Hữu dám đưa những hình ảnh bình dị mà
đặc sắc này vào thơ như tiếng súng bắn đoàng, giản dị mà sâu sắc đến giật
mình!” Những gian khổ ấy còn là biểu tượng cho tình đồng đội gắn bó bên nhau
ngay cả những lúc gian nan nhất. Đó cũng chính là nét đẹp của người lính Cụ
Hồ, nét đẹp của quân đội nhân dân Việt Nam.
Câu thơ cuối: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” là một hình ảnh thơ giàu sức
biểu cảm. Cách thể hiện tình cảm của người lính cũng giản dị và chân thật như
chính con người họ vậy. Không ồn ào, không hình thức; thật lặng lẽ và đầy xúc
động! Chỉ là một cái nắm tay hết sức bình thường nhưng bao nhiêu năm tâm sự
đều gửi gắm trong đó. Họ nắm tay để truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh, nghị 10
lực; động viên nhau vượt qua gian khổ, thúc giục nhau cùng vững vàng tiến bước đi lên…
Đồng cảm, sau này, nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng viết
“Phút chia tay ta chẳng nói câu gì
Điều muốn nới đôi bàn tay đã nói”.
Một sự gặp gỡ thật thú vị.
* 3 câu thơ cuối: sức mạnh của tinh thần đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Trong những giây phút đối mặt với kẻ thù, tình đồng chí càng trở nên cao đẹp,
thiêng liêng. Điều kiện chiến đấu thử thách gian lao: “rừng hoang, sương muối”
nhưng những người lính không đơn độc, không rét buốt; bên cạnh họ là tình
đồng đội ấm áp: “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.
Hơn lúc nào hết, người lính thấm thía tình đồng đội, cùng chia sẻ với nhau sự
sống và chết. Có đồng đội, họ có tư thế chiến đấu hiên ngang, chủ động, họ biến
cái không thể thành có thể, làm cho những gian lao, khó nhọc trở nên nhẹ nhàng.
Biểu tượng “Đầu súng trăng treo” là một biểu tượng nghệ thuật độc đáo, đậm
chất thơ. Câu thơ có sự kết hợp nhuần nhị giữa hai bút pháp nghệ hiện thực và
lãng mạn. Cuộc chiến đấu gian khổ ác, liệt là hiện thực trước mắt. Còn ánh
trăng bền vững trên cao là biểu tượng của ước mơ, hạnh phúc và an vui. Hình
ảnh còn là sự hài hòa giữa hai tâm hồn chiến sĩ và thi sĩ; giữa hai tính chất: trữ tình và chiến đấu. 11
Cách xây dựng những câu thơ sóng đôi biểu hiện sự gắn bó, sẻ chia những gian
nan, nhọc nhằn trong cuộc sống chiến đấu chống kẻ thù chung. Ngôn từ chọn
lọc, chân thực, cô đọng và hàm súc → diễn đạt một ý tưởng trọn vẹn đi dọc suốt
bài thơ: Tình đồng đội đồng chí thắm thiết – điểm tựa tin cậy cho người lính
những khi đối mặt với hiểm nguy – cái chết. 3. Kết bài:
Chiến tranh đã đi qua nhưng những năm tháng lịch sử ấy là thời khắc không thể
nào quên. Nhà thơ Chính Hữu cùng bài thơ “Đồng chí” đã góp thêm vào trang
sử hào hùng của dân tộc một hình tượng văn học mơi: hình tượng người lính Cụ
Hồ và ý nghĩa cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí. Những người lính ấy đã hi
sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh vệ quốc, mãi mãi được những người đời sau ghi nhớ
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước”.
Dàn ý chi tiết số 3 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Chính Hữu và bài thơ Đồng chí. 2. Thân bài
a. Đoạn thơ thứ nhất (Quê hương anh… Đồng chí!).
Giới thiệu quê hương, xuất thân của mình và đồng đội: “nước mặn đồng chua,
đất cày lên sỏi đá” → cùng chung cảnh ngộ nghèo khó, là những người nông
dân chất phác, mộc mạc. 12
“chẳng hẹn quen nhau”: chiến tranh đã đưa những người nông dân này thành
chiến sĩ chiến đấu cùng nhau, thân quen nhau và trở thành đôi bạn thân thiết.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”: sự kề vai sát cánh, song hành cùng nhau trên
khắp những ngả đường chiến đấu.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”: không chỉ bên nhau trong những chặng
đường chiến đấu, họ còn bên nhau trong cuộc sống thường nhật ở chiến trường,
chia sẻ với nhau những điều nhỏ nhặt nhất và trở thành người bạn tri kỉ của nhau.
“Đồng chí!”: hai tiếng đồng chí thiêng liêng vang lên để khẳng định cho tình
bạn keo sơn của hai người chiến sĩ từ sự thấu hiểu đến việc cùng chung lí tưởng.
→ Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên chất phác, mộc mạc nhưng giàu tình cảm
khiến người đọc thêm thương mến, yêu thương.
b. Đoạn thơ tiếp theo (Ruộng nương… trán ướt mồ hôi)
Sự thấu hiểu cho hoàn cảnh của người đồng chí: Cuộc sống của họ còn nhiều
khó khăn nhưng, phải vất vả mưu sinh nhưng họ vẫn gửi lại phía sau để chiến
đấu giành độc lập cho tổ quốc.
Quay lại thực tại chiến đấu: cơn sốt rét rừng → hoàn cảnh chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, gian khổ.
c. Đoạn thơ tiếp theo (Áo anh rách vai… nắm lấy bàn tay)
Thực tế ở chiến trường: người chiến sĩ không có lấy một manh áo lành lặn để
mặc, chiếc quần cũng là từ chắp vá từ mảnh vải bỏ đi mà thành thế mà vẫn phải
chống chọi với cái rét. Sự lạc quan của người lính được thể hiện ở nụ cười tươi
rói giữa mùa đông buốt giá. 13
Giữa nơi rừng núi hoang vu đầy gai góc, chưa kể đến bom đạn nguy hiểm,
người chiến sĩ không có lấy một đôi giày để đi bảo vệ đôi chân của mình, chính
vì hoàn cảnh khó khăn thế mà họ hiểu nhau hơn, họ trao nhau cái nắm tay thay
cho tình thương, sự đồng cảm, thấu hiểu. d. Khổ thơ cuối cùng
Không gian: ban đêm, nơi rừng hoang sương muối.
Hình ảnh người lính: đứng canh gác cạnh nhau giữa trời đất để chờ giặc tới.
“Đầu súng trăng treo” hình ảnh liên tưởng thú vị, mũi súng ngửa lên trời giống
như chiếc giá đỡ ánh trăng tròn, tạo cảm giác thi vị, làm cho người đọc hiểu
thêm về khung cảnh chiến đấu. 3. Kết bài
Nêu khái quát lại nội dung, nghệ thuật và giá trị của tác phẩm.
Dàn ý chi tiết số 4 I. Mở bài
● Giới thiệu tác phẩm: Đồng Chí, tác giả: Chính Hữu.
● Hoàn cảnh sáng tác: đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham
gia chiến dịch Việt Bắc. II. Thân bài
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí
- Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua 14
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
● “Anh” ra đi từ vùng "nước mặn đồng chua", "tôi" từ miền "đất cày lên sỏi đá".
● Hai miền đất xa nhau và "đôi người xa lạ" nhưng cùng giống nhau ở cái "nghèo".
● Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính: Họ
là những người nông dân nghèo.
- Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát
cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu"
● Họ vốn "chẳng hẹn quen nhau" nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn
kết họ lại với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng.
● "Súng" biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, "đầu" biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
● Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự
gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.
- Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
● Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải "chung chăn".
● Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã
trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành "đôi tri kỷ". 15
=> Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí
giữa những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như một cái bản lề khép lại đoạn
thơ một để mở ra đoạn hai.
2. Những biểu hiện của tình đồng chí
- Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau.
Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm
kín của đồng đội mình:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
● Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê
hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa. Từ "mặc kệ"cho thấy
tư thế ra đi dứt khoát của người lính.
● Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt
trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
- Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính :
● Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm
kháng chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá,
chân không giày, sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời buốt
giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả
máu. Nhưng những người lính vẫn cười bởi họ có hơi ấm và niềm vui của
tình đồng đội "thương nhau tay nắm lấy bàn tay". 16
● Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở "chân không giày"
và thời tiết "buốt giá". Cặp từ xưng hô "anh" và "tôi" luôn đi với nhau, có
khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu
liền nhau diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.
3. Hình ảnh biểu tượng cho tình đồng chí
- Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính "đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới". Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh
bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng
đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút "chờ giặc tới". Tình đồng chí đã
sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả...
- Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: "Đầu súng trăng treo". Đó là một hình ảnh
thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya.
- Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa.
● "Súng" biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. "Trăng" biểu
tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn.
● Hai hình ảnh "súng" và "trăng" kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng
đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình
ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến - một nền thơ giàu
chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn. 17
● Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập
thơ - tập "Đầu súng trăng treo".
=> Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính. III. Kết bài
● Tóm tắt các ý đã phân tích. ● Liên hệ bản thân.
Dàn ý chi tiết số 5 1, Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
● Chính Hữu là một tác giả lớn của nền thi ca cách mạng, vừa là nhà thơ,
vừa là chiến sĩ tham gia chiến dịch Việt Bắc.
● Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, viết về người chiến sĩ, về tình đồng
đội, về khát vọng hòa bình. 2, Thân bài
a, Sự hình thành tình đồng chí
● Sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính: đều là
những nông dân, những người con của vùng quê nghèo khó “nước mặn
đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.
● Từ “đôi người xa lạ”, họ cùng đi lính, chung lí tưởng chiến đấu vì Tổ
quốc, “súng bên súng đầu sát bên đầu” sát cánh bên nhau trên chiến
trường, chia bùi sẻ ngọt “đêm rét chung chăn” mà thành “đôi tri kỷ”.
● Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh gợi tả đặc sắc, thủ pháp sóng đôi. 18
● Từ “Đồng chí”: cách gọi vừa trang nghiêm vừa thân thuộc, đầy tình cảm,
mang hơi thở thời đại mới của cách mạng, kháng chiến. Giọng thơ chùng
xuống, lắng đọng, tạo cảm giác thiêng liêng.
b, Những kỉ niệm, sóng gió cùng trải qua:
- Cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau: vì mục đích chung mà
gạt đi niềm riêng tư, để lại sau lưng những gì yêu quý như “ruộng nương”, “gian
nhà”, “giếng nước gốc đa” – những hình ảnh đại diện cho quê hương.
⇒ Dù tư thế ra đi dứt khoát, “mặc kệ” nhưng họ vẫn nhớ quê hương da diết.
- So sánh mở rộng với bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
- Cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn trên chiến trường:
● Bệnh sốt rét rừng: “biết từng cơn ớn lạnh”, “run người”, “trán ướt mồ hôi”.
● Khó khăn thiếu thốn: áo rách vai, quần vá, không giày, chịu đói rét. - Nghệ thuật:
● Liệt kê, tả thực: cụ thể hóa những vất vả trong cuộc sống của người lính
những năm kháng chiến chống Pháp, làm nổi bật lên sự sẻ chia, đoàn kết
“thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
● Tiếp tục sử dụng thủ pháp sóng đôi: “anh” – “tôi” tạo sự song hành, gắn
bó giữa những người đồng đội.
- Liên hệ mở rộng với tình đồng đội trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. 19
c. Tình đồng chí và khát vọng hòa bình
Ba câu cuối kết thúc bài thơ bằng hình ảnh hai người đồng đội đứng gác trong đêm:
- Cảnh hoang vắng “rừng hoang sương muối” làm nổi bật hình ảnh “đứng cạnh
bên nhau chờ giặc tới”: hiên ngang, chủ động, “chờ” không sợ hãi.
- Hình ảnh đặc biệt: “Đầu súng trăng treo”
● Gợi tả: hai người lính đứng gác dưới ánh trăng, trăng lặn xuống thấp dần
khi trời gần sáng và như treo trên đầu súng.
● Đặt hai biểu tượng đối lập trong cùng một câu thơ: “súng” tượng trưng
cho chiến tranh, hiện thực; “trăng” tượng trưng cho vẻ đẹp hòa bình, lãng mạn.
⇒ Tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thấu
hiểu hiện thực nhưng vẫn không ngừng hi vọng vào tương lai tươi đẹp.
- Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh tả thực, cặp hình ảnh đối lập. 3, Kết bài
● Kết luận về tác phẩm: miêu tả chân thực những gian khổ thời chiến tranh,
ca ngợi tình cảm gắn bó, sẻ chia giữa những người lính, thể hiện khát vọng hòa bình.
● Liên hệ thực tiễn: tình đồng chí, tương thân tương ái đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, những người còn sống luôn trăn trở, nhớ thương đồng đội
đã hi sinh ⇒ thế hệ trẻ cần luôn tôn trọng, biết ơn những người lính, phát
huy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống.
Phân tích bài thơ Đồng chí ngắn gọn 20
Chính Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc trưởng thành trong thời kì
kháng chiến chống Pháp. Trong số những tác phẩm của ông, có một bài thơ đã
gây nên tiếng vang lớn trong lòng độc giả, bởi những xúc cảm dạt dào, chân
thực giữa những người lính, những người đồng đội. Đó là bài thơ đồng chí. Qua
vần thơ, lời thơ bình dị, bài thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó, tình đồng đội giữa
những người chiến sĩ, qua đó ngợi ca tình cảm cao đẹp ấy.
Những người lính vốn là những chàng trai khoẻ mạnh vốn chỉ quen với việc
đồng áng, cấy cày. Họ đến từ những vùng quê khác nhau, những vùng miền xa
xôi, hẻo lánh. Vì chung nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, quê hương, chung tình yêu đất
nước, họ không hẹn mà gặp nhau, quen nhau và gắn bó với nhau. Chính Hữu đã
kể lại cuộc gặp gỡ ấy như một lời kỉ niệm, hồi tưởng đẹp, giản dị và xúc động:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Thật lạ kì! Tình cảm của những con người ấy được tạo nên từ sự tình cờ, chẳng
hẹn quen nhau. Họ đều chiến đấu vì muốn thoát khỏi cái đói, cái khổ của những
người dân bị áp bức, bóc lột. Mảnh đất đã nuôi dưỡng họ lớn lên đều bị bủa vây
bởi khốn khó; những nương rẫy nước mặn đồng chua, vùng làng quê đất cày lên
sỏi đá. Từ sự xa lạ ban đầu giữa đôi người ấy, họ đã quen nhau, gắn bó với nhau,
gọi nhau là đồng chí. Đôi người - hai con người - cách dùng từ của tác giả đã
làm nổi bật lên cả đoạn thơ - tưởng chừng như số phận định mệnh, ngay từ đầu
đã báo trước một tình cảm nảy nở khăng khít trong chiến đấu:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí! 21
Hình ảnh súng bên súng, đầu sát bên đầu vừa tả thực, vừa mang tính tượng
trưng. Nó không chỉ vẽ lên hình ảnh hai con người cùng kề vai sát cánh mà còn
gợi ra trong lòng người đọc lí tưởng cao đẹp: mục đích chung không của riêng
ai mà là khát vọng tự do của cả một dân tộc. Từ việc cùng chung lí tưởng, qua
gian khổ, thiếu thốn, tình cảm đã nảy sinh giữa đôi người xa lạ ấy. Đêm rét
chung chăn thành đôi tri kỉ là một hình ảnh chân thực mà cảm động lạ kì... Đâu
cần phô trương, đâu cần sự gắn kết gì cao xa, chỉ cần qua gian khổ, giữa con
người cũng có thể thành tri kỉ. Giọng thơ đột ngột bị ngắt nhịp bởi hai tiếng gọi
thân thương: Đồng chí! Dường như đó là tiếng gọi thốt ra từ trái tim, từ xúc cảm
tha thiết, thân thương giữa những người đồng đội. Câu thơ đã làm nên một nút
thắt đặc biệt, một điểm nhấn, một nét chấm phá riêng biệt cho bài thơ. Âm
hưởng da diết của tiếng gọi đã làm rung động lòng người: Đồng chí. Từ việc
cùng chung chí hướng - trong gian nan đã tạo nên niềm cảm kích, xúc động
chân thành, trong giây lát, tiếng gọi Đồng chí vang lên - phải chăng đó là cung
bậc tình cảm cao quí nhất, thiêng liêng nhất sưởi ấm cho trái tim những con
người thổn thức nhớ về quê hương?
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà tranh mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Họ tâm tình, kể chuyện cho nhau nghe, về ruộng nương anh, về gian nhà không,
giếng nước, gốc đa. Hoài niệm, hồi ức của quê hương ùa về trong tâm trí họ. Để
cho ta hiểu rằng, họ bỏ quê hương cũng vì muốn tốt đẹp cho quê hương. Họ
đành dứt áo ra đi, mặc kệ tất cả, bỏ lại người thân, gia đình để dấn thân vào
cuộc kháng chiến trường kì gian khổ. Lạ lùng thay, cũng chính nơi đây, họ tìm
được niềm đồng cảm, sẻ chia và nó cũng chính là động lực giúp họ vượt qua biết bao khó khăn. 22
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Những trận sốt rét rừng thâm độc không thể quật ngã ý chí một con người. Bởi
bên họ, luôn có sự tương trợ, giúp đỡ, luôn có tình đồng chí thân thương. Và tất
cả thiếu thốn trở thành vô nghĩa: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Bằng những chi tiết rất thực, tác giả đã tạo nên hình ảnh hai người lính, tuy vất
vả, thiếu thốn về vật chất áo rách vai, quần có vài mảnh vá, chân, không giày,
nhưng vẫn cười trong cái giá lạnh của nơi rừng thiêng nước độc. Và họ đã sưởi
ấm cho nhau, bộc lộ tình cảm với nhau bằng cử chỉ giản dị mà đầy xúc động:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Chao ôi! Đâu cần vật chất của cải, đâu cần lời hay ý đẹp, những người đồng chí
bộc lộ tình cảm với nhau thật chân thành lặng lẽ nắm lấy bàn tay nhau. Chính
hơi ấm của đôi bàn tay ấy đã làm nên sức mạnh chiến thắng tất cả.
Kết thúc bài thơ, Chính Hữu thể hiện tình đồng chí qua những câu thơ đầy thi vị.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau, chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Cảnh rừng âm u buổi đêm như trở nên lãng mạn, đầy chất thơ, khi mà ở đó có
hơi ấm tình người. Đầu súng trăng treo - hình ảnh độc đáo và sáng tạo tuyệt vời.
Hình ảnh trăng tròn vành vạnh lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. 23
Rất chân thực nhưng cũng rất lãng mạn, hư hư thực thực, một không gian đầy
mộng tưởng mà vẫn mang vẻ đẹp tinh thần chiến đấu... Tình đồng chí, đồng đội
đang dần toả sáng, rực rỡ trong gian lao chiến đấu.
Toàn bộ bài thơ hàm súc, cô đọng với hình ảnh chân thực, giản dị mà sâu sắc
thấm thía. Chính Hữu đã thể hiện thành công tình đồng chí cao đẹp giữa những người lính.
Đọc xong bài thơ, trong lòng độc giả không khỏi xúc động bởi những tình cảm
chân thành, sâu lắng. Có thể chính vì lẽ đó, mà bài thơ luôn còn sống mãi với thời gian.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 1
Hình tượng người lính vốn là đề tài nổi bậc và xuyên suốt nền văn học kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. Bài thơ “Đồng chí” là một trong
những tác phẩm tiên phong đi đầu trong nhiệm vụ khắc họa hình ảnh người lính
chân thực, bình dị trong chiến đấu. Tác phẩm ca ngợi tình đồng đội gian khổ có
nhau, vào sinh tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu
nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Mở đầu bài thơ, Chính Hữu giới thiệu về quê hương người lính. Hai câu thơ đầu
cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất
trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Giọng điệu tự nhiên, mộc mạc, đầy thân tình. “Quê anh” và “làng tôi” đều là
những vùng đất nghèo, cằn cỗi, xác xơ, là nơi “ nước mặn đồng chua” – vùng
đồng bằng ven biển, là xứ sở của “đất cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi trung du. 24
Tác giả đã mượn thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn
thân yêu của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất
chân quê, dân dã đúng như con người vậy – những chàng trai dân cày chân đất,
áo nâu lần đầu mặc áo lính lên đường ra trận! Như vậy, sự đồng cảnh, cùng
chung giai cấp chính là cơ sở, là cái gốc hình thành nên tình đồng chí.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ”
rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi
rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những
ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ – Tự phương trời
chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí!"
Câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, cảm xúc thơ như dồn tụ, nén chặt lại. Những
ngày đầu, đứng dưới lá quân kì, những chàng trai ấy còn là “đôi người xa lạ”,
mỗi người một phương trời “chẳng hẹn quen nhau”. Nhưng rồi cùng với thời
gian kháng chiến, đôi bạn ấy gắn bó với nhau bằng biết bao kỉ niệm: “Súng bên
súng, đầu sát bên đầu – Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. “Súng bên súng”
là cách nói hàm súc,giàu hình tượng, đó là những con người cùng chung lí
tưởng chiến đấu. Họ cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương,
giữ gìn nền độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”. Còn hình ảnh “đầu sát bên đầu” lại diễn tả sự đồng ý, đồng tâm,
đồng lòng của hai con người đó.
Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” ắp đầy kỉ niệm về một thời gian
khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi “Bát cơm sẻ nửa – Chăn sui đắp cùng” . Và như 25
thế mới thành “đôi tri kỉ” để rồi đọng kết lại là “ Đồng chí!”. “Đồng chí” – hai
tiếng ấy mới thiêng liêng làm sao! Nó diễn tả niềm tự hào, xúc động, cứ ngân
vang lên mãi. Xúc động bởi đó là biểu hiện cao nhất của một tình bạn thắm thiết,
đẹp đẽ. Còn tự hào bởi đó là tình cảm thiêng liêng, cao cả của những con người
cùng chung chí hướng, cùng một ý nguyện, cùng một lí tưởng, ước mơ.
Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm sáng tạo,một nét độc
đáo qua ngòi bút của Chính Hữu. Dòng thơ được tác riêng độc lập, là một câu
đặc biệt gồm từ hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, tạo nốt nhấn vang lên như
một sự phát hiện, một lời khẳng định đồng thời như một bản lề gắn kết đoạn thơ
đầu với đoạn thơ sau. Sáu câu thơ đầu là cội nguồn, là cơ sở hình thành tình
đồng chí; mười câu thơ tiếp theo là biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí.
“Đồng chí” – ấy là điểm hội tụ, là nơi kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp,
tình bạn,tình người trong chiến tranh. Hai tiếng “đồng chí” bởi vậy mà giản dị,
đẹp đẽ, sáng ngời và thiêng liêng.
Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu
của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh
giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành
– đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn
mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người
lính, không bao giờ có thể quên:
“Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội đã về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc…”
(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm) 26
Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ
ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình
ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.
Vì nghĩa lớn, các anh sẵn sàng từ giã những gì gắn bó thân thương nhất: “ruộng
nương”,”gian nhà”,”giếng nước”,”gốc đa”… Họ ra đi để lại sau lưng những băn
khoăn, trăn trở, những bộn bề, lo toan của cuộc sống đời thường. Hai chữ “mặc
kệ” đã diễn tả sâu sắc vẻ đẹp và chiều sâu đời sống tâm hồn người lính. Vì
nghĩa lớn, họ sẵn sàng ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa.Song
dù có dứt khoát thì vẫn nặng lòng với quê hương. Gác tình riêng ra đi vì nghĩa
lớn, vẻ đẹp ấy thật đáng trân trọng và tự hào. Trong bài thơ “Đất nước”, ta bắt
gặp điểm tương đồng trong tâm hồn những người lính:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Mặc dù đầu không ngoảnh lại nhưng các anh vẫn cảm nhận được “Sau lưng
thềm nắng lá rơi đầy”, cũng như người lính trong thơ của Chính Hữu, nói “mặc
kệ” nhưng tấm lòng luôn hướng về quê hương. “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh
hoán dụ mang tính chất nhân hóa diễn tả một cách tinh tế tâm hồn người chiến
sĩ, tô đậm sự gắn bó của người lính với quê nhà. “Giếng nước gốc đa nhớ người
ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra đi không nguôi nhớ về quê hương.
Quả thật, giữa người chiến sĩ và quê hương có mối giao cảm vô cùng sâu
sắc,đậm đà. Người đọc cảm nhận từ hình ảnh thơ một tình quê ăm ắp và đây
cũng là nguồn động viên, an ủi, là sức mạnh tinh thần giúp người chiến sĩ vượt
qua mọi gian lao, thử thách suốt một thời máu lửa, đạn bom. 27
Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê hương đã góp phần hình
thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử
thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “Bao
giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết:
“Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(…) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?”
Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực
kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã
quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,…
nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những
ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí,
thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men…. Người lính ra trận “áo vải
chân không đi lùng giặc chinh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét
rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày…” 28
Bằng những hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực
những khó khăn thiếu thốn trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu
vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men… Người lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”,
những cơn sốt rét rừng hành hạ, sức khỏe giảm sút, song sức mạnh của tình
đồng chí đã giúp họ vượt qua tất cả. Nếu như hình ảnh “Miệng cười buốt giá”
làm ấm lên, sáng lên tinh thần lạc quan của người chiến sĩ trong gian khổ thì cái
nắm tay lại thể hiện tình đồng chí, đồng đội thật sâu sắc! Cách biểu lộ chân thực,
không ồn ào mà thấm thía. Những cái bắt tay truyền cho nhau hơi ấm, niềm tin
và sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Cái nắm tay nhau ấy còn là
lời hứa hẹn lập công.
Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử
thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như
một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4
tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc
quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê,
cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình
thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “tay nắm
lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau,
truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.
Bài thơ khép lại với bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội,là biểu tượng cao
đẹp về cuộc đời người chiến sĩ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng
cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh 29
bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng
đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã
sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả….
Câu kết là một hình ảnh thơ rất đẹp: “Đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực, vừa
mộng. Về ý nghĩa của hình ảnh này có thể hiểu: Đêm khuya, trăng tà, cả cánh
rừng ngập chìm trong sương muối. Trăng lơ lửng trên không, chiếu ánh sáng
qua lớp sương mờ trắng, đục. Bầu trời như thấp xuống, trăng như sà xuống theo.
Trong khi đó, người chiến sĩ khoác súng trên vai, đầu súng hướng lên trời cao
như chạm vào vầng trăng và trăng như treo trên đầu súng. “Trăng”là biểu tượng
cho vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, là sự sống thanh bình. “Súng” là hiện thân cho
cuộc chiến đấu gian khổ, hi sinh. Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền. Súng và
trăng, chiến sĩ và thi sĩ. Hai hình ảnh đó trong thực tế vốn xa nhau vời vợi nay
lại gắn kết bên nhau trong cảm nhận của người chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng.
Như vậy, sự kết hợp hai yếu tố, hiện thực và lãng mạn đã tạo nên cái vẻ đẹp độc
đáo cho hình tượng thơ. Và phải chăng, cũng chính vì lẽ đó, Chính Hữu đã lấy
hình ảnh làm nhan đề cho cả tập thơ của mình – tập “Đầu súng trăng treo” – như
một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.
Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật
chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi
nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì
buổi đầu kháng chiến. Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người
lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận
dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa
bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
“Đồng chí” là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ – người nông dân
mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một
tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng. 30
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 2
Chính Hữu sáng tác ít, nhưng có nhiều bài thơ phổ nhạc hơn bất cứ thi sĩ nào.
Đó là nét lạ của thơ Chính Hữu.
Hồi nhỏ tôi đã nghe hát "Đồng chí", rồi thuộc, chưa bao giờ xem lại bài thơ.
Gần đây thì tôi mới mở bài thơ ra xem. Mắt vừa chạm vào thơ, tôi đã thấy lạ.
Thì ra lâu nay mình chỉ mới thưởng thức phần nhạc của thơ mà ta bỏ quên phần hình của nó. Câu thơ hai chữ: Đồng chí!
Gần như đứng giữa bài thơ, riết cái thân bài thơ thành một cái lưng ong. Nửa
trên là một mảng quy nạp (như thế này là đồng chí), nửa dưới là một mảng diễn
dịch (đồng chí còn là như thế này nữa). Một cấu trúc chính luận cho một bài thơ trữ tình. Lạ!
Chủ đề Đồng chí hiện lên trong từng cấu trúc ngôn ngữ, nghĩa là trong từng tế
bào thơ. "Tôi" với "anh" khi được xếp dọc:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Khi thì xếp ngang:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Khi thì điệp điệp (nét thẳng của ý chí và nét cong của tình cảm):
Súng bên súng, đầu sát bên đầu 31
Để đến đêm rét trùm chung cái chăn thì nhập lại thành "đồng chí". Cái chăn đắp
lại thì tâm tư mở ra. Họ soi vào nhau. Anh hiểu tôi, tôi hiểu đến nỗi lòng sâu kín của anh:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giải thích sao đây hai chữ "mặc kệ"? Có giống với thái độ này không:
Người đi, ừ nhỉ, người đi thực
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say.
Không! Nó đâu có khinh bạc và phiêu du như thế. Ở ngoài mặt trận mà biết gió
lay từng gốc cột của ngôi nhà mình thì không còn chữ nào để diễn tả nổi vì tình
cảm thiết tha của họ đối với gia đình. Nhưng trước hết phải vì nghĩa lớn. Thái
độ hiệp sĩ ấy gần với Hồng Nguyên, gần với Trần Mai Ninh trong buổi đầu
kháng chiến chống Pháp, gắn với Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Trần Quang Long
... trong kháng chiến chống Mỹ.
Họ hiểu nhau đến chiều sâu như thế là để nương tựa vào nhau mà đi đến chiều cao này:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí, nắm đôi bàn tay mà ấm cả đôi
bàn chân là một cặp đồng chí, và đêm nay giữa "rừng hoang sương muối", 32
"đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới" là một cặp đồng chí. Lãng mạn thay, súng và
trăng cũng là một cặp đồng chí:
Đầu súng trăng treo
Cặp đồng chí này nói về cặp đồng chí kia, nói được cái cụ thể đến vô cùng.
Súng và trăng, gần và xa "tôi với anh đôi người xa lạ.Tự phương trời chẳng hẹn
quen nhau"; súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền; súng và trăng, chiến sĩ và thi
sĩ; súng và trăng ... là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.
Sự kết hợp yếu tố hiện thực roi rói với tính chất lãng mạn trong trẻo là màu sắc
mới mẻ mà Chính Hữu đã sớm mang lại cho thơ.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 3
Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi
lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là
những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh
chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến
còn góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho
nên không có gì khó hiểu khi vào năm 1948, tác phẩm “ Đồng Chí” của nhà thơ
Chính Hữu lại tạo nên một sự bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân
đội. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử
có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội
đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống
Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mạnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua …
Đầu súng trăng treo” 33
Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền
lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng
liêng cao cả của những người lính nông dân. Từ mọi miền quê trên dải đất hình
chữ S, những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ quốc, tụ họp
lại với nhau, trở thành những người lính. Họ là những người nông dân từ những
vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các
anh giã từ quê hương lên đường chiến đấu:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất
nước. Từ những người “xa lạ” rồi thành “đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”.
Câu thơ biến hoá 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống còn 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn
tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kỳ: “Anh với tôi đôi
người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau
bằng bao kỉ niệm đẹp:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian
khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trở
thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến
những con người xa lại thành đôi tri kỷ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau
là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.
Tấm lòng của họ đối với đất nước thật cảm động khi giặc đến các anh đã gửi lại
người bạn thân mảnh ruộng chưa cày, mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung 34
lay để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thôi, nhưng nếu không có một tình
yêu đất nước xâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay"
Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: tình yêu quê hương đất nước, ý
thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ. Bởi vậy, họ nguyện bỏ lại tất cả: ruộng
nương, xóm làng. Nhưng ở chiến khu, những người lính nông dân lại trở mình,
lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay.
Nỗi nhớ của các anh là thế cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn
hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, người vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về:
“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính”
Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật,
nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha
gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.
Sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người
lính nông dân. Với họ vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản
dị bình thường, không có gì phi thường cả:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá 35 Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Chính Hữu đã khắc hoạ hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Đối mặt
với những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử
thách giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn
đứng vững, vẫn nở “miệng cười buốt giá”. Đó là hình của sự lạc quan, yêu cuộc
sống hay cũng là sự động viên giản dị của những người lính với nhau. Những
câu thơ hầu như rất giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa trong lòng người
đọc chúng ta. Tuy nhiên từ trong sự bình thường, hình ảnh người lính của Chính
Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, dũng
cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm chờ giặc tới giữa
nơi rừng hoang sương muối. Những người lính kề vai, sát cánh cùng hướng mũi
súng vào kẻ thù. Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ
xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Những người lính nông dân giờ đây
hiện ra với một tư thế khác hẳn, như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị
nhưng vẫn đẹp lạ lùng.
Sẽ là một thiếu sót rất lớn khi lại đề cập quá nhiều đến hình tượng người lính
mà lại không nói về tình đồng chí, tình đồng đội của người chiến sĩ trong bài
thơ. Tìm hiểu nhau, những người lính hiểu ra họ có cùng chung quê hương vất
vả khó nghèo, chung tình giai cấp, chung lý tưởng và mục đích chiến đấu.
Chính cái chung ấy như một thứ keo sơn bền vững nối cuộc đời những người
lính với nhau để làm nên hai tiếng “đồng chí” xúc động và thiêng liêng. 36
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính không chỉ phát ra từ những hiện thực khó khăn
hiểm nguy mà còn phát ra từ ánh sáng lung linh, chính là tình đồng đội. Vượt
rừng đâu phải chuyện dễ dàng. Những căn bệnh quái ác, những đêm tối lạnh
buốt xương, những thiếu thốn vật chất của đoàn quân mới được gây dựng vội
vã. Nhưng những người lính đã cùng nhau vượt qua. Họ lo cho nhau từng cơn
sốt, từng miếng áo rách, quần vá. Với họ quan tâm tới những người đồng đội
giờ đây cũng như là quan tâm chăm sóc cho chính mình. Ôi ấm áp biết mấy là
cái siết tay của đồng đội lúc gian khó. Cái siết tay truyền đi hơi ấm, sức mạnh
cho ý chí con người. Và cùng nhau, giúp đỡ nhau, những người lính vượt qua
với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, gian nan:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, …
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Cái khốn khó, gian truân hãy còn dài trên bước đường kháng chiến dân tộc.
Nhưng dường như trước mắt những con người này, mọi thứ không còn hiểm
nguy. Trong đêm trăng vắng lặng, bát ngát giữa rừng hoang sương muối, những
người lính vẫn kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng về phía kẻ thù.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
Sức mạnh của sự tin tưởng lẫn nhau, của sự quan tâm tới nhau giữa những
người lính đã làm vững chắc thêm tình đồng đội trong họ. Bởi họ biết rằng khi
cùng nhau thắp lên tình đồng chí vững bền, sức mạnh chung nhất sẽ là sức
mạnh mạnh nhất. Mục đích chiến đấu vì quê hương, vì Tổ Quốc của họ sẽ càng 37
mau chóng đạt được. Khi ý chí và mục đích hợp chung con đường, thì tình cảm
giữa họ càng thắm thiết, sâu đậm. Đó là tình đồng chí giữa những người lính …
Không chỉ dừng ở cung bật tình cảm giữa những người lính, bài thơ “Đồng Chí”
còn mang ta đến chi tiết lãng mạn cao hơn ở cuối bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Người lính không cô đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, là
những người bạn tin cậy nhất, tình đồng chí đã sưởi ấm lòng anh. Người chiến
sĩ toàn tâm toàn ý hướng theo mũi súng. Chính lúc ấy, các anh bắt gặp một hiện tượng kỳ lạ:
“Đầu súng trăng treo”
Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của của Chính Hữu qua bài
thơ chính là hình ảnh này. Từ tình đồng chí, trải qua những thử thách khác nhau,
Chính Hữu đã tạo nên cái nhìn đầy chất thơ. Nếu hai câu thơ trên không kết hợp
với hình ảnh “đầu súng trăng treo” thì nó khó có những giá trị đặc sắc. Ngược
lại, nếu không có sự nâng đỡ của của hai câu thơ đó thì hình ảnh sẽ bị coi là thi
vị hoá cuộc sống chiến đấu người lính. Sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa hiện
thực và chất thơ lãng mạn, bay bổng đã làm cho “đầu súng trăng treo” trở thành
một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ ca kháng chiến chống Pháp. Câu thơ chỉ
vỏn vẹn bốn từ nhưng nó bao hàm cả cái tình, cái ý và đặc biệt là sự cảm nhận
tinh tế của Chính Hữu. Nhờ sự liên tưởng thông minh tài tình, tâm hồn giàu cảm
xúc, Chính Hữu đã gợi lên một không gian bát ngát giữa vũ trụ bao la, nó có cái
gì đó rất bồng bềnh, huyền bí, khó tả. Hình ảnh đó gây được ấn tượng thẩm mỹ
sâu sắc với người đọc . đồng thời, nó trở thành hình tượng đa nghĩa độc đáo của
thi ca. “Đầu súng trăng treo” được xây dựng bằng bút pháp siêu thực, đầy chất 38
thơ. Tại sao vậy? Chúng ta thực sự đánh giá cao không gian nghệ thuật hiện
thực của “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” và đặc biệt là không gian
“rừng hoang sương muối”; nó đã góp phần tô đẹp thêm hình tượng vầng trăng,
cây súng. Hai hình ảnh này đối lập nhau rất rõ. Một bên là vầng trăng muôn
thuở hấp dẫn và kì lạ, thanh bình với thi ca. Nó biểu tượng cho cuộc sống tươi
đẹp, hòa bình, hạnh phúc của nhân loại, đồng thời cũng là ước mơ cuộc sống
tươi đẹp hòa bình hạnh phúc. Nhưng trăng ở đây lại được đặt trong mối quan hệ
với súng. Một bên là súng, súng biểu tượng cho chiến tranh và cái chết nhưng
súng cũng trở thành lý tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hòa bình
dân tộc của người chiến sĩ. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực. Tuy đối
lập, nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đẹp cho nhau, tạo nên vẻ đẹp
hoàn mỹ nhất. Không phải ngẫu nhiên khi Chính Hữu đưa hai hình ảnh ngược
nhau trong một câu thơ. Qua đó ông muốn khẳng định cái khát vọng về một
cuộc sống yên lành đầy chất thơ: để cho vầng trăng kia sáng mãi, trong hoàn
cảnh đất nước lúc bấy giờ, mọi người phải cầm súng chiến đấu. Có thể nói, hình
ảnh “Đầu súng trăng treo” là một phát hiện thú vị, mới lạ độc đáo của Chính
Hữu. Chính hữu đã sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên hình ảnh thơ vừa hiện
thực vừa lãng mạn. Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình, là biểu
tượng cho tình thần dũng cảm, hào hoa muôn thuở của dân tộc nói chung và người lính nói riêng.
Bài thơ đã kết thúc nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi
bản năng của chính mình: sự rung động. Quả thật văn chương đã tạo ra cho
mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái hiện lại một thời đau
thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ nhưng văn chương đã đến với
người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những xung động thẩm mĩ trong
tâm hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng
không thể nào quên. Đó là những năm đau thương chứng kiến những con người
cao cả kiên cường, những người lính dũng cảm bất khuất. Họ không khô khan
mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hy sinh, với tình đồng đội trong 39
sáng, thân ái. Chính những điều đó làm bài thơ “Đồng Chí” trên những trang
giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng đến những con
người thần kì mà bình dị với niềm tự hào kiêu hãnh, cho nay và mai sau mãi nhớ về.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 4
"Đồng chí!" - Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật
đầy đủ tình đồng đội của anh chiến sĩ cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kỳ
kháng Pháp. Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong
cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - người chiến sĩ cách mạng đã
xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã
để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.
Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ
quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của thời kì kháng chiến
chín năm. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc
“cuốc cày" ở những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu
nước, họ đã gặp nhau, từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về
những con người ấy bằng những lời thơ thật cảm động:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến
sĩ. Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con
người rất “xa lạ" trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương
trong chiến đấu. Nhà thơ đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh thơ rất 40
chân thực để gợi tả về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những
vùng đất khô cằn, nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Và
họ đã gặp nhau từ “xa lạ”. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà
là “đôi người xa lạ”. “Đôi” là chỉ hai đối tượng cùng đi với nhau. “Đôi người xa
lạ” nghĩa là hai người cùng đi với nhau mà lại là xa lạ. Vì thế ý thơ được nhấn
mạnh thêm. Hình ảnh những phương trời xa cách, những con người “chẳng hẹn
quen nhau” nói lên cả một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi
tham gia kháng chiến, những con người xa lạ ấy đã cùng nhau chiến đấu, cùng
chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế, họ trở thành thân
nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng chí”:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Câu thơ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên
đầu”. Tác giả đã tả thực những giờ phút bên nhau cùng chiến đấu đồng thời hình
ảnh ấy còn tượng trưng cho sự nghiệp chiến đấu chung, lý tưởng cách mạng
chung của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người xa lạ” ấy đã nảy nở
một tình cảm mới khi họ cùng chiến đấu cùng một lý tưởng lớn lao. Tình cảm
ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhàng
bỗng bị ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng,
một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó
như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người.
Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí” - một tiếng nói thiêng liêng. “Đồng chí”, một
sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng chí!”.
Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề
cận bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà, chuyện “ruộng nương gửi 41
bạn thân cày”, “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, cả chuyện “giếng nước,
gốc đa nhớ người ra lính…”. Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng các anh
chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó
với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các
anh lại cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất
vả họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao
các anh có thể quên được những lúc cùng nhau chịu đựng gian khổ “từng cơn
ớn lạnh”, những lúc “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Cuộc sống bộ đội
nghèo, vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu “áo anh” có “rách vai”, “quần
tôi” có “vài mảnh vá”, dẫu trời có “buốt giá” thì miệng vẫn cười tươi. Bằng
những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ
và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn. Tình cảm chân thành tha thiết ấy không
diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách “nắm lấy bàn tay”, “thương nhau tay
nắm lấy bàn tay”. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của
cải, không phải là những lời hoa mỹ phô trương. Những người chiến sĩ biểu
hiện tình đồng chí bằng cách “tay nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt ấy
đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của mối tình đồng chí.
Đoạn thơ với nhiều nét tả thực mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhờ hình ảnh
“anh với tôi” gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau” nhưng
không biết làm sao, chỉ biết lặng lẽ “tay nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con
người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như thế.
Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo” 42
Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người
lính canh giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có
ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời hình ảnh
“Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút
pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang
tính chiến đấu lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình
ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng
chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật
độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa
cao đẹp của mục đích lý tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.
Toàn bộ bài thơ bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái
quát cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm
cách mạng trong quân đội. Ở đây, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những
chi tiết thực của cuộc sống đời thường ở những người chiến sĩ, không phô
trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đó tạo nên sự
thành công cho tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương
pháp sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong giai đoạn chống Pháp.
“Đồng chí” - Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc
dạt dào. Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời
thơ nhẹ nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến
chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn
mới, thế nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của anh
bộ đội Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 5 43
Khi làm bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu từng bộc bạch: "Tôi làm bài thơ Đồng
Chí, đó là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đội". Bài thơ là kết quả của những kỉ
trải nghiệm thực tế và cảm xúc sâu sắc mạnh mẽ, thiết tha của nhà thơ với đồng
chí, đồng đội của mình trong cuộc kháng chiến đầy gian khổ.
Có những tình cảm thật đẹp trong kháng chiến, nó không chỉ là tình thân gia
đình, tình yêu mà còn là tình đồng chí. Đó là tình cảm của những người có xuất
thân giống nhau, ngày đêm cùng nhau chiến đấu:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu đầu với cấu trúc sóng đôi cùng cách xưng hô “anh - tôi” thân mật gần
gũi đã thể hiện sự tương đồng về hoàn cảnh của những người lính. Có lẽ cả hai
nhân vật “anh” và “tôi” đều là những người nông dân quen cầm cuốc ra đồng
vất vả khó nhọc và quê hương các anh đều là những vùng quê nghèo khó.
Người ở vùng chiêm trũng, “nước mặn đồng chua”, người thì ở nơi khô cằn
toàn “sỏi đá” khó có thể trồng trọt. Những khi họ theo tiếng gọi của tổ quốc,
khoác súng lên vai, họ thành người lính dũng cảm, kiên cường, họ từ những
người không quen mặt biết tên mà trở thành “đồng chí”:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Sự gặp gỡ tình cờ như một mối duyên hình thành bởi lí tưởng cao đẹp, mục đích
bảo vệ tổ quốc của hai người lính. Họ cùng chung hoàn cảnh, lý tưởng và cả
nhiệm vụ chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. Hai hình ảnh “súng” và
“đầu” là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cao đẹp. “Súng” tượng trưng cho
nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” tượng trưng cho lý tưởng. Trong câu thơ ấy, hình
ảnh sóng đôi được lặp lại hai lần nhằm nhấn mạnh thứ tình cảm thiêng liêng gắn
bó trong chiến đấu gian khổ của những người đồng chí. Từ việc thể hiện tình 44
cảm giữa những người lính trong nhiệm vụ quan trọng, tác giả đã thể hiện thứ
tình cảm gắn bó thân thiết qua cuộc sống sinh hoạt, nhỏ nhặt: “đêm rét chung
chăn thành đôi tri kỉ”. Đây là một hình ảnh thật trong cuộc sống gian lao của
những người lính, họ phải chịu đói, chịu rét. Nhất là những cơn sốt rét ở núi
rừng Việt Bắc, họ là người biết rõ nhất. Nhưng trong những khó khăn ấy tình
đồng chí nảy nở sinh sôi và gắn kết với nhau một cách bền chặt từ những người
“xa lạ” trở thành “tri kỉ”. Những câu thơ hết sức giản dị chân thành được đúc
kết từ trải nghiệm thời chiến loạn đã tái hiện lại không gian và thời gian mang
những người lính lại gần nhau hơn. Họ là “đồng chí” một từ rất thiêng liêng. Từ
“đồng chí” được tách riêng thành một câu thơ kết hợp với dấu chấm cảm tạo sự
hàm súc cho câu thơ. Những người lính có xuất thân như nhau, cùng chung lý
tưởng bảo vệ tổ quốc đã trở thành “tri kỉ” trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến thế,
trở thành một khối gắn bó mật thiết.
Những người lính từ quen biết mà trở thành “tri kỉ” bởi họ thấu hiểu hoàn cảnh
tâm tư và nỗi lòng của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Họ, những người nông dân, những chiến sĩ đã hy sinh tình cảm riêng tư để ra đi
vì tổ quốc, vì đất nước. Chôn sâu trong lòng những trăn trở, những băn khoăn
day dứt với quê hương xóm làng. Đối với chúng ta thì nhà, ruộng vườn của cải
đóng vai trò rất quan trọng nhưng những người lính lại có một quan niệm khác
biệt: “ruộng nương” thì gửi “bạn thân cày”, “gian nhà không” thì kệ “gió lung
lay”. “Anh” lên đường ra mặt trận để lại sau lưng tất cả mọi thứ cả vật chất lẫn
tình thương. Trong câu thơ có từ “mặc kệ” tưởng chừng những người lính vô
tâm không nghĩ nhưng thật ra đó là sự dứt khoát và quyết tâm mạnh mẽ đang đè
nén những thứ tình cảm cá nhân của những chàng trai có lí tưởng, có mục đích 45
lớn lao. Dù sự dứt khoát quyết tâm có mạnh mẽ đến đâu thì trong sâu thẳm
những chiến sĩ vẫn còn nặng lòng với quê hương, với xóm nước: “Giếng nước
gốc đa nhớ người ra lính” hay ngược lại “người ra lính” đang nhớ quê hương.
Hình ảnh nhân hóa kết hợp hoán dụ “giếng nước”, “gốc đa” hiện lên rất đỗi thân
thuộc gần gũi đã góp phần thể hiện tình yêu với quê hương đất nước của những
người chiến sĩ. Đó quả là sự hy sinh quá lớn lao, nó cần được thấu hiểu và sẻ
chia, dường như nỗi lòng của “anh” cũng là tâm sự bấy lâu của “tôi”. Anh và tôi
cùng nhau dốc bầu tâm sự để vơi nỗi lòng. Chính tình yêu quê hương, nỗi nhớ
làng xóm thân thuộc đã tiếp thêm một nguồn sức mạnh cho tình đồng chí.
Không chỉ là thấu hiểu mà những người lính còn đồng cam khổ, vượt qua gian nan:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá, chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"
Những người lính trải qua bao khó khăn gian khổ, không ai chưa từng trải qua
cảm giác bị sốt rét ở núi rừng Việt Bắc sâu thẳm, càng đắp thêm chăn càng lạnh,
lại không có đầy đủ thuốc men y tế. Và thường xuyên trong cảnh thiếu thốn
manh áo vào tiết trời đông lạnh giá “áo rách vai”.
Trong hoàn cảnh đầy khó khăn như vậy nhưng những người lính vẫn luôn lạc
quan, với niềm tin tưởng, vẫn luôn nở nụ cười “miệng cười buốt giá” như mang
đến hơi ấm của tình người, tình đồng chí. Họ cười họ nắm lấy tay nhau cùng
nhau cố gắng: “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Những cái nắm tay là sự kết 46
nối bền chặt giữa những cơ thể, trái tim và cảm xúc. Họ truyền cho nhau sự ấm
áp và ý chí quật cường, cùng nhau tiến về phía trước, tiến đến nơi bom đạn, khói lửa giăng mịt mù.
Kết thúc bài thơ, tác giả mở ra một bức tranh đẹp về tình đồng chí đồng đội:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Trong cảnh đêm khuya thanh vắng của núi rừng sâu hút, những màn sương lạnh
lẽo giăng đầy cỏ cây, hoa lá, vương trên áo của người lính, các anh đứng cạnh
bên nhau, lặng lẽ chờ địch, không một tiếng nói nhưng bên trong đó là sự đoàn
kết, đồng lòng, cùng nhau chủ động làm nhiệm vụ không màng nguy hiểm, bất
chấp sự khắc nghiệt của thời tiết. Nhưng ba câu thơ với hình ảnh đối lập giữa sự
khắc nghiệt và nên thơ bởi có ánh trăng trong câu thơ: “đầu súng trăng treo”.
Câu thơ như điểm nhấn làm sáng cả bài thơ. Động từ “treo” giữa hai chủ thể
“đầu súng” và “trăng” đã tạo ra mối quan hệ giữa mặt đất và bầu trời gợi cho
độc giả những liên tưởng thú vị. “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, chiến đầu
còn “trăng” biểu tượng cho ánh sáng, cái đẹp của trần thế. Như vậy hai hình ảnh
hư và thực hài hòa tạo ra một vẻ đẹp trong chiến đấu: đó là tình đồng chí.
Dường như cái đẹp trong đêm núi rừng tạo cho họ động lực chiến đấu.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu với chủ đề về tình đồng chí được triển khai
xuyên suốt tác phẩm, đồng thời cũng làm hiện lên hình ảnh người chiến sĩ trong
thời kì đầu kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Với lối thơ hàm súc, tác giả để
lại những cảm xúc khó phai trong lòng người đọc.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 6 47
Tác giả Chính Hữu được biết đến với phong trào thơ ca yêu nước thời chống
Pháp. Với lời thơ chân thực, giản dị mà sâu lắng, vừa là một trang sử hào hùng,
vừa như một khúc ca trầm lắng đi sâu vào lòng người. Và trong những hoàn
cảnh gian nan, đã đưa những người đồng đội, đồng chí xích lại gần nhau hơn,
trở thành những người tri kỉ của nhau. Tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu ra
đời năm 1948 kể về tình đồng chí đồng đội giản dị mà sâu đậm, thắm thiết, vượt
lên trên mọi gian khó của những người chiến sĩ cách mạng lúc bấy giờ.
Ngay từ đầu, tác giả đã vẽ lên hình ảnh người bộ đội cụ Hồ giản dị, mộc mạc
nhưng giàu tình cảm. Đức tính thiêng liêng cao đẹp của những người đồng chí,
đồng đội trong những hoàn cảnh gian nguy. Dường như, ở mọi miền quê, mọi
miền trên tổ quốc, các anh như hội tụ về cùng một nơi, ở đó họ có chung kẻ thù,
chung lý tưởng sống và sẵn sàng hy sinh cho những lý tưởng cao đẹp ấy. Từ
những con người xa lạ, bỗng chốc họ trở nên thân thiết:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Dù xa xôi ngàn dặm trên khắp miền tổ quốc, họ đã về đây, cùng nhìn về một
phía. Tác giả sử dụng những cụm từ mang ý nghĩa tương xứng với nhau “nước
mặn, đồng chua”, “ đất cày lên sỏi đá” một bên là vùng quê gần biển, nghèo nàn
nước mặn, đồng chua như chẳng hoa màu gì có thể lên được, còn một bên là đất
cằn cỗi, sỏi đá, cho ta thấy một cuộc sống nghèo nàn, đói khổ đầy cơ cực.
Mở đầu bài thơ, tác giả khéo léo đưa ra một điểm tương đồng, một điểm chung
giữa hai con người, nó như là một chiếc cầu nối để hai người chiến sĩ có cùng
cảnh ngộ đứng sát lại gần nhau hơn. Và bằng biện pháp đối lập “xa lạ” - “quen
nhau” cuối cùng họ cũng tìm được một vị trí trong lòng mỗi người. 48
Cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, chung một mục đích sống, chung lý tưởng
cách mạng, họ đã khoác lên mình khẩu súng của tự do, vũ khí của lòng trung kiên, bất khuất:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí”
Hai câu thơ gợi cho chúng ta hình ảnh hai người lính cầm chắc tay súng, đứng
sát bên nhau, mắt nhìn xa xăm trong khoảng không giữa đêm tối. Họ đang canh
gác, nhiệm vụ hết sức nguy hiểm. Hai người lính đứng hiên ngang, sát bên
nhau, như đang cùng đối mặt với những gian khó, chung vai gánh vác những
trách nhiệm cao cả. Rồi từ những gian khó ấy, những con người xa lạ bỗng chốc
trở thành những người bạn, rồi thành “đôi tri kỉ’, cùng nhau sẻ chia sẻ chút ngọt
bùi, ấm nồng trong đêm giá buốt “đêm rét chung chăn”. Cụm từ “Đồng chí”
nghe thật thân thiết và gần gũi, không còn từ ngữ nào có thể diễn tả được cảm
xúc ấy, như bị dồn nén rồi chợt cất lên một cách vội vàng, đầy bồi hồi tha thiết.
Khi cảnh nước nhà lâm nguy, từ những người nông dân cần cù, chất phác,
quanh năm gắn bó với ruộng đồng. Các anh đã đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bỏ
lại sau lưng quê hương, gửi lại ruộng nương, nhà cửa:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính”
Trước tình yêu quê hương đất nước, yêu xóm làng thân thương, nơi có những
người thân yêu luôn dõi theo các anh. Rồi họ đã cất bước lên đường, khoác lên
mình màu áo xanh, khoác lên vai khẩu súng trường để bảo vệ chính những thứ
bình dị mà họ yêu quý. Ruộng nương gửi bạn thân cày, gian nhà không “mặc 49
kệ” gió lung lay, một sự ra đi đầy quyết đoán, rời xa cuộc sống bình yên, bình dị
mỗi ngày mà không một chút đắn đo. Nhưng tình cảm ấy, trái tim ấy vẫn luôn
hướng về quê nhà. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những từ ngữ hết sức thân
thuộc của làng quê, là “giếng nước”, “gốc đa”. Đồng thời như thổi hồn vào
trong những thứ vô tri vô giác ấy, từ “nhớ” chỉ sự lưu luyến, nhớ nhung các anh
mỗi ngày. Ở đây không đơn giản là nỗi nhớ của “giếng nước”, “gốc đa” mà là
cả sự mong mỏi, đợi chờ của những người thân yêu nơi quê nhà, là mẹ già, là
người vợ hiền, hay những người con thơ của các anh. Và đó cũng chính là niềm
quyết tâm chiến đấu, niềm hy vọng đến ngày trở về khi đất nước hòa bình.
Và trong cuộc chiến khốc liệt ấy, các anh phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn,
gian khổ và cả những hiểm nguy. Có biết bao người đã phải ngã xuống, góp một
phần máu xương cho đất nước, cho những người ở lại thay họ tiếp tục chiến
đấu. Dù vậy, tinh thần lạc quan vẫn luôn trong họ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh …
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"
Như cụ thể hóa bằng những hình ảnh chân thực, bức tranh người bộ đội cụ Hồ
với bao gian khó dần hiện ra. Họ phải đối mặt với sự lạnh lẽo, rừng thiêng nước
độc bủa vây, đó là căn bệnh sốt rét quái ác “Sốt run người, vầng trán ướt mồ
hôi” hay là cuộc sống nhọc nhằn, thiếu thốn đủ điều “Áo anh rách vai, quần tôi
có vài mảnh vá”, “chân không giày”. Mặc dù phải đối mặt với những gian nguy
như vậy, nhưng nụ cười vẫn nở trên môi các anh, một tinh thần lạc quan, vững
chãi không chút lay động. Tác giả Chính Hữu đã khắc họa lên một hình ảnh
giản dị, nhưng đẹp và sáng vô cùng “miệng cười buốt giá”. Dường như nụ cười
ấy xua tan đi tất cả, nó như một lời động viên, một nỗ lực sống và chiến đấu đầy mãnh liệt. 50
Những khó khăn không chỉ dừng lại ở đấy, người lính áo vải còn phải chênh
vai, đương đầu với những khó khăn, thử thách đang chực chờ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Ở những câu thơ cuối là hình ảnh tư thế hiên ngang của những người lính, vì
nhiệm vụ cao cả họ chấp nhận đối mặt với những gian khổ cận kề. Tiếp đó, là
hình ảnh chung vai, sát cánh hướng mũi súng nơi kẻ thù. Trong cảnh đất trời
bao la, hình ảnh đẹp đẽ của ánh trăng chợt hiện ra giữa đỉnh đầu, nơi nòng súng
giương cao, luôn sẵn sàng chiến đấu, đương đầu với kẻ thù bất cứ lúc nào. Chỉ
bằng những từ ngữ ngắn gọn “Đầu súng trăng treo”, nhưng đây có lẽ điểm độc
đáo nhất của bài thơ, với một bên là “trăng” một bên là “súng”, hai hình ảnh
cùng thức giữa trời đêm. Tác giả đã kết hợp hai hình ảnh lại với nhau một cách
hài hòa, mang một giá trị triết lý sâu sắc. Sự hòa quyện giữa chất thơ của hiện
thực và sự lãng mạn đã đưa người đọc theo dòng cảm xúc mênh mông mà đẹp
vô cùng, cho người đọc thấy rõ hơn về tinh thần lạc quan, vững vàng không
chút lay động của người lính cách mạng lúc bấy giờ.
Bài thơ khép lại để lại cho chúng ta cảm xúc bồi hồi, đầy cảm phục về người bộ
đội cụ Hồ trước những chông gai, nhọc nhằn. Đồng thời, cũng là những hình
ảnh giản dị, mộc mạc mà trong đó là cả một tâm hồn lãng mạn, đẹp đẽ. Bài thơ
“Đồng chí” như tái hiện lại cuộc chiến gian khổ đầy đau thương, mất mát một
cách chân thực, đó là tinh thần sắt đá, là dòng huyết quản sôi sục, là sự sẻ chia,
chung vai của những người đồng chí, đồng đội.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 7 51
"Đồng chí" là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người lính trong những
năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết
vào năm 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947. Nó đã đi qua một hành
trình nửa thế kỷ, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc
dồn nén. Hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng
cho bạn đọc trẻ ngày nay.
Bài thơ "Đồng chí" ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có
nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh
giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954).
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai "gương mặt"
người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ
sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn
nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ
mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cánh,
đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở. Là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ "đôi người xa lạ"
rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa từ bảy, tám
chữ rồi rút lại, nén xuống còn hai chữ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt
lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kỳ: "Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự 52
phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Đồng chí!"
"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lý tưởng chiến
đấu; "anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc
lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý
hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri
kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỷ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ
bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri kỉ" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết
mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Hai từ "đồng chí"
diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về
một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung
lý tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng
yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ:
bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỷ, tình đồng
chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỷ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ
niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:
"Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu 53
Thấm mối tình Việt Bắc..."
(Chiều mưa đường số 5, Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cùng chung một nỗi nhớ: nhớ
ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình
ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính"
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong
ca dao xưa: "Cây đa cũ, bến đò xưa... Gốc đa, giếng nước, sân đình..." được
Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía.
Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng
hình anh trai cày ra trận? Hay "người ra lính" vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng
quê hương? Có cả hai nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, lính yêu quê hương đã
góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính
vượt qua mọi thử thách gian lao ác liệt thời máu lửa. Cũng nói về nỗi nhớ ấy,
trong bài thơ "Bao giờ trở lại", Hoàng Trung Thông viết:
"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê.
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường. 54
Hoa cau thơm ngát đồi nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"
Bảy câu thơ tiếp theo ngổn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực
kháng chiến buổi đầu. Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã
quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,...
nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những
ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí,
thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men... Người lính ra trận "áo vải chân
không đi lùng giặc đánh", áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng. "Sốt
run người vầng trán ướt mồ hôi":
"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày"
Chữ "biết" trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử
thách. Các chữ: "anh với tôi", "áo anh... quần tôi" xuất hiện trong đoạn thơ như
một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thứ 4
tiếng cấu trúc tương phản: "Miệng cười buốt giá" thể hiện sâu sắc tinh thần lạc
quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê,
cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay''. Tình 55
thương đồng đội được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: "Tay nắm
lấy bàn tay". Anh nắm lấy tay tôi. tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau,
truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách. "đi tới và làm lên thắng trận".
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ - hai đồng chí trong chiến đấu.
Họ cùng "đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới", cảnh tượng chiến trường là "rừng
hoang sương muối", một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng
chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng "chờ giặc tới", hai chiến sĩ
vẫn "đứng cạnh bên nhau", vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên
chiến khu. Một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
"Đầu súng trăng treo"
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan".
Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông "rừng hoang sương muối" thì
có "đầu súng trăng treo". Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ
lửng trên không như đang "treo" vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ
đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hy sinh.
"Đầu súng trăng treo" là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian
khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ
ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh "Đầu súng trăng treo" là một
sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính
Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ - đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc,
trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương
mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư
thế "trầm tĩnh chờ giặc tới". Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra
đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó
cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu. 56
Bài thơ "Đồng chí" vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật
chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi
nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh - người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm
tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo
nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và
màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
"Đồng chí" là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nông dân
mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một
tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng".
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 8
“Anh vẫn hành quân
Trên đường ra chiến dịch” (Trần Hữu Thung)
Đã từ lâu, hình tượng người chiến sĩ quân đội đã đi vào lòng dân và văn chương
với những tư thế, tình cảm, phẩm chất đẹp đẽ. Danh từ "Bộ đội cụ Hồ" đã trở
thành cái tên thân thương nhất của nhân dân dành cho người chiến sĩ. Viết về đề
tài quân đội có khá nhiều tác giả, nhưng để thành công thì không dễ mấy ai.
Riêng nhà thơ - người chiến sĩ Chính Hữu bằng cảm xúc của người trong cuộc
đã thành công xuất sắc với bài thơ Đồng chí. Tác phẩm đã diễn tả thật cảm động
mối tình đồng chí thiêng liêng và xứng đáng là một bài thơ trữ tình hay trong nền văn học Việt Nam.
“Anh với tôi đôi người xa lạ 57
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Xuyên suốt bài thơ, người đọc cảm nhận được một giọng thơ mộc mạc, chân
thành tựa như lời tự sự thủ thỉ về cuộc sống, về những người chiến sĩ từ áo vải
quần nâu đã một lòng đứng dậy chiến đấu giành tự do cho quê hương. Họ là
những người dân bình thường, chân chất, cùng chung một cái nghèo, vì lý tưởng
đã không quản gian lao ra đi và gặp nhau.
Trong tâm tư của họ có những cái chung và cái riêng. Cái riêng của họ là những
người xa lạ, khác quê hương, khác tính tình. Song lại có cùng một cái chung: đó
là nỗi nhớ quê hương, nhớ mẹ già, vợ trẻ con thơ, nỗi day dứt về những việc còn
đang dang dở, về gian nhà trống trải không người sửa mái để tránh những cơn
gió mùa, về ruộng vườn, làng xóm thân thương.
Từ những cái chung, từ những năm tháng khó khăn vất vả và họ đã xích lại gần
nhau và trở thành đồng chí. "Đồng chí", dù Chính Hữu chưa một lần giải thích
nhưng người đọc, qua những vần thơ mộc mạc, giọng thơ gần gũi đã hiểu thông
suốt, rõ ràng giá trị đích thực của nó. Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ trong bài là
ngôn ngữ đời sống dân dã, mộc mạc thôn quê.
"Anh với tôi đôi người xa lạ", tác giả không sử dụng từ "hai" mà lại nói :đôi".
Thông thường từ "đôi" thường gắn với những danh từ như "đũa", "chim". Đã là
"đôi" tức là bao giờ cũng phải gắn bó chặt chẽ với nhau, keo sơn, thắm thiết
Chính Hữu dùng từ này để khẳng định tình thân giữa hai người, đồng thời làm
lời thơ thêm giản dị gần với đời thường. Tuy nhiên đời thường nhưng không
phải tầm thường, thô thiển bởi tác giả khéo léo chọn đưa ngôn ngữ cuộc sống
thành ngôn ngữ văn chương.
Trong bài thơ, hai lần tác giả dùng cụm từ "anh với tôi". "Anh với tôi" là để soi
vào nhau, nhận diện nhau để nhận ra chính mình. Cũng có những lúc, "anh" và
"tôi" được tách riêng ra. Trong những lúc ấy, "anh" và "tôi" cũng vẫn giống
nhau, vẫn dễ hòa làm một: 58 “Áo anh rách vai
Quần tôi có hai mảnh vá”
Quả đúng vậy, trong "anh" còn có cả "tôi" nữa. Anh với tôi đều giống nhau, đều
là những người chiến sĩ dầm mưa dãi nắng, gai cào bùn dày, khuôn mặt cũng
ám khói súng, sạm màu trận mạc, nào có gì khác nhau! Cái nét nghệ thuật tài
tình của Chính Hữu có lẽ là ở đây.
Kết cấu cũng là một nghệ thuật tinh tế của Đồng chí. Bài thơ không tuân theo
những quy luật về âm vận mà tự do, phóng khoáng để bộc lộ hết cảm xúc của tác giả:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Đột nhiên giữa hai bài thơ, từ "đồng chí" đứng độc lập tạo thành một câu thơ có
tác dụng như một lời nói thiết tha, chân thành, khẳng định cái giá trị chân thực
của đồng chí. Tứ thơ đột nhiên chuyển mạch nhưng không rời rạc, ngắn gọn
nhưng không khô khan mà trái lại nó thấm đượm ân tình, thiết tha nồng hậu như
nhắc, bảo, như khẳng định rằng: "Tình đồng chí chỉ có được qua khó khăn gian khổ".
Ví như những con người chiến sĩ này, như "anh" và "tôi", những người lính đã
nếm mùi đói rét, khó khăn, đương đầu với khói lửa trận mạc, chấp nhận hy sinh,
biết từng "cơn ớn lạnh, rét run người vầng trán ướt mồ hôi" của những trận sốt
rét khốc liệt đánh gục được cả những người khỏe mạnh nhất.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh "Anh với tôi đôi người xa lạ" nhưng kết thúc lại là:
"Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Thật là một hình ảnh giàu cảm xúc. Giữa 59
hai người lính trận mạc chẳng có gì, chỉ có hai bàn tay trắng nắm lấy nhau như
động viên an ủi, tiếp thêm sức mạnh, ý chí cho nhau.
Đó cũng là một biểu tượng đẹp đẽ của tình đồng chí đích thực, của sức mạnh
đoàn kết. Hai bàn tay ấy tách riêng ra thì lẻ loi, yếu ớt nhưng nắm lại thì không
có sức mạnh nào địch nổi. Hơi ấm từ hai bàn tay như lan tỏa, như truyền ấm cả
bài thơ. Nếu dừng bài thơ ở đây cũng là được nhưng không, Chính Hữu không
dừng lại ở đó mà đi xa hơn một khổ thơ ngắn mà chứa chan tình cảm:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Chỉ có ba câu thơ ngắn nhưng có thể tóm lại toàn bài, khẳng định rõ ràng nhất
giá trị của bài thơ. Giữa rừng đêm lạnh giá, có hai ngọn súng, hai con người dựa
sát vào nhau chờ giặc. Ánh trăng lên tỏa sáng rừng núi và chếch dần, chếch dần
như treo lơ lửng trên ngọn súng người lính. Hình ảnh mang tính lãng mạn và
hiện thực. Nó giàu chất thơ và thể hiện rõ ràng cuộc sống, tính cách, tâm hồn
của những người lính, đọc câu thơ ấy, ta chợt liên tưởng đến câu thơ:
“Anh vẫn hành quân …
Nẻo đường xa anh bước
Trăng non ló đỉnh rừng”
Hai hình ảnh đều cảm động và chứa chan tình người lính, chứa chan chất thơ.
Đồng chí là một bài thơ hay vì bằng một ngôn ngữ nghệ thuật hàm súc, chọn
lọc, với chi tiết thơ đầy chất gợi cảm, tác giả đã khắc họa được gương mặt
những chiến sĩ vệ quốc một thời, và quan trọng hơn đó là gương mặt tinh thần,
tình cảm đồng chí mới mẻ, thiêng liêng là sức mạnh để những con người áo
rách, chân không giày chiến thắng giặc Pháp. 60
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 9
“Đồng Chí” của Chính Hữu là một trong những bài thơ nổi tiếng viết về người
lính trong những năm kháng chiến chống Pháp. Qua bài thơ, hình ảnh những
“anh bộ đội cụ Hồ” hiện lên đầy giản dị với những phẩm chất đẹp đẽ.
Bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Chính Hữu cùng với đồng đội tham gia
chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của
thực dân Pháp. Đến với bảy câu thơ đầu đã cho người đọc thấy được xuất thân
cũng như quá trình hình thành tình đồng chí. Những người lính họ có cùng
chung một xuất thân, từ những người nông dân lao động lam lũ.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Nếu như anh đến từ vùng quê “nước mặn đồng chua”, thì tôi cũng đến từ ngôi
làng “đất cày lên sỏi đá”. Đây đều là những hình ảnh khắc họa nên những vùng
đất khắc nghiệt, không thể trồng trọt.
Những con người đến từ những vùng đất xa lạ đó, tưởng chừng như khó có thể
gặp gỡ và quen biết. Vậy mà họ “tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đây là
một sự gặp gỡ tình cờ và không hề báo trước. Nhưng đây là một sự gặp gỡ tất
yếu. Vì những con người ấy cùng chung một lý tưởng: “Súng bên súng, đầu sát
bên đầu”. Hình ảnh “súng bên súng” chính là thể hiện cho những ngày tháng
cùng chiến đấu chống lại kẻ thù. Còn hình ảnh “đầu sát bên đầu” là thể hiện cho
sự đồng điệu về tâm hồn. Những con người cùng chung mục đích sống, lý
tưởng sống là chiến đấu và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân.
Nhưng không chỉ vậy, những người lính ấy còn chung một tấm lòng sẻ chia khó
khăn gian khổ: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Nếu chưa từng trải qua
cái lạnh giá của buổi đêm trong rừng sâu, chắc sẽ không thể hiểu được khó khăn 61
của những người lính hiện tại. Nhưng không chỉ thiên nhiên khắc nghiệt, họ còn
thiếu thốn về vật chất, đến tấm chăn mỏng manh phải san sẻ cho nhau. Nhưng
chính vì vậy, chúng ta mới thấy được tình cảm gắn bó “tri kỷ” của những người
đồng đội. Họ thấu hiểu và chia sẻ cho nhau từ những điều nhỏ nhất, giống như
những người thân trong một gia đình vậy. Để rồi hai tiếng: “Đồng chí!” cất lên
nghe đầy trân trọng và yêu mến. Đó chính là lời khẳng định cho tình cảm của
những người lính trong những năm tháng chiến đấu gian khổ mà tự hào.
Đến những câu thơ tiếp theo, Chính Hữu đã cho người đọc thấy rõ những biểu
hiện của tình đồng chí:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Người lính trên đường chiến đấu đã để lại những quê hương những tài sản quý
giá nhất: ruộng nương, giếng nước, gian nhà. Chỉ hai từ “mặc kệ” nhưng đã cho
thấy được sự ra đi dứt khoát của họ. Họ bỏ lại tất cả ở lại để lên đường chiến 62
đấu bảo vệ tổ quốc. Dẫu là vậy nhưng trong sâu thẳm trái tim vẫn nhớ về quê hương tha thiết:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”
Tất cả những gì từng gắn bó thân quen nhất, người lính đều đã gửi gắm lại quê
nhà. Tưởng chừng như ra đi sẽ không có vướng bận gì mà trong lòng lại đầy nhớ thương.
Không chỉ vậy, tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những trăn trở, thiếu
thốn. Trong những năm tháng chiến đấu gian khổ, cuộc sống của người lính
thiếu thốn đủ điều: áo rách, quần vá, chân không giày, những cơn sốt rét rừng,
cái lạnh buốt của đêm trong rừng đã hành hạ họ. Nhưng trong khó khăn ấy, vẫn
ấm áp tình đồng đội: “Thương nhau tay nắm bàn tay”. Hơi ấm từ đôi bàn tay, ở
tấm lòng đã sưởi ấm cái giá lạnh. Cặp từ “anh” với “tôi” luôn sóng đôi cho thấy
sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng chí đồng đội.
Khổ thơ cuối cùng như một cái kết đẹp cho tình đồng đội, đồng chí:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Hình ảnh rừng vào buổi đêm vắng vẻ, lạnh giá và thật khắc nghiệt với “sương
muối”. Nhưng người lính vẫn đứng đó, bên nhau để “chờ giặc tới” - một tâm thế
chủ động đối mặt với cuộc chiến. Dù khó khăn, gian khổ luôn cận kề thì người
lính vẫn không chịu khuất phục. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của 63
rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút "chờ giặc tới". Tình cảm
đồng chí đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn trong cuộc chiến.
Câu thơ cuối cùng gợi lên một hình ảnh thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”.
“Súng” là biểu tượng cho hiện thực của cuộc chiến tranh đầy khốc liệt. Còn
“trăng” là biểu tượng cho hòa bình, cho sự thơ mộng. Hai hình ảnh “súng” và
“trăng” đi cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời của người lính.
Chính Hữu đã từng nói về hình ảnh này: “Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh,
bốn chữ này còn có nhịp điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong
sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt,
suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng
trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người
bạn”. Nhưng bên cạnh hình ảnh tả thực, nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho
tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đồng đội tồn tại bất
diệt trong những năm kháng chiến gian khổ.
Qua phân tích trên, có thể thấy bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã khắc họa
hình ảnh người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ qua những hình ảnh
chi tiết giản dị, chân thực và đầy gần gũi.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 10
Đề tài người lính là một trong các đề tài quen thuộc trong thơ ca kháng chiến,
mỗi nhà thơ bằng sự trải nghiệm và sự nhìn nhận riêng của mình đã khám phá ra
những vẻ đẹp khác nhau của anh bộ đội cụ Hồ. Nếu trong "Tây Tiến" (Quang
Dũng) ta bắt gặp vẻ đẹp hào hùng mà hào hoa, thanh lịch của những chàng trai
ra đi từ đất Hà thành; trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" (Phạm Tiến
Duật) ta bắt gặp vẻ phong trần, tinh nghịch mà vô cùng mạnh mẽ của những
người lính lái xe thì đến với "Đồng chí" của Chính Hữu, người đọc ấn tượng bởi
những nét đẹp giản dị, đời thường, thấm đượm tình cảm đồng chí, đồng đội sâu
sắc của những người lính chống Pháp từ những buổi đầu kháng chiến. 64
Bài thơ được viết vào khoảng đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham
gia chiến dịch Việt Bắc thu - đông. Qua bài thơ, người đọc thấy được tình cảm
đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó mặn nồng.
Trước hết bảy câu thơ đầu là cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội của
những người lính chống Pháp. Có thể nói, đến với bảy câu thơ mở đầu này, ta
bắt gặp một định nghĩa rất riêng của nhà thơ về hai chữ "đồng chí". Đầu tiên,
với Chính Hữu, tình đồng chí bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Lời thơ mộc mạc, giản dị, chân thành, đã cho thấy những người lính, họ đều
xuất thân từ những người nông dân chân nấm tay bùn, vất vả và nghèo khó.
Chắc vì thế mà cái mối quan tâm hàng đầu của họ chính là về đất đai khi họ giới
thiệu về mình. Thành ngữ "nước mặn đồng chua", gợi lên một miền đất nắng
gió ven biển, đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ
“đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung
du đất đai cằn cỗi, khó canh tác. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và
cuộc sống của những chàng trai nông dân nghèo khó, lam lũ, cực nhọc. Và cũng
nhờ có điểm chung gặp gỡ giống nhau ấy, là cơ sở ban đầu để hình thành trong
họ tình đồng cảm, hữu ái giai cấp, tạo tiền để làm nên tình đồng chí, đồng đội, gắn bó keo sơn.
Mặc dù, họ cách xa nhau về không gian địa lí, một người vùng biển, một người
miền núi cao nhưng họ có cùng chung chí hướng, lí tưởng cách mạng cao đẹp:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau 65
Đang quen tay cuốc, tay cày nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm, những
người nông dân như vươn lên thành những tráng sĩ. Họ cùng nghe theo tiếng gọi
thiêng liêng của Tổ quốc, lời vẫy gọi thiết tha của đất nước thân thương đang
lâm nguy, họ gác lại tất cả mà vác ba lô, vác súng ra chiến trường chiến đấu. Vì
thế, họ lại gặp chung một lí tưởng cách mạng, một mục tiêu chiến đấu thiêng
liêng: tình yêu tổ quốc và niềm khát khao đất nước được hòa bình, độc lập.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!
Từ hai con người vốn chẳng hề thân quen, nay cùng chung lí tưởng cách mạng
mà gặp gỡ, từ đó mà làm nên tình đồng chí. Một lí do rất đơn giản nhưng lại rất
thiêng liêng và cao cả. Bởi tình cảm đồng chí ấy được chắp cánh bởi lí tưởng và
khát vọng cao đẹp của tình yêu đất nước. Và cũng từ đó, tình đồng chí bắt đầu
nảy nở và trở nên bền chặt, keo sơn trong chiến đấu và cuộc sống có chiến
tranh. Hình ảnh thơ có sự sóng đôi, gợi nên tình gắn bó keo sơn của người lính
cách mạng. Trong chiến tranh “súng bên súng”: họ cùng nhau kề vai sát cánh đi
bên nhau trong chiến đấu; cùng chung mục tiêu, cùng chung nhiệm vụ. Trong
cuộc sống nơi hòn tên, mũi đạn, họ “đầu sát bên đầu”, “đêm rét chung chăn”,
gắn bó, sẻ chia, sẵn sàng chia ngọt, sẻ bùi những lúc thiếu thốn về vật chất
(chung chăn) và sự khắc nghiệt, dữ dội của tiết trời, khí hậu (sương muối, mưa
rừng). Chính sự sẻ chia, đồng cam cộng khổ ấy đã tạo nên hơi ấm để xua tan đi
cái lạnh lẽo, cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, giúp họ gắn kết
với nhau mà vượt lên gian khó, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà lịch sử đang giao phó:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” 66
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Tất cả những hành động và tình cảm chân thành ấy đã làm nên những người bạn
“tri kỉ” tri âm mà cao hơn là tình đồng chí, đồng đội bền chặt, thiêng liêng.
Trong bảy câu thơ mở đầu, người đọc nhận ra cách xưng hô “anh – tôi” trong
mỗi dòng thơ có những sắc thái biểu cảm khác nhau, cho thấy quá trình phát
triển về mặt tình cảm của tình đồng chí, đồng đội của người lính: Ban đầu với
hai câu đầu, hai đại từ nhân xưng “anh – tôi” chỉ dùng để gọi, giao tiếp của hai
con người ở hai thế giới hoàn toàn khác biệt (một người vùng biển; một người
vùng cao); Tiếp đó, hai câu thơ tiếp, “anh – tôi” đã gặp gỡ mà quen biết nhau
khi cùng chung lí tưởng và mục tiêu chiến đấu, nhưng vẫn chỉ là “đôi người xa
lạ”. Cuối cùng, qua thời gian năm tháng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi,
họ đã biến sự xa lạ thành thân quen, biến thân quen thành đôi bạn tri kỉ, tri âm.
Từ một cá nhân riêng lẻ nhưng sau dần đã trở thành một khối thống nhất và
đoàn kết mạnh mẽ không tách rời. Vì thế, hai tiếng “Đồng chí!” được gieo giữa
bài thơ vừa có ý nghĩa khép lại đoạn thơ mở đầu, vừa có tính chất mở ra để kết
nối đoạn thơ tiếp theo. Đồng thời nó như một lời hô gọi thiêng liêng, trầm hùng
và xúc động của những người lính trong chiến tranh và trong tranh đấu. Đó là
một câu thơ đặc biệt như là một lời kết luận cho những lí lẽ, cơ sở mà tác giả
đưa ra để làm “minh chứng” cho quá trình phát triển hình thành của tình đồng
chí. Từ đó, ta bắt gặp một cách định nghĩa bằng thơ rất riêng của Chính Hữu về
“Đồng chí”. “Đồng chí” là cùng chung hoàn cảnh, cùng chung lí tưởng, mục
tiêu cách mạng, cùng chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn, vất vả trong
chiến đấu. Cách lập ý rõ ràng, tạo nên một kết cấu logic chính luận cho bài thơ trữ tình.
Nếu như bảy câu thơ đầu, Chính Hữu chỉ ra cơ sở để hình thành nên tình đồng
chí, đồng đội thì những câu thơ tiếp theo, tác giả tiếp tục chỉ ra những biểu hiện
cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội. Trước hết, đồng chí là sự cảm thông sâu xa
những hoàn cảnh, tâm tư, nỗi niềm sâu kín của nhau: 67
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Chúng ta thấy, cả ba câu thơ chỉ xuất hiện đại từ xưng hô “anh” mà không phải
“tôi”, điều đó cho thấy lời thơ là lời nói hộ, bộc lộ hộ những tâm tư tình cảm
của người bạn mình. Đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ người thân yêu nơi
hậu phương của người lính. Và qua cách nói hộ ấy, người đọc thấy được tình
cảm đồng đội, đồng chí hiện lên thật sâu đậm, họ hiểu bạn mình cũng như hiểu
chính mình vậy. Vì thế cho nên, lời thơ cũng chính là bộc bạch chân thành của
chính nhân vật trữ tình “tôi” về nỗi nhớ quê hương sâu sắc.
Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… là những hình ảnh giản dị, quen
thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính đang rất nhớ tới quê
hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm
đẹp đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc kệ” đã cho
thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng
nương, gian nhà và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân
yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy
đã được nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc”
Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của
người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu
nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh
rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê 68
hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính
da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang
nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ
quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên
mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, dân tộc.
Không chỉ chia sẻ với nhau những chuyện riêng tư, nỗi nhớ nhung về quê
hương, người thân, người lính còn sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trong lúc hoạn nạn khó khăn:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Đầu tiên, người lính chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau khi mắc phải bệnh tật quái ác –
những cơn sốt rét ghê gớm. Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” là
những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà
trong chiến tranh không hề có đủ thuốc men để chạy chữa. Vì thế các anh phải
cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua. Đây là một hình ảnh xuất
phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh. Trong bài thơ "Tây
Tiến" của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã nhắc tới căn bệnh này:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm. 69
Hay trong bài "Dấu chân qua trảng cỏ" của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:
Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe.
Nhưng khi mắc bệnh, những người lính lại nhận được sự chăm sóc tận tình, chu
đáo của những người bạn, người đồng đội nên căn bệnh dù có quái ác nhưng
vẫn không thể quật ngã được họ. Từ “với” trong cụm từ “anh với tôi” đã diễn tả
sự sẻ chia của người lính đối với người bạn của mình khi bị ốm sốt rét. “Với” ở
đây có nghĩa là có sự đồng cảm, sẻ chia, cộng hưởng của tình cảm. Chính sự
giúp đỡ động viên chân tình ấy đã giúp họ cùng nhau vượt qua được những căn
bệnh sốt rét nguy hiểm – một nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh.
Người lính không chỉ chia sẻ với nhau về bệnh tật mà còn đồng cam, cộng khổ
khi phải đối diện với sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất. Hình ảnh: "áo rách
vai, quần vài mảnh vá, chân không giày" là những hình ảnh thực có ý nghĩa diễn
tả điều đó. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng
những hành động chân thành: “Miệng cười buốt giá”, “Thương nhau tay nắm
lấy bàn tay”. Chính nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ
đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười.
Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm,
cho thấy được sự lạc quan mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn
hành động “tay nắm lấy bàn tay” là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc
này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên
phía trước, vì mục tiêu lí tưởng cách mạng lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có
lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà,
nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có
thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng 70
chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kì.
Khép lại bài thơ, ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất
lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại
vừa đặc tả tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu
hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đồng chí là cùng chung chiến hào:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang –
sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn
đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ
động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ
thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi
rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ
như lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình
đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ
gần nghĩa “cạnh – bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn
có nhau của những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời,
dưới cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi
súng. Và "trăng" theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm
đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của
rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh “súng – trăng” được đặt cạnh
bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ mộng; chiến
tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa
cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp 71
tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến
đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc thân yêu. Có
thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững
cho tình đồng chí thiêng liêng, cao cả.
Tóm lại, với một ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng, giàu sức biểu cảm, lời thơ
giản dị mà giàu sức tạo hình; giọng điệu tâm tình, nhẹ nhàng, thiết tha, sử dụng
sáng tạo bút pháp tả thực và lãng mạn, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ
đẹp chân chất, mộc mạc, bình dị của người lính cụ Hồ trong cuộc kháng chiến
chống Pháp. Bài thơ là một trong những thành công sớm nhất của thi ca cách
mạng Việt Nam viết về bộ đội. Khép lại trang thơ, bức tượng đài người chiến sĩ
với tình cảm đồng chí, đồng đội cứ dội lên trong tâm trí độc giả với lòng biết ơn
sâu sắc sự hi sinh lớn lao vì hòa bình đất nước của các anh. Từ đó, ta mới thấy
hết được trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ và phát triển quê hương, dân tộc mình.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 11
Chính Hữu nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, các tác phẩm
của ông tập trung miêu tả về người lính và chiến tranh. Số lượng tác phẩm của
ông để lại không nhiều, nhưng chỉ với bài thơ Đồng chí cũng đã đủ để khẳng
định vai trò, vị trí của ông trong nền văn học dân tộc.
Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948, khi tác giả cùng những đồng
đội của mình tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc đánh bại cuộc tiến
công quy mô lớn của Pháp. Trong tác phẩm hình ảnh người lính hiện lên vừa
chân thực, vừa hết sức anh dũng.
Bảy câu thơ đầu, tác giả nêu lên cơ sở của tình đồng chí. Trước hết họ có chung
nhau hoàn cảnh xuất thân: “Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi
nghèo đất cày lên sỏi đá”. Anh và tôi có cùng cảnh ngộ xuất thân, chúng ta đều 72
đến từ những miền quê nghèo khó. Vì đất nước bị xâm lược, tôi và anh từ
những người xa lạ cùng kề vai sát cánh bên nhau chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Chính Hữu cũng thật tinh tế, ông không dùng chữ “hai” mà dùng chữ “đôi”, chữ
2 gợi nên khoảng cách, sự xa lạ giữa hai con người, nhưng chữ đôi lại không
như vậy. Đôi gợi lên sự gắn kết, hòa hợp với nhau, qua đó khẳng định sự gắn
bó, bền chặt giữa những người đồng đội. Không chỉ chung về hoàn cảnh xuất
thân, họ còn cùng chung nhiệm vụ, mục đích và lí tưởng chiến đấu :
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Súng là tượng trưng cho quá trình đấu tranh bảo vệ tổ quốc, còn đầu tượng
trưng cho mục đích, lí tưởng chiến đấu. Như vậy, những người lính dù có hoàn
cảnh xuất thân khác nhau, nhưng ở họ đều ngời sáng tinh thần yêu nước. Họ
chiến đấu để bảo vệ quê hương, chiến đấu để bảo vệ làng xóm thân thương của mình.
Để làm sâu sắc hơn tình cảm gắn bó của họ, tác giả còn nhìn thấy ở những
người lính ấy một điểm chung khác: Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Trải
qua gian khổ, khó khăn trong những năm tháng chiến đấu gian lao họ đã trở
thành tri kỉ. Hai tiếng tri kỉ thật thiêng liêng và đáng trân trọng. Tri kỉ là những
người hiểu bạn như hiểu chính mình. Họ là những người như vậy, không chỉ
hiểu mà còn cảm thông cho những nỗi niềm của nhau. Để rồi câu thơ “Đồng
chí” chốt lại toàn bộ ý thơ khổ đầu. Câu thơ tách riêng thể hiện cảm xúc dồn
nén, chân thành và cho thấy sự thiêng liêng, sâu nặng của tình đồng chí. Đoạn
thơ không chỉ là sự lí giải về cơ sở hình thành tình đồng chí mà còn cho thấy
quá trình biến đổi từ những người nông dân xa lạ, họ trở thành những người
đồng đội sống chết vẫn bên nhau.
Câu thơ “Đồng chí” có thể coi là bản lề khép mở giữa hai khổ thơ, khép lại cơ
sở hình thành tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp của thứ tình cảm
thiêng liêng ấy. Họ ra đi từ những miền quê khác nhau, nhưng họ đều hiểu về 73
những tâm tư tình cảm của nhau, bởi đó cũng chính là tâm sự của họ: “Ruộng
nương anh gửi bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước
gốc đa nhớ người ra lính”. Vì sự độc lập của dân tộc, họ - những người lính gửi
gắm lại ruộng nương, vườn tược cho người thân, từ mặc kệ thể hiện thái độ kiên
quyết, dứt khoát. Nhưng sự mạnh mẽ đó không hề tỏ ra vô tâm, quyết liệt nhưng
không hề lạnh lùng. Từng giây phút ở nơi chiến trường họ vẫn mong ngóng
hướng về quê nhà, nhớ về “giếng nước, gốc đa”. Họ tự nén lại yêu thương, nén
lại nỗi nhớ nhung khắc khoải để cống hiện trọn vẹn đời mình cho cuộc kháng
chiến của toàn dân tộc.
Trong chiến trường ác liệt, gian lao họ còn đồng cảm cộng khổ, cùng nhau vượt
qua mọi khắc nghiệt của hoàn cảnh. Đó là những cơn sốt rét rừng đã cướp đi
sinh mạng của biết bao người lính, đã từng được Quang Dũng tái hiện lại trong
bài thơ Tây Tiến:“Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên
đời”. Trong những năm chiến tranh, sốt rét rừng là nỗi ám ảnh với tất cả binh
lính, nhưng “anh với tôi” vẫn bên nhau để cùng vượt qua cái “sốt run người”.
Họ còn cùng nhau vượt qua những thiếu thốn, khó khăn : áo rách vai, quần vài
mảnh vá, chân không giày. Cuộc sống của họ thiếu thốn đủ đường, nhưng nhờ
tình cảm đồng đội họ đã vượt qua tất cả những gian khổ đó để bảo vệ tổ quốc.
Hình ảnh “tay nắm bàn tay” thật đẹp đẽ, chất chứa biết bao yêu thương, trìu
mến, họ luôn bên nhau sẵn lòng chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn. Tình cảm
nồng đậm, ấm áp chân thành đó đã sưởi ấm tâm hồn họ, nâng bước họ trên con
đường chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Ba câu thơ cuối hoàn chỉnh bức tranh đẹp đẽ về tình cảm đồng chí, đồng đội :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo. 74
Bức tranh được tác giả xây dựng trên một không gian vô cùng khắc nghiệt: đêm
đã về khuya, sương ngày một xuống dày, cảnh vật trở nên hoang vu, lạnh lẽo.
Trong khung cảnh ấy, họ đứng cạnh nhau chờ giặc tới, tư thế của họ thật hiên
ngang, chủ động, sẵn sàng nghênh chiến bất cứ lúc nào với kẻ thù. Hình ảnh
“đầu súng trăng treo” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
Đây trước hết là hình ảnh thực về những đêm canh gác ở rừng, trăng xuống thấp
như treo trên đầu mũi súng. Nhưng ngoài ra, trắng là biểu tượng cho hòa bình,
súng là biểu tượng cho chiến đấu. Khi kết hợp hai hình ảnh ấy với nhau ta có
một biểu tượng thật đẹp đẽ: những người lính cầm súng chiến đấu để bảo vệ hòa
bình, độc lập cho dân tộc. Bài thơ kết lại bằng hình ảnh đẹp, hoàn chỉnh bức
tranh người chiến sĩ trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp.
Tác phẩm được viết bằng thể thơ tự do, với kết cấu mạch lạc, có bản lề khép mở
giữa hai phần thơ. Ngôn ngữ thơ giản dị, chân thành mà sâu sắc. Giọng điệu tha
thiết, xúc động lòng người đọc. Những hình ảnh giản dị, hàm súc và giàu sức gợi.
Bằng những lời thơ chân thành, tha thiết, Chính Hữu đã tái hiện thành công tình
cảm đồng chí, đồng đội bình dị mà sâu sắc. Khắc họa vẻ đẹp của những người
lính nông dân trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp : họ luôn kề vai
sát cánh bên nhau, vượt qua mọi khó khăn, thử thách của hoàn cảnh để bảo vệ đất nước.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 12
Trong bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi đã viết:
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng 75
Hình ảnh người chiến sĩ áo vải hiện lên vô cùng đẹp đẽ. Họ - những con người
bình dị, mộc mạc, nhưng chính họ là người đã làm nên đất nước. Trong dòng
chảy văn học kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người lính không ngang tàng,
hóm hỉnh như kháng chiến chống Mĩ, nhưng lại mang trong mình nét chất phác,
giản dị và hơn hết là tình yêu đất nước tha thiết. Vẻ đẹp tâm hồn đó đã đã Chính
Hữu khắc họa rõ nét trong bài thơ Đồng chí.
Đồng chí vừa là những nét vẽ rất thực về cuộc sống, chiến đấu của những người
lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Nhưng đằng sau những nét vẽ chân
thực đó lại là một tâm hồn vô cùng lãng mạn, dù cái lãng mạn chỉ mới phảng
phất, nhưng cũng đủ để cho người đọc cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp tâm hồn của người lính.
Cả tác phẩm như một câu chuyện kể về cuộc đời người lính, nhưng không phải
bằng lời văn xuôi mà bằng chính những dòng thơ thấm đẫm cảm xúc. Lời thơ
mộc mạc, giản dị và chân thành đã đưa người đọc khám phá cuộc sống chiến
đấu, cũng như tâm hồn của họ. Mở đầu bài thơ là những hình ảnh rất chân thực
về nguồn gốc xuất thân của người lính nông dân:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Họ vốn từ nhiều miền quê khác nhau, người nơi miền chiêm trũng “nước mặn
đồng chua”, người lại từ miền đồi núi “đất cày lên sỏi đá” tụ hợp về chung một
nơi. Điều gì đã khiến họ rời bỏ quê hương, để đến đây, đó chẳng phải là tình
yêu làng, yêu nước nồng nàn đó sao. Thật tinh tế, Chính Hữu đã sử dụng từ
“đôi” để nói lên sự gắn bó giữa hai con người xa lạ. Nếu là hai, thì có thể tách
rời các thực thể, nhưng đôi thì không thể tách rời nữa. Mà giữa những người
chiến sĩ có sự gắn bó, kết dính hài hòa với nhau. Từ đôi đến tri kỉ, rồi đến đồng
chí là cả một quá trình thấu hiểu lẫn nhau. Kết lại bảy câu thơ đâu, hai tiếng
vang lên đầy ám ảnh, ý nghĩa: 76 Đồng chí!
Đồng chí là một khái niệm mới, để nói về những con người cùng chung mục
đích, lí tưởng. Và ở họ sau những tháng ngày chiến đấu gian khổ, cùng mang
nỗi niềm, lí tưởng, đọng lại, kết tinh lại chính là tình đồng chí bền chặt, sâu sắc.
Tình đồng chí ấy không chỉ được gây dựng trên cơ sở tình cảm mà còn được
gây dựng trên cơ sở cùng chung giai cấp, mục đích, lí tưởng. Ngày họ ra đi,
không màng gian nhà – nơi chốn thân thương đã sinh ra họ; giếng nước, gốc đa
gắn bó với kỉ niệm tuổi thơ, nuôi họ khôn lớn. Hai chữ “mặc kệ” như một lời
dứt khoát lên đường để thực hiện nhiệm vụ lớn lao hơn, cao cả hơn, đó là nhiệm vụ cứu nước.
Không dừng lại ở đó, nét vẽ hiện thực của Chính Hữu tiếp tục xoáy sâu để thấy
được cuộc sống vô vàn những khó khăn mà họ phải đương đầu:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Những cơn sốt rét rừng đã từng được nhà thơ Quang Dũng tái hiện trong bài thơ
Tây Tiến: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Người chiến sĩ không chỉ phải đương đầu với khói bom, lửa đạn chiến tranh mà
họ còn phải đương đầu với rừng thiêng nước độc, với căn bệnh sốt rét rừng ám
ảnh đến cả trong giấc ngủ. Căn bệnh này đã cướp đi sinh mạng biết bao người.
Chính Hữu không che giấu, mà vẽ những nét rất chân thật, để ta có thể cảm
nhận hết sự khắc nghiệt của chiến tranh. Không chỉ vậy họ còn phải đối mặt với 77
sự thiếu thốn về vật chất, những chiếc quần rách tơi tả, chắp vá, cái lạnh của
mùa đông thấm vào da thịt; hành quân dài ngày mà chân chẳng có lấy một đôi
giày. Nhưng họ đã vượt qua tất cả bằng tình yêu thương, bằng cái nắm tay đầy
nồng ấm. Cái nắm tay đó trao truyền sức mạnh, niềm tin và ý chí phấn đấu cho
họ. Như vậy, khắc họa chân thực hiện thực cuộc sống của người lính, Chính
Hữu không phải để nói lên gian nan, cực khổ mà người lính phải đương đầu mà
trên hết là làm sáng lên vẻ đẹp của tình đồng chí, lòng yêu nước.
Đằng sau chất hiện thực sống sít, là hình ảnh vô cùng lãng mạn về người lính:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Câu thơ vừa mang nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng, đầy lãng mạn.
Trong đêm phục kích chờ giặc, ông chỉ có những người bạn chiến đấu, khẩu
súng và vầng trăng, Trời về khuya, có lúc nhìn lên, trăng như treo đầu ngọn
súng. Từ thực tế đó, ông đã viết nên hình ảnh “đầu súng mảnh trăng treo”, sau
này cắt bớt chữ “mảnh” thành “đầu súng trăng treo”. Nhưng đồng thời khổ thơ
cũng đầy chất lãng mạn. Súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình
ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình. Sự hòa hợp của trăng và
súng toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên
ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước: Người lính cầm súng là để bảo vệ
cho độc lập, tự do của đất nước. Trăng và súng là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ,
là hiện thực và lãng mạn. Tất cả hòa quyện tạo nên vẻ đẹp của người lính, đời lính.
Bằng những vần thơ vừa giàu chất hiện thực, vừa thấm đẫm chất lãng mạn,
Chính Hữu đã khắc họa thành công hình ảnh người lính vừa giản dị, mộc mạc 78
vừa anh hùng, dũng cảm. Họ là những người chiến sĩ quả cảm, đem hết tuổi trẻ
và sức lực để cống hiến cho tổ quốc, cho sự bình yên của quê hương, đất nước.
Phân tích bài thơ Đồng chí - Mẫu 13
Đầu năm 1948 Chính Hữu viết bài thơ này. Bài thơ là kết quả của những trải
nghiệm thực và những cảm xúc sâu xa của tác giả với đồng đội trong chiến dịch
Việt Bắc. Bài thơ nói về tình đồng đội, đồng chí thắm thiết, sâu nặng của những
người lính cách mạng mà phần lớn họ xuất thân từ nông dân. Đồng thời bài thơ
cũng thể hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong
thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn thiếu thốn.
Bài thơ” Đồng Chí” viết theo thể thơ tự do, với hai mươi dòng thơ, chia làm ba
đoạn. Cả bài thơ đều tập trung vào thể hiện chủ đề về tình”Đồng Chí”. Cái bắt
gặp đầu tiên của những người lính là từ những ngày đầu gặp mặt. Họ đều có sự
tương đồng về cảnh ngộ nghèo khó ”quê hương anh nước mặn đồng chua, làng
tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Những người lính là những người của làng quê
nghèo lam lũ, vất vả với cày cấy, ruộng đồng với những làng quê khác nhau. Họ
từ các phương trời không hề quen nhau ”từ muôn phương về tụ hội trong hàng
ngũ của những người lính cách mạng”. Đó chính là cơ sở của tình đồng chí sự
đồng cảm giai cấp của những người lính cùng chung nhiệm vụ chiến đấu để giải
phóng quê hương, đất nước. Diễn đạt ý nghĩa đó, tác giả đã diễn tả bằng hình ảnh:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”.
“Súng – đầu” sát bên nhau là tượng trưng cho ý chí và tình cảm, cùng chung lí
tưởng, nhiệm vụ chiến đấu, sát cánh bên nhau. Tình đồng chí, đồng đội nảy nở
và hình thành bền chặt trong sự chan hoà và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm
vui. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả đã biểu hiện 79
bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỉ”. Sau câu thơ này, nhà thơ hạ một câu, một dòng thơ, hai tiếng
“Đồng chí” vang lên như một “nút nhấn”, là sự kết tinh của mọi cảm xúc, mọi
tình cảm. Câu thơ “Đồng chí” vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định,
đồng thời lại như một cái bản lề gắn kết đoạn đầu với đoạn thứ hai của bài thơ.
Dòng thơ hai tiếng “Đồng chí” như khép lại, như lắng sâu vào lòng người cái
tình ý sáu câu thơ đầu của bài thơ, như một sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí.
Sáu câu thơ trước hai tiếng “Đồng chí” ấy là cội nguồn và sự hình thành của
tình đồng chí keo sơn giữa những người đồng đội.
Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai trong đoạn thơ thứ hai
là những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí và sức mạnh của tình đồng chí. Sự
biểu hiện của tình đồng chí và sức mạnh của nó được tác giả gợi bằng hình ảnh ở những câu thơ tiếp:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”
“Đồng chí”- đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Ba câu
thơ trên đưa người đọc trở lại với hoàn cảnh riêng của những người lính vốn là
những người nông dân đó. Họ ra đi trở thành những người lính nhưng mỗi
người có một tâm tư, một nỗi lòng về hoàn cảnh gia đình, người thân, công việc
đồng quê. Họ gửi lại tất cả cho hậu phương, gửi bạn thân cày cấy ruộng nương
của mình. Họ nhớ lại những gian nhà trống không “mặc kệ gió lung lay”.
Nhưng đành để lại, đành gửi lại, họ phải ra đi vì nghĩa lớn “cứu nước, cứu nhà.”
Giờ ở tiền tuyến, họ nhớ về hậu phương với một tình cảm lưu luyến khó quên.
Hậu phương, tiền tuyến (người ở lại nơi giếng nước, gốc đa)không nguôi nhớ
thương người thân của mình là những người lính nơi tiền tuyến. Tuy dứt khoát, 80
mạnh mẽ ra đi nhưng những người lính không chút vô tình. Trong chiến đấu
gian khổ, hay trên đường hành quân họ đều nhớ đến hậu phương- những người
thân yêu nhất của mình:
“ Ôi! Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồi hồi nhớ mắt người yêu” (Nguyễn Đình Thi)
“Đồng chí”-đó là cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người
lính với những hình ảnh chân thực, xúc động, gợi tả và gợi hình (từng cơn ốm
lạnh sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi,áo rách vai, quần vài mảnh vá, miệng
cười buốt giá, chân không giày) những ngày tháng ở rừng.
Để diễn tả được sự gắn bó, chia sẻ, sự giống nhau về cảnh ngộ người lính tác
giả đã xây dựng những câu thơ sóng đôi, đối ứng với nhau trong từng cặp, từng câu:
“Anh với tôi biết từng cơn ốm lạnh ................ Chân không giày”
Sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua tất cả?
Hình ảnh” thương nhau tay nắm lấy bàn tay” biểu hiện thật giản đị và xúc động
của tình cảm đồng chí, đồng đội thiêng liêng của những người lính. Tình cảm đó
là nguồn sức mạnh và niềm vui để họ vượt qua. Cái “bắt tay”(như bàn tay biết
nói) chính là tình cảm của người lính truyền cho nhau sức mạnh và niềm tin để
họ vượt qua tất cả những gian lao, thiếu thốn, thử thách trong chiến đấu.
Tình đồng chí, đồng đội còn biểu hiện ở sự thử thách. Đoạn thơ cuối thật cô
đọng bằng hình ảnh khi nhà thơ viết: 81
Đêm nay rừng hoang sương muối ............
Đầu súng trăng treo”.
Đây là một bức tranh đẹp của tình đồng chí, đồng đội- một bức tranh đặc sắc và
có ý nghĩa. Bức tranh trên là một cảnh thực trong một đêm phục kích “chờ giặc
tới” tại một cảnh ”rừng hoang sương muối” hoang vắng lạnh lẽo nổi bập lên ba
hình ảnh gắn kết với nhau ”vầng trăng khẩu súng và người lính” vầng trăng như
treo khẩu súng của người lính. Người lính thì “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.
Câu thơ “đầu súng trăng treo” (chỉ có 4 chữ) gây cho người đọc một sự bất ngờ
lí thú “ súng và trăng” sao lại hòa quyện vào nhau đẹp thế! Hình ảnh thơ nói lên
ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của anh bộ đội cụ Hồ trong
những năm đầu kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ có ba khổ, ba tứ thơ, chủ yếu tạo thành ý chung xuyên suốt toàn bài thơ
“Đồng chí”.“Đồng chí -thương nhau nắm lấy bàn tay – đầu súng trăng treo”. Bài
thư hàm xúc, mộc mạc, chân thực trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, gợi tả, có
sức khái quát cao, khắc hoạ được một trong những phẩm chất tốt đẹp của anh bộ
đội cụ Hồ. Đó là mối tình đồng chí, đồng đội gắn bó, keo sơn, thắm đượm tình
cảm, gian khổ có nhau, sống chết có nhau. Bài thơ có thực, có mơ tạo nên vẻ
đẹp của bài thơ, gây cho người đọc những suy tư sâu sắc những cảm xúc sâu
lắng. Bài thơ “Đồng chí” có những nét thành công trong việc khắc hoạ hình ảnh
người lính cách mạng trong thơ ca kháng chiến.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 14
Chính Hữu quê ở Hà Tĩnh là nhà thơ chiến sĩ viết về người lính và hai cuộc
chiến tranh, đặc biệt tình cảm cao đẹp của người lính như tình đồng chí, đồng 82
đội và tình yêu quê hương. Tác phẩm ''Đồng Chí'' được viết vào năm 1948, in
trong tập ''Đầu súng trăng treo'', là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết
về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp. Ở bảy câu
thơ đầu, tác giả đã cho chúng ta thấy cơ sở để hình thành nên tình đồng chí đồng
đội của những người lính cách mạng :
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí !''
Đầu tiên tác giả cho ta thấy tình đồng chí của họ bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân :
' Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá'
Hai câu thơ có kết cấu sóng đôi, đối ứng với nhau :''quê hương anh-làng tôi'',
''nước mặn đồng chua-đất cày lên sỏi đá'', cách giới thiệu thật bình dị, chân thật
về xuất thân của hai người lính họ là những người nông dân nghèo. Thành ngữ :
''nước mặn đồng chua'',''đất cày lên sỏi đá'' gợi ra sự nghèo khó của những vùng
ven biển bị nhiễm mặn, đất khô cằn không trồng trọt và khó canh tác được. Qua
đó, ta có thể thấy đất nước đang trong cảnh nô lệ, chiến tranh triền miên dẫn đến
cuộc sống của những người nông dân rất nghèo khổ, khó khăn nhiều thứ. Từ hai
miền đất xa lạ, ''đôi người xa lạ'' nhưng cùng giống nhau ở cái ''nghèo'': 83
' Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.'
Từ ''đôi'' đã gợi lên một sự thân thiết, chung nhau nhưng chưa thể bộc bạch đấy
thôi. Nói là ''chẳng hẹn''nhưng thật sự họ đã có hẹn với nhau. Bởi anh với tôi
đều có chung lòng yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu để thoát khỏi
sự nô lệ của thực dân Pháp, cùng nhau tự nguyện vào quân đội để rồi ''quen
nhau''. Đó chẳng phải là đã có hẹn hay sao? Một cái hẹn không lời nhưng mà
mang bao ý nghĩa cao cả từ trong sâu thẳm tâm hồn của những chiến sĩ.
Tình đồng chí còn được nảy nở từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý
tưởng sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu :
' Súng bên súng, đầu sát bên đầu'
Câu thơ là bức tranh tả thực tư thế sẵn sàng, sát cánh bên nhau của người lính
khi thi hành nhiệm vụ. Vẫn là hình ảnh sóng đôi, nhịp nhàng trong cấu trúc
''Súng bên súng, đầu sát bên đầu''.''Súng'' biểu tượng cho sự chiến đấu, ''đầu''
biểu tượng cho lí trí, suy nghĩ của người lính. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo
âm điệu khỏe, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung nhiệm vụ, cùng chung
chí hướng và lí tưởng. Và tình đồng chí, đồng đội càng trở nên bền chặt và nảy
nở hơn khi họ cùng nhau chia sẽ mọi khó khăn, vất vả ở cuộc sống chiến trường :
' Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ'
Ở núi rừng Việt Bắc thì những cái lạnh giá buốt làm cho những chiến sĩ của
chúng ta rất lạnh, đôi khi họ còn bị sốt rất cao do phải sống trong một môi
trường khắc nghiệt như vậy. Nhưng vượt lên trên tất cả những khó khăn, thiếu
thốn, khắc nghiệt của thời tiết thì họ đã chia sẻ chăn cho nhau để giữ ấm. Chăn
không đủ thì những đêm rét buốt họ đắp chung nhau một chiếc chăn để giữ ấm.
Chính cái ''chung chăn'' ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những 84
người đồng đội để rồi họ trở thành ''đôi tri kỷ''. ''Tri kỷ'' thân thiết, gắn bó, hiểu
tâm tư tình cảm của nhau. Mà là ''đôi tri kỷ'' thì lại càng gắn bó, thân thiết với
nhau hơn. Chính vì thế câu thơ nói đến sự khắc nghiệt của thời tiết, của chiến
tranh nhưng sao ta vẫn cảm nhận được cái ấm của tình đồng chí, bởi cái rét đã
tạo nên cái tình của hai anh lính chung chăn.
Câu thơ cuối là một câu thơ đặc biệt chỉ với hai tiếng ''Đồng chí'' khi nghe ta
cảm nhận được sự sâu lắng chỉ với hai chữ ''Đồng chí'' và dấu chấm cảm, tạo
một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh, gánh hai đầu là
những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một
tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng
mới mẻ, thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm
nổi rõ một kết luận : cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau.
Tình đồng chí của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh
ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong
mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần
của những người lính cách mạng,
Bài thơ ''Đồng chí'' của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mạng và
sự gắn bó keo sơn của họ thông qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị,
chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
Bài thơ mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài thơ đã làm sống
lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ
khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà
chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 15 85
Bài thơ "Đồng chí" là một trong những bài thơ hay nhất về tình đồng đội, đồng
chí của các anh bộ đội cụ hồ trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Với cảm
nhận tinh tế, tác giả Chính Hữu – một nhà thơ, chiến sĩ đã xúc động mà sáng tác
ra bài thơ. Tình đồng chí đồng đội sâu nặng dù trong hoàn cảnh khó khăn và
thiếu thốn được thể hiện rõ nhất trong bảy câu thơ đầu của bài thơ.
Mở đầu đoạn thơ là tác giả đã miêu tả rõ nét nguồn gốc xuất thân của những
người lính cách mạng trong kháng chiến chống Pháp:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Họ là những người xuất thân từ nông dân, hình ảnh đó được tác giả mô tả rất
chân thực, giản dị mà đầy cao đẹp. Với giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như đang kể
chuyện, giới thiệu về quê hương của anh và tôi. Họ đều là những người con của
vùng quê nghèo khó, nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Dù cuộc
sống nơi quê nhà còn nhiều khó khăn, đói nghèo nhưng vì tiếng gọi thiêng liêng
của Tổ quốc mà họ sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước. Đó là sự đồng
cảnh ngộ, là niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người lính ngày đầu gặp mặt.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Mỗi người một quê hương, một miền đất khác nhau, họ là những người xa lạ
của nhau nhưng họ đã về đây đứng chung hàng ngũ, có cùng lí tưởng và mục
đích chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Tình đồng chí đã nảy nở và bền chặt trong sự
chan hòa, chia sẻ những gian khổ của cuộc sống chiến trường, tác giả đã sử
dụng một hình ảnh rất cụ thể, giản dị và gợi cảm để nói lên tình gắn bó đó:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” 86
Hoàn cảnh chiến đấu nơi khu rừng Việt Bắc quá khắc nghiệt, đêm trong rừng rét
đến thấu xương. Cái chăn quá nhỏ, loay hoay mãi cũng không đủ ấm, chính từ
hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn ấy họ đã trở thành tri kỉ với nhau. Những vất vả,
khắc nghiệt và nguy nan đã gắn kết họ lại với nhau, khiến cho những người
đồng chí trở thành người bạn tâm giao gắn bó. Chính tác giả cũng đã từng là
một người lính, nên câu thơ đã chan chứa, tràn đầy tình cảm trìu mến sâu nặng với đồng đội.
Câu thơ cuối cùng, chỉ 2 tiếng đơn giản “Đồng chí” được đặt riêng, tuy ngắn
gọn nhưng ngân vang, thiêng liêng. Tình đồng chí không chỉ là chung chí
hướng, cùng mục đích mà hơn hết đó là tình tri kỉ đã được đúc kết qua bao gian
khổ, khó khăn. Chẳng còn sự ngăn cách giữa những người đồng chí, họ đã trở
thành một khối thống nhất, đoàn kết và gắn bó.
Chi với bảy câu thơ đầu của bài “Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng những hình
ảnh chân thực, gợi tả và khái quát cao đã thể hiện được một tình đồng chí chân
thực, không phô trương nhưng lại vô cùng lãng mạn và thi vị. Tác giả đã thổi
hồn vào bài thơ tình đồng chí tri kỉ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang
bất diệt trong tâm hồn những người lính cũng như con người Việt Nam.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 16
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng
những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa
hoa mỹ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ
tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để
đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài
thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng
biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc. 87
Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành
trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và
hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm súc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là
một trong những tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in
lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải
nghiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu
đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.
Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh
người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa các anh.
Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm
tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính Hữu đã từ từ dẫn người đọc
đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày sỏi đá”
Hai câu đầu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn
đồng chua”, cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá” kết hợp với giọng
thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê
hương mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: Một người ở miền biển
“nước mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi đá”. Phải
chăng chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau 88
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các anh đã tham gia đội
ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của dân tộc
chính là nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ
thành quen “anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của
dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ:
“súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm
phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng
bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung chí
hướng, chung lý tưởng. Chính Hữu đã dùng các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia
sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình
ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao
trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng"
Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể
nào quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một 89
thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ thân thiết của nhau
mà đã trở thành những người “đồng chí”.
“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình
thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt
nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi
ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lý tưởng
vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình
bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người
lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn sơ
mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.
Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc
cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Trải qua
những khó khăn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm
thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau. Những lúc ngồi cận kề bên nhau,
các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc
cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn,
gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ
những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày,
để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái - “mặc kệ” vốn chỉ thái độ
thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện
được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê
hương trong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết 90
tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ
thân thương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với
nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương - nơi có
cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh - những người lính luôn
hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp
thêm cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao
và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh - tôi”, “áo
anh - quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát
cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ
ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ
những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng
tình yêu thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng
cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc
nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để 91
động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!
Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp
ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa
núi rừng biên giới trong đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận
đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một
đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích
chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi
hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã
thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế
chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính
trong chính đêm phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện
thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên
trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang
treo trên đầu súng của mình. “Súng” là biểu tượng của cuộc chiến đấu đầy gian
khổ, hy sinh mà người lính đang trải qua, “trăng” là biểu tượng của cuộc sống
hòa bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. “Súng” là biểu tượng
của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. “Súng - trăng” là gần và xa,
thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ,
hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người 92
chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu
trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến
sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.
Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng
chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới
mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng
ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ
trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những
hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của
ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái
tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên
nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất,
đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua,
tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 17
Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho
tình Đồng chí. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành.
Không có cảm xúc, thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự
chân thành chút hồn của thơ cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành,
một chút lãng mạn, một chút âm vang mà Chính Hữu đã gieo vào lòng người
những cảm xúc khó quên. Bài thơ Đồng chí với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm
áp tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành những vần thơ của
niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ cách mạng. 93
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái
thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương
nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của
cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài
thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
“Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những
người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần
Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới
một tròng áp bức. “Anh và tôi”, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ
những vùng quê nghèo khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành,
thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ
tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những
thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ
quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Họ đến với cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. Sống là cho
đâu chỉ nhận riêng mình. Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một 94
niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường
như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như
nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa
bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và
cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ
chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân
thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người
phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lý tưởng nhất, nhịp thở
của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.
Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn,
gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp
nhất trong thơ Chính Hữu. Hồi ức của những người lính, những kỉ niệm riêng tư quả là bất tận:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Cái chất nông dân thuần phác của những anh lính mới đáng quý làm sao! Đối
với những người nông dân, ruộng nương, nhà cửa là những thứ quý giá nhất. Họ
sống nhờ vào đồng ruộng, họ lớn lên theo câu hát ầu ơ của bà của mẹ. Họ lớn
lên trong những gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Tuy thế, họ vẫn yêu, yêu
lắm chứ những mảnh đất thân quen, những mái nhà thân thuộc. Nhưng họ đã
vượt qua chân trời của cái tôi bé nhỏ để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con
đường ấy là đi theo khát vọng, đi theo tiếng gọi yêu thương của trái tim yêu 95
nước. Bỏ lại sau lưng tất cả những bóng hình của quê hương vẫn trở thành nỗi
nhớ khôn nguôi của mỗi người lính. Dầu rằng mặc kệ nhưng trong lòng họ vị trí
của quê hương vẫn bao trùm như muốn ôm ấp tất cả mọi kỉ niệm. Không liệt kê,
cũng chẳng phải lối đảo ngữ thường thấy trong thơ văn, nhưng hai câu thơ cũng
đủ sức lay động hồn thơ, hồn người:
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê
có sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa giếng nước gốc đa cũng có nỗi
nhớ khôn nguôi với những người lính. Nhưng không kể những vật vô tri, tác giả
còn sử dụng nghệ thuật hoán dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi
ngóng trông của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chồng và những
đôi trai gái yêu nhau... Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những
người lính chiến đấu trong gian khổ:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày”
Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn vất
vả thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng
hơn. Đất nước ta còn nghèo, những người lính còn thiếu thốn quân trang, quân
dụng, phải đối mặt với sốt rét rừng, cái lạnh giá của màn đêm. Chỉ đôi mảnh
quần vá, cái áo rách vai, người lính vẫn vững lòng theo kháng chiến, mặc dù nụ
cười ấy là nụ cười giá buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian 96
khổ lại càng tỏa sáng, nó gần gũi mà chân thực, không giả dối, cao xa. Tình cảm
ấy lan tỏa trong lòng của tất cả những người lính. Tình đồng chí:
“Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa,
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa,
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà,
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết (Nhớ, Hồng Nguyên)
Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được
Chính Hữu cô lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu,
trong hòa bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ yêu
thương, một nụ cười lạc quan chiến thắng...
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”
Nhịp thơ đều đều 2/2/2 và 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính.
Đó cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trong gian khổ của người lính. Vượt lên trên
tất cả, tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính
đầy nhiệt huyết, vẫn đứng canh giữ cho bầu trời Việt Nam dù đêm đầy khuya,
sương đã xuống, màn đêm cũng chìm vào quên lãng. Hình ảnh người lính bỗng
trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem
vào cái chân thực của cả bài thơ, câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:
“Đầu súng trăng treo
Ánh trăng gần như gắn liền với người lính: 97
“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ” (Ánh trăng, Nguyễn Duy)
Một hình ảnh nên thơ, lãng mạn nhưng cũng đậm chất chân thực, trữ tình. Một
sự quyện hòa giữa không gian, thời gian, ánh trăng và người lính. Cái thực đan
xen vào cái mộng, cái dũng khí chiến đấu đan xen vào tình yêu làm cho biểu
tượng người lính không những chân thực mà còn rực rỡ đến lạ kỳ. Chất lính hòa
vào chất thơ, chất trữ tình hòa vào chất cách mạng, chất thép hòa vào chất thi
ca. Độ rung động và xao xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh
trăng này. Tình đồng chí cũng thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ,
làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm. Nụ cười chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi
ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường nào, hình ảnh những người lính,
những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau kề vai sát cánh cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.
Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn,
trong cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cùng một con đường Cách
mạng, tình đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây yêu thương vô hình.
Bài thơ Đồng chí với ngôn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo
nghễ của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy
có lẽ sẽ sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về sau.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 18
Đồng chí là bài thơ tiêu biểu viết về người lính trong thời kì đầu của kháng
chiến chống Pháp. Tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm rất chân thật, giản dị. 98
Bài thơ không chỉ thể hiện cơ sở xuất phát của tình đồng chí mà còn thể hiện
tình đồng chí đó trong những gian khổ, thiếu thốn nơi chiến trường, trong chiến đấu khó khăn.
Cơ sở của tình đồng chí xuất phát từ những con người cùng chí hướng, cùng
đích là cầm súng đứng lên bảo vệ độc lập của đất nước. Không chỉ có vậy, tình
đồng chí của những người lính còn xuất phát từ những người cùng cánh ngộ,
những người cùng tầng lớp nhân dân:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Tuy mỗi người ở một nơi khác nhau, người đến từ miền ven biển, đất chiêm
trũng, người lại đến từ vùng trung du đất cằn nhưng họ đều sát cánh bên nhau,
cùng đứng trong hàng ngũ chiến sĩ cách mạng. Tình đồng chí của họ còn có cơ
sở từ tình bạn gắn bó, cùng nhau chia sẻ.
Chỉ đơn giản là đêm rét chung chăn thôi nhưng cũng đủ để trở thành tri kỉ. Tình
đồng chí của những chiến sĩ cách mạng là tình cảm gắn bó bền chặt bởi cơ sở
của nó là tình bạn của những người cùng chí hướng, cùng hoàn cảnh xuất thân,
cùng giai cấp, cùng hàng ngũ.
Tình đồng chí của những người chiến sĩ cách mạng được thể hiện trong những
gian khổ, thiếu thốn nơi chiến trường. Họ phải trải qua những cơn sốt rét rừng
rất khắc nghiệt, rét đến run người nhưng trán vẫn đổ mồ hôi. Họ phải chia sẻ nỗi
nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương. Mỗi người lính khi ra trận đều có một điểm tựa,
một nơi để hướng về, đó là nỗi nhớ nhà, nhớ người mẹ, người vợ nơi quê nhà.
Hình ảnh giếng nước gốc đa là hình ảnh gần gũi, quen thuộc của quê hương, của
những người thân nơi quê nhà. Những người lính thấu hiểu hoàn cảnh của nhau
và chia sẻ với nhau nỗi nhớ nhà. Những người lính còn chia sẻ với nhau cả 99
những chiếc áo vá, chiếc quần rách. Những thiếu thốn nơi chiến trường gian khổ
như cái áo, cái quần, đôi giày không làm vơi đi ý chí chiến đấu của người lính.
Họ chấp nhận gian khổ một cách vui vẻ và dường như, hình ảnh chân không
giày chỉ gợi lên cho chúng ta hình ảnh của những người nông dân chân chất chứ
không nhấn mạnh lắm sự thiếu thốn nơi chiến trường. Tình đồng chí của những
người lính chỉ đơn giản là cử chỉ tay nắm lấy bàn tay, nhưng chỉ hành động nhỏ
bé ấy thôi cũng đủ quý giá hơn mọi lời nói.
Cái siết chặt tay ấy là sự chia sẻ, xóa đi mọi gian khổ' vất vả và mang bao ý
nghĩa. Cái siết tay ấy cũng có thể so sánh với cái bắt tay qua ô cửa kính đã vỡ
của những người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật, cái siết tay truyền
thêm, tiếp thêm nghị lực. Tình đồng chí, đồng đội của những người lính không
chỉ thể hiện trong những khó khăn, thiếu thốn nơi chiến trường mà còn thể hiện
trong cuộc sống chiến đấu gian khổ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Ba câu thơ cuối của bài thơ vừa thể hiện tình đồng chí của người lính trong
chiến đấu vừa gợi lên hình ảnh người lính rất đẹp, rất lãng mạn. Trong đêm
sương muối rét buốt, những người lính phải đứng gác nơi rừng hoang. Trong
thời tiết, hoàn cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy, những người lính vẫn luôn
sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng chờ giặc tới, Trong cuộc kháng chiến gian khổ ấy,
những người lính lại sát cánh bên nhau, đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu,
không quản ngại khó khăn gian khổ.
Hình ảnh những người lính hiện lên rất chân thực, rất đẹp. Hình ảnh đầu súng
trăng treo vừa là hình ảnh tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đêm 100
đứng gác về khuya, trăng xuống thấp, những người lính lại đeo súng trên vai
nên ta có cảm giác như trăng treo nơi đầu súng.
Nhưng cây súng cũng là biểu tượng cho lực lượng chiến đấu bảo vệ hòa bình,
trăng là biểu tượng của hòa bình. Hình ảnh đầu súng trăng treo là hình ảnh thơ
đẹp và lãng mạn, thể hiện hình ảnh của người lính cách mạng, và qua đó cũng
chính là thể hiện tình đồng chí, đồng đội của người lính cách mạng trong chiến đấu gian khổ.
Bằng ngôn ngữ thơ rất giản dị, chân thực, Chính Hữu đã thể hiện chân thực và
sinh động tình đồng chí, đồng đội của những người lính cách mạng qua những
tình huống rất bình dị. Tình đồng chí của những người lính được thể hiện trong
bài thơ rất sâu sắc, thiêng liêng, là tình cảm đẹp của những người lính cách
mạng, tạo nên vẻ đẹp và sức mạnh tinh thần của người lính cách mạng.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 19
Đồng chí là một bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Chính Hữu và của thơ ca Việt
Nam hiện đại. Hễ nói tới thơ Chính Hữu là người ta không thể không nghĩ đến Đồng chí.
Bài thơ được sáng tác năm 1948, sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, đánh dấu
sự xuất hiện của một nhà thơ mới trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài
thơ lúc đầu dán ở báo tường đơn vị, sau in ở báo Sự Thật, rồi được chép vào sổ
tay các cán bộ, chiến sĩ, được phổ nhạc, trở thành tài sản chung của mọi người.
Đồng chí là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với
người trong cách mạng và kháng chiến. "Đồng chí" trong ngôn ngữ sinh hoạt
chính trị và đời thường đã trở thành tiếng xưng hô quen thuộc, khi cái lí tưởng
cách mạng đoàn kết, gắn bó mọi người đã bắt rễ sâu vào đời sống. Nhưng mấy
ai đã cảm nhận được nội dung tình cảm phong phú mới mẻ chứa đựng trong hai tiếng ấy? 101
Để làm hiện lên nội dung mới lạ trong những từ quen thuộc, nhà thơ phải dùng
phép "lạ hóa". Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ bắt đầu từ những cái khác biệt
và xa lạ. Đây là lời của những người đồng chí tự thấy cái lạ của mình:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi hai đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Mỗi người một quê, đất đai canh tác khác nhau, tập quán, phong tục hẳn là cũng
khác. Miền biển nước mặn, đất phèn. Vùng đồi trung du, đất ít hơn sỏi đá.
Nhưng con người tự nhận là xa lạ, cách nhau cả một phương trời và chẳng hò
hẹn quen nhau. Ấy thế mà có một sức mạnh vô song, vô hình biến họ thành đôi tri kỉ:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
Đó là cuộc sống và chiến đấu chung đã làm thay đổi tất cả. Hai dòng thơ chỉ có
một chữ "chung": "đêm rét chung chăn", nhưng cái chung đã bao trùm tất cả.
"Súng bên súng" là chung chiến đấu, "đầu sát bên đầu" thì chung rất nhiều:
không chỉ là gần nhau về không gian mà còn gần nhau về ý nghĩ, lý tưởng.
"Đêm rét chung chăn" một hình ảnh thật cảm động và đầy ắp kỉ niệm. Nhưng
người từng kháng chiến ở Việt Bắc hẳn không ai quên cái rét Việt Bắc và của
vùng núi rừng nói chung. Hồi ấy thơ Tố Hữu từng viết: "rét Thái Nguyên rét về
Yên Thế, Gió qua rừng Đèo Khế gió sang". Cũng không ai quên được cuộc
sống chung gắn bó mọi người: "Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng". Đắp chăn
chung trở thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng, ruột thịt. Những cái
chung ấy đã biến những con người xa lạ "thành đôi tri kỉ". 102
Hai chữ "đồng chi!" đứng riêng thành một dòng thơ là đều rất có ý nghĩa. Nhà
thơ hoàn toàn có thể thay thế nhau mà không làm sai vần luật, và bài thơ có thể
rút ngắn được một dòng. Nhưng nếu viết thế thì hỏng. Đêm rét chung chăn có
thể thành trì kỉ, nhưng không thể nói là thành đồng chí, bởi hàm nghĩa hai chữ
"đồng chí" rộng lớn vô cùng. "Tri kỉ" là biết mình, và suy rộng ra là biết về
nhau. "Đồng chí" thì không phải chỉ biết nhau, mà còn phải biết được cái chung
rộng lớn gắn bó con người trên mọi mặt.
Hai chữ "Đồng chí!" đứng thành một dòng thơ đầy sức nặng suy nghĩ. Nó nâng
cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. "Đồng chí" là cái có thể cảm
nhận mà không dễ nói hết.
Phần hai bài thơ nói đến tình cảm chung của những người đồng chí. Những câu
thơ chia thành "anh, tôi" nhưng giữa họ đều là chung cả. Đoạn hai của bài thơ
được mở đầu bằng những dòng tâm sự nhớ nhà. Bây giờ họ chia sẻ với nhau
những tình cảm quê hương và gia đình. Đối với giờ họ chia sẻ với nhau những
tình cảm quê hương và gia đình. Đối với các chàng trai áo nâu ra trận lần đầu
nhớ nhà là nỗi niềm thường trực:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Đối với người nông dân, làm ruộng là quan trọng nhất, nhưng việc ấy đành nhờ
bạn thân làm hộ. Gian nhà tổ ấm cũng đành chịu hi sinh "..mặc kệ gió lung lay".
Câu thơ ngang tang, đượm chất lãng mạn như muốn nâng đỡ con người vượt lên
cái bất đắc dĩ của hoàn cảnh. Thử hỏi ai có thể "mặc kệ" để cho gió làm xiêu đổ
nhà mình? Đó là một thoáng tếu nhộn làm se lòng người. hai dòng thơ ấy đầy ắp
nỗi nhớ, mặc dù tới dòng thứ ba thì chữ "nhớ" mới xuất hiện:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính 103
Người lính trong thơ Chính Hữu đã rất nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng họ
thương nhất vẫn là người ở nhà nhớ họ, dõi theo tin tức của họ - những người ở
nơi nguy hiểm. Hình ảnh "giếng nước gốc đa" thật đậm đà, kín đáo và ý nhị làm
sao! "Giếng nước" là nơi dân làng gặp gỡ khi sáng, chiều. "Gốc đa" là nơi dân
làng nghỉ ngơi những khi trưa nắng. Những lúc ấy họ sẽ hỏi thăm những người
trai ra trận. Nhưng "giếng nước, gốc đa" cũng là nơi hò hẹn, tình tự lứa đôi:
"Trăm năm dầu lỗi hẹn hò, cây đa bến cũ con đò khác đưa". Biết bao là nhớ
nhung. Nhưng người lính không nói là mình nhớ, những dòng thơ nén tình riêng
vì sự nghiệp chung, bằng những lời ý nhị, không một chút ồn ào.
Bảy dòng cuối của đoạn thơ dành nói riêng về nỗi gian khổ. Cái gian khổ của bộ
đội trong buổi đầu kháng chiến đã được nói đến rất nhiều. Thôi Hữu trong bài
Lên Cấm Sơn đã có những câu thơ thật cảm động về những người "đem thân xơ xác giữ sơn hà":
Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đợt rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đầu còn tươi nữa, những ngày hoa
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà.
Quang Dũng cũng có những câu trong bài Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 104
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Chính Hữu không nói về cái khổ mà nói về sự hiểu nhau trong cái khổ, cái
chung phổ biến giữa họ với nhau:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Trong kháng chiến, ở chiến khu, bệnh sốt rét cơn là phổ biến nhất. hai câu thơ
nêu đủ các triệu chứng của bệnh sốt rét cơn. Những ai nhiễm bệnh, thoạt đầu
cảm thấy ớn lạnh, sau đó liền cảm thấy lạnh tới người run cầm cập, đắp bao
nhiêu chăn cũng không hết rét, trong khi đó thân nhiệt lên cao tới 40, 41 đọ,
người vã mồ hôi vì nóng và vì yếu. Phải trải qua bệnh này mới hiểu hết cái thật
của câu thơ. Sau cơn sốt đó là da xanh, da vàng, viêm gan, viêm lá lách ...
Ngoài cái khổ về bệnh là cái khổ về trang bị. Những ngày đầu kháng chiến,
chưa có đủ quần áo quần đồng phục phát cho bộ đội. Người lính mang theo áo
quần ở nhà đi chiến đấu, khi rách thì vá víu, có người còn không có kim chỉ để
vá, lấy dây mà buộc túm chỗ rách lại, người ta gọi đùa là "vệ túm". Ở đây anh
rách, anh vá thông cảm nhau: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
"Miệng cười buốt giá" hẳn là nụ cười trong buốt giá, vì áo quần không chống
được rét, mà cũng là nụ cười vượt lên trên buốt giá, mặc dù trời lạnh hẳn nụ
cười cũng khó mà tươi. Cũng có thể là nụ cười nhợt nhạt xanh xao. Nhưng xanh 105
xao mà vẫn cười, coi thường gian khổ. Nhà thơ không viết "nụ cười buốt giá"
mà viết "Miệng cười buốt giá" hẳn là vì từ "nụ cười" quá trừu tượng vả lại nụ
cười ở đây không buốt giá, mà nhà thơ thì muốn nói một cách cụ thể đến cái
miệng với đôi môi nhợt nhạt ấy.
"Chân không giày" cũng là một thực tế phổ biến, và cái nổi lên là tình thương
yêu đồng đội: "thương nhau tay nắm lấy bàn tay", một hình ảnh hết sức ấm áp.
Chỉ có năm dòng thơ, tác giả đã vẽ lên chân dung anh bộ đội cụ Hồ buổi đầu
kháng chiến, nghèo khổ, thiếu thốn nhưng tình đồng chí sưởi ấm lòng họ.
Nếu đoạn một nói về sự hình thành tình cảm đồng chí, đoạn hại nói về tình cảm
hiện đại, thì đoạn ba nói về hành động chiến đấu của họ:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Từ nhận thức chung, tình cảm chung, bài thơ kết vào hành động. Thời gian
không gian trở nên cụ thể, công việc cụ thể nhưng không vì thế mà sự việc thay
thế chất thơ. Câu kết bài thơ là một hình ảnh nổi tiếng cô đọng, ý vị:
Đầu súng trăng treo
Một hình ảnh bất ngờ, "Súng" và "trăng" là hai vật cách xa nhau trong không
gian, lại chẳng có gì chung để liên tưởng, Hình ảnh này chỉ có thể là phát hiện
của người lính, súng lăm lăm trong tay chờ giặc, và bất ngờ thay mặt trăng lửng
lơ treo trên đầu súng. Người không cầm súng không thể cảm thấy được. Rừng
hoang sương muối là rất buốt, những người lính rách rưới đứng cạnh bên nhau
và trăng cũng đứng chung với ngời. Trăng là biểu tượng của trong sáng và
mộng mơ. "Đầu súng" chiến đấu của người đồng chí có thêm mặt trăng đã mở
ra biết bao liên tưởng phong phú. Đồng thời câu thơ bốn tiếng cũng như nén lại, 106
dồn vào bên trong tạo thành cái kết không lời. Đoạn một và hai toàn những lời
tâm sự. Đoạn cuối là bức tranh cổ điển, hàm súc dư ba. Đồng chí là bài thơ rất
tiêu biểu cho phong cách cô đọng, kiệm lời của nhà thơ Chính Hữu.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 20
Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ là điểm hội tụ của những người chiến
sĩ có cùng nhiệt huyết chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Ở đó có hàng triệu trái tim
yêu nước đã giã từ bờ tre, giếng nước của quê nhà ra đi đánh giặc. Cuộc sống
vất vả, gian nan trong chiến đấu đã gắn kết họ lại với nhau trong tình đồng chí.
Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã ghi lại tình cảm cao quý ấy của những
người chiến sĩ một cách sâu sắc.
Lời thơ thật mộc mạc, tự nhiên như những lời tâm sự. Những thành ngữ đi vào
trong thơ làm cho ta cảm giác như chính cuộc sống hàng ngày của người lính
được hiện lên trước mắt ta vậy. Họ đến từ những miền quê khác nhau, người thì
từ đồng bằng ven biển lên, kẻ thì từ vùng trung du xuống, nhưng họ đã dễ dàng
gần gũi, thông cảm với nhau bởi cùng ra đi từ những vùng quê nghèo khó, vất vả:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Mặc dù chẳng hẹn nhưng họ lại gặp nhau và trở thành đồng chí. Họ cảm nhận
được sự gắn bó keo sơn khi sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu đầy gian 107
khổ. Lời thơ thật mộc mạc mà gần gũi nghe như văn kể chuyện về cuộc đời của
những người lính trong lửa đạn chiến tranh.
Câu thơ Súng bên súng đầu sát bên đầu vừa có ý nghĩa tả thực, vừa mang ý
nghĩa tượng trưng. Những người lính luôn gắn bó bên nhau lúc chiến đấu cũng
như lúc sinh hoạt cùng đồng đội, “súng bên súng” là cùng chung hành động,
“đầu sát bên đầu” là cùng chung lí tưởng tạo nên một nguồn sức mạnh.
Người lính đã cùng nhau sẻ chia gian lao, vất vả trong buổi đầu của cuộc kháng
chiến còn nhiều gian khổ thiếu thốn:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Họ cùng sẻ chia những giá trị vật chất tuy chẳng là bao nhưng thấm đẫm tình
đồng đội. Cùng đắp chung một chiếc chăn bông trong những đêm rừng sương
lạnh, đây là điều kiện thuận lợi để người lính dễ dàng trao đổi tâm tình cho
nhau. Vì thế mà họ trở thành “tri kỉ” của nhau.
Hai tiếng “Đồng chí” được đột ngột tách thành một câu thơ riêng biệt có đi kèm
một dấu chấm cảm, chia bài thơ thành hai nửa. Nửa trên là quy nạp, nửa dưới là
diễn dịch. Hai nửa ấy như muốn làm rõ thêm tình cảm thiêng liêng của người
chiến sĩ, làm lay động hàng triệu trái tim người đọc.
Những vần thơ như mang nặng bâng khuâng, thương nhớ của những người chiến sĩ:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay.
Đây là sự hi sinh cao cả của người lính. Họ lên đường ra mặt trận mặc dù ruộng
vườn nhà cửa phải bỏ hoang. Người lính đã vì cái chung mà hi sinh cái riêng,
đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi của bản thân mình. Thật cảm động
hình ảnh Gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Hai chữ “mặc kệ” được cất lên, 108
đó là một sự nỗ lực về tâm lí, một sự cố gắng để vượt lên trên những tình cảm
nhớ thương dằn lòng bởi họ thấm nhuần cái chân lí “nước mất nhà tan”.
Chính tình yêu quê hương của người chiến sĩ đã làm cho những vật vô tri vô
giác cũng như dâng lên một nỗi nhớ:
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Đây cũng là cớ để gợi lên nỗi nhớ quê hương, nhớ cái giếng nước trong mát
lành, nhớ gốc đa rợp bóng mát của quê mình. Họ luôn mang theo bên mình cả
quê hương vào trong cuộc chiến đấu gian nan.
Mặc dù buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều khó khăn, thiếu
thốn nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt qua: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Họ đã động viên nhau, sưởi ấm cho nhau bằng hơi ấm của tình người, tình đồng
đội để vượt qua những cơn sốt rét, vượt lên những khó khăn của thời tiết khắc nghiệt:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo. 109
Trong cảnh “rừng hoang sương muối” người lính đứng bên nhau phục kích chờ
giặc, Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả mọi khó khăn.
Trong khó khăn, những người lính vẫn ung dung, chủ động, vẫn sát cánh bên
nhau “chờ giặc tới”. Người lính càng yêu đời hơn bởi nơi đây còn có một người
bạn tri âm tri kỉ, người bạn đó là vầng trăng thơ mộng. Đối với những người
lính ra đi từ chốn đồng quê, trăng đã trở nên gần gũi, giờ đây họ lại mang vầng
trăng ấy vào trong chiến trường ác liệt. Nó như thức cùng người chiến sĩ trong
những đêm khuya chờ giặc tới.
Không những thế, hình ảnh vầng trăng thơ mộng còn tượng trưng cho vẻ đẹp
tâm hồn của người lính. Trong không khí căng thẳng vì đối đầu với địch, người
lính vẫn luôn hướng về ánh sáng trong trẻo của vầng trăng và hướng về lí tưởng
chiến đấu vì hoà bình của dân tộc.
Bằng những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, bài thơ Đồng chí của Chính
Hữu đã thể hiện vẻ đẹp tinh thần và sự gắn bó keo sơn của người cách mạng, vẻ
đẹp của họ đáng được nâng niu, trân trọng.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 21
“Đồng chí” là một trong số những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Chính
Hữu và cũng là của nền thơ kháng chiến. Bài thơ đã đi qua một hành trình hơn
nửa thế kỉ làm đẹp mãi cho một hồn thơ chiến sĩ – hồn thơ Chính Hữu. Tác
phẩm ca ngợi tình đồng chí gắn bó với nhau giữa những người chiến sĩ Quân
đội nhân dân xuất thân là nông dân lao động. Tình cảm đồng chí, đồng đội
thiêng liêng, đẹp đẽ được biểu hiện qua một nghệ thuật thơ hàm súc, mộc mạc,
gợi tả, chân thực, có sức khái quát cao.
Trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, Chính Hữu là chính trị viên đại đội,
ông có nhiều nhiệm vụ nhất là việc chăm sóc anh em thương binh và chôn cất 110
một số tử sĩ. Sau chiến dịch, vì là rất vất vả, nên ông bị ốm nặng, phải nằm lại
điều trị. Đơn vị đã cử một đồng chí ở lại để chăm sóc cho Chính Hữu và người
đồng đội ấy rất tận tâm giúp ông vượt qua những khó khăn, ngặt nghèo của
bệnh tật. Cảm động trước tấm lòng của người bạn, ông đã viết bài thơ “Đồng
chí”như một lời cảm ơn chân thành nhất gửi tới người đồng đội, người bạn nông dân của mình.
Bài thơ là lời ngợi ca tình đồng đội, đồng chí cao cả, thiêng liêng của các anh bộ
đội Cụ Hồ -những người nông dân yêu nước mặc áo lính trong những năm đầu
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Để nêu rõ giá trị của bài thơ như nói ở trên, phải đặt bài thơ trong hoàn cảnh
những năm đầu kháng chiến, bộ đội ta phải sống và chiến đấu trong những điều
kiện vô cùng thiếu thốn, gian khổ ; mối tình đồng chí, đồng đội của họ – những
nông dân mặc áo lính – được hình thành và phát triển tạo nên một trong những
phẩm chất đẹp đẽ, một trong những nguồn sức mạnh của quân đội ta.
Sáu dòng đầu bài thơ đã nói về cơ sở hình thành tình đồng chí của những người
lính cách mạng. Những con người cùng chung cảnh ngộ. cùng chung nhiệm vụ,
lí tưởng chiến đấu, cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn dã hình thành nên tình
đồng chí thiêng liêng, cao đẹp:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ Đồng chí!" 111
Hai câu thơ mở đầu bằng lối cấu trúc song hành, đối xứng như làm hiện lên hai
gương mặt người chiến sĩ. Họ như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tự nhiên,
mộc mạc, đầy thân tình. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những vùng đất nghèo,
cằn cỗi, xác xơ, là nơi “ nước mặn đồng chua” – vùng đồng bằng ven biển, là xứ
sở của “đất cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi trung du.
Tác giả đã mượn thành ngữ, tục ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn
thân yêu của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất
chân quê, dân dã đúng như con người vậy – những chàng trai dân cày chân đất,
áo nâu lần đầu mặc áo lính lên đường ra trận! Như vậy, sự đồng cảnh, cùng
chung giai cấp chính là cơ sở, là cái gốc hình thành nên tình đồng chí:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi”.
Câu thơ có độ dài ngắn khác nhau, cảm xúc thơ như dồn tụ, nén chặt lại. Những
ngày đầu, đứng dưới lá quân kì, những chàng trai ấy còn là “đôi người xa lạ”,
mỗi người một phương trời “chẳng hẹn quen nhau”. Nhưng rồi cùng với thời
gian kháng chiến, đôi bạn ấy gắn bó với nhau bằng biết bao kỉ niệm: “Súng bên
súng, đầu sát bên đầu. Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu” là cách nói hàm súc, giàu hình tượng. Hai
hình ảnh thơ cụ thể hóa sự hòa nhập của những người chiến sĩ cùng chung lí
tưởng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc : súng và đầu: ý chí và tình cảm; súng bên súng
và đầu sát bên đầu : sự gán bó keo sơn của những con người cùng chung lí
tưởng. Đó là những con người cùng chung lí tưởng chiến đấu. Họ cùng nhau ra
trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự do, sự
sống còn của dân tộc – “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và câu thơ “Đêm rét 112
chung chăn thành đôi tri kỉ” lại là câu thơ ắp đầy kỉ niệm về một thời gian khổ,
cùng nhau chia ngọt sẻ bùi “Bát cơm sẻ nửa. Chăn sui đắp cùng” . Và như thế
mới thành “đôi tri kỉ”.
Ở đây, trong những câu thơ này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị,
nhưng rất chân xác: “bên”, “sát”,”chung”,”thành” đã thể hiện được sự gắn bó
tha thiết của mối tình tri kỉ, của tình cảm đồng chí. Cái tấm chăn mỏng, hẹp mà
ấm nóng tình đồng đội ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính không bao giờ quên.
Trải qua gian lao trong chiến đấu, tình đồng chí ngày càng trở nên bền chặt, keo
sơn. Từ chỗ “đôi người xa lạ” rồi thành “đôi tri kỉ” để cuối cùng kết thành “đồng chí”.
Câu thơ chỉ gồm một từ (2 tiếng) : Đồng chí, như khép lại tình ý sáu câu thơ đầu
của bài thơ. Những người nông dân nghèo khó vốn là xa lạ với nhau, nhưng khi
cùng chung lí tưởng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, cùng chia bùi sẻ ngọt trong thiếu
thốn, gian khổ của cuộc sống và chiến đấu của người lính, thì họ tất yếu sẽ trở
thành đồng chí của nhau.
Hai tiếng “đồng chí” vang lên diễn tả niềm tự hào, xúc động, cứ ngân vang lên
mãi. Xúc động bởi đó là biểu hiện cao nhất của một tình bạn thắm thiết, đẹp
đẽ.Còn tự hào bởi đó là tình cảm thiêng liêng, cao cả của những con người cùng
chung chí hướng, cùng một ý nguyện, cùng một lí tưởng, ước mơ.
Câu thơ ngắn đứng riêng làm nổi rõ một tất yếu (quá trình hình thành tỉnh đống
chí giữa các chiến sĩ vốn là nông dân mặc áo lính như đã phán tích ở trên), tạo
nên một âm vang ấm áp, đầy xúc động như tiếng gọi tha thiết của đồng đội.
Dòng thơ được tác riêng độc lập, là một câu đặc biệt gồm từ hai âm tiết đi cùng
dấu chấm than, tạo nút nhấn vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định
đồng thời như một bản lề gắn kết đoạn thơ đầu với đoạn thơ sau. Sáu câu thơ 113
đầu là cội nguồn, là cơ sở hình thành tình đồng chí; mười câu thơ tiếp theo là
biểu hiện, sức mạnh của tình đồng chí. “Đồng chí” – ấy là điểm hội tụ, là nơi
kết tinh bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn, tình người trong chiến tranh.
Hai tiếng “đồng chí” bởi vậy mà giản dị, đẹp đẽ, sáng ngời và thiêng liêng.
Ở đoạn thơ tiếp theo, Chính Hữu dùng những câu thơ và hình ảnh giản dị nêu
bật những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội nơi rừng núi. Trước hết, đồng
chí là sự thấu hiểu, chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.
Vì nghĩa lớn, các anh sẵn sàng từ giã những gì gắn bó thân thương nhất: “ruộng
nương”,”gian nhà”,”giếng nước”,”gốc đa”… Họ ra đi để lại sau lưng những băn
khoăn, trăn trở, những bộn bề, lo toan của cuộc sống đời thường. Hai chữ “mặc
kệ” đã diễn tả sâu sắc vẻ đẹp và chiều sâu đời sống tâm hồn người lính. Vì
nghĩa lớn, họ sẵn sàng ra đi khi lí tưởng đã rõ ràng, mục đích đã chọn lựa.Song
dù có dứt khoát thì vẫn nặng lòng với quê hương. Gác tình riêng ra đi vì nghĩa
lớn, vẻ đẹp ấy thật đáng trân trọng và tự hào. Trong bài thơ “Đất nước”, ta bắt
gặp điểm tương đồng trong tâm hồn những người lính:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Mặc dù đầu không ngoảnh lại nhưng các anh vẫn cảm nhận được “Sau lưng
thềm nắng lá rơi đầy”, cũng như người lính trong thơ của Chính Hữu, nói “mặc
kệ” nhưng tấm lòng luôn hướng về quê hương. “Giếng nước gốc đa” là hình ảnh
hoán dụ mang tính chất nhân hóa diễn tả một cách tinh tế tâm hồn người chiến
sĩ, tô đậm sự gắn bó của người lính với quê nhà. 114
“Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra đi
không nguôi nhớ về quê hương. Quả thật, giữa người chiến sĩ và quê hương có
mối giao cảm vô cùng sâu sắc,đậm đà. Người đọc cảm nhận từ hình ảnh thơ một
tình quê ăm ắp và đây cũng là nguồn động viên, an ủi, là sức mạnh tinh thần
giúp người chiến sĩ vượt qua mọi gian lao, thử thách suốt một thời máu lửa, đạn bom.
Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, chia sẻ những khó khăn thiếu thốn
của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Bằng những hình ảnh tả thực, hình ảnh sóng đôi, tác giả đã tái hiện chân thực
những khó khăn thiếu thốn trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu
vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men…Người lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”,
những cơn sốt rét rừng hành hạ, sức khỏe giảm sút, song sức mạnh của tình
đồng chí đã giúp họ vượt qua tất cả.
Nếu như hình ảnh “Miệng cười buốt giá” làm ấm lên, sáng lên tinh thần lạc
quan của người chiến sĩ trong gian khổ thì cái nắm tay lại thể hiện tình đồng chí,
đồng đội thật sâu sắc! Cách biểu lộ chân thực, không ồn ào mà thấm thía.
Những cái bắt tay truyền cho nhau hơi ấm, niềm tin và sức mạnh để vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ. Cái nắm tay nhau ấy còn là lời hứa hẹn lập công. 115
Câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” gợi tả (tay nắm lấy bàn tay), gợi
tình (thương nhau), ấm áp tình đồng chí thương yêu, gắn bó, gian khổ có nhau,
sống chết có nhau của những người cùng chung một lí tưởng. Tình thương ấy là
một biểu hiện của tình đồng chí, là một nguồn sức mạnh.
Với bài thơ Đồng chí đã dựng nên một bức tượng đài người lính vừa mộc mạc,
giản dị vừa lãng mạn, kiêu hùng. Những chàng trai trẻ từ biệt miền quê yêu dấu
lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Họ gặp nhau nơi chiến khu.
Họ cùng chung cuộc sống, cùng chung nhiệm vụ chiến đấu. Lý tưởng yêu nước
đã gắn kết họ lại với nhau. Nơi rừng núi đầy hiểm nguy, chưa lúc nào họ lùi
bước. Bài thơ khép lại với bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội, là biểu
tượng cao đẹp về cuộc đời người chiến sĩ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình tượng người lính
“đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát
cánh bên nhau, đồng sinh cộng tử trong chiến đấu với kẻ thù. Họ đã đứng cạnh
bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây
phút “chờ giặc tới”. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả
những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ thiếu thốn. Tình đồng chí đã
sưởi ấm lòng học giữa cảnh rừng hoang mùa đông dày đặc sương muối.
Đoạn thơ dựng lên bức tượng đài bất tử của người lính. Hình ảnh thơ biểu hiện
vẻ đẹp của người lính trong đêm rừng hoang vu khắc nghiệt. Họ gắn kết với
nhau trong nhiệm vụ chiến đấu. Họ lạc quan, yêu đời, dù trong nghịch cảnh vẫn
ngắm nhìn cái đẹp, hướng đến tương lai. 116
Câu kết là một hình ảnh thơ rất đẹp: “Đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực, vừa
mộng. Về ý nghĩa của hình ảnh này có thể hiểu: Đêm khuya, trăng tà, cả cánh
rừng ngập chìm trong sương muối. Trăng lơ lửng trên không, chiếu ánh sáng
qua lớp sương mờ trắng, đục. Bầu trời như thấp xuống, trăng như sà xuống theo.
Trong khi đó, người chiến sĩ khoác súng trên vai, đầu súng hướng lên trời cao
như chạm vào vầng trăng và trăng như treo trên đầu súng.
Nếu “trăng” là biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, là sự sống thanh
bình thì “súng” là hiện thân cho cuộc chiến đấu gian khổ, hi sinh. Súng và trăng,
cứng rắn và dịu hiền. Súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ. Hai hình ảnh đó trong
thực tế vốn xa nhau vời vợi nay lại gắn kết bên nhau trong cảm nhận của người
chiến sĩ: trăng treo trên đầu súng. Như vậy, sự kết hợp hai yếu tố, hiện thực và
lãng mạn đã tạo nên cái vẻ đẹp độc đáo cho hình tượng thơ. Và phải chăng,
cũng chính vì lẽ đó, Chính Hữu đã lấy hình ảnh làm nhan đề cho cả tập thơ
“Đầu súng trăng treo” như một bông hoa đầu mùa trong vườn thơ cách mạng.
Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện
pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên
một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài thơ đã
ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi,
bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.
Nếu Đồng chí là hình ảnh của anh lính nông dân chưa biết chữ thời kì đầu
kháng Pháp thì người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một hoá
thân khác. Người chiến sĩ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính không mang
đặc điểm như đã nói ở trên tuy vẫn cùng bốn phương hội tụ, với tất cả sự trong
sáng, hồn nhiên, vô tư. Họ, những người chiến sĩ lái xe, những chiếc xe từ trong
bom đạn: đã về đây họp thành tiểu đội: Không có kính rồi xe không có đèn,
không có mui xe… Bởi vì: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Nên phải chịu
bao gian khổ: gió, bụi, mưa xối xả song: 117
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Hai thi phẩm mà chúng ta đề cập tới là hai trong những tác phẩm tiêu biểu của
mỗi thời kì văn học. Hay sự thể hiện hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ. Người lính
trong hai bài thơ này là những hình ảnh tiêu biểu của thơ Việt Nam 1945 – 1975
sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.
Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” ở cuối bài thơ là một biểu tượng đẹp về người
chiến sĩ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, có sức ám ảnh sâu sắc đối với
người đọc. Trong đêm phục kích giữa rừng, bên cạnh hình ảnh thực là súng, là
nhiệm vụ chiến đấu tạo nên con người chiến sĩ thì cái mộng, cái trữ tình là trăng.
Hình ảnh trăng tạo nên con người thi sĩ. Hình ảnh chiến sĩ, thi sĩ hài hoà với
nhau trong cuộc đời người lính cách mạng.
Trong bài thơ “Ánh trăng“ của Nguyễn Duy, vầng trăng sáng ấy không chỉ là vẻ
đẹp của thiên nhiên đất nước mà còn gắn bó với tuổi thơ, với những ngày kháng
chiến gian khổ. Hình ảnh ánh trăng bắt đầu gắn với cuộc sống bình thường của
con người và vầng trăng thời chiến tranh, vầng trăng là biểu tượng đẹp của
những năm tháng tình nghĩa ngỡ không bao giờ quên. Từ ở rừng, sau chiến
thắng về thành phố, được sống cuộc sống tiện nghi: ở buyn-đinh, quen ánh điện,
cửa gương… và vầng trăng tri kỉ tình nghĩa đã bị người tri kỉ xưa lãng quên,
dửng dưng. Trăng được nhân hoá, lặng lẽ đi qua đường, như người dưng, chẳng
còn ai nhớ, chẳng ai hay.
Bất ngờ gặp một tình huống của nhịp sống thành thị: thình lình đèn điện tắt.
Vầng trăng xưa xuất hiện, vần tròn, vẫn đẹp, vẫn thuỷ chung với con người. Cả
một quá khứ đẹp và tình nghĩa ùa về rưng rưng trong lòng người lính, còn trăng thì im lặng. 118
Người lính giật mình, cái giật mình của người lính trước sự im lặng của trăng
xưa hiện về nơi thành phố hôm nay là một biểu tượng nghệ thuật mang tính hàm
nghĩa độc đáo. Đó là sự bao dung, độ lượng, nghĩa tình, thuỷ chung của nhân
dân, sự trong sáng mà không hề đòi hỏi được đền đáp. Đây chính là phẩm chất
cao đẹp của nhân dân mà tác giả muốn ngợi ca tự hào. Cũng là thông điệp hãy
biết nhớ về quá khứ tốt đẹp, không nên sống vô tình. Đó chính là ý nghĩa sâu
sắc của hình ảnh trăng trong bài thơ của Nguyễn Duy tự nhắn nhủ mình và muốn gửi gắm.
Bài thơ kết thúc nhưng lại mở ra những suy nghĩ mới trong lòng người đọc. Bài
thơ đã làm sống lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác
liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó
yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 22
Đề tài về cuộc kháng chiến chống Pháp nói chung và về những người lính trong
cuộc chiến ác liệt ấy vẫn luôn là đề tài muôn thuở của thi ca với nhiều tác phẩm
nổi tiếng. Mỗi nhà thơ, nhà văn đều góp vào mảng đề tài ấy những tác phẩm đặc
sắc, với một phong cách rất riêng và Chính Hữu cũng như vậy. Có thể nói, với
bài thơ Đồng chí – ra đời năm 1948, nhà thơ Chính Hữu đã giúp chúng ta hiểu
thêm về những người lính, về tình đồng chí đồng đội trong cuộc kháng chiến
chống Pháp trường kì của dân tộc.
Bảy câu thơ mở đầu bài thơ, tác giả Chính Hữu đã đưa đến cho người đọc
những cơ sở, nền tảng góp phần tạo dựng nên tình đồng chí, đồng đội gắn bó
keo sơn, thắm thiết. Và trước hết, họ là những người có chung hoàn cảnh xuất thân: 119
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau
Dường như, bốn câu thơ với việc sử dụng thành ngữ “nước mặn đồng chua” và
cách sử dụng từ “đất cày lên sỏi đá” tác giả đã khái quát một cách chân thực
hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Họ đều là những xuất thân từ những
làng quê nghèo khổ, cơ cực, lam lũ và vất vả, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng
của Tổ quốc lên đường và “quen nhau”. “quen nhau”. Có thể nói, tác giả Chính
Hữu đã thực sự tinh tế khi sử dụng từ “đôi” thay vì từ “hai”, bởi lẽ, dường như,
từ “đôi” này đã xóa dần đi khoảng cách giữa những người lính, họ trở nên gần
gũi, thân thuộc với nhau hơn thật nhiều.
Thêm vào đó, những người lính còn là những người cùng chung lí tưởng, hoài bão và mục đích.
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Súng chính là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho khát vọng chiến đấu,
chống quân xâm lược để bảo vệ non sông, đất nước. Thêm vào đó, điệp từ
“súng” được lặp lại hai lần như thêm một lần nữa nhấn mạnh rằng, chính tình
đồng chí của các anh được hình thành dựa trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ cao
cả. Các anh từ những miền quê khác nhau nhưng cùng mang trên đôi vai của
mình nhiệm vụ thiêng liêng của Tổ quốc. Đồng thời, một trong số những cơ sở
tạo dựng nên tình đồng chí đồng đội đó chính là họ cùng đồng cam, cộng khổ,
chịu bao thiếu thốn, vất vả, gian nan để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Nếu như trong bảy câu thơ đầu, tác giả nêu lên cơ sở hình thành tình đồng chí,
đồng đội thì ở mười câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã đi sâu làm bật nổi những biểu 120
hiện của tình cảm đáng trân quý ấy. Trước hết, tình đồng chí, đồng đội được
biểu hiện ở sự thấu hiểu, sẻ chia mọi nỗi niềm tâm sự, có cả niềm vui và có cả nỗi buồn.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Những người lính đã gác lại tình cảm của riêng mình, bỏ lại sau lưng khoảng
trời quê hương và gia đình để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc bởi vậy
có lẽ hơn ai hết các anh thấu hiểu những nỗi niềm ấy của nhau và dệt nên ba câu
thơ với thật nhiều xúc cảm. Hình ảnh “gian nhà không” vừa gợi nên cái dáng vẻ
tiêu điều, xơ xác của làng quê nghèo vừa gợi nên niềm trống trải, cô đơn khắc
khoải của người ở lại. Hai chữ “mặc kệ” như thể hiện một cách rõ ràng sự dứt
khoát ra đi vì mục tiêu cao cả của những người lính. Đặc biệt, hình ảnh “giếng
nước gốc đa” là một hình ảnh ẩn dụ cho những người ở lại, cho quê hương của
các anh. Quê hương đất mẹ nhớ các anh hay chính trong lòng những người lính
bóng hình quê hương vẫn luôn luôn sống mãi trong các anh. Và có lẽ, bóng hình,
nỗi nhớ quê hương chính là nguồn động lực to lớn, cổ vũ, khích lệ các anh trên
con đường chính chiến đầy gian nan, thử thách và hiểm nguy.
Hơn nữa, một biểu hiện khác của tình đồng chí đồng đội chính là sự gắn bó,
cùng nhau chia sẻ mọi vất vả, khó khăn, thiếu thốn trong cuộc chiến đấu trường kì của dân tộc.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vững trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá Chân không giày 121
Có lẽ chỉ với bốn câu thơ thôi nhưng cũng đủ để khái quát lên cho chúng ta bao
nỗi thiếu thốn, vất vả, nhọc nhằn mà những người lính đã đồng cam cộng khổ
cùng nhau vượt qua tất cả. Những nỗi nhọc nhằn ấy chính là những cơn sốt rét
hoành hành họ nơi chốn rừng thiêng nước độc, là “áo rách vai”, “quần vài mảnh
vá”, “chân không giày”. Khó khăn, vất vả là thế nhưng những người lính vẫn
bên nhau, yêu thương nhau và cùng nhau vượt qua tất cả. Những điều ấy được
thể hiện rõ nét qua câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Câu thơ đã vẽ
nên một tình cảm gắn bó keo sơn, đậm chất lính. Những người lính ấy “tay nắm
lấy bàn tay” để cùng nhau san sẻ, để trao cho nhau hơi ấm của tình yêu thương,
của động lực để cùng nhau cố gắng.
Đặc biệt, đọc bài thơ Đồng chí, chắc hẳn sẽ không ai có thể nào quên được ba
câu thơ khép lại bài thơ – một biểu tượng đẹp, sáng ngời của tình đồng chí đồng đội.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Tác giả đã vẽ nên một hiện thực khốc liệt nơi chiến trường trong những năm
kháng chiến chống Pháp – đêm đã về khuya, sương muối đang từng lớp từng
lớp bủa vây mọi thứ nơi chiến trường. Và để rồi trên cái nền thiên nhiên dữ dội
ấy, những người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” – câu thơ gợi nên dáng
vẻ chủ động, dũng cảm của những người lính. Đặc biệt, vẻ đẹp của những người
lính được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “đầu súng trăng treo”. Đây là một hình
ảnh mang ý nghĩa tả thực cho hình ảnh những người lính đứng canh gác nhưng
hơn hết, nó là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn,
lạc quan và tràn đầy tinh thần chiến đấu của những người lính. Nó xứng đáng là 122
bức tượng đài cho những người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.
Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ tự do, các biện pháp tu từ và đặc biệt là các
hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu đã
khắc họa thành công hình tượng người lính cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống
Pháp của dân tộc và gợi nên trong chúng ta nhiều suy nghĩ về tình đồng chí, đồng đội.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 23
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng
những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa
hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ
tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để
đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài
thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng
biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc.
Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành
trong kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và
hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm súc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là
một trong những bài thơ tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết
và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên
những trải nghiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt
Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào
cơ quan đầu não của ta.
Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh
người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn 123 giữa các anh.
Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm
tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến
với cơ sở hình thành tình đồng chí:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày sỏi đá”
Hai câu đầu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian “nước mặn
đồng chua”, cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi đá”, giọng thơ thủ thỉ
tâm tình gợi cảnh hai người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương
mình. Đó là những vùng quê nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển “nước
mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi đá”. Phải chăng
chính nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các anh đã tham gia đội
ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc
chính là nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ
thành quen “anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của
dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri kỉ của nhau:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” 124
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ:
“súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm
phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. “Súng
bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu sát bên đầu” là chung chí
hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dùng các từ “sát, bên, chung” gợi sự chia
sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình
ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia những thiếu thốn gian lao
trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu từng viết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể
nào quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một
thắm thiết, càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ thân thiết của nhau
mà đã trở thành những người “đồng chí”.
“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép lại cơ sở hình
thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt
nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi
ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng
vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn,
tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính
vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn sơ mà
cảm động đến nao lòng, làm bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.
Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc
cho người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
Trải qua những khó khăn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có
được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận 125
kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc
cho thấy những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn,
gắn bó với căn nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ
những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày,
để mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái “mặc kệ” vốn chỉ thái độ thờ
ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự
quyết tâm của người lính khi ra đi. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trong
tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung
của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm
hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương:
“giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ cũng với nghệ thuật
nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ,
dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh – những người lính luôn hướng
về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm
cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao
và niềm vui bên chiến hào chiến đấu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá 126 Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng “anh – tôi”, “áo
anh – quần tôi” tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát
cánh, đồng cam cộng khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ
ốm đau bệnh tật, cũng trải qua những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ
những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm lạc quan “miệng cười buốt giá”, bằng
tình yêu thương gắn bó “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng
cười buốt giá” gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh xua tan đi sự khắc
nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau hơi ấm, để
động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!
Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp
ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa
núi rừng biên giới trong đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận
đánh giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một
đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích
chủ động chờ giặc trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi
hộp căng thẳng khi ranh giới của sự sống cái chết rất mong manh. Từ “chờ” đã
thể hiện được tư thế chủ động của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế
chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947. 127
Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính
trong chính đêm phục kích của mình: “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện
thực: đêm về khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên
trời, trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang
treo trên đầu súng của mình. Súng là biểu tượng của cuộc chiến đấu đầy gian
khổ, hi sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa
bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của
người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại
và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện
thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời người chiến
sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời
và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ
cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai tươi sáng.
Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng
chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới
mẻ, một bức tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng
ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ
trở nên thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những
hình ảnh biểu trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của
ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời của tình đồng chí.
Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái
tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên
nhưng đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất,
đó là tình đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua,
tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc.
Phân tích bài thơ Đồng Chí - Mẫu 24 128
Cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1946-1954 là một trang sử vàng chói lọi của dân tộc:
“9 năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Trong cuộc kháng chiến, hình ảnh anh lính Cụ Hồ trở thành một biểu tượng đẹp
trong văn chương, trong đó có nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng đã lấy đó làm đề
tài cho mình, trong đó có Chính Hữu với tác phẩm “đồng chí” được nhiều người
yêu thích, thuộc và thậm chí còn được phổ nhạc, trở thành bài hát phổ biến trong quân đội.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, thuộc thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp,
sau khi tham gia chiến dịch Việt Bắc, bài thơ là kết quả trải nghiệm thực tế, là
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Chính Hữu.
Mở đầu bài thơ, tác giả nhắc tới vấn đề của những người lính cùng chung cảnh
ngộ, chung hoàn cảnh xuất thân, họ là những nông dân, từ nhiều vùng quê khác nhau:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Tác giả giới thiệu về quê hương của “anh” và “tôi” bằng những lời thơ thật giản
dị, sử dụng thành thạo các thành ngữ “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi
đá” để nói lên quê hương chúng ta thật sự nghèo khó, đất thì khó canh tác, sản
xuất. Đây chính là cơ sở để anh và tôi cùng cố gắng chiến đấu.
Trước ngày nhập ngũ họ là những người xa lạ, không quen biết nhau:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.” 129
Với từ “đôi” ta đã hiểu rằng họ sẽ không thể tách rời nhau được, cái gì cũng có
đôi có cặp thì dù có vấn đề gì cũng khó có thể chia lìa, dù lúc đó chỉ là những
người “xa lạ” mới gặp nhau vì cùng tham gia chiến đấu, đó là sợi dây tình cảm
giai cấp đã nối họ lại với nhau.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Khi vào quân ngũ, họ lại là những người lính cùng chung nhịp đập, chung lý
tưởng, chung nhiệm vụ, họ gắn kết với nhau thành những người đồng chí, đồng
đội. Câu thơ sóng đôi, miêu tả về cuộc sống của những người lính cùng chung lý tưởng cách mạng.
Tình đồng chí ấy được nảy nở trong sự chan chứa, chia sẻ những khó khăn,
thiếu thốn về cả vật chất lẫn phương tiện chiến đấu trong thời kì đầu cuộc kháng chiến:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Vì cái rét lạnh đến thấu xương nơi rừng núi bao la, khiến họ phải sử dụng hơi
ấm của nhau để cùng nhau chống chọi qua thời tiết khắc nghiệt này bằng cách
“chung chăn” và họ trở thành “đôi tri kỉ” không bao giờ tách rời, hiểu và động viên nhau.
Trong khổ đầu bài thơ câu thứ 7 thật đặc biệt, tác giả đang sử dụng thể thơ lúc 7,
lúc 8 thì đột ngột Chính Hữu lại nêu ra đúng 2 từ ngắn gọn “đồng chí” với dấu
chấm than ở cuối nhằm nối đánh đòn, điểm chốt nối hai đầu là những câu thơ đồ
sộ, nâng ý đoạn trước, mở ra ý đoạn sau. Kết tinh cao độ tình bạn, tình người,
làm nổi bật chủ đề của toàn bộ bài thơ: tình đồng chí cao đẹp.
Đồng chí là sự cảm thông sâu xa trong tâm tư, nỗi lòng của nhau: 130
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Người lính sẵn sàng hy sinh tất cả vì tổ quốc, bỏ “ruộng nương, gian nhà”
những tài sản lớn nhất của cuộc đời họ để lên đường nhập ngũ. Cách sử dụng từ
ngữ mộc mạc, giản dị “mặc kệ”, hy sinh quyền lợi cá nhân, ra đi không dửng dưng vô tình.
Hình ảnh: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.” Vừa là hình ảnh ẩn dụ vừa là
hình ảnh nhân hóa để nói lên cái nỗi nhớ hai chiều của những người lính.
Đồng chí đó còn là sự cảm thông sâu sắc cho những khó khăn, gian khổ mà các
anh từng trải qua trong đời, trong chiến đấu. Chính Hữu đã nêu lên bức tranh
hiện thực về cuộc sống khó khăn: “Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá Chân không giày”
Thiếu thốn từ quân trang dân dụng đến y tế, khi quần áo thì rách chỗ này chỗ
kia, sốt rét hành hạ các anh hàng đêm. Cách viết sóng đôi, bút pháp lãng mạn
đối lập với những khó khăn đó là “miệng cười” ấm tình đồng đội lạc quan
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Đó là những cử chỉ, hành động chan chứa tình cảm đồng đội, những bàn tay
nắm lấy bàn tay để truyền cho nhau hơi ấm đồng đội, tình cảm đồng chí, đó là
sự gắn kết trong quãng đời kháng chiến của họ.
Nhưng có lẽ khổ cuối của bài thơ là khổ hay nhất, chứa chan tình đồng đội, là
bức tượng đài sừng sững trên cái nền của thiên nhiên nhiên khắc nghiệt “Đêm 131
nay rừng hoang sương muối” để làm nổi bật lên bức chân dung của những người lính.
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
“Đầu súng trăng treo” là biểu tượng cao đẹp nhất của tình đồng chí. Với 3 câu
thơ đó khi đọc lên ta thấy được bức tượng đài sừng sững về tình đồng chí đã
được dựng lên trên cái nền của thiên nhiên khắc nghiệt “đêm nay rừng hoang
sương muối”, giữa một buổi đêm khuya với một không gian rộng lớn, bát ngát
của núi rừng Việt Bắc, rừng hoang sương muối phủ trắng trời, thời tiết, địa lý
khắc nghiệt đó như là thử thách cho tình đồng đội của người lính. Khi Chính
Hữu dựng nên cái nền như thế để tác giả tạo nên sự đối lập giữa thiên nhiên
rừng núi với bức chân dung của người, tác giả sử dụng không gian địa lý đó để
làm nền tô đậm thêm bức chân dung đấy trong tư thế họ đứng cạnh nhau chờ giặc.
Với động từ “chờ” nghĩa là sẵn sàng, chủ động, hiên ngang chờ giặc, trong thời
tiết khắc nghiệt họ vẫn bình thản, lãng mạn bên cuộc chiến này, có lẽ chỉ có
những người lính mới có vẻ đẹp tâm hồn như thế, tâm hồn này đã được tôi
luyện, đã dạn dày kinh nghiệm nơi chiến trường rồi thì mới có được cái tâm thế
như thế được. gian khổ là thế, khó khăn là thế, bom đạn của kẻ thù là thế, mà có
thể khiến cho những người lính của chúng ta mất đi cái vẻ đẹp ấy, luôn chan
chứa về tình đồng đội, về niềm tin rằng ngày mai cuộc chiến của chúng ta sẽ giành thắng lợi.
Nếu như khổ đầu của bài thơ là tình đồng chí, khổ thứ hai là “thương nhau tay
nắm lấy bàn tay”, thì khổ 3 là hình ảnh “đầu súng trăng treo” là điểm nhãn của
khổ 3 và điểm sáng của cả bài, nó thổi bùng lên hình ảnh tươi đẹp về tình đồng chí. 132
Hình ảnh “đầu súng trăng treo” có hai ý nghĩa. Tả thực: đó là hình ảnh của
những người lính hằng đêm vẫn thay phiên nhau canh giác, khi đó họ phải đứng
trên một chòi cao để quan sát được xa và rõ nhất, khi đó thì các người lính chĩa
ngọn súng của mình lên bầu trời, khi mà trăng sao sáng trong như vậy, khi ta
nhìn từ dưới lên trên thì ta nhìn thấy ngọn súng của những người lính, chạm vào
ánh trăng, trăng như sà xuống đậu trên đầu của ngọn súng, vì thế trăng chính là
một người bạn, treo trên đầu ngọn súng.
Còn ý nghĩa thứ là ta hãy liên tưởng thử xem, nếu hình ảnh “đầu súng” vốn
tượng trưng cho chiến tranh, còn “ánh trăng” tượng trưng cho hòa bình, tác giả
đặt hòa bình với chiến tranh, hiện thực với lãng mạn để ta thấy được Chính Hữu
có điểm nhìn đầy lãng mạn, đầy tin yêu. Những người lính vừa mang tâm thế
của thi sĩ vừa mang tâm thế của chiến sĩ. Một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ, lãng mạn của người lính.
Tình đồng chí về những người lính dựa trên những đặc điểm chung về cảnh ngộ
và lý tưởng chiến đấu, thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn
cảnh, góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của những
người lính cách mạng. Hình tượng người lính đẹp đẽ được thể hiện qua những
câu thơ giản dị, mộc mạc và chân thành. 133
Nhận định hay về bài thơ Đồng chí
1. Với “Đồng chí”, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống
Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Bằng những
chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát,
bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người
nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc. (Báo tin tức)
2. Trong bài thơ “Đồng chí”, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả
cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến
đấu, là tình đồng chí, đồng đội. (Chính Hữu)
3. Chính Hữu là nhà thơ quân đội thực thụ cả ở phía tác giả lẫn tác phẩm (Vũ Quần Phương)
4. Với Chính Hữu, khi viết về người lính, ông luôn luôn ở vị trí người trong
cuộc không phải vì ông cũng là người chiến sĩ mà hơn thế, tâm hồn ông như đã thuộc về họ. (Báo tin tức)
5. Với “Đồng chí”, Chính Hữu đã có trong tay một tấm căn cước, một thẻ thông
hành về thơ để bước lên văn đàn thơ Việt hiện đại (Báo Tổ quốc)
6. Trong mạch thơ kháng chiến chống Pháp có nhiều bài thơ hay xúc động viết
về tình đồng đội, tình quân dân như: “Cá nước” của Tố Hữu, “Nhớ” của Hồng 134
Nguyên, “Lên Cấm Sơn” của Thôi Hữu… Đặc biệt bài thơ “Đồng Chí” của nhà
thơ Chính Hữu đã ghi một dấu ấn sâu đậm- một trong những thi phẩm xuất sắc của thi ca Việt Nam. (Nguyễn Ngọc Phú)
7. Với “Đồng chí”, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống
Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Bằng những
chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát,
bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người
nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc. (Báo tin tức)
8. Trong bài thơ “Đồng chí”, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Suốt cả
cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến
đấu, là tình đồng chí, đồng đội. (Chính Hữu) 135