Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù (Sơ đồ tư duy + 21 Mẫu) | Ngữ văn 10 Kết Nối Tri Thức

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù tuyển chọn gợi ý cách viết kèm theo 21 mẫu cực hay và sơ đồ tư duy. Giúp cho các em học sinh tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức biết cách phân tích đánh giá tác phẩm và thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc.

Dàn ý chi tiết phân tích cảnh cho chữ
I. Mở bài
Nguyễn Tuân nhà văn phong cách độc đáo. người đã cho rằng mỗi sáng tác
của ông như đóng một dấu triện riêng. Tuy nhiên, điều thú vị là, dấu ấn này không
phải qua vài tác phẩm mới bộc lộ, mà ngay từ tập truyện ngắn đầu tay Vang bóng một
thời (1940) đã được in đậm. Chữ người tử là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn
Tuân nằm trong tập truyện trên. Người đọc thể nhận ra những nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật của tác giả bậc thầy này qua cảnh cho chữ độc đáo của thiên
truyện.
II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm Chữ người tử tù
Chữ người tử truyện ngắn hội tụ nhiều cái “nhất” trong sự nghiệp của Nguyễn
Tuân: nhân vật đẹp nhất (Huấn Cao), nhân vật lạ nhất (Quản ngục), cảnh độc đáo
nhất (cảnh cho chữ). Đương nhiên, với tất cả những điều ấy, truyện ngắn này cũng
một vị trí đặc biệt, mọi người đều thống nhất rằng đây một trong những truyện hay
nhất trong Vang bóng một thời (1940) tập truyện ngắn đầu tay của nhà văn đã được
Tự lực văn đoàn trao giải. Câu chuyện xoay quanh những ngày cuối đời, trong biệt
giam của Huấn Cao trước khi về kinh thán. Vẻ đẹp của nhân vật này, tưởng của
thiên truyện đều tỏa sáng rực rỡ trong cảnh cho chữ, khi Huấn Cao viết tặng Quản
ngục bức châm -“tiếng hát thiên nga” của một đời tài hoa. Chính vậy, thể khẳng
định rằng ở cảnh này, mọi nét đậm nhất trong phong cách của Nguyễn Tuân đã tụ lại.
2. Khái quát về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
- Nguyễn Tuân một nhà văn phong cách độc đáo. thể thấy những nét nổi bật
như sau:
Luôn nhìn các sự vật hiện tượng từ độ văn hóa, thẩm mỹ.
Luôn nhìn con người ở góc độ nghệ sĩ
Đi tìm những cái phi thường, độc đáo, đặc biệt.
Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
So sánh, tưởng tượng, liên tưởng rất phóng túng, bất ngờ nhưng chính xác.
> Những điều này đều có thể thấy được trong cảnh cho chữ ở cuối truyện Chữ người
tử tù.
3. Phân tích sơ lược cảnh cho chữ.
- Nếu nói như GS Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách
phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, thìthể nhanh chóng nhận ra rằng
cảnh cho chữ đã hội tụ tất cả những nét vượt trội ấy. Đây một khung cảnh đặc biệt,
chính người khắc hoạ cũng khẳng định rằng đó “một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có”.
- Sự đặc biệt này hiện ra ở mọi góc của cảnh: Nhân vật, thời gian, không gian.
* Nhân vật:
Bình thường, người cho chữ và người được cho chữ là những tri âm tri kỉ đến
độ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. ở họ luôn toát ra sự an nhiên,
điềm tĩnh, ung dung của bậc túc nho.
Ở đây, người cho chữ là 1 tử tù, người được cho chữ là quản ngục. Họ có vị trí
đối nghịch trong xã hội. Hơn nữa, họ mới gặp nhau hơn nửa tháng. Đặc biệt,
cảnh cho chữ đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, khi người tù thì dù “cổ đeo
gông, chân vướng xiềng” vẫn đứng thẳng người và đĩnh đạc, còn quản ngục
“khúm núm” và nghẹn ngào. Trong quan hệ xã hội họ là kẻ thù nhưng trong
bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm tri kỉ.
* Không gian:
Thông thường, người ta viết chữ cho nhau ở nơi thư phòng sạch sẽ, không gian
của học thuật.
Ở đây, người ta viết chữ cho nhau trong “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,
tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đây là không gian
mà cái xấu, cái ác thống trị.
* Thời gian:
Bình thường, người ta cho chữ khi thư nhàn, thong thả, trong ánh sáng của buổi
mai ấm áp.
Ở đây, người ta cho chữ vào ban đêm một cách vội vã, chạy đua với thời gian,
gấp rút tránh những ánh mắt của bọn lính đến phiên canh buổi sáng và tránh cái
công văn oan nghiệt giải người về kinh thụ án.
=> Chỉ ra những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong cảnh
này.
Luôn nhìn sự vật hiện tượng ới góc độ văn hóa thẩm nhìn con người góc
độ tài hoa nghệ sĩ.
+ Nếu nhìn cảnh cho chữ bằng con mắt hội học, không khó để thấy luôn mầm
mống phản loạn đó: Những thứ không cần thiết lại được đem vào biệt giam, người
cầm quyền trong tù lại “khúm núm”, “run run” trước tử tù…
Tuy nhiên, tác giả đã nhìn bằng con mắt văn hóa thẩm thấy đây là cảnh phi
thường. đó, mọi trật tự của hội dung tục đã bị đảo lộn hết, chỉ cái đẹp thống
lĩnh, cái cao cả cái thiện lên ngôi để cứu rỗi tâm hồn con người như niềm hi vọng
của thế giới.
+ Nguyễn Tuân cũng không nhìn nhân vật bằng con mắt thông thường. Với ông, Huấn
Cao không phải tử tù nguy hiểm người nghệ bậc thầy trong nghệ thuật thư
pháp, đang sáng tạo ra cái đẹp siêu việt trước khi đi vào cõi bất tử. Trong cảnh này,
cái tài, thiên lương khí phách của bậc chính nhân quyện vào nhau làm nên một vẻ
đẹp có thể cứu rỗi những tâm hồn.
Đi tìm những cái phi thường, quá độ, vượt ngưỡng.
Nguyễn Tuân không phải nhà văn của những nhàn nhạt, trong khuôn khổ, ông
luôn tìm đến những cái độc đáo. Trong cảnh này, mọi thứ đều vượt lên trật tự thông
thường người ta phải lấy một tiêu chí khác để đánh giá. Chính Nguyễn Tuân cũng
khẳng định đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
+ Kiến thức điện ảnh: Để làm nổi bật cảnh cho chữ, tác giả như một nhà quay phim
lành nghề đưa máy quay đến cận cảnh, để thấy “tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi
phân chuột, phân gián”, rồi lại đưa ống kính lên cao để soi “ba cái đầu người đang
chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Tiếp đó lại quay viễn cảnh
với động tác của cả ba nhân vật.
+ Kiến thức hội hoạ: Tác giả vẽ bức tranh cho chữ với sự đối chọi gay gắt của hai
mảng màu sáng tối. Màu sáng của đuốc, tấm lụa bạch còn màu tối của, phân
chuột, phân gián, mạng nhện.
Hai mảng màu ấy làm nền cảnh cho tâm cảnh hình tượng Huấn Cao đang xuất thần
sinh thành ra những con chữ như một báu vật.
+ Kiến thức điêu khắc: Nguyễn Tuân khắc hoạ hình tượng như một bức điêu khắc
sống động với thế “đứng thẳng người dậy đĩnh đạc”, với trạng thái thở dài,
buồn bã”. Ngoài ra, khi miêu tả ba người chăm chú trên tấm lụa bạch, người ta đã thấy
đậm chất điêu khắc với những đường nét được chạm nổi, sống động.
Ngoài ra, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân sử dụng đây độc đáo, giàu chất tạo hình,
sắc thái biểu cảm cao và rất sáng tạo. Hơn nữa, chúng còn có nhịp điệu chậm rãi, trang
trọng với những từ Hán Việt, gợi hồn xưa đất nước. Đây cũng chính điều mà Tự lực
văn đoàn ngạc nhiên khi đọc Vang bóng một thời trao giải cho tập truyện, điều làm
nên cái riêng của Nguyễn Tuân.
> Tóm lại, nhìn từ mọi góc độ, đều thấy được những nét đặc trưng của Nguyễn Tuân
trong cảnh cho chữ. chính vậy, thể thấy rằng bút lực của nhà văn tài hoa đã tập
trung ở cảnh này.
* Mở rộng liên hệ với một số tác phẩm khác của Nguyễn Tuân trước sau ch
mạng tháng Tám để thấy phong cách nghệ thuật của nhà văn bậc thầy này những
nét ổn định và có những cách tân.
Qua đó khẳng định rằng chính phong cách nghệ thuật đặc sắc đã góp phần làm nên
thành công của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử nói riêng vị trí của Nguyễn
Tuân trong văn học Việt Nam nói chung.
III. Kết luận
Nhà thơ Đạt đã viết: “Mỗi công n một dạng vân tay/Mỗi nhà thơ thứ thiệt
một dạng vân chữ”. u cầu này không chỉ đối với nhà thơ, với nhà văn cũng thật
cần thiết. Nguyễn Tuân chính nhà văn vân chữ” không thể lẫn, điều ấy đã được
chứng minh thuyết phục qua cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
....................
Xem thêm: Dàn ý phân tích cảnh cho chữ hay nhất
Phân tích Cảnh cho chữ ngắn gọn
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
Chữ người tử một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Vang bóng
một thời. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, người
nghệ sĩ tài hoa, người nghĩa sĩ bản lĩnh, khí phách hơn người. Chi tiết cho chữ cuối tác
phẩm được coi là tình tiết đặc sắc nhất góp phần phát triển mạch truyện và bộc lộ trọn
vẹn vẻ đẹp của Huấn Cao, nhiều đánh giá cho rằng cảnh cho chữ trong nhà lao
cảnh tượng xưa nay chưa từng thấy.
Cảnh cho chữ được diễn ra trong một không gian thời gian cùng đặc biệt, nơi
Huấn Cao viết lên những nét chữ “vuông lắm, đẹp lắm” không phải nơi thư phòng
sạch sẽ, cũng không phải nơi phong cảnh hữu tình như thường lệ lại không gian
u tối, ngột ngạt của ngục một buồng tối, chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện,
tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian cho chữ sao cũng thật đặc biệt,
đó không phải ban ngày hay bất cứ thời điểm nào khác trong ngày giữa đêm
khuya khoắt, khi bóng tối bao phủ khi mọi người đã chìm vào giấc ngủ. Huấn Cao
lựa chọn thời điểm đặc biệt như vậy lẽ muốn giúp viên quản ngục tránh được
những điều tiếng không đáng có. Bởi ngục nơi đầy rẫy những thị phi, những bon
chen những trò hãm hại nhau. Huấn Cao không muốn một con người tốt đẹp như
viên quản ngục bị cuốn vào vòng xoáy của sự bon chen xấu xa ấy.
Người cho chữ đây là Huấn Cao, tuy nhiên khác với hình dáng của những tao nhân
mặc khách khi cho chữ, Huấn Cao không được thư thái, tự do về thể xác, uống rượu
thưởng trà cổ đeo gông chân ớng xiềng vẽ lên những nét chvuông vắn trên
giấy trắng. Người xin chữ viên quản ngục người đam với cái tài Huấn
Cao sáng tạo ra. Điều đặc biệt ở đây vị trí của người cho chữ kẻ xin chữ lại hoàn
toàn đối lập, nếu như Huấn Cao kẻ tử tù nguy hiểm bị biệt giam thì viên quản ngục
lại là người cai quản nhà ngục có trách nhiệm giam giữ những kẻ tử tù nguy hiểm.
Thế nhưng khi cho chữ thì vị trí của hai người lại sự thay đổi hoàn toàn, viên quản
ngục từ một người bề trên, kẻ nắm trong tay quyền lực, nắm trong tay quyền sinh
quyền sát trở nên khúm núm, phục tùng cho kẻ tử tù khi “tay run run bê chạy mực” thì
Huấn Cao kẻ tử lại trở thành người nắm thế chủ động, người tặng chữ tặng
những lời khuyên cho viên quản ngục. Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên thay
đổi môi trường sống để cho thiên lương được trong sáng. Quản ngục đã ng xúc
động và quỳ lạy Huấn Cao “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Như vậy, khung cảnh cho chữ thật khác biệt, vị trí quyền lực của những nhân vật
trong truyện hoàn toàn bị đảo ngược, nghi thức cho chữ thông thường hoàn toàn bị đổi
ngược mang đến những cảm nhận đặc biệt cho độc giả, đồng thời thể hiện được những
tư tưởng, quan niệm sâu sắc của nhà văn Nguyễn Tuân.
Cảnh cho chữ của Huấn Cao viên quản ngục tuy được thực hiện trong khung cảnh
tối tăm của ngục nhưng bức họa chữ ấy lại đẹp đẽ hơn bao giờ hết bởi được
chiếu sáng bởi cái tâm, bởi ánh sáng của thiên lương.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Nguyễn Tuân (sinh m 1910, mất năm 1987) một nhà văn lớn, giữ một vị trí quan
trọng đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã để lại
cho nền văn học nước nhà rất nhiều tác phẩm độc đáo, trong đó truyện ngắn "Chữ
người tử tù".
"Chữ người tử tù" được sáng tác in lần đầu năm 1939 (khi đó mang tên "Dòng chữ
cuối cùng", sau đó được tuyển in trong tập truyện "Vang ng một thời" (1940)
được đổi tên thành "Chữ người tử tù"), trong hoàn cảnh Hán học ở nước ta gặp suy vi,
những nho "cuối mùa" sống giữa thời buổi "Tây Tàu nhnhăng" mặc buông
xuôi bất lực nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời. Họ không chịu a dua
theo thời, chạy theo danh lợi vẫn cố giữ "thiên lương" "sự trong sạch của tâm
hồn". Trong số những con người tài hóa ấy, nổi bật lên hình ợng ông Huấn Cao
trong "Chữ người tử tù" - một con người không chỉ tài hoa còn cái tâm trong
sáng, mặc dù chí lớn không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.
Nhân vật Huấn Cao tiếng người có tài viết chữ Hán nhanh đẹp. Ông không
chỉ có tài về nghệ thuật thư pháp còn có cái trí tuệ uyên bác. Từng nét chữ của ông
ẩn chứa cả văn hóa, quan niệm về nhân thế. Người ta treo chữ ông trong nhà không
chỉ để chiêm ngưỡng cái đẹp của bức thi họa, còn để ngẫm nghĩ những tưởng
sâu sắc. Nhưng "tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ
ông Huấn treo một vật báu trên đời". Thêm vào đó, Huấn Cao được miêu tả
một người chính trực, khẳng khái, không tiền bạc, quyền thế ép mình cho chữ
bao giờ. Thật vậy, ngay lúc ớc vào lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim,
ông Huấn không hề mảy may run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải. Lúc bị
giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản ngục, ngày ngày đưa rượu thịt
vào cho ông, ông vẫn thản nhiên đón nhận và coi đó là "hứng sinh bình", thậm chí ông
còn coi khinh viên quản ngục, không muốn hắn bước vào buồng giam của ông thêm
lần nào nữa. Thế nhưng, khi hiểu ra nỗi lòng sở thích cao quý của viên quản ngục,
đồng thời cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn của viên quản ngục qua lời kể của thầy
thơ lại, Huấn Cao đã đồng ý với ước nguyện của viên quản ngục, tạo nên một cảnh
tượng độc đáo diễn ra ở chốn ngục tù.
Từ xưa đến nay, ta vẫn thường thấy cảnh cho chữ được diễn ra tại những nơi trang
trọng, đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm c. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân
đã xây dựng nên một cảnh cho chữ trong một hoàn cảnh cùng khác lạ, đó trong
ngục tăm tối, trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường. Trong không gian đêm
khuya vắng lặng, chỉ còn “văng vẳng tiếng mõ chòi canh”, dưới ánh sáng đỏ rực của
đuốc tẩm dầu, nơi buồng giam chật hẹp ẩm ướt, viên quản ngục hàng ngày khét
tiếng tàn bạo giờ đây lại khúm núm, trái ngược với một kẻ tử "cổ đeo gông, chân
vướng xiềng" lại đĩnh đạc và làm chủ nơi ngục tù.
Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng t chữ vừa đẹp đẽ vừa chứa đựng nhiều ý
nghĩa sâu sắc của ông Huấn dần hiện ra. Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên
viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ để giữ thiên lương cho lành vững, bởi phải
thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Hành động xin "bái lĩnh" của y
chính sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác. thể
thấy, toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần khiết
của khí phách của thiên lương. Huấn Cao ngày mai phải chịu án tử hình nhưng
người tử ấy không chết sđi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp, như hiện thân cho
vẻ đẹp hoàn mỹ, cùng với đó những tử ởng lời dạy của ông Huấn sẽ theo viên
quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.
Cảnh cho chữ của Huấn Cao viên quản ngục trong "Chữ người tử tù" được đánh
giá "cảnh tượng xưa nay hiếm". Thông qua cảnh cho chữ của Huấn Cao, Nguyễn
Tuân đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái
ác; từ đó cho thấy tài năng nghệ thuật của mình trong việc tạo dựng tình huống truyện
độc đáo, trong nghệ thuật dựng cảnh, khắc họa tính cách nhân vật trong cả việc sử
dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình.
Phân tích cảnh cho chữ
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
“Chữ người tử tù” ánh sáng lung linh nhất, ngời chói nhất, đa màu sắc nhất để
điểm cho tuyệt tác “Vang bóng một thời”.
“Chữ người tử tù” đã thể hiện một bút pháp thật sắc sảo với từng câu văn, nét chữ như
chất chứa cả đại dương ý nghĩa cuồn cuộn dâng trào của nhà văn Nguyên Tuân.
“Chữ người tử tù” thật sự đi vào lòng người khi Nguyễn Tuân đã biết tạo dựng một
nhân vật điển hình. Đặc biệt ông đã tạo dựng cảnh Huấn Cao cho chữ “một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có”.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có”? Nguyên do thật đơn giản, đó các bậc nho ngày xưa “tao nhân mặc
khách”, ”bụng đựng đầy chữ thánh hiền” khi viết chữ hoặc cho chữ phải những nơi
trăng thanh gió mát, hoa hương ngào ngạt, ly rượu nồng nàn chếnh choáng hơi men…
như thế thì viết chữ mới hay, cho chữ mới đáng được thưởng thức mới đạt đến
trình độ thẩm mỹ tuyệt vời. Nhưng đây Huấn Cao cho chữ quản ngục lại vào một
phòng giam tối mịt “tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”.
Đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
“Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” ấy đã diễn ra vào đêm hôm khuya khoắt,
ngay tại nhà tù. Cảnh đêm buông xuống không gian bốn bề chỉ còn văng vẳng tiếng
trên vọng canh. Ngoài nhà đã tối thì bước chân vào nhà kín mít hẳn phải
“sẫm đen hơn nữa”.
Theo viên quản ngục thầy thơ lại o phòng gian một bó đuốc sáng rực lan tỏa
khắp bốn bề. không khí lúc đó mới “tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực” , rồi
“lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo o”.
Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nguyên Tuân lại nhắc đến bó đuốc “sáng rực” đó đến
hai lần, ràng đó dụng ý nghthuật cũng như Bác Hồ viết Phương đông màu
trắng chuyển sang hồng” vậy.
Chính bởi thế sự đối lập giữa ánh sáng bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt.
Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng đây vẫn
ngời chói vẫn ngời tỏa, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của mẹ
con chị ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào không của
bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sau xa hơn thì
ánh sáng đó không chđơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật ánh sáng đó mang
sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên
lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó
điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ
chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ
những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện…
Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương.
Bản hùng ca chữ tâm đó sẽ ngời tỏ sáng lạn hơn nữa khi đi liền với cái i hoa,
cái đẹp lại làm mờ nhạt đi sự nhơ bẩn, sự phàm tục.
đây, sự nhơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: một buồng tối chật hẹp, ẩm
ướt,tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Một cái buồng
giam thật kinh schẳng khác chi một chuồng trâu của nhà nông! Phân gián, mạng
nhện, tổ rệp lại cộng thêm ẩm ướt, chật hẹp thì đẩy sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh
điểm. Sự nhem nhuốc, sự phàm tục này tưởng chừng như mãi mãi tồn tại. Song với sự
xuất hiện của phiếm lụa, của lọ mực đã xua tan đi mùi ô uế. Phiến lụa, mùi mực
biểu tượng cái đẹp, cái thơm tho. Cho nên, phân gián, phân chuột ng với không k
chật hẹp, nền nhà ẩm ướt dần dần mất đi, bởi “cái đẹp là địa hạt của sự sống”, “cái đẹp
đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”, cái đẹp
mục đích con người ta muốn vươn lên. Màu trắng của phiến lụa tâm hồn cao
khiết của con người; mùi thơm của lọ mực mùi thơm của tình người, tình đời. Màu
trắng ấy, mùi thơm ấy hội tụ lại thành biểu tượng của cái đẹp, cái thiên lương.
Trong cảnh cho chữ này người ta để ý nhiều tới người Huấn Cao “chọc trời, khuấy
nước”, nay đã sa cơ, lỡ vận. Nhưng không thể không để ý tới viên quản ngục thầy
thơ lại, đó hai con người mới “đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” biết coi trọng cái đức,
mến mộ cái tài, nhất là tài viết chữ của Huấn Cao. Quản ngục và thầy thơ lại có thể coi
đó tâm hồn của nhà văn Nguyễn Tuân đang sùng kính cái đẹp, đang khát khao cái
đẹp. Huấn Cao, quản ngục, thầy thơ lại ba điểm sáng tạo nên một tượng đài, trong
đó Huấn Cao trung tâm: “ba cái đầu người đang chăm chú nhìn trên tấm lụa bạch”.
Ba con người ba địa vị hội khác nhau, giờ đây họ đang muốn điểm màu, son
cho cái đẹp lên ngôi thay thế sự phàm tục, nhơ nhuốc bẩn thỉu.
Cái đẹp, cái cao thượng sự phàm tục, nhơ nhuốc, hai cái đó đối lập nhau trong một
hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đã cùng thủ thỉ ném cùng một lúc hai i đó vào nhà giam
tạo ra sự mâu thuẫn cực độ. Từ đó làm bật lên bản chất cái đẹp, cái cao thượng. Nhất
Huấn Cao chỉ ngày mai thôi sẽ bị giải về kinh, rồi phải bước lên đoạn đầu đài,
nhưng ông vẫn ung dung lắm, vẫn nghệ lắm. Ông nhận xét về mùi hương của thỏi
mực đúng của một con người “bần tiện bất năng duy, uy bất năng khuất”: ”Thoi
mực thầy mua đâu tốt thơm quá. Thầy thấy mùi thơm của lọ mực bốc lên
không?”… Ôi cái mùi thơm của thỏi mực ấy ngào ngạt lan tỏa n“Dạ lan thơm
nức lạ lùng ởng nđi mãi không cùng mùi ơng”. Đó i thơm danh tiếng
của Huấn Cao vẫn còn ngào ngạt đến muôn đời. Nhà đây đã không còn nhà
nữa mà nó đã trở thành nơi chứa đựng mùi thơm tho của thiên lương con người.
Trước cái đẹp đang lên ngôi thì Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đập
đập nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng”, đó thái độ uy nghi, đường
hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã sa cơ” chẳng hèn chút nào. Thái độ
ấy, đúng Thân thể trong lao Tinh thần ngoài lao”. Cái chết đang tiến lại gần,
nhưng người tù Huấn Cao vẫn nói về sự sống, hướng về i đẹp, cái thiện của đời. Do
đó nhà chỉ còn để cho Huấn Cao thể hiện thêm khí phách của một người anh
hùng mà thôi. Cũng chính thế mà người ở đây đã hóa thành chủ, còn bọn quản
nhà ngục lại hóa ra tôi tớ trung thành của người tù. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối
này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản nhà
ngục phải khiếp sợ, kính nể: ”viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền
kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” “thầy thơ lại gầy run run ng chậu
mực”. Những chi tiết đó, những hình ảnh đó ởng chừng như không trong nhà tù,
nhưng thực ra lại diễn ra theo gic đích thực của những người biết tôn thờ, biết
kính trọng cái đẹp “hàng hàng gấm thêu”, “lời lời châu ngọc”, cái phí phách “chọc
trời, khuấy nước” cái bản chất thiên lương mà Huấn Cao đã đem lại.
Uy quyền bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên
lương. Cái đẹp, cái thiên lương bỗng nhiên trở nên thiêng liêng tuyệt đối, bởi “cái đẹp
của tâm hồn mới làm cho con người ta kính trọng”. Chính vậy, mọi thứ nhem
nhuốc, đen tối, cường quyền đã hóa thành những thứ bủn xỉn, chập choạng rơi xuống
bùn sâu.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái
thiên ơng của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn đi.
Chỗ này không phải nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn
nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Cái hoài bão tung hoành
của một đời con người: “chọc trời, khuấy nước”, “Năm năm ng một phương Hải
Tần”, “Trong hang tối mắt thần khi đã quắc khiến cho mọi vật đều im hơi” của
Huấn Cao với tấm lụa trắng trẻo, nét chữ tươi tắn, vuông vắn thì chốn ngục tù bẩn thỉu
này làm sao xứng đáng để treo một đôi câu đối về bản chất thiên lương của con người
quý như báu vật y. Và hơn nữa, Huấn Cao cũng khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên
lương không bao giờ không khi nào lại thể chung sống với i xấu, cái ác: “Ở
đây khó giữ thiên lương cho lành vững được rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời
lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên
quản ngục cảm động: “vái người một vái, chắp tay nói một câu dòng nước mắt
rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ
muội này xin bái nh” đúng câu nói của một con người n hóa biết tôn
sùng cái đẹp. Cái vái của quản ngục cũng cái vái của Nguyễn Tuân trước cái tâm,
cái đẹp, cái tài danh ông tôn sùng. Cái i ấy thật giống với cái vái của Cao Chu
Thần trước vẻ đẹp của hoa mai:
“Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”
(Một đời chỉ biết cúi lạy trước vẻ đẹp của hoa mai).
Cảnh Huấn Cao cho chữ được Nguyễn Tuân khắc họa đạm nét. đây không phải
cảnh cho chữ bình thường nữa, đó đã trở thành cảnh thọ giáo thiêng liêng của
người cho chữ người nhận chữ. Lời khuyên dạy của Huấn Cao chắc khác chi một
chúc thư về lẽ sống cảu đời người trước khi ông đi vào cõi bất tử. Với lời khuyên đầy
tình người ấy đã sức mạnh mãnh liệt cảm hóa tâm hồn con người bấy lâu đã cam
chịu lệ nay nhận ra trở về với thiên lương. Tóm lại, cái phí phách tinh thần bất
khuất đã chiến thắng một cách vang dội trước thái độ cam chịu nô lệ.
Với bút pháp lãng mạn, nghệ thuật đối lập đòn bẩy cách xây dựng nhân vật đầy
tính đi đôi với cách tạo cảnh hấp dẫn được nhà văn Nguyễn Tuân triệt để khai thác
trong toàn bộ truyện ngắn “Chữ người tử tù” cũng như cảnh Huấn Cao cho chữ cuối
truyện. Với bút pháp y, nghệ thuật ấy nhà văn muốn ca ngợi cái đẹp, cái cao thượng,
cái phí phách đường hoàng của tinh thần bất khuất cùng với lương tâm trong sáng của
con người.Những vẻ đẹp ấy xứng đáng là những tia sáng cho muôn đời soi vào mà noi
theo. Mọi người chúng ta hãy hướng về tia sáng đó thì nhất định bóng tối sẽ ngả về
phía sau.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân - thiện - mỹ, người ta
thường nhắc tới Nguyễn Tuân - một nghệ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh
giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong
các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một
nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như
vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện cùng
độc đáo. Đó cảnh cho chữ trong nhà giam - phần đặc sắc nhất của thiên truyện
này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đoạn cho chữ nằm phần cuối tác phẩm vị trí này tình huống truyện được đẩy lên
đến đỉnh điểm viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những n
phản loạn, trong đó Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ ý nghĩa cởi nút, giải tỏa
những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác
phẩm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự của mình với thầy thơ
lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể nỗi
lòng viên quản ngục. đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ
rực của một đuốc tẩm dầu, một cảnh tượng a nay chưa từng có” đang diễn ra.
Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi không
gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ
bẩn chốn ngục thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian đây cũng gợi
cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây lẽ đêm cuối của người tử -người cho chữ
cũng chính giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. trong hoàn cảnh ấy thì “một
người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên
tấm lụa trắng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển
động.ở đây cho thấy dường như trật tự hội đang bđảo lộn. Viên quản ngục đáng
nhẽ phải hào, răn đe kẻ tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì nhân lại trở
thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.
Đây quả thực một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng giữa Huấn Cao - người tài
viết chữ nhanh , đẹp viên quản ngục, thầy thơ lại - những người thích chơi chữ. Họ
đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử
hình (Huấn Cao) một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện hội,
họ hai phía đối lập nhau nhưng xét trên nh diện nghệ thuật họ lại tri âm, tri kỉ
của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng
ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, hgặp nhau với con người thật, ước muốn
thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sdụng sự ơng phản giữa ánh sáng
bóng tối m câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng bóng tối.
Cái hỗn độn, bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng những nét
chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng
thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu cái thiện so với cái ác. Vào
lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy chốn
ngục tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… đây, Nguyễn
Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương
chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.
Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục nhơ bẩn:
“đổi chở” để thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên
lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó thể bền vững. Cái đẹp thể nảy
sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng
không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ môn nghệ
thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác còn cảm nhận bằng tâm hồn.
Người ta thưởng thức không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm
trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính cái thiện
chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động vái người một vái,
chắp tay nói một câu dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này
xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả tài năng xuất chúng, người
tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với
cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung
cảnh đen tối của ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn thường, ợt
lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một
niềm tin vững chắc của con người: trong bất hoàn cảnh nào con người vẫn luôn
khao khát hướng tới chân - thiện - mỹ.
ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân nhà văn duy mĩ, tức điều khiến ông quan tâm
chỉ cái đẹp, nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” đặc biệt
cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong
truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với
cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật
trước cách mạng, Nguyễn Tuân một nhà văn tưởng duy mĩ, theo quan điểm
nghệ thuật vnghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngợi viên quản ngục thầy thơ
lại những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn những
“thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu
nước, căm ghét bọn thống trị đương thời thái độ trân trọng đối với những người
“thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
“Chữ người tử tù” bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao
cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của
đời người ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho ktri âm, tri kỉ hôm nay
mai sau. Nếu không sự truyền lại này i đẹp sẽ mai một. Đó cũng tấm lòng
muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim
quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện
ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang
chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người cđeo gông, chân vướng
xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tưởng một ch nét: từ bóng
tối đến ánh ng, từ hôi hám nbẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng
tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng
thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng thuật hiện đại như bút pháp
tả thực, phân tích tâm nhân vật (văn học cnói chung không tả thực phân tích
tâm lí nhân vật).
Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo tưởng độc
đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng tâm sự nuối tiếc đối
với những con người có tài hoa, nghĩa khí nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó
tác giả cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang
bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời đen tối
vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.
Cảnh cho chữ - Mẫu 3
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ
người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng
gợi cảm, gây ấn tượng.
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám một nhà văn duy mĩ. Ông yêu say đắm
cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông, (cái đẹp) đỉnh cao của nhân
cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng
khi ngôn ngữ giàu của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của
Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó những con người tài hoa hoạt động
trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái
đẹp bên ngoài bên trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân thiện;
ông lại còn kết hợp với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử (1939) trong tập Vang
bóng một thời áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tưởng
dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả
một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử cho chữ một viên
cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử là một nho tài hoa của một đã qua nay
chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà nho giáo, một lãnh tụ
của cuộc khởi nghĩa nông dân Cao Quát, một con người hết sức tài hoa và dùng
khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao họ, Huấn dạy). Cao
Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông ng thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai
tính cách của nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Quát, người viết chữ
đẹp nổi tiếng khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa
thể hiện tưởng thẩm của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với
xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện hai nhân vật chính, một ông Huấn Cao tài viết chữ đẹp, một nửa
viên quản ngục say chữ đẹp của ông Huấn, quyết m mọi cách để xin chữ treo
trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái oăm nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại
một tên đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang
bị bắt giam chờ ngày thụ hình. n người chữ đẹp của ông Huấn Cao lại một
quản ngục đại diện cho cái trật tự hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ tri âm tri
kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ
tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật được bộc lộ tưởng chủ đề của
truyện được thể hiện một cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vàng ngọc hay quyền thể ép mình viết câu
đối bao giờ. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho
chữ viên quản ngục con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết
sống bằng n nhẫn, bằng lừa lọc lại kẻ biết trọng người nghĩa khí, biết tôn quý
cái đẹp của chữ nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của c người. Nào ta
biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Viên
quản ngục cũng không dễ nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị
đuổi. lần hắn mon men vào ngục định làm quen biệt đãi Huấn Cao để xin chữ
thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. nhà
ngươi đừng đặt chân vào đây. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã
nói một lời sâu sắc và cảm động: thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.
Coi khinh cường quyền tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái
đẹp, cái tài, sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao còn giữ được
thiên lương. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi đây
khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời
lương thiện đi.
Huấn Cao còn đẹp khí phách. Ông là một người tử gần đến ngày tử hình vẫn giữ
được thế hiên ngang, đúng khí phách của một anh hùng Cao Quát. Đêm m
ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng trên vọng canh, một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện,
đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa
tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu
nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính
trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc
tẩm dầu, một người cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm nét chữ trên tấm
lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội
khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh
người tử trở nên lồng lộng. Viên quản ngục viên thơ lại trở n nhỏ bé, bị động,
khúm núm trước người tử tù.Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây một cảnh tượng xưa
nay chưa từng có?
Cảnh tượng này quả lạ lùng, chưa từng trò chơi chữ nghĩa thanh tao phần
đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, lại diễn ra nơi ngục tối chật
hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi
lộng lẫy, còn viên quản ngục thơ lại, những kẻ đại diện cho hội đương thời thì
lại khúm núm run rẩy.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không
phải cái ác, cái xấu đang thống trị chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả
đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn
kẻ phạm tội tử , không quản ngục thơ lại, chỉ người nghệ tài hoa đang
sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều
thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương khí phách.
Cũng với cảnh này, người tử đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình,
nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời
của ông trên lụa bạch scòn đó. nhất lời khuyên của ông đối với tên quản ngục
thể coi lời di huấn của ông về đạo làm người trong thời đại nhiễu nhương đó.
Quan niệm của Nguyễn Tuân cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say cái đẹp
trước hết phải người thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái
dũng. Hiện thân của cái đẹp hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng
rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình ợng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ.
Trong đêm cho chữ, nh ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó âm thanh trong
trẻo chen vào giữa một bản đàn nhạc luật đều hỗn loạn bồ. Cái thế khúm
núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh cử chỉ run run bưng chậu mực
không phải là sự quỵ lụy hèn hạthái độ chân thành khiến tacảm tình với con
người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ
người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng
gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, hồn, nhịp
điệu ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, phần bị trắng toát
lên trong đoạn văn.
Chữ người tử không còn chữ nữa, không chỉ mà thôi, những t chữ
tươi tắn nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây sự chiến thắng
của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối
với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ
cam chịu lệ. Sự hòa hợp giữa dũng trong hình tượng Huấn Cao đỉnh cao
nhân cách theo tưởng thẩm của Nguyễn Tuân, theo triết duy của Nguyễn
Tuân.
Cảnh cho chữ - Mẫu 4
Nguyễn Tuân một trong năm tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Ông đóng
góp không nhỏ đối với nền văn học hiện đại. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Tuân luôn khát
khao đi tìm cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời để sáng tạo nên những kiệt tác văn học
độc đáo. tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”của ông
cũng chứa đựng những nét đẹp đó.
Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi một thú chơi tao nhã của những kẻ học thức.
Thú chơi chữ thể hiện được toàn bộ cái đẹp, cái tài năng cả trí tuệ của người viết
cũng như người thưởng thức. Cảnh cho chữ thường được diễn ra tại những nơi trang
trọng, đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Rồi từ đó những nét chữ
uyển chuyển mang trong cả i hồn riêng được ra đời. Nhưng ng những nét chữ
uyển chuyển hồn ấy, Nguyễn Tuân lại cho sinh ra trong một hoàn cảnh khác lạ,
một cảnh xưa nay hiếm”. Đó cảnh cho chữ trong tác phẩm: ”Chữ người tử tù”
trích trong tập “Vang bóng một thời”.
Nguyễn Tuân một trong những nhà văn lớn của nền n học Việt Nam hiện đại.
Ông đóng góp rất lớn cho nền văn học ớc nhà đặc biệt thể tùy bút. Nguyễn
Tuân nhiều tác phẩm hay như: Một chuyến đi, Nội ta đánh giỏi, sông Đà,
Vang bóng một thời,... Vang bóng một thời một trong những tác phẩm thành công
nhất của Nguyễn Tuân, cũng một trong những truyện ngắn hay nhất trong kho tàng
văn học Việt Nam.
Truyện ngắn “chữ người tử tù” ban đầu tên “dòng chữ cuối cùng”. Đây tác
phẩm kết tinh tài hoa của Nguyễn Tuân trước Cách Mạng được nhà phê bình
Ngọc Phan đánh giá “một văn phẩm đạt gần tới sự hoàn thiện, toàn mĩ”. Nhân vật
chính trong truyện ngắn này là Huấn Cao- một con người văn võ song toàn. Huấn Cao
tiếng người tài viết chữ Hán nhanh đẹp. Ông không chỉ cái cái tài về nghệ
thuật thư pháp còn cái trí tuệ uyên c. Từng nét chữ của ông ẩn chứa cả văn
hóa, quan niệm về nhân thế. Người ta treo chữ ông trong nhà không chỉ để chiêm
ngưỡng cái đẹp của bức thi họa, mà còn để ngẫm nghĩ nhữngtưởng sâu sắc. Nhưng
“tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. được chữ ông Huấn
treo một vật báu trên đời”. Không chủ tài về nghệ thuật, ông Huấn còn người
thiên lương. Tính ông chính trực, khẳng khái, không tiền bạc, quyền thế ép
mình cho chữ bao giờ. Gặp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm, khiến
người đọc dễ dàng liên tưởng tới người thủ lĩnh tài ba văn phong toàn, người anh
hùng dân tộc Cao Bá Quát. Được nhân dân ca tụng:
“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đảo Tùng Tuy thất thịnh Đường”.
Thật vậy, ngay lúc bước vào lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông Huấn
không những không mảy may run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải vẫn
lạnh lùng “thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Lúc
bị giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản ngục, ngày ngày đưa rượu thịt
vào cho ông các đồng chí, ông vẫn thản nhiên đón nhận coi đó “hứng sinh
bình”, thậm chí ông n coi khinh viên quản ngục, không muốn hắn bước vào buồng
giam của ông thêm lần nào nữa.
Một con người tài năng về nghệ thuật, thiên lương cao đẹp, lại khí phách
ngang tàn tính khoảnh như Huấn Cao tưởng chừng như sẽ không bao giờ chịu chấp
nhận tặng chữ của nh cho viên quản ngục. Thế nhưng, khi hiểu ra nỗi lòng sở
thích cao quý của viên quản ngục, biết ông đã bất chấp cả tính mạng của mình thú
vui cao quý, Huấn Cao đã thay đổi định kiến về một kẻ tiểu lại giữ tù như ông , ân hận
thiếu chút nữa “đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” quyết định tặng chữ
cho ông. Chính lúc y, thiên ơng của ông đã tự tỏa sáng, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ
rực của đuốc, tỏa sáng cả căn buồng giam chật hẹp ẩm thấp đầy phân gián phân
chuột hôi hám. Trong chính cái đêm hôm ấy, cái đẹp đã lên ngôi. Từ một viên quản
ngục hàng ngày khét tiếng tàn bạo giờ đây lại khúm núm. Một kẻ tử tù, “ cổ đeo gông,
chân vướng xiềng” lại đĩnh đạc, làm chủ nơi ngục tù. Kẻ tử ấy bị giam hãm về
thể xác nhưng nhân cách y lại tự do khác hẳn với kẻ tưởng chừng tdo nhưng lại bị
trói buộc cả tâm hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác ngự trị này. Nơi ngục tù tăm tối
ấy, đêm nay lại diễn ra “cảnha nay chưa từng có”. Cảnh cho chữ - cho một vật báu
trên đời lại được diễn ra tại nơi tối tăm chật hẹp. Cái ánh sáng của ngọn đuốc cháy đỏ
rực xóa tan bóng đêm tăm tối. Mùi thơm từ chậu mức bốc lên xoa dịu đi mùi hôi tanh
của căn phòng.
Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng nét chữ vừa đẹp, vừa vuông của ông Huấn
dần hiện ra. Vậy cái đẹp thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, cái tội lỗi nhưng
không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì thế, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao
đã khuyên viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ để giữ thiên lương cho lành vững, phải
thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Cái thiên ơng cao đẹp của
ông Huấn cũng sáng bừng cả thiên lương ẩn giấu của quản ngục. Hành động xin
“bái lĩnh” của y chính sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại thảm hại của cái xấu,
cái ác. Cảnh cho chữ không diễn ra nơi trăng hoa tuyết nguyệt mà lại ở trong căn
buồng tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại nơi cái đẹp được “khai sinh”,
thăng hoa. Toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần
khiết của khí phách của thiên lương. Người tử ngày mai phải chịu án tử hình
nhưng kẻ ấy không chết sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao hiện
thân cho vẻ đẹp hoàn mỹ, con người ấy chỉ có thể chết về tinh thần , nhưng tử tưởng
đẹp của ông Huấn từng lờ dạy của ông sẽ còn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục
trong suốt cuộc đời còn lại.
Câu chuyện thành công không chỉ phê phán đúng thực trạng hội đương thời
còn cái độc đáo khác lạ của tình huống truyện. Câu chuyện kvề cuộc gặp gỡ
giữa hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người là viên quan quản ngục- một công
cụ trấn át kẻ tù tội phục vụ cho triều đình, còn người kia kẻ tử chống lại triều
đình. Thế nhưng chính cái đẹp đã đẩy hai con người hoàn toàn khác biệt ấy trở thành
tri kỉ. Họ người nghsĩ, biết yêu coi trọng cái đẹp. Cái độc đáo của truyện cũng
nằm trong chính từng nhân vật. Huấn Cao - tên tử lại một nghệ sáng tạo ra
cái đẹp. Viên quản ngục - công cụ trấn tội phạm của triều đình- lại con người
mong muốn thưởng thức cái đẹp. Cả câu chuyện mang vẻ cổ kính từ nhân vật, cảnh
cho chữ cho đến ngôn ngữ câu văn. Chính nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp với
bút pháp tả thực bút pháp lãng mạn đã đem đến thành công cho tác phẩm. Không
gian ẩm thấp nơi buồng giam, thời gian đêm tối bóng dáng con người trong đêm
ánh sáng đuốc như ánh sáng của thiên ơng, của tài ng, khí phách. n đêm
tăm tối của ngục từ - hiện thân cho cái ác - lại bị ánh sáng của tài năng, thiên lương
làm sụp đổ. Không gian được miêu tả hẹp dần: từ căn phòng đến ánh sáng ngọn đuốc,
tấm lụa trắng tinh rồi đến từng con chữ vuông vắn.
Dường như, cảnh cho chữ và hình tượng nhân vật Huấn Cao đã giúp Nguyễn Tuân thể
hiện thành công phong cách nghệ thuật của mình. Ông luôn hướng tới cái đẹp, cái phi
thường tưởng, đã đẹp phải tuyệt mĩ, đã tài phải siêu phàm, nhưng cũng tính
độc đáo.
Câu chuyện kết thúc nhưng dư âm về cái đẹp, cái khí phách hiên ngang và thiên lương
cao quý của ông Huấn vẫn còn vương vấn. Người đọc thể hình dung ra một viên
quản ngục từ biệt nơi quan trường đầy thị phi trở về quê nhà. Ngày ngày, ông thư
thả ngắm bức thi họa của ông Huấn ban cho được treo ngay ngắn trong gian giữa ngôi
nhà mà trong lòng vẫn khắc sâu lời khuyên răn của ông Huấn.
Cảnh cho chữ - Mẫu 5
Nguyễn Tuân được sinh ra trong 1 gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của
ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có
những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ
người tử tù" được in trong tập Vang bóng một thời" đánh dấu tài năng của Nguyễn
Tuân trước cách mạng tháng Tám được coi như là 1 văn phẩm đạt gần đến độ hoàn
mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ cảnh được tác giả tập trung miêu tả, đâm vẻ đẹp
lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của
thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối cái xấu. thể nói, cảnh cho chữ cảnh
tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa này chưa từng có.
Truyện ngắn được y dựng dựa trên mối quan hệ giữa 2 nhân vật Huấn Cao viên
quản ngục, cả 2 đều nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không
chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết
thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người thú
chơi chữ. Và quản ngục là 1 trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được
đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà, đây, người nghệ gặp kẻ tri âm trong 1
hoàn cảnh bất thường: Người nét chữ huyền thoại kia lại người tử tù, còn người
có thú chơi chữ tao nhã kia lại 1 viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có
thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ 3 người. Liệu Huấn Cao thể cho
chữ cho kẻ tiểu lại như quan nhục chăng? Nhưng điều bất ngđã xảy ra, điều không
thể đã trở thành thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của
quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình
tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải để phô trương
tài năng mà là để tạ 1 tấm lòng.
Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng,
cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chxưa nay khó đã khiến Nguyễn Tuân
say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc sảo, t pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ
điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huân tại
nhà ngục. Địa điểm cho chữ ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy
tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián Trong không khí trang nghiêm 3 nhân
vật hiện lên trong 3 tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gông, còn chân vướng
xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ đậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm
núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run
run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều
có điểm chung biết thưởng thứctrân trọng cái đẹp Những nét chữ của con người
chuẩn bị đi vào cõi chết không hề ngả nghiêng xiêu vẹo “vuông, ơi tắn nói
lên hoài bão tung hoành của 1 đời con người". Những nét chữ như phượng múa rồng
bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn
trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện
được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không tinh thần
tự do, không sức mạnh thì chắc chắn sẽ không được phong độ ấy. Khi viết chữ
xong, ông buồn đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải ngày mai
mình sẽ bị giải ra pháp trường ông buồn người như quản ngục lại phải…. Ông
còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê ở, xong rồi hãy ngtới
chuyện chơi chữ, đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt
ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được
hết cái đẹp, phải 1 môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ giữ gìn. Như vậy,
Huấn cao chuẩn bị đi vào cõi chết vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không
thể chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục để tạ 1 tấm lòng, để chia sẻ với 1
tri kỉ và để nâng đỡ 1 thiên lương.
Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng.
Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói 1 câu mà dòng nước
mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh “. Qua thái đ
kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với
người tài i đẹp, cái đẹp khả năng cảm hóa con người, đưa những con người
đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng
thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế,
bẩn thỉu, Ánh sáng đây không chỉ ánh sáng của đuốc còn ánh sáng của
cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm tỏa
ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải,
không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.
Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữcảnh “xưa nay chưa từng có" vì thú chơi
chữ 1 thú chơi tao nhã thanh cao, người tài viết chữ đẹp đạt tới trình độ viết
thư pháp không nhiều, người thưởng thức cũng phải người vốn văn hóa nhất
định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát,
thanh cao để người nghệ thể thoải mái sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ
trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng lẽ, ánh sáng kia
quá đẹp nên đã che lấp bóng tối, ng tối đây càng làm đậm n nét đẹp của ánh
sáng. Bình thường quản ngục đại diện cho pháp luật chốn lao tù, người của
triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm
chủ, kẻ chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn
Tuân đã làm 1 cuộc đảo lộn trật tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không con người tử
tù, cũng không còn quản ngục, gông xiềng bị hiệu hóa, chỉ n người nghệ đang
sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp
Qua truyện ngắn “Chữ người tử tù" người đọc thể dễ dàng thấy được quan niệm
thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm.
Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hóa
truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia.
Cảnh cho chữ - Mẫu 6
Trong một không khí khói tỏa như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một đuốc tẩm
dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần
hồ. Khói bốc tỏa cay mắt. Một người cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm
nét chữ trên tấm lụa trắng tinh ng phẳng trên mảnh n. Người viết xong một
chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên
phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”.
Đoạn văn miêu tả đặc sắc đầy chất tạo hình và điện ảnh trên hẳn đã góp phần làm sáng
tỏ thêm nhân định : Nguyễn Tuân một trong những bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc;
đồng thời cũng khẳng định thêm sự phong phú, chính xác về kiến thức lịch sử, văn
hoá, hội…., năng lực quan sát lọc lõi trí tưởng tượng mạnh mẽ bay bổng của
tác giả Vang bóng một thời.
Đoạn văn miêu tả cảnh tượng người tử tặng thư pháp nơi ngục thất vừa thảm đạm
vừa hào hùng khiến cho cả ba nhân vật Huấn Cao, quản ngục tlại bỗng thăng
hoa thành những hình tượng phi thường Xây dựng được cốt cách phi phàm,
những “con người khổng lồ” nhưng khi phải lặn ngụp “dưới đáy” hội, đó cũng
một đặc trưng nổi bật của bút pháp lãng mạn chủ nghĩa nói chung. Đoạn văn chứa
đầy ước thiết tha của Nguyễn sở gọi thức tâm linh người đọc, cũng bởi cả ba
nhân vật, tuy ở các vị trí xã hội xa cách nhau nhưng lại có khả năng bổ sung phẩm tính
cho nhau ấy, đều những mảnh hồn của tác giả say đắm hóa thân : tam vị nhân vật,
nhất thế ? Nguyễn Tuân. Bút pháp đoản thiên tiểu thuyết phong cách điêu khắc của
Nguyễn dựng nên nhóm tượng đài Thiên lương Tam vị nhất thể sáng láng y
dường như muốn tạo tác một biểu hiện làm đối chứng với cái hiện thực hội thực
dân nửa phong kiến tồi tệ hiện hữu trước mắt tác giả. Sự thực, cái hội nhãn tiền ấy
đã được Nguyễn Tuân lịch sử hoá , “Sơn ng Tuyên” a qua bối cảnh câu chuyện
ông Huấn cho chữ ; đó một hội “hỗn loạn bồ” với những thế nhân “cặn bã”,
những “lũ quay quắt” sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc : đối với kẻ sa thất thế thì
sẵn sàng hung hăng “hết cho mấy hèo bây giờ” “Ở đây, khó giữ thiên lương”…Khi
viết những dòng Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã đang được nếm trải thấm
thía cái mùi vị xã hội ấy thậm chí, một sự nghiệm sinh khá ỡng, tất nhiên chưa
đến độ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng lê bước dần tới nơi đoản mệnh như ông Huấn,
nhưng bất hạnh đến mức đày khổ nhục đắng cay (1929 1930) thì cũng đã từng:
“những trái tim đó (của các nhân V.T) thỉnh thoảng lên tiếng nhưng một cách
dữ dội tàn ác. Những cuộc xát giữa giữa bữa cơm mắm nhà nước phát,
thường bắt đầu từ việc tranh giành một quả ớt. Quả ớt đỏ đã nhuộm đỏ những nắm
cơm đỏ bị những vần tay vấy máu mân mê. Những bữa cơm thối trong một bầu
không khí kinh khủng như vậy…” (Một chuyến đi). thể nói nguyên mẫu nhân vật
Huấn Cao ông giáo thụ Cao Quát dạy học đắc Sơn Tây n sơn địa sỏi đá từ
trăm năm trước ; nhưng nguyên mẫu của hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều đại
Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính hoàn cảnh hội Việt Nam trước mắt người đang
sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử để dĩ cổ vi kim” (lấy
xưa nói nay) một dụng ý khá ràng của c giả. Bất đắc chí, bất mãn, phản kháng
chế độ hội thực dân địa đang tiếp tục nuôi dưỡng quy luật đau thương : thân phận
không phải hệ quả của bản chất tinh thần dân tộc sâu xa của nhà văn Nguyễn
Tuân yêu nước thâm trầm chủ yếu chỗ đó. Một biểu hiện nữa của tinh thần dân
tộc trong Chữ người tử tù là thái độ luyến tiếc của một nhã thú văn hoá cổ truyền đang
lụi tàn dần trong hội thời Tây : thưởng ngoạn thư pháp. Do chữ Nho thứ văn tự
tượng hình, rất nhiều chữ giống như tranh hiện đại chủ nghĩa (siêu thực, trừu ợng),
nét bút lông lại rất mềm mại dễ dàng bộc lộ tính nhân cách…; do đó viết chữ
Nho không đơn thuần là thao tác kí hiệu hóa ngôn ngữ, mà nhiều khi trở nên một hành
động nghệ thuật đích thực : sáng tạo thư pháp (thư pháp khi đứng riêng một mình,
có khi phối hợp cùng nghệ thuật tạo hình : xuất hiện trên tranh thuỷ mặc…).
Người Việt Nam xưa sử dụng chữ Nho, hòa đồng cùng truyền thống văn hóa phương
Đông đã say thư pháp, cũng sản sinh được không ít những nét chữ vừa “Như
Phượng múa rồng bay”, vừa phát tiết nhân phẩm. Một trong các danh Bắc Về
thư pháp chính Cao Chu Thuần (1808 1855) với n chương “vô tiền Hán”
nhân cách thì “Một đời chỉ cúi trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”)… Xây
dựng một ngũ quan biết nung nấu sở nguyện : “Có được chữ ông Huấn treo,
một vật báu trên đời”, lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước thiên
lương thư pháp kiệt xuất của người tử : “Người viết xong một chữ, viên quản
ngục lại vội khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa
óng”…; Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc n ca đối với một mảng văn hóa truyền
thống đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá cổ truyền
đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa oán hờn thế cục
“Tây Tàu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt. Về nguyên nhân tinh thần gắn
thiết tha của Nguyễn Tuân đối với văn hóa dân tộc ngàn xưa, thể tìm thấy
nguồn gốc gia đình, cũng như ở ngay đời thường của Nguyễn một con người tài hoa
am tường đã sống chan hoà cùng folklore Việt (nghệ thuật sân khấu dân gian :
chèo, tuồng ; nghệ thuật tạo hình n gian ; dân ca : đào nương ca, trong đó t ca
trù…).
Cuối cùng, tính dân tộc trong truyện ngắn Chữ người tử còn thể hiện sự trân
trọng, Nguyễn Tuân đã học thuộc tiếng mẹ đẻ, trong đó lớp từ cđã tạo hiệu quả
lợi hại cho việc tái hiện một cách rất cụ thể lịch sử, rất hội hođiêu khắc điện
ảnh… những cảnh và người gần trăm năm trước.
Tất nhiên, sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật không phải chỉ ở số lượng từ phong phú
còn khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ, ngữ điệu của câu…- Nhà văn
Nguyễn Tuân đầy đủ những điều kiện đó. Một dụ nhỏ: tác giả Chữ người tử
đã dùng từ “ngấc”, những sách phụ lục văn 12 đã in sai : “Viên quan coi ngục ngóc
đầu” ; “ngấc” và “ngóc” phần gần gũi về ngữ âm nhưng ngữ nghĩa khá xa nhau,
về phương diện gây ngữ cảm thì càng rất khác nhau : ngóc đầuđứng thẳng dậy, gây
ngữ cảm đáng sợ (rắn ngóc đầu, bọn tội phạm ngóc đầu…), còn ngấc đầu nhức đầu
nghiêng nghiêng, gây ngữ cảm tội nghiệp (đối với người mệt mỏi, ốm đau…). Các
điều kiện thiết yếu đối với một con người cầm bút sáng tác văn chương ấy, một phần
do thiên bẩm Nguyễn có ; phần khác do công phu học hỏi nghiêm túc xuất phát từ
cõi lòng gắn bó với cộng đồng. Theo nhà văn Vũ Bằng : “… không cứ thư gửi cho vợ,
bất cứ cái viết ra giấy,in ra chữ, Nguyễn Tuân đều thận trọng, ít ra cũng thận
trọng hơn so với những nhà văn, nthơ khác (…) Thực tôi chưa thấy bản thảo nào
sạch sẽ và viết chữ kiểu cách, nắn nót như bản thảo của Nguyễn Tuân. Trong khi đa số
anh em khác viết trên những tờ giấy nham nhở, cắt xén bô, tờ to tnhỏ khác nhau,
bao giờ Tuân ng viết lên những tờ giấy trắng thượng hạng, cắt xén rất đều, kìm kẹp
cẩn thận không bao giờ quên đóng trên đầu một i dấu xanh in một cánh buồm
“Gió đã lên”, thường đến cuối bài lại một chữ bay bướm đóng một cái dấu
son đỏ trên màu cánh sen. Sau này cũng nhiều người cũng bắt chước lối chơi lập dị
đó để y giờ cái chuyện đó cũng hoá ra thường, nhưng nếu trí nhớ của tôi không lầm
thì Tuân nhà văn trẻ đầu tiên bắt chước các cụ in nhãn hiệu đóng dấu vào bản
thảo sách vở. Đến cái chữ viết của anh cũng cầu kì. Anh viết như nhà nho viết câu
đối chữ thả, uốn éo, lên xuống tỏ thái độ tôn kính của Nguyễn Tuân đối với tiếng
dân tộc ; đồng thời… than ôi! cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân muốn nói gót, hoặc ng
muốn… xin chữ ông Huấn Cao!
Không phải ngẫu nhiên, chính các tố chất tài, tình đức của nhà văn đặc biệt
Việt Nam” Nguyễn Tuân đã hiệp đồng cùng nhau tạo Chữ người tử một trong
những truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
Cảnh cho chữ - Mẫu 7
Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp, ông khao khát xê dịch để biết được
những cái mới, những cái hay của cuộc đời. Đặc biệt, ông quan niệm rằng mỗi một
con người đều những người nghệ tài hoa trong công việc của mình. Bằng ngòi
bút tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã vẽ nên một cảnh "xưa nay chưa từng có" trong
truyện ngắn Chữ người tử tù. Cảnh cho chữ của nhân vật Huấn Cao với người quản
ngục hiện lên một cảnh đắt giá, có giá trị nghệ thuật đặc sắc đối với nền văn học, nó
cũng giống như cái cảnh đắt trời cho mà nhân vật Phùng chứng kiến trong truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Cái mà bạn đọc ấn tượng đậm
nét với cảnh cho chữ chính hoàn cảnh con người hiện lên trong không gian chật
hẹp, tù túng của chốn lao tù.
Chữ người tử tên ban đầu ng chữ cuối cùng, in trên tạp chí Tao đàn năm
1939. Sau đó được in trong tập Vang bóng một thời. Tập truyện này gồm 11 truyện, là
kết tinh của tài năng uyên bác cũng như ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân. Truyện
ngắn Chữ người tử kể về một người tài hoa, viết chữ rất đẹp tên Huấn Cao.
Ông đã đứng lên thay mặt người dân để chống lại chế độ phong kiến thối nát lúc bấy
giờ nhưng lại bcho một tên cầm đầu đám phản nghịch. thế Huấn Cao bị đưa
vào ngục chờ ngày tử hình. Trong mấy ngày trong ngục, hình ảnh nhân vật Huấn
Cao hiện lên một con người tài năng, trí tuệ hơn người, khí thế bất khuất
thiên lương trong sáng. Cả ba điều này đều hội tụ nét trong cảnh cho chữ cuối
truyện.
Hoàn cảnh cho chữ trong truyện hiện lên thật éo le, khác thường. Thời xưa, người ta
coi việc chơi chữ một thú vui tao nhã, để thưởng thức ngh thuật. Con người
thường chơi chữ vào những đêm trăng sáng, khi phong cảnh nên thơ, hữu tình, họ làm
vài chén rượu dưới ánh trăng cùng nhau ngâm thơ, viết chữ. Ấy thế mà Huấn Cao -
một người tài viết chữ đẹp nổi tiếng cả một vùng tỉnh Sơn - lại viết chữ trong ngục
với cái "buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột,
phân gián". Chữ ông Huấn "vuông lắm, đẹp lắm", cả đời "cũng mới viết bộ tứ bình
và một bức trung đường cho ba người bạn của ta thôi. Ta nhất sinh không ng bạc
hay quyền quý ép mình phải viết chữ bao giờ" . ràng, một người vừa tài,
vừa trân trọng cái đẹp như Huấn Cao sẽ không bao giờ cho đi những nét chữ "tung
hoành cả đời người" trong một không gian chật hẹp, túng bẩn thỉu đến như vậy.
Cho nên Nguyễn Tuân mới gọi đây là cảnh "xưa nay chưa từng có".
Hình ảnh người tử được Nguyễn Tuân miêu tả thật hiên ngang: "một người tù, cổ
đeo gông, chân ớng xiềng, đang đậm nét chữ trên tấm vải lụa trắng tinh". Biện
pháp đối lập làm hiện lên trước mắt người đọc một cảnh tượng thật khác thường, trong
không gian u tối, ẩm mốc nhà lao, một con người tài hoa đang viết những nét chữ
trên tấm lụa trắng tinh, trái ngược hẳn với sự u uất nơi đây. Còn người quản ngục thì
"khúm núm bưng chậu mực". Ta lại thấy được sự đối lập một lần nữa. Người quản
ngục, một người quyền thế, đang nắm trong tay sinh mạng của người tử thì lại
khép nép, i đầu trước cái đẹp, còn người tử sắp phải chết tlại ung dung, tự tại
hơn bất cứ lúc nào. Nhà văn Nguyễn Tuân đã rất tài năng khi miêu tcảnh tượng cho
chữ hết sức nghệ thuật này. Cái đẹp đã khiến cho con người ta quên mình, khiến cho
hai nhân vật tượng trưng cho cái thiện và cái ác có thể cúi đầu, cùng nhau thưởng thức
nghệ thuật quên đi thực tại. Người quản ngục không còn một tên lính cai quản
cứng nhắc, không còn hiện thân cho cái ác nữa như một con người bình dị, biết
trân quý cái đẹp. Tài năng viết chữ của Huấn Cao quả thực đã đạt đến độ phi thường,
khiến cho người ta chấp nhận cúi đầu để xin chữ.
Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn khuyên người quản ngục: "Ở đây lẫn lộn, ta khuyên
thầy Quản nên thay chốn đi. Chỗ này không phải nơi để treo một bức lụa với
những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người".
Câu nói của Huấn Cao cho thấy ông không chỉ một người thiên lương trong
sáng, nhân cách cao cả ông còn biết trân trọng thiên ơng của người khác, muốn
người đó bảo toàn được lương tâm của mình. Đáp lại lời khuyên của Huấn Cao, người
quản ngục cũng tỏ một thái độ thật thành kính: "Kẻ muội này xin bái lĩnh", ông
cảm động, vái người tử trong khi những giọt nước mắt đang lăn dài trên má. Phải
chăng đó sự tiếc nuối cho một con người tài hoa, uyên bác sắp phải chịu một cái
chết oan? Hay giọt nước mắt thức tỉnh lương tâm, rằng sau này ông sẽ theo lời
Huấn Cao, tìm đến nơi thể giữ được cáim lương thiện của mình? hiểu theo
nghĩa nào thì cảnh cho chữ cũng hiện lên thật đẹp giữa người thực sự biết quý trọng
cái đẹp và người cho đi nét đẹp của cuộc đời.
Cảnh cho chữ vừa cho thấy khí thế ung dung, tự tại của người tử cổ đeo gông, chân
vướng xiềng, vừa thể hiện những nét chữ tài hoa cùng thiên lương trong sáng của
Huấn Cao. Song song cùng với đó cũng nét đẹp của người quản ngục. đại
diện cho cái ác, đang phục vụ làm việc cho cái ác nhưng người quản ngục vẫn giữ
được cái tâm lương thiện say cái đẹp. Khung cảnh chốn ngục túng, chật
hẹp bẩn thỉu đến đâu thì ta lại càng thấy hai con người họ hiện lên thật đẹp đẽ, phi
thường.
Chữ người tử quả thật một tác phẩm khắc họa cái nét rất riêng trong phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cảnh đẹp hiếm khi cho chữ cũng chính cái nhìn
của người nghệ này đối với cuộc đời. Rằng trong hoàn cảnh nào thì con người
ta vẫn có những nét đẹp và phẩm chất đáng ngợi ca, đáng học hỏi.
Cảnh cho chữ - Mẫu 8
Chữ người tử truyện ngắn đặc sắc, là đỉnh cao trong nghệ thuật khắc hoạ cái đẹp
của Nguyễn Tuân. trong hoàn cảnh m tối nhất của cuộc đời, cảnh ngục
chết chóc thì cũng chẳng thể nào vùi lấp được vẻ đẹp tuyệt mỹ trong tâm hồn con
người. Cảnh cho chữ chi tiết truyện xuất sắc góp phần to lớn tạo nên giá trị nhân
văn cho toàn bộ tác phẩm. Qua đó, nhà văn khẳng định một chân lý bất diệt: Cái đẹp
luôn trường tồn, thắng thế trước nghịch cảnh éo le của cuộc đời.
Nguyễn Tuân - nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp với phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên
bác ông đã làm lay động trái tim người đọc bằng những sáng tác của mình. Nhà văn
luôn đặt con người dưới góc nhìn nghệ sĩ, nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hoá,
thẩm mỹ. Chữ người tnằm trong tập truyện Vang bóng một thời, đây một sáng
tác được đánh giá hay nhất, tuyệt vời nhất giá trị nhân văn u sắc nhất của cả
tập truyện. Tác phẩm câu chuyện kể về những ngày cuối đời của người anh hùng
Huấn Cao, trong cảnh ngục tăm tối cái đẹp vẫn hiện hữu toả sáng hơn bao giờ
hết. thể nói tác phẩm thành công nhờ tài năng sáng tạo tình huống truyện độc
đáo của Nguyễn Tuân, thế những để đẩy cảm xúc truyện lên cao trào, đạt đến độ hoàn
mỹ của một thiên truyện thì phải nhắc đến cảnh cho chữ “có một không hai” đầy bất
ngờ, gây sửng sốt cho người đọc.
Thuở xưa, chơi chữ đã trở thành lối văn hoá tao nhã, thanh cao của người Việt. Những
câu đối, bài thơ với nét chữ bay bổng được treo trong nhà như một thú vui giúp cho
tâm hồn con người thư thái, bình yên. Thưởng thức cái đẹp thanh cao hay những
thầy nho cho chữ trước nay đều trong những khung cảnh thơ mộng, nhẹ nhàng
thế cái đẹp mới được thỏa sức bộc lộ hết những khía cạnh tươi mới của mình. Người
ngắm nhâm nhi một tách trà nóng cùng nhau trò chuyện ngâm thơ, đối chữ. Ấy vậy
mà trong Chữ người tử tù Nguyễn Tuân đã tạo ra một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt
ra khỏi những chuẩn mực xưa cũ, tác giả gọi đó “một cảnh ợng xưa nay chưa
từng có”. Chính chi tiết truyện mới mẻ này đã làm nên sức lôi cuốn, hấp dẫn cho
người đọc.
Vào một đêm khuya vắng lặng tại trại giam tỉnh Sơn chỉ còn tiếng vọng canh,
đây là một khoảng thời gian buồn tẻ nhất trong một ngày dài, tất cả vạn vật dường như
đã chìm sâu vào im lặng nhường chcho ng tối thống trị, chỉ n tiếng đều
đều trong canh dài, không một bóng người lai vãng. Khung cảnh nhà giam hiện lên
túng, chật hẹp, mệt mỏi với từng tiếng thở dài oán thán “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,
tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả miêu tả thật sinh
động, chân thực hoàn cảnh éo le của người anh hùng Huấn Cao, một người nghệ tài
hoa, văn võ uyên bác giờ đây phải giam mình trong nhà tù tăm tối, đấy là nơi chôn vùi
cuộc đời chẳng phải nơi con người thsinh sống. Thế nhưng chính tại nơi tầm
thường, hạ đẳng ấy lại xảy ra một sự việc thật trọng đại, làm rung động trái tim của
những con người tài hoa chân chính.
Một không gian tối m quanh năm không thấy ánh mặt trời, ngày hay đêm đều
nhuốm màu bóng tối tgiờ đây ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn
nguyên vẹn lần hồ”. Buồng giam ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng
đỏ rực của một đuốc tẩm dầu”. Dường như họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc
dâng trào để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ. Sự đối lập giữa thế vị
thế của người cho chữ - Huấn Cao người nhận chữ - viên quản ngục đã được
Nguyễn Tuân khắc hoạ thật sinh động, “một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng,
đang đậm tô nét chữ trên tấm vải lụa trắng tinh, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ
lại “run run bưng chậu mực”. lẽ đứng trước cái đẹp trái tim con người bỗng rung
động, như thứ đó bóp nghẹt lại, không ai nói với nhau lời nào nhưng đủ để cảm
nhận niềm hạnh phúc đang tuôn trào trong lồng ngực. Từ một viên quản ngục “quyền
cao chức trọng” giờ đây phải cúi đầu trước vẻ đẹp tài hoa, trước người tử tấm
lòng thiên ơng. tiếng “thở dài, buồn bã” của Huấn Cao khi những nét chữ cuối
cùng đã viết xong, ông nói giọng đĩnh đạc: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên
thay chốn đi.” Tấm lòng nhân hậu của Huấn Cao đã thức tỉnh, cứu rỗi tâm hồn của
những người lương thiện nhưng lạc vào con đường tha hoá, rối ren. Viên quản ngục
cảm động, vái người tử một vái “Kẻ muội này xin bái lĩnh” những giọt nước
mắt lăn dài trên má như lời kính trọng sâu sắc dành cho vị anh hùng Huấn Cao.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp
thiên lương, nó không đơn độc mà mang một sức mạnh vô hình “nhân đạo hoá” cái ác,
cái xấu xa đi vào con đường chân chính, tươi đẹp. Đoạn văn thể hiện nét phong
cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân, ông luôn đặt con người trong vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ. Ông kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực, sức ởng ợng ng độc
đáo. Nguyễn Tuân vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối chọi gay gắt,
một bên là khung cảnh tăm tối ngục tù, một bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn
mỹ.
Cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử một sáng tạo nghệ thuật mới mcủa
Nguyễn Tuân. Cảnh lạ lùng, hiếm có, khiến ta sửng sốt bội phần thế nhưng nhờ chi
tiết truyện này hình ảnh cái đẹp hiện lên thật diệu kỳ, thể hiện tấm lòng trân trọng,
nâng niu của tác giả trước nét thanh cao của nghệ thuật tuyệt mỹ.
Cảnh cho chữ - Mẫu 9
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho hiếu học, Nguyễn Tuân đã dành cả cuộc
đời mình để săn tìm cái đẹp hướng đến chân thiện mỹ. Không thể phủ định được
những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ
người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời” truyện ngắn đặc sắc đánh dấu tài
năng nghệ thuật của Huấn Cao trước cách mạng tháng m được coi một tác
phẩm gần như đạt đến độ hoàn mỹ. cuối tác phẩm, cảnh cho chữ cảnh được tác
giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao, qua chi tiết đó tác
giả muốn khẳng định sự chiến thắng của thiên ơng. thể nói đây cảnh ợng đắt
giá nhất xưa nay chưa từng có.
Chúng ta thể thấy, từ xưa tới nay chơi chữ thú vui tao nhã, thanh cao của những
người học thức, các tử,... Các câu đối, châm ngôn cuộc sống, bài thơ nổi tiếng
được những người nghệ thư pháp uyển chuyển viết lên giấy giúp cho tâm hồn của
con người được thư thái. Chơi chữ chính nói lên cái đẹp, tài năng trí tuệ của con
người. Chúng ta sẽ thường bắt gặp cảnh cho chữ được diễn ra ở những nơi trang trọng,
có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc, rồi từ đó có những nét chữ uyển
chuyển trong đó cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng với sự sáng tạo của Nguyễn
Tuân thì cảnh cho chữ một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn
mực hội xưa cho đến y giờ chúng ta vẫn gọi đó “cảnh tượng xưa nay
chưa từng có”. Nhưng chính chi tiết lạ lùng y đã làm cho giá trị nội dung giá trị
nghệ thuật của tác phẩm được nâng lên, từ đó tạo nên sức lôi cuốnhấp dẫn cho bạn
đọc.
Không gian thời gian trong cảnh cho chữ được tác giả miêu tả rất sinh động và
chân thực. Vào một đêm khuya vắng lặng, khi bóng tối đã bao trùm thống trị nơi
đây. Cùng với tiếng vọng cạnh, nhà đã hiện lên một cách chật hẹp, túng,
ẩm thấp, mệt mỏi những tiếng thở dài bất lực trước hội đương thời. Một nghệ
tài hoa, uyên bác giđây lại bị giam trong nhà tăm tối, thế nhưng tại chính nơi hạ
đẳng, tăm tối đó lại xảy ra một cảnh tượng làm rung động trái tim của những con
người tài hoa chân chính.
Một không gian tăm tối không thể thấy ánh mặt trời ngày hay đêm, trong khung
cảnh như vậy có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
Ngay lúc này buồng gian ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực
của một đuốc tẩm dầu”, họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo
nên một tác phẩm hoàn mỹ. Sự đối lập về vthế giữa Huấn Cao người cho chữ
người nhận chữ - viên quản ngục, tác giả đã khắc họa sắc nét, sinh động từng hành
động, cử chỉ và thái độ của 2 nhân vật này. Chỉ qua một chi tiết nhỏ này thôi tác giả đã
bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi tăm tối.
lẽ đứng trước cái đẹp nên những cảnh tượng xung quanh đang diễn ra bỗng
nhiên như chậm lại, khiến cho trái tim con người rung động, nhưmột thứ gì đó bóp
nghẹt, không ai nói với nhau câu nào nhưng vẫn đủ để cảm nhận được niềm hạnh
phúc, vui sướng đang tuôn trào trong lồng ngực của mỗi con người yêu cái đẹp nơi tù
túng này. Ta thể thấy lạ, một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” nhưng lại
cúi đầu trước một người tù, thực chất viên quản ngục đang cúi đầu trước cái vẻ đẹp tài
hoa người tử tấm lòng thiên lương trong sáng. Khi nét chữ cuối cùng đã viết
xong Huấn Cao thở dài buồn bã, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề đổi chỗ
để thể giữ cho thiên lương trong sáng, thức tỉnh cứu rỗi tâm hồn viên quản
ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi vấy bẩn của hội. Trước những lời khuyên
đó, viên quản ngục đã xúc động, cảm kích kính trọng Huấn Cao, những giọt nước
mắt lăn dài trên ông chính những giọt nước mắt thể hiện sự tiếc thương cho số
phận người anh hùng đầy khí phách Huấn Cao.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, tác giả Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của
cái đẹp thiên lương, bất cứ đâu, cho nơi tối tăm nhất thì cái đẹp vẫn tồn tại,
thậm chí tồn tại không đơn độc. Nó như một sức mạnh hình chỉ đường dẫn lối
cho những người tốt tấm lòng nhân hậu đang bị lạc nơi bóng tối bao trùm tội ác
hoành hành trở về đúng con đường chân chính, tươi đẹp. Người đọc thể cảm nhận
được rằng tác giả người giàu kiến thức, sức tưởng tượng ng phong phú
độc đáo. Chính vậy tác giả thể vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng
tối đối lập nhau gay gắt, một bên màu của khung cảnh tăm tối nơi ngục tù, một bên
là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.
Kết tinh bởi tài năng, sáng tạo tưởng độc đáo Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho
chữ thành cảnh tượng chưa nay chưa từng . Tác phẩm đã thể hiện sự tiếc nuối của
chính tác giả người đọc trước số phận của những con người yêu cái đẹp, luôn
hướng đến cái chân thiện mỹ. Xen vào đó, tác giả đã khéo léo bày tỏ tấm lòng của
mình một cách kín đáo, tiếc thương trước s phận người anh hùng nhân hậu, khí
phách và có nhân cách cao thượng.
Cảnh cho chữ - Mẫu 10
Khi nhắc đến lối văn chương hướng đến cái đẹp chân chính, người ta nghĩ ngay đến
người nghệ tài hoa Nguyễn Tuân, dành cả cuộc đời để tìm kiếm cái đẹp. Trong các
sáng tác của Nguyễn Tuân nói chung tác phẩm “Chữ người tử tù” nói riêng, tác giả
đã miêu tả nhân vật của mình như một người nghệ đầy tài năng.Bên cạnh đó, nhà
văn còn khéo léo sáng tạo lên một cảnh ợng cùng độc đáo, cảnh tượng xưa nay
chưa từng đó “cảnh cho chữ” đây chi tiết được đánh giá xuất sắc nhất của
thiên truyện.
Tác phẩm lúc đầu có tên “Dòng chữ cuối cùng” sau đó được đổi thành “Chữ người
tử tù”. Nhà phê bình văn học Ngọc Phan đã đánh giá “đây một văn phẩm đạt
gần tới sự hoàn mỹ”. Nhân vật chính trong truyện ngắn này chính Huấn Cao một
con người văn võ song toàn, một người anh hùng có tấm lòng nhân hậu và thiên lương
trong sáng. Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ nhanh và đẹp, những người biết
chơi chữ thời bấy giờ ai cũng mong muốn có được chữ của Huấn Cao để treo trong
nhà. Nghệ thuật thư pháp tài hoa uyên bác chính 2 phẩm chất cao thượng tồn tại
trong con người Huấn Cao. Văn hóa, quan niệm về nhân thế được ẩn chứa trong từng
nét chữ của ông, người ta treo chữ của ông trong nhà không chỉ để ngắm thưởng
thức cái đẹp còn để suy ngẫm về những tưởng sâu sắc. Nhưng không phải ai
cũng thể được chHuấn Cao, ông chỉ cho những người thân tri kỉ, chính vậy
có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà người ta coi đó là báu vật. Huấn Cao không
chỉ nổi tiếng người viết chữ đẹp, tài về nghệ thuật ông còn người thiên
lương. Ông không phải người tiền bạc, quyền uy ép mình làm những điều
trái với lương tâm, trái với luân thường đạo lý.
Ngay cả khi bước vào lao, phải vác trên vai cái gông lớn bằng glim, ông không
những không run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải vẫn lạnh lùng “thúc
mạnh đầu thang gỗ gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Khi bị giam trong
nhà lao, ngày ngày viên quản ngục sai người đưa rượu thịt vào, ông thản nhiên đón
nhận coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, ông
không muốn viên quản ngục bước chân vào phòng giam của mình thêm một lần nào
nữa.
Một người ngang tàn, tài năng nghệ thuật, vị anh hùng khí phách rất ít khi cho ai
chữ của mình. Thế nhưng khi hiểu ra được tấm lòng của viên quản ngục, biết ông bất
chấp cả tính mạng của mình vì cái đẹp, vì thú vui cao quý, Huấn Cao đã có sự thay đổi
định kiến của mình về viên quản ngục, ân hận về việc thiếu chút nữa đã phụ mất một
tấm lòng trong thiên hạ quyết định tặng chữ cho viên quản ngục. Chính lúc này,
trong không gian của nhà chật chội, tăm tối, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ rực của
đuốc, tỏa sáng cả buồng giam chật hẹp m thấp hôi hám đầy mùi phân gián, phân
chuột hôi hám thì thiên lương của ông được tỏa sáng, cũng ngay chính lúc này cái đẹp
chính thức lên ngôi. Hằng ngày viên quản ngục khét tiếng tàn bạo giờ lại khúm núm,
cúi đầu. Còn kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” bị giam hãm về thể xác nhưng
nhân cách ông lại tự do khác hẳn với kẻ tự do về thể xác nhưng lại bị trói buộc về tâm
hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác thống trị.
Từng nét chữ vừa đẹp vừa uyển chuyển của Huấn Cao dần xuất hiện trên tấm lụa
trắng. Chính nơi đầy m tối và tội ác bao trùm này đã cái đẹp đã nảy sinh và lên ngôi.
Ngay sau khi cho chữ xong Huấn Cao còn cho viên quản ngục lời khuyên nên đổi
nghề, đổi chỗ để thể giữ cho thiên lương trong sáng bền vững. Chính cái thiên
lương cao đẹp của Huấn Cao đã m sáng bừng cả thiên ơng ẩn dấu sâu bên trong
con người viên quản ngục. Hành động của viên quản ngục “vái” Huấn Cao nó thể hiện
sự kính trọng, biết ơn những giọt nước mắt của viên quản ngục xót thương cho số
phận người anh hùng Huấn Cao. Cảnh cho chữ không diễn ra nơi trăng hoa tuyết
nguyệt lại diễn ra ngay trong ngục tăm tối nơi cái ác bóng tối bao trùm,
nơi cái ác ngự trị cũng chính nơi cái đẹp lại “khai sinh”. Nguyễn Tuân đã y
dựng nhân vật Huấn Cao đại diện cho vẻ đẹp hoàn mỹ, những tưởng đẹp đẽ của
ông sẽ mãi ở lại với đời và sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.
Qua tác phẩm, tác giả không chỉ muốn phê phán đúng thực trạng hội đương thời
còn thể hiện sự khác lạ của tình huống truyện. Hai con người hoàn toàn đối lập
nhau nhưng số phận lại đưa hai con người y đến với nhau trở thành tri kỉ. Một
người viên quản ngục công cụ trấn áp kẻ tội phục vụ triều đình, còn Huấn Cao
lại là người chống đối lại triều đình. Để thể đưa tác phẩm đi đến thành công tác giả
đã kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả thực và bút
pháp lãng mạn. Không gian m thấp nơi buồng giam, ánh sáng ngọn đuốc như ánh
sáng của thiên lương, của tài năng, kphách, bóng tối của màn đêm bao trùm của
ngục chính hiện thân của cái ác đối lập với ánh sáng của ngọn đuốc đại diện cho
ánh sáng tài năng đã được tác giả miêu tả một cách sinh động và chân thực.
thể nói thành công trong nghệ thuật nhờ tác giả đã dồn hết tài năng tâm
huyết, ông luôn hướng tới cái đẹp, cái chân - thiện mỹ, cái phi thường, tưởng, cái
đẹp phải tuyệt mỹ, đã tài phải siêu phàm. Chính những điều này đã làm nên giá trị
đặc sắc cho tác phẩm Chữ người tử tù” để rồi đến tận bây giờ người ta vẫn gọi cảnh
cho chữ trong tác phẩm là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
Làm nên giá trị cho tác phẩm, kết tinh giá trị tư tưởng của văn bản trong Chữ người tử
không khác chính cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây cảnh tượng
xưa nay chưa từng có. Nó là kết tinh nghệ thuật, hoàn thiện vẻ đẹp phẩm chất nhân vật
và là kết tinh những giá trị tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Tuân.
Huấn Cao vốn là một người Nho sĩ, vì bất mãn với thực tại xã hội đương thời, đã đứng
lên khởi nghĩa, nhưng cuối cùng thất bại ông bị bắt giam và chờ ngày hành quyết. Ông
một người tài hoa, tài viết chữ đẹp ai cũng ao ước gặp gỡ. Ông gặp quản
ngục tại nơi ông bị giam giữ. Không gian gặp gỡ của họ chốn lao, nơi chỉ
lừa lọc chém giết lẫn nhau. Đây đồng thời cũng ngày sống cuối cùng của người
tử Huấn Cao. Vthế của c nhân vật sthay đổi khác nhau, trên bình diện
hội: Huấn Cao kẻ tử tù, mang trong mình mong muốn lật đổ thay đổi trật tự
hội, còn quản ngục người đứng đầu trại giam tỉnh n, người đại diện cho trật tự
xã hội đương thời. Trên bình diện xã hội, họ là những người đối nghịch với nhau.
Còn trên bình diện nghệ thuật: Huấn Cao một người nghệ với tài năng viết chữ
đẹp, được biết bao người coi trọng, mến mộ; còn viên quản ngục kẻ liên tài,
người trân trọng cái đẹp và cái tài sáng tạo ra cái đẹp. Ở đây họ lại là những người bạn
tri âm, tri kỉ. n trên bình diện nhân cách: Huấn Cao người khí phách kiên
cường, có thiên lương trong sáng, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ; quản ngục
là người biết biết kính mến khí phách và chính tấm lòng trong thiên hệ. Trong quan
hệ này họ cũng những người tri âm. Như vậy mối quan hệ giữa họ cùng phức
tạp, với những vị thế khác nhau khiến cho mối quan hệ trở nên chồng chéo.
Trong những ngày nhà lao tỉnh Sơn, viên quản ngục thái độ biệt đãi đặc biệt với
ông Huấn Cao: cặp mắt hiền từ khi nhận nhân, đồ ăn thức uống trong những ngày
ông Huấn trong ngục, không chỉ vậy quản ngục còn đích thân xuống nhà lao gặp Huấn
Cao với sự lễ độ, khúm núm, dù bị Huấn Cao đuổi ra ngoài vẫn khiêm nhường, lặng lẽ
không hề nổi cáu. Bởi quản ngục mong muốn được nét chữ ông Huấn để treo
trong nhà. Ngày nhận tin Huấn Cao sẽ bị giải đi, quản ngục lặng người đi bởi ông biết
thể cả đời skhông bao giờ được chữ ông Huấn Cao. chính trong hoàn cảnh
đó, thầy thơ lại đã đánh liều xin với Huấn Cao, được Huấn Cao nhận lời cho chữ.
Đây chính là bối cảnh dẫn đến cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có.
Không gian cho chữ cùng đặc biệt, người ta chỉ xin chữ cho chữ những nơi
sạch sẽ, yên tĩnh, trang trọng còn trong tác phẩm cảnh cho chữ lại diễn ra nhà tối
tăm, bẩn thỉu, đó nơi chỉ tồn tại cái xấu, cái ác, lừa lọc giả dối với nhau. Thời
gian cho chữ cũng một điểm đặc biệt khac: Huấn Cao cho chữ khi chỉ đến sáng
mai sẽ phải đi chịu án tử hình. Ông đã dành những giây phút cuối cùng của cuộc đời
để vừa hoàn thành nguyện ước cho quản ngục, vừa để lại những tinh túy, đẹp đẽ
nhất cho cuộc đời. Trong không gian tăm tối ấy ánh lên là tấm vải lụa trắng bạch trắng
tinh còn nguyên vẹn lần hồ, người cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm nét
chữ. Mỗi chữ quản ngục viết ra “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng
tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” còn thầy thơ lại thì “run run bưng
chậu mực”.
Trước cái đẹp, con người ta dường như không quan tâm tới bất cứ chuyển động nào từ
thế giới bên ngoài, họ chỉ nhìn thấy Huấn Cao những nét chữ ông đậm , thành
kính và thiêng liêng trước khoảnh khắc cái đẹp được tạo tác. Ông Huấn Cao viết xong
phần lạc khoản, lặng lẽ thở dài đỡ viên quản ngục dậy. Ông thương cho quản ngục
phải nơi đen tối, làm nghề này thì khó thể giữ được thiên lương cho lành vững,
rồi cũng đến lem luốc cả đời lương thiện đi. Chính cái đẹp đó đã sức mạnh cải hóa
con người. Giữa người cho chữ nhận chữ sự chuyển đổi vị thế cho nhau, cho
thấy sự cảm hóa của i đẹp. Người cho chữ là người nghệ sáng tạo ra cái đẹp lại
vị thế của tử tù; vốn đối tượng cần được giáo dục, cảm hóa lại ban phát những lời
khuyên chí tình cho quản ngục. Người xin chvị thế quản ngục, cai quản tử tù, tiếp
nhận, bái lĩnh những lời khuyên của tử tù. Qua đó Nguyễn Tuân muốn truyền tải
thông điệp: niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, của cái thiện.
Cảnh cho chữ đã được Nguyễn Tuân vận dụng thủ pháp đối lập tương phản triệt để,
đem lại hiệu quả nghệ thuật cao. Không khí cổ xưa của một thời đã cách xa hàng trăm
năm đã được Nguyễn Tuân gợi lại qua ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật. Cảnh cho chữ
là một bức tranh giàu chất hội họa, đồng thời ông vận dụng linh hoạt kĩ thuật điện ảnh,
liên tục chuyển góc, chuyển cảnh, quay cận rồi quay xa giúp người đọc cái nhìn
trọn vẹn về nhân vật.
Cảnh cho chữ một cảnh đặc sắc, “xưa nay chưa từng có”, kết tinh giá trị nghệ thuật
tưởng của Nguyễn Tuân, làm nổi bật và hoàn chỉnh vẻ đẹp nhân cách của mỗi
nhân vật. Với cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã khẳng định, giữa chốn nhà lao ngục,
không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị mọi thứ chính người tử
với tài năng cốt cách làm chủ. Qua đó, ông cũng ngầm khẳng định sự chiến thắng
của cái đẹp, cái tài hoa và nhân cách cao đẹp với cái xấu xa, độc ác, tàn nhẫn.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Nguyễn Tuân tên tuổi lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, một nhà văn bậc
thầy, một con người nhân cách văn hóa mẫu mực suốt một đời “đi tìm i đẹp, cái
thật” trong văn chương. Nhà văn duy mỹ ấy ông say đắm, ngợi ca tôn thờ cái đẹp.
Điều đó được ông thể hiện tài tình qua cảnh cho chữ nơi cửa ngục của người tử
Huấn Cao viên quan coi ngục. Đây được coi đoạn văn quan trọng nhất hội tụ
được giá trị nghệ thuật ởng của c phẩm, đồng thời đậm thêm vẻ đẹp của
Huấn Cao và viên quản ngục với bút pháp tương phản và lí tưởng hóa cái đẹp.
Đoạn văn tả cảnh cho chữ nằm cuối tác phẩm, đỉnh cao của tình huống truyện éo
le. Người tử Huấn Cao bị bắt giam nơi cửa ngục tội làm phản chống lại triều
đình, viên quan coi ngục người nhiệm vụ trông coi phạm nhân nhưng ng
một người say cái đẹp, khao khát được chữ của ông Huấn. Biết được tấm lòng
biệt nhỡn liên tài tấm chân tình của viên quan coi ngục Huấn Cao đã đồng ý cho
chữ. Với nghệ thuật tương phản rệt cảnh cho chữ đã tháo cởi nút thắt của tình
huống truyện, để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm.
Trước tiên, sự tương phản về vị trí giữa người cho người nhận. Người cho chữ
đây là tên tử sắp phải chịu án chém đầu, tên tội phạm nguy hiểmtài bẻ khóa
vượt ngục” kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình . Kẻ xin chữ viên
quan coi ngục người đại diện cho bộ máy cai trị của triều đình ấy. Xét về địa vị xã hội
họ hai người đối nghịch nhau nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại tri âm tri kỉ
cùng ham mê, say đắm cái đẹp. Một người tài viết chữ đẹp, người kia lại suốt một
đời ngưỡng mộ tài năng ấy. Chính điều đó đã làm cho địa vị trí trong hội bị xóa
nhòa để làm nổi bật lên sự đồng điệu của hai tâm hồn. Xét về một bình diện khác
Huấn Cao một người bị gông cùm xiềng xích giam giữ về nhân thân nhưng tự
do về nhân cách còn người kia tự do về nhân thân nhưng nhân cách lại bị cầm tù.
Thứ hai, tương phản giữa thời gian không gian cho chữ. Thời gian đây đêm
cuối cùng của một đời người anh hùng trong khoảnh khắc đếm từng cánh bởi ngày
mai ông cùng các bạn của mình sẽ bị áp giải vào kinh lĩnh án hành hình. Không gian
cũng thật đối lập bởi thông thường cái đẹp phải được sáng tạo i trong sạch, nghệ
thuật thư pháp thú vui tao nhã thanh tao phải được thực hiện giữa thanh thiên bạch
nhật trong thư phòng sang trọng ngào ngạt của mùi hương trầm lan tỏa, ánh đèn
lung linh huyền ảo. Nhưng cảnh cho chữ trong tác phẩm trái lại hoàn toàn được
Nguyễn Tuân đánh giá “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có” bởi diễn ra một
nơi buồng giam của tử tù, nơi tăm tối “chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện,
đất bừa bãi phân chuột, phân gián” dưới “ánh sáng đỏ rực của một đuốc tẩm dầu”,
ánh sáng trắng của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn đã xóa tan đi bóng tối và mùi mực
thơm thanh khiết áp đảo mùi hôi bẩn thỉu đó sự thắng thế của cái đẹp với cái phàm
tục bẩn. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân tốn công sức, giấy mực để miêu
tả không gian nơi đây tất cả chi tiết đều có dụng ý nghệ thuật. Nhà văn tả cái bẩn thỉu
để làm nổi bật lên giá trị của cái đẹp. Thế không còn cái nhà ngục nào tồn tại với
mùi ẩm mốc, mạng nhện… chỉ còn cái mùi của thiên lương thuần khiết, thanh cao
hiện hữu.
Thứ ba, tương phản về vị thế và tâm tế của người cho và kẻ xin chữ. Người cho chữ là
“Một người cổ đeo gông chân vướng xiềng, đang dậm t chữ trên tấm lụa trắng
tinh căng trên mảnh ván” Huấn Cao lúc này không còn một tên tử sắp bị tử hình
một người nghệ tài ba sáng tạo ra cái đẹp, nhà phong kiến giam giữ được
thân hình ông nhưng không trói nổi nhân cách, tâm hồn ông. Đối lập với thế ung
dung, tự do tự tại của người tử sự “khúm núm” của viên quan coi ngục “run
run” của thầy thơ lại những con người đại diện cho quyền uy lại khép nép đến thế. Cái
“khúm núm” của quan coi ngục không phải cái cúi đầu hèn htrái lại rất đáng
trân trọng. Ông cúi đầu thành kính trước cái đẹp đó một điều nên làm trong đời.
Vị thế tâm thế bị đảo ngược hoàn toàn. Người quyền lại không uy, người tử
lại giữ trong tay quyền sát quyền sinh, người đáng lẽ phải giáo dục, giáo hóa tội
phạm thì nay lại được tội phạm giáo dục lại. Đây không còn một cảnh cho chữ bình
thường cảnh giáo hóa thiêng liêng về nhân cách làm người của người cho
người nhận chữ thông qua đoạn cuối khi Huấn Cao cho viên quan coi ngục lời
khuyên giá. Bởi theo ông “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững rồi cũng
đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản với bút pháp tả thực lãng mạn
đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết,
tỉ mỉ gây ấn tượng sâu sắc. Giọng văn chậm rãi, từng câu từng chữ như thước phim
quay chậm cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có” làm nổi bật lên nhân cách của con
người hiện thân cho cái đẹp.
Cảnh cho chữ - Mẫu 3
Một trong những đặc điểm nổi bật của bút pháp lãng mạn đậm những cái vĩ,
phi thường bằng cách tạo ra những tương phản, đối lập. Cảnh Huấn Cao cho chữ quản
ngục trong tác phẩm Chữ người tử của Nguyễn Tuân chính một cảnh tiêu biểu
của nghệ thuật lãng mạn. Đây sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tổỉ, của cái
đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái
độ cam chịu, lệ. Chính thế bản thân tác giả cũng đã c nhận đó là: "Cảnh
tượng xưa nay chưa từng cỏ".
Muốn hiểu được giá trị của đoạn văn tả cảnh cho chữ trước hết phải thấy được bố cục
của câu chuyện. Truyện tự đã chia làm hai phần: phần đầu chủ yếu giới thiệu về
các nhân vật tham gia vào câu chuyện - thể xem phần dẫn chuyện. Trên sở
giới thiệu lai lịch, tính cách nhân vật, tác giả dẫn dắt người đọc vào phần chính của
truyện: cảnh cho chữ. Đây là cảnh quy tụ các nhân vật và chủ đề tác phẩm đồng thời là
kết tinh toàn bộ t lực ởng Nguyễn Tuân. Tác phẩm ba nhân vật chia làm
hai tuyến. Hai tuyến mối tương quan hết sức oái ăm. Tính chất xung đột, tương
phản khiến cho cuộc gặp gỡ của họ mang đầy kịch tính, hết sức éo le.
Trước hết, xét trên bình diện hội, họ hai kẻ đối địch, một người được coi kẻ
phản loạn cầm đầu một cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, một người quan chức
thuộc bộ máy cai trị cửa chính cái triều đình ấy. Nhưng xét trên bình diện nghệ thuật
thì họ là những kẻ tri âm. Ở một khía cạnh khác, đây còn sự đối mặt của hai loại tà,
hai kiểu tù nhân: một người tự do về nhân thân, nhưng bị cầm tù. về nhân cách. Người
kia tự do về nhận cách nhưng lại cầm về nhân thân. Ta thể coi đây cuộc gặp
gỡ giữa một kẻ tử tù (Huấn Cao) một người chung thân (quản ngục). Cuộc gặp
gỡ diễn ra trong một hoàn cảnh oái ăm: nhà tù. Chọn tình huống gặp gỡ này, Nguyễn
Tuân đặt quản ngục trước sự lựa chọn: hoặc làm tròn bổn phận một cai hoặc trọng
đạo tri kỷ.
Làm tròn bổn phận quản ngục đồng nghĩa với việc giẫm đạp lên tấc lòng tri kỷ. Làm
tròn đạo tri kỉ thì tất phải bỏ bổn phận nhà nước của một viên quan. Ngục quan lựa
chọn theo hướng nào thì ý nghĩa tưởng, câu chuyện sẽ nghiêng theo hướng ấy.
Theo hướng thứ nhất, chiến thắng sẽ thuộc về cái tầm thường, còn theo hướng thứ hai,
cái đẹp, cái thiện lương sẽ chiến thắng. Cho nên, xét về một mặt nào đó thì Chữ người
tử thể xem câu chuyện về số phận của cái đẹp cảnh cho chữ chính là cảnh
quyết định cho số phận đó.
Huấn Cao cho chữ là để đáp lại một tấm lòng. Chữ của Huấn Cao là tinh huyết và tâm
huyết của Huấn Cao. Huấn Cao cho chữ quản ngục đem lòng mình đạp lại kẻ tri
âm. Đó tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cứ theo cách Nguyễn Tuân miêu tả
nhân vật phần đầu và cách đặt nhân vật trong tình huống thường thấy chủ nghĩa
lãng mạn để đậm các nhân vật tưởng nghệ thuật thì cảnh cho chữ không thể
diễn ra đơn giản. Đó cũng điều cả đời viết văn của mình. Nguyễn Tuân không
bao giờ chấp nhận.
Nguyễn Tuân viết về Huấn Cao với những nét bút lãng mạn, tô đậm tài hoa, khí phách
thiên lương. Đặc biệt Nguyễn Tuân nhấn mạnh tính khảng khái khí khái của
Huấn Cao. Viết đẹp nhưng sinh thời Huấn Cao chỉ mới viết cho ba người bạn thân.
Muốn được chữ Huấn Cao không thể lấy vàng bạc ra mua, không thể lấy vàng bạc
ra mua, không thể dùng quyền uy ép. Muốn được chữ Huấn Cao trước hết phải
được ông kết nạp vào snhưng tri kỉ hiếm hoi của mình. Ngục quan bị Huấn Cao coi
kẻ tiểu nhân, lại m nghề thất đức. Huấn Cao không che giấu thái độ "khinh bạc
đến điều" đối với ngục quan. Cơ hội tiếp cận, trò chuyện đã khó nói gì đến tri kỉ. Giữa
họ là cả một vực sâu ngăn cách.
Quan hệ giữa quản ngục Huấn Cao cải thiện được hay không, lúc này hoàn toàn
phụ thuộc vào thái độ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao phát hiện ra "một tấm lòng trong
thiên hạ" có "thiên lương" trong trẻo nơi ngục quan thì quan hệ hoàn toàn thay đổi. Sự
khinh bỉ đã nhường chỗ cho sự trân trọng. Chính tấm lòng ngục quan đã làm cảm
động tấm lòng Huấn Cao. Thì ra từ trong sâu thẳm ngăn cách. Cái tâm đã làm cảm
động cái tài và khi cái tài và cái tâm có sự chuyển hóa thì cái đẹp ra đời.
Nguyễn Tuân là nhà n thiên về chủ nghĩa "duy mỹ". Nhưng trước sau Nguyễn Tuân
vẫn tin "thiên ơng" con người. Ông không chí hướng tới cái "mĩ" còn ớng
tới cái "chân", cái "thiện". Sự ra đời của cái đẹp chính là sự hòa hợp tuyệt diệu giữa tài
hoa và tâm thiện đạt đến độ chân như. Đó là tư tưởng Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân ngưỡng mộ vẻ đẹp của khí phách, vẻ đẹp của tài hoa, vẻ đẹp của thiên
lương. Ông đã dồn bút lực dựng lên sức sống của những vẻ đẹp ấy nên Huấn Cao
có ra đi mãi mãi thì tất cả vẫn vẹn nguyên, vẫn sống mãi.
Cảnh cho chữ - Mẫu 4
Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân được biết đến với quan niệm thẩm mỹ
trân trọng, đề cao cái đẹp, khám phá cái khác thường xây dựng các hình tượng
nhân vật mang đậm nét tài hoa nghệ sĩ. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đã
được thể hiện thông qua tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đây thiên truyện ngắn kết
tinh những giá trị nội dung nghệ thuật đặc sắc, trong đó cảnh cho chữ “xưa nay
chưa từng có” diễn ra chốn ngục tăm tối đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự
chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù”, cảnh tượng cho chữ được diễn ra vào cuối tác phẩm
và diễn ra trong hoàn cảnh trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường. Cảm động trước
tấm lòng biệt nhỡn liên tài qua lời kể của thầy thơ lại, Huấn Cao đã đồng ý với ước
nguyện của viên quản ngục, tạo nên một cảnh tượng độc đáo “xưa nay chưa từng có”
diễn ra chốn ngục tù. Trong không gian đêm khuya vắng lặng, chỉ còn “văng vẳng
tiếng chòi canh”, dưới ánh sáng đỏ rực của đuốc tẩm dầu, nơi buồng giam chật
hẹp ẩm ướt, Huấn Cao - người tử “cổ đeo gông, ch”khúm núm”, thầy thơ lại
“run run bưng chậu mực”. Tác giả Nguyễn Tuân đã vận dụng thành công thủ pháp đối
lập để tái hiện thành công cảnh cho chữ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Trong văn hóa thời trung đại, chơi chữ là một thú vui tao nhã, những nét chữ uốn lượn
tung hoành còn thể hiện phẩm chất, tài ng của bậc quân tử, đấng anh hùng. Bởi
vậy, thú vui này thường gắn liền với những bối cảnh thanh tao như chốn viện sảnh,
thư phòng, trà thất. Tuy nhiên, cảnh tượng cho chữ diễn ra trong truyện ngắn “Chữ
người tử tù” lại được khắc họa trong một bối cảnh hoàn toàn đối lập. Đó buồng
giam chật hẹp nơi tỉnh Sơn với sự tăm tối, chật hẹp, ẩm ướt, “tường đầy mạng nhện”,
“đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian diễn ra cảnh cho chữ trong đêm khuya
trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường đã đậm hơn nữa bối cảnh độc đáo của
cảnh tượng này.
Không chỉ đặc biệt bối cảnh không gian thời gian, cảnh cho chữ còn “cảnh
tượng xưa nay chưa từng có” bởi sự đảo lộn vị thế giữa người cho chữ người nhận
chữ. Huấn Cao - người cho chữ vốn kẻ tử “đường bệ ung dung” phác họa những
nét chữ thể hiện hoài bão, tưởng, còn viên quản ngục - người nhận chữ đại diện
cho quyền lực lại “khúm núm sợ sệt”. Giữa những phút giây đó, không còn tồn tại mối
quan hệ hội giữa người tử quản ngục, thơ lại, chỉ còn người nghệ tài
hoa đang tạo ra cái đẹp - những nét chữ uốn ợn trước đôi mắt sự kính phục của
những tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và yêu cái đẹp. Những dòng chữ tươi tắn uốn lượn
trên tấm lụa trắng hương thơm của thỏi mực đã chiến thắng, lấn át sự lạnh lẽo, ẩm ướt
chốn ngục tăm tối. Người tử vươn lên làm chủ, còn những người vốn quyền
uy tối cao tại buồng giam lại gọi Huấn Cao bằng danh xưng “Ngài”, “xin bái lĩnh”,
“xin lĩnh ý” đầy tôn kính thái độ nhún nhường, khép nép cùng hành động cúi đầu,
vái lạy trước nhân. Với cảnh tượng cho chữ độc đáo, chốn ngục đã trở thành nơi
trị ngộ, gặp gỡ của những con người yêu say i đẹp. Không chỉ dừng lại đó,
cảnh tượng cho chữ còn thể hiện những ý niệm sâu xa ẩn chứa trong lời khuyên của
Huấn Cao dành cho viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay
chốn đi. Chỗ y không phải nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ
vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người... Tôi
bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi
đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi
cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên của Huấn Cao đã thể
hiện quan điểm thẩm mỹ và thái độ của ông về nghệ thuật và cuộc sống con người.
Qua việc tái hiện cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”, tác giả Nguyễn Tuân
đã gửi gắm những ý niệm ẩn dvề tưởng quan điểm nghệ thuật. Trước hết, sự
thay đổi vị thế giữa các nhân vật đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp trước
những điều tầm thường, sự xấu xa, độc ác. Đồng thời, qua đó, vẻ đẹp của nhân vật đã
được khắc họa nét hơn. Hình tượng nhân vật Huấn Cao đã hiện lên chân thực, sinh
động với phẩm chất, tài năng, khí phách hiên ngang, phi thường; còn bức chân dung
viên quản ngục - “thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn nhạc luật đều hỗn loạn
xô bồ” được đậm n nữa ở tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” ớng về cái đẹp. Đặc
biệt, lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục còn thể hiện quan điểm thẩm
mỹ của Nguyễn Tuân: “cái đẹp gắn liền với cái thiện”, sự thiên ơng, trong sáng
không thể tồn tại trong môi trường của cái xấu, cái ác.
Bằng bút pháp lãng mạn, tác giả Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công cảnh cho chữ
diễn ra chốn ngục để thể hiện những giá trị tư tưởng sâu sắc. Đoạn văn còn thể hiện
tài năng của nhà văn trong việc vận dụng thủ pháp tương phản, đối lập kết hợp ngôn
ngữ giàu chất tạo hình, điêu luyện để tạo nên “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
về sự chiến thắng của cái đẹp.
Cảnh cho chữ - Mẫu 5
Nguyễn Tuân được đánh giá là "một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp", là một con người
rất mực tài hoa bậc thầy của truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia làm hai
giai đoạn, trước sau Cách mạng tháng Tám. giai đoạn trước, ông thoát li hiện
thực, tìm lại vẻ đẹp của một thời vang bóng xa xưa với những phong tục và thú vui tao
nhã, tập "Vang bóng một thời" là tập truyện tiêu biểu nhất của ông thời ấy, trong
đó không thể không kể đến Chữ người tử với thú chơi chữ truyền thống của Huấn
Cao viên quản ngục. Chữ người tử in trong tập Vang bóng một thời xuất bản
năm 1940. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả ng như giá trị nhân
văn của tác phẩm.
Đã từ rất lâu, chơi chữ được coi nét văn hóa tao nhã của người Việt ta. Những câu
đối với nét chữ bay bổng được viết để treo trong nhà như một thú vui giúp cho tâm
hồn con người được thư thái hơn. Khi thưởng thức cái đẹp thanh cao, các nhà nho cho
chữ đều diễn ra những khung cảnh thơ mộng, yên tĩnh để khơi nguồn cảm xúc, cái
đẹp được bộc lhết những khía cạnh của mình. Vậy trong Chữ người tử tù, cảnh
cho chữ ấy lại diễn ra nơi ngục tối tăm, vượt ra khỏi chuẩn mực của hội, tác
giả gọi đó "cảnh ợng xưa nay chưa từng có". Đoạn cho chữ nằm phần cuối tác
phẩm, vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm viên quản ngục
bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó Huấn Cao.
Chính thế cảnh cho chữ ý nghĩa mở nút, giải tỏa những băn khoăn của người
đọc, từ đó làm toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.
Đêm buông xuống, ánh sáng đã nhường chỗ cho màn đêm tối tăm. Đây là khoảng thời
gian buồn tẻ, hiu hắt nhất của ngày, vạn vật như chìm vào im lặng chỉ còn tiếng gõ mõ
đều đều trong canh dài, không một bóng người lai vãng. Khung cảnh nhà giam hiện
lên túng, chật hẹp với từng tiếng thở dài oán than “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,
tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả miêu tả thật sinh
động, chân thực hoàn cảnh éo le của người anh hùng Huấn Cao, một người nghệ tài
hoa giờ đây phải giam mình trong nhà tăm tối. Thế nhưng chính tại nơi tầm thường
ấy lại xảy ra một sự việc thật trọng đại, làm rung động trái tim của những người tài
hoa chân chính.
Nhà giam ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một đuốc
tẩm dầu”. Dường như cả ba người đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để
tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ. Sđối lập giữa thế và vị thế của người
cho chữ - Huấn Cao người nhận chữ - viên quản ngục đã được Nguyễn Tuân khắc
hoạ thật nét, “một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm nét chữ
trên tấm vải lụa trắng tinh, viên quản ngục khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng
chậu mực”. Có lẽ đứng trước cái đẹp trái tim con người bỗng rung động, như có thứ gì
đó bóp nghẹt lại, không ai nói với nhau lời nào nhưng đủ đcảm nhận niềm hạnh
phúc đang tuôn trào trong lồng ngực. Từ một viên quản ngục “quyền cao chức trọng”
giờ đây phải cúi đầu trước vẻ đẹp tài hoa, trước người tử tù có tấm lòng thiên lương.
Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng t chữ vừa đẹp, vừa vuông của Huấn Cao
dần hiện ra. Vậy cái đẹp thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, cái tội lỗi nhưng
không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì thế, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao
đã khuyên viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ ở để giữ thiên lương trong sáng của mình,
thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Cái thiên ơng cao đẹp của
Huấn Cao cũng sáng bừng cả thiên lương ẩn giấu của quản ngục. Hành động xin
"bái lĩnh" chính sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác.
Cảnh cho chữ không diễn ra nơi trăng hoa tuyết nguyệt lại trong căn buồng
tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại nơi cái đẹp được "khai sinh", thăng hoa.
Toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần khiết của
khí phách của thiên ơng. Người tử ngày mai phải chịu án tử hình nhưng kẻ
ấy không chết sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao hiện thân cho vẻ
đẹp hoàn mỹ, con người ấy chỉ thể chết về tinh thần, nhưng tư tưởng đẹp của Huấn
Cao và từng lời dạy của ông sẽ còn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc
đời còn lại.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp
thiên lương, nó không đơn độc mà mang một sức mạnh vô hình “nhân đạo hoá” cái ác,
cái xấu xa đi vào con đường chân chính, tươi đẹp. Đoạn văn thể hiện nét phong
cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân, ông luôn đặt con người trong vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ. Ông kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực, sức ởng ợng ng độc
đáo. Nguyễn Tuân vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối chọi gay gắt,
một bên là khung cảnh tăm tối ngục tù, một bên là ánh sáng chói loá của nét đẹp hoàn
mỹ.
Cảnh cho chữ - Mẫu 6
Giữa những bộn bề phức tạp của buổi chợ phiên văn chương, giữa những náo nhiệt
đông đúc của gian hàng lãng mạng. Nguyễn Tuân được nhận ra một chủ cửa hàng
đặc biệt với chất ngông đầy mới mẻ tính, độc đáo của mình Nguyễn Tuân đã
đưa người đọc phiêu du vào cuộc hành trình đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng. Tiêu
biểu cho cuộc hành trình gian truân, vất vả đó tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đi sâu
vào khám phá tác phẩm người đọc sẽ không khỏi ấn tượng trước cảnh cho chữ cuối
truyện, nhận xét về tình huống này ý kiến cho rằng cảnh cho chữ trong truyện ngắn
Chữ Người Tử Tù là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Quả không sai khi i rằng sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi kết quả
nhào nặn từ đời sống, nếu sáng tác của văn học chỉ hoàn toàn sản phẩm của sự
cấu tưởng tượng không mong hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm
xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ
mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Tuân đã không ngừng
tìm tòi, sáng tạo ông đã khẳng định được vị thế của mình trong nền văn học Việt
Nam hiện đại, đồng thời tìm ra cho mình một phong cách hoàn toàn khác so với
những nhà văn cùng thời. Ông luôn khát khao đi tìm cái đẹp với một niềm tin bất diệt,
cái đẹp bao giờ cũng sức cảm hóa đối với cái xấu cái ác. Đọc Chữ Người Tử
ta sẽ thấy được điều đó, đây một trong 11 chuyện in trong tập “vang bóng một
thời”, lúc đầu tác phẩm tên “dòng chữ cuối cùng” in trong tạp chí Tao Đàn năm
1938, sau đó đổi thành “Chữ Người Tử Tù” in trong tập “vang bóng một thời” xuất
bản năm 1940.
Chữ Người Tử Tù, xoay quanh cuộc gặp gỡ éo le giữa Huấn Cao viên quản ngục.
Tuy xét trên bình diện hội, họ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng xét trên bình diện
nghệ thuật họ lại những tri ân, tri kỷ, giữa họ những mối liên hkhăng khít, một
bên say cái đẹp viên quản ngục một bên người ban cái đẹp. Đặc biệt tình
huống cho chữ cuối truyện đã trthành một tình huống độc đáo, đặc sắc để đưa cái
tài, cái đẹp lên ngôi đồng thời làm sáng ngời vẻ đẹp của Huấn Cao.
Nhận xét về cảnh cho chữ cuối truyện ý kiến cho rằng “đây một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” tiếc cảnh tượng hiếm
gặp hiếm xảy ra trong truyện ngắn này cảnh cho chữ thực sự một cảnh tượng
như vậy. Ý kiến trên đã một lần nữa khẳng định được sự khéo léo của nghệ thuật,
trong việc tạo dựng tình huống truyện khẳng định được sự hấp dẫn không bị thời
gian vùi lấp của Chữ Người Tử Tù nói chung và cảnh cho chữ nói riêng.
Cảnh ợng cho chữ được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả đầy đủ, chi tiết từ không
gian, thời gian, đến địa điểm vào lúc nửa đêm khi trại giam tỉnh sơn chỉ còn đọng lại
tiếng trên vọng canh, tại một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện,
đất đầy phân gián đang diễn ra cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Người cho chữ
kẻ tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, con người nhận chứ là viên quản ngục, người
đại diện cho chính quyền phong kiến. Gọi cảnh tượng xưa nay chưa từng có, với
việc cho chữ một việc làm thanh cao thường diễn ra nơi trang trọng như thư
phòng sạch sẽ, người cho chữ phải nghệ nhân trong tâm thế ung dung thoải mái.
Nhưng trong truyện ngắn này thì hoàn toàn đối lập, cảm động trước tấm lòng của
viên quản ngục Huấn Cao đã bằng lòng dành đêm cuối cùng của cuộc đời để viết
những dòng chữ cuối cùng cho một tấm lòng tri kỷ, trong thiên hạ. biết mình sắp
chết, nhưng Huấn Cao vẫn cho ra đời những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, trong thế
thoải mái, tự tại, còn viên quản ngục thì khúm núm, run run, sợ sệt cất những đồng
kẽm đánh dấu ô. Đến đây trật tự kỷ cương đã bị đảo ngược, tù nhân trở thành người
ban phát cái đẹp và răn dạy quản ngục, quản ngục thì khúm núm với lạy tù nhân.
Cảnh cho chữ cuối truyện chắc hẳn đã để lại trong lòng bạn đọc ít nhiều những suy
ngẫm, Huấn Cao trong lúc cận kề cái chết, vẫn cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật, đó
là những nét chữ mềm mại, cứng cáp thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người.
Đó cũng chính sự thác của ông dành cho hậu thế, cảnh cho chữ cuối truyện đã
một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiện luôn chiến thắng cái xấu, cái ác, ta thấy
rằng những người phải sống trong cái xấu, cái ác vẫn luôn hướng về cái thiên
lương. Đó là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân vào con người, với cảnh cho chữ ở cuối
truyện Nguyễn Tuân không làm Huấn Cao chết đi mà đã đưa nhân vật vào cõi bất tử.
Bằng sự sáng tạo độc đáo, đặt nhân vật vào tình huống éo le, Nguyễn Tuân đã đưa hai
con người, hai địa vị trái ngược nhau vào một điểm chung đó sự say cái đẹp.
Cảnh cho chữ cuối truyện thực sự một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đi sâu
vào tình huống này ta thấy được rằng, đến đây viên quản ngục Huấn Cao đã hòa
làm một, để cho cái đẹp lên ngôi. Cảnh cho chữ thật sự ngọn đuốc rực rỡ, thắp sáng
cả thiên truyện “Chữ người tử tù”.
Với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, ngôn từ sắc sảo, góc cạnh, câu
văn giàu hình ảnh, Nguyễn Tuân đã m nổi bật lên cảnh tượng cho chữ “một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có”. Để khẳng định sức mạnh, thể chiến thắng cái xấu,
cái ác, cảm hóa con người của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.
Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn đó những nét chữ vuông vắn, tươi tắn hội tụ sự
tài hoa, bất khuất của Huấn Cao. Đó những nỗi niềm thác dành cho hậu thế,
thông qua cảnh tượng cho chữ Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của Huấn Cao
viên quản ngục. lẽ đây chính do “Chữ Người Tử Tù” trở thành mốc son
chói lọi trên nền vàng úa của vang bóng một thời.
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
Nguyễn Tuân được coi là một trong những tác giả lớn người đã có những đóng góp
cùng tích cực cho nền văn học Việt Nam. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân ông miệt mài đi
tìm cái đẹp khát khao cháy bỏng tạo nên những điều chưa từng có trong thực tế. Và
đến đây người ta không thể nào quên cảnh cho chữ được tác gi tái hiện trong tác
phẩm “Chữ người tử tù”. đã đưa Nguyễn Tuân trở thành một bậc thầy trong việc
xây dựng tình huống truyện.
Cảnh cho chữ được nhắc đến cuối tác phẩm khi tâm trạng của viên quản ngục
thầy thơ lại đang cùng rối ren. Họ phải đối diện với sự thật ông Huấn Cao sắp
phải hành hình. Và chính tình huống này được coi như việc cởi nút thắt tháo gỡ những
băn khoăn của người đọc đồng thời đã bộc lộ một giá trị cùng lớn lao của tác
phẩm.
Sau khi nhận được công văn về việc Huấn Cao cùng đồng bọn phản nghịch sẽ bị xử
tử, viên quản ngục lấy làm xót xa ông mang chuyện kể lại với thầy thơ lại. Nghe xong,
thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam để tỏ rõ nỗi lòng với Huấn Cao. Và cũng chính
đêm hôm ấy, ới một khung cảnh chưa từng trong lịch sử một việc chưa từng
đã diễn ra. Nơi ngục giam đầy u tối với lập lòe ngọn đèn dầu leo lét người ta thấy một
người tử cổ đeo gông, chân mang xiềng ung dung đĩnh đạc thả hồn vào từng nét
chữ trên dải lụa trắng. Trong sự khúm núm của những viên quản ngục, thầy thơ lại.
Đến đây ta bắt gặp hai thứ cùng đối lập đó chính sự thanh tao của nghệ thuật
sự đen tối bẩn của chế độ cũ. ởng chừng không thể xuất hiện cùng nhau
nhưng lại hòa quyện trong một khung cảnh hết sức “bất ngờ” và đầy rẫy éo le.
Đêm hôm ấy lẽ đêm cuối cùng của người tử Huấn Cao cảnh cho chữ cũng
những giây phút cuối cùng của cuộc đời ông. Hai con người hai thái cực khác
nhau của hội một bên đại diện cho pháp luật, một bên tử thế nhưng cuối cùng
họ đã gặp nhau đồng cảm với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhà văn cùng
sáng tạo khi đã tạo nên một tình huống truyện đầy éo le, đầy rẫy sự tương phản.
dường như bóng tối, sự bẩn của nhà phong kiến thực dân không thể làm làm lu
lờ đi sự thiện lương trong con người. Nói cách khác thì cái đẹp nghệ thuật đã chiến
thắng tất cả những xấu xa những định kiến của hội. Thế mới thấy, nghệ thuật
sức mạnh lớn lao đến nhường nào thể xóa nhòa mọi ranh giới, mọi khoảng cách
để người và người đến gần nhau hơn. Nghệ thuật chính cảnh giới cao nhất của cuộc
sống con người muốn hướng đến, đó không thứ bậc, không sang hèn chỉ
có tâm hồn đồng cảm mà thôi.
Sau khi cho chữ xong Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên về quê để tránh xa
chốn dơ bẩn nàybởi lẽ “chỗ này không hợp với ông đâu”. lẽ Huấn Cao bằng cái
tài của một bậc hiền triết cũng đủ hiểu được viên quản ngục người thế nào. thế
ông mới bảo họ tránh xa nơi này ra. Muốn chơi chữ thì phải giữ được thiên lương.
trong một môi trường đầy rẫy sự cám dỗ cái ác thì cái đẹp không thể bền vững
tồn tại được. Cái đẹp thể nảy sinh từ chốn tối tăm, từ những thứ trái nghịch nhưng
nó không thể song song tồn tại với nhau. Thú chơi chữ cũng vậy nó không chỉ thể hiện
qua nét mực mà còn phải cảm nhận bằng chính sự rung cảm sâu sắc bên trong của mỗi
người. Cái gốc của việc chơi chữ chính là cái thiện và lối sống văn hóa.
Trước những lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục chỉ biết chắp tay chảy
nước mắt nghẹn ngào “kẻ muội này xin bái lĩnh”. Bằng chính sức mạnh của tình
người, của sự thiện ơng của một con người xuất chúng tài ba Huấn Cao đã “cứu
vớt” một linh hồn trong đống bùn lầy của cái ác. Trên con đường đi tìm cái chết của
mình Huấn Cao đã gieo mầm để những con người lạc lối như thầy thơ lại viên quản
ngục trỗi dậy. cũng lẽ đó hình tượng của người anh hùng càng trở nên lớn lao
hơn bao giờ hết. khẳng định một điều bất diệt đó chính bất cứ đâu, trong
bất kì hoàn cảnh nào thì con người luôn khát khao đến sự chân thiện mỹ.
Bàn về nghệ thuật trước cách mạng người cho rằng Nguyễn Tuân chính một nhà
văn theo tưởng duy mỹ tức ông chỉ chăm chăm đi tìm kiếm cái đẹp. Thế nhưng
đặt trong hoàn cảnh c phẩm này thì quan điểm đó vẻ sai lầm. trong tác phẩm
chữ người tử đặc biệt trong cảnh cho chữ này Nguyễn Tuân không chỉ tôn sùng
cái đẹp còn nhấn mạnh cái đẹp bao gi cũng đi liền với đạo đức với sự thiện
lương. viên quản ngục thầy thơ lại chính những thanh âm trong trẻo trong cái
bản nhạc đầy bồ đó. Đồng thời cũng thể hiện một tình yêu nước bất diệt căm ghét
bọn thống trị ca ngợi những con người tài tâm như Huấn Cao viên quản
ngục.
Chữ người tử được xem như một bài ca bất diệt về tài năng nhân cách của con
người sức sống bền bỉ của nghệ thuật. Những dòng chữ của Huấn Cao như một sự
gieo mầm của sự sống, gieo mầm cho nhân cách sẽ được tiếp nối mãi cho đến
sau này. Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn, hình ảnh vô cùng chậm rãi giàu sức
gợi như một đoạn phim quay chậm để tái hiện một tình huống truyện đầy bi đát. Ngôn
ngữ điêu luyện nhưng chân thực, nghệ thuật phân tích tâm nhân vật từ đó tái hiện
lên một cảnh tượng khiến nhiều người suy ngẫm.
thể nói cảnh cho chữ trong thiên phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân chính
là một tình huống vô cùng đắt giá. Nó chính là bài ca ca ngợi sự tài hoa của những con
người nghĩa khí, cho sự bất diệt của nghệ thuật. Đồng thời cũng ngầm khẳng định cái
đẹp nghệ thuật có sức mạnh lớn lao. Có thể cảm hóa được những điều xấu xa của cuộc
đời.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Hình ảnh ông đồ của Vũ Đình Liên đưa ta o quá khứ xa m khi nh dân tộc của in
đậm trên mỗi câu đối bằng mực tàu giấy đỏ hoặc lụa trắng. Cứ đến Tết nhà nhà đến
gặp thầy đxin mấy chữ chơi xuân. Cho nên thú cho chữ thú vui tao nhã, của
những con người có chút hiểu biết, những người thật sự có thiên lương mới cảm được.
Thế nhưng khi đến với tác phẩm “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân lại xây dựng lên
một cảnh tượng cho chữ hiếm có với nhiều đặc sắc nghệ thuật độc đáo.
Quả một cảnh tượng cho chữ xưa nay chưa từng bởi bản thân nơi cho chữ không
phải bên những hoa đào, hoa mai, sập bàn thảnh thơi cũng không phải thầy đồ với
con trẻ cảnh cho chữ diễn ra trong chốn ngục với những tuyến nhân vật đối
nghịch nhau về vị thế giai cấp. Không gian được tái dựng “buồng tối chật hẹp
đầy phân chuột, phân gián”, hôi hám ẩm thấp. Con người trong đó cũng vị thế
khác nhau, một kẻ tử tù còn hai kẻ kia là cai tù có trách nhiệm chuẩn bị thi hành án.
Mặt khác, đã là cảnh tượng cho chữ thì không thể nào thiếu: chữ, người cho chữ, giấy,
mực. Quả thật, những thứ nào cũng đã đạt đến độ “xưa nay chưa từng có”. giấy
hay mực viết đều nđang phả ra linh hồn lớn lao của giá trị tinh túy cổ xưa. Chỉ
miêu tả một tấm lụa thôi mà Nguyễn Tuân có đủ mọi cách thể hiện một tấm lụa bạch
còn nguyên vẹn lần hồ”, “một bức lụa trắng”, “phiến lụa óng”, “tấm lụa trắng tinh”,
“vuông lụa trắng”… Đến “thỏi mực” được ctrọng miêu tả mùi hương “Thoi mực,
thầy mua đâu tốt thơm quá. Thầy thấy mùi thơm chậu mực bốc lên
không?”. Người cho chữ thì “một người cổ đeo ng, chân vướng xiềng, đang
dậm nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Đến con chữ thì dường
như hội tụ cả nghệ thuật thư pháp một thời “vang bóng” xa xưa. Chữ phải thật “vuông,
tươi tắn” “nói lên hoài bão tung hoành của đời người”. Như vậy, cảnh tượng cho
chữ sự đối lập giữa hiện thực tâm tưởng, ánh sáng bóng tối, cao cả, tốt đẹp
với xấu xa.
Khi xây dựng cảnh tượng cho chữ, Huấn Cao đã hình tượng hóa cảnh tượng này. Nếu
như đầu truyện ngắn, ba nhân vật thơ lại, quản ngục Huấn Cao như ba đốm sáng
lạc lõng, lẻ loi thì kết thúc ba đốm sáng ấy lại kết hợp làm một, xua đi bóng tối bao la
dày đặc chốn ngục tù. Cái thiên ơng trong sáng, cái đẹp cái tài đã tập hợp họ
lại. Chính sự tập hợp này đã tạo thành một ngọn lửa soi sáng chốn ngục tù. Nguyễn
Tuân đã dựng lên một cảnh tượng hào hùng, miêu tả sống động mọi chi tiết đều rõ
như khắc chạm, thể hiện tài năng bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc, từ dùng rất phong
phú, câu văn nhịp điệu… Nhà văn đã dựng lên thật đẹp nhóm hình tượng ba người
tạo nên một nhóm “tượng đài thiên lương”. Đặc biệt hình ợng sự đảo lộn về trật
tự ngôi thứ trong hội. Viên quản ngục thì lúng túng, kính trọng kẻ tử tội còn tội
nhân thì đứng đường hoàng răn dạy đạo cho kẻ cai tù. Chốn lao xưa nay chỉ
những lừa lọc, chết chóc, thô bỉ thì nay trở thành thị điểm của sự sáng tạo nghệ thuật.
Không khí của nhà tù hoàn toàn sụp đổ trước không khí của cảnh cho chữ.
Qua cảnh tượng cho chữ tác giả đã thể hiện sự chiến thắng của cái ánh sáng bóng
tối, của thiên lương với cái xấu xa khẳng định con người sống trong cái ác i
nhưng vẫn luôn hướng về cái cao cả. Phải chăng đó cũng là niềm tin vào con người
vào nghệ thuật nhân văn của c giả. “Chữ người tử tù” đã thể hiện tài dựng người,
dựng cảnh, tạo không khí, ngôn ngữ góc cạnh, lời văn trang nhã, câu văn diễn xuôi mà
âm điệu trầm bổng… trong văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân xứng đáng một trong
những cây bút tài hoa, độc đáo, uyên bác sâu sắc nhất của văn học Việt Nam hiện
đại.
Cảnh cho chữ - Mẫu 3
Trong truyện ngắn Chữ người tử của Nguyễn Tuân, cảnh cho chthực sự gây ấn
tượng rất mạnh cho người đọc. thể nói, tác giả đã dồn bút lực tạo nên một kiểu kết
truyện đặc sắc, để lại rất nhiềuâm. Chỉ với cảnh này, các nhân vật mới thực sự bộc
lộ tất cả những gì vốn có của mình.
Một Huấn Cao trước đây chỉ được biết đến qua lời truyền tụng viết chữ rất nhanh
rất đẹp, thì giờ đây bàn tay tài hoa ấy sẽ vung bút viết nên những nét chữ vuông vắn,
tươi tắn trên tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ trước con mắt cảm phục của những
người được vinh hạnh chứng kiến. Một thầy thơ lại trước đây ta ngờ rằng “hẳn không
phải kẻ xấu hay vô tình", thì lúc này “run run bưng chậu mực” với thái độ khiêm
nhường, cung kính, như tự chứng thực phẩm cách trong sạch của mình. Một quản
ngục vốn có thiên lương và tấm lòng biệt nhỡn liên tài, trong tình huống này đã không
ngần ngại cúi đầu trước khí phách, i hoa. ràng, trong cảnh cho chữ, tất cả đều
được đẩy đến đỉnh điểm, tột cùng, sự thăng hoa của mọi vẻ đẹp. Không phải ngẫu
nhiên mà Nguyễn Tuân đã xem đây là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Không gian dành cho người nghệ chẳng phải một thư phòng ấm áp, sang trọng
như xưa nay vẫn thấy, một buồng giam chật chội, ẩm thấp, i hám; tường đầy
mạng nhện, nền nhà đầy phân chuột, phân gián. Thời gian o ban đêm, nhưng lại
là đêm cuối cùng của một tử tù. Ánh sáng soi tỏ căn buồng là mộtđuốc tẩm dầu đỏ
rực, khói tỏa nghi ngút như một đám cháy nhà gọi cảm giác thật dữ dội. Người nghệ
nhân tố trung tâm quyết định sự ra đời của tác phẩm một người tử “cổ đeo
gông, chân vướng xiềng", chỉ vài giờ sau sẽ bị giải đến pháp trường.
Trong đoạn kết của tác phẩm, người đọc còn được chứng kiến sự thay đổi vị thế lạ
ngoạn mục, đảo lộn cả trật tự vốn của chốn lao tù. Người coi ngục, đại diện của
quyền lực nhà nước, thì trở nên nhỏ bé, lặng lẽ phục dịch bên cạnh người tử tù và chắp
tay cúi đầu vái nhận lời khuyên bảo của tử tù. Còn người tử tù, kẻ bị tước hết mọi
quyền (kể cả quyền sống) thì lại trnên cao lớn lồng lộng, với quyền uy tối thượng
của người nghệ sĩ trong giây phút xuất thần sáng tạo.
Tuy nhiên, trong khung cảnh trang nghiêm, xúc động này, khoảng cách ấy không phải
bất biến. Khi bức chữ đã được viết xong, khi mùi mực thơm tho tinh khiết tỏa ngát
cả căn buồng, thanh tẩy những ô uế, ttrước mắt ta không còn kẻ cao người thấp,
kẻ sang người hèn. Ba con người, ba mái đầu chụm vào nhau cung kính lặng lẽ ngắm
nhìn bức chữ, rưng rưng xúc động trước cái đẹp vừa được sinh thành.
Chiêm ngưỡng cảnh cho chữ đầy ngoạn mục, người đọc còn bị cuốn hút bởi ngh
thuật độc đáo, già dặn của Nguyễn Tuân: dựng không khí, tạo tình huống, khắc họa
nhân vật. Cảnh cho chữ mang đậm chất điện ảnh bởi Nguyễn Tuân đã biết phát huy
tối đa hiệu quả của phép tương phản. Đó sự ơng phản giữa bóng tối ánh sáng;
giữa cái đẹp cao cả của nghệ thuật chốn lao ô uế, phàm tục; giữa người thân
thể bị gông xiềng nhân cách tinh thần tự do với viên quản ngục quyền hành
chẳng khác o chịu án chung thân về mặt tinh thần; giữa con người thiên lương
con người công cụ… Xét trên mọi phương diện, cảnh cho chữ biểu hiện u sắc
nhất của cảm hứng lãng mạn của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù.
| 1/47

Preview text:


Dàn ý chi tiết phân tích cảnh cho chữ I. Mở bài
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo. Có người đã cho rằng mỗi sáng tác
của ông như đóng một dấu triện riêng. Tuy nhiên, điều thú vị là, dấu ấn này không
phải qua vài tác phẩm mới bộc lộ, mà ngay từ tập truyện ngắn đầu tay Vang bóng một
thời (1940) đã được in đậm. Chữ người tử tù là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn
Tuân nằm trong tập truyện trên. Người đọc có thể nhận ra những nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật của tác giả bậc thầy này qua cảnh cho chữ độc đáo của thiên truyện. II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm Chữ người tử tù
Chữ người tử tù là truyện ngắn hội tụ nhiều cái “nhất” trong sự nghiệp của Nguyễn
Tuân: Có nhân vật đẹp nhất (Huấn Cao), nhân vật lạ nhất (Quản ngục), cảnh độc đáo
nhất (cảnh cho chữ). Đương nhiên, với tất cả những điều ấy, truyện ngắn này cũng có
một vị trí đặc biệt, mọi người đều thống nhất rằng đây là một trong những truyện hay
nhất trong Vang bóng một thời (1940) – tập truyện ngắn đầu tay của nhà văn đã được
Tự lực văn đoàn trao giải. Câu chuyện xoay quanh những ngày cuối đời, trong biệt
giam của Huấn Cao trước khi về kinh thụ án. Vẻ đẹp của nhân vật này, tư tưởng của
thiên truyện đều tỏa sáng rực rỡ trong cảnh cho chữ, khi Huấn Cao viết tặng Quản
ngục bức châm -“tiếng hát thiên nga” của một đời tài hoa. Chính vì vậy, có thể khẳng
định rằng ở cảnh này, mọi nét đậm nhất trong phong cách của Nguyễn Tuân đã tụ lại.
2. Khái quát về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn có phong cách độc đáo. Có thể thấy những nét nổi bật như sau:
● Luôn nhìn các sự vật hiện tượng từ độ văn hóa, thẩm mỹ.
● Luôn nhìn con người ở góc độ nghệ sĩ
● Đi tìm những cái phi thường, độc đáo, đặc biệt.
● Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
● So sánh, tưởng tượng, liên tưởng rất phóng túng, bất ngờ nhưng chính xác.
– > Những điều này đều có thể thấy được trong cảnh cho chữ ở cuối truyện Chữ người tử tù.
3. Phân tích sơ lược cảnh cho chữ.
- Nếu nói như GS Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách
phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, thì có thể nhanh chóng nhận ra rằng
cảnh cho chữ đã hội tụ tất cả những nét vượt trội ấy. Đây là một khung cảnh đặc biệt,
và chính người khắc hoạ cũng khẳng định rằng đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
- Sự đặc biệt này hiện ra ở mọi góc của cảnh: Nhân vật, thời gian, không gian. * Nhân vật:
● Bình thường, người cho chữ và người được cho chữ là những tri âm tri kỉ đến
độ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. ở họ luôn toát ra sự an nhiên,
điềm tĩnh, ung dung của bậc túc nho.
● Ở đây, người cho chữ là 1 tử tù, người được cho chữ là quản ngục. Họ có vị trí
đối nghịch trong xã hội. Hơn nữa, họ mới gặp nhau hơn nửa tháng. Đặc biệt,
cảnh cho chữ đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, khi người tù thì dù “cổ đeo
gông, chân vướng xiềng” vẫn đứng thẳng người và đĩnh đạc, còn quản ngục
“khúm núm” và nghẹn ngào. Trong quan hệ xã hội họ là kẻ thù nhưng trong
bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm tri kỉ. * Không gian:
● Thông thường, người ta viết chữ cho nhau ở nơi thư phòng sạch sẽ, không gian của học thuật.
● Ở đây, người ta viết chữ cho nhau trong “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,
tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đây là không gian
mà cái xấu, cái ác thống trị. * Thời gian:
● Bình thường, người ta cho chữ khi thư nhàn, thong thả, trong ánh sáng của buổi mai ấm áp.
● Ở đây, người ta cho chữ vào ban đêm một cách vội vã, chạy đua với thời gian,
gấp rút tránh những ánh mắt của bọn lính đến phiên canh buổi sáng và tránh cái
công văn oan nghiệt giải người về kinh thụ án.
=> Chỉ ra những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong cảnh này.
– Luôn nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hóa thẩm mĩ và nhìn con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ.
+ Nếu nhìn cảnh cho chữ bằng con mắt xã hội học, không khó để thấy luôn mầm
mống phản loạn ở đó: Những thứ không cần thiết lại được đem vào biệt giam, người
cầm quyền trong tù lại “khúm núm”, “run run” trước tử tù…
Tuy nhiên, tác giả đã nhìn bằng con mắt văn hóa thẩm mĩ và thấy đây là cảnh phi
thường. ở đó, mọi trật tự của xã hội dung tục đã bị đảo lộn hết, chỉ có cái đẹp thống
lĩnh, cái cao cả và cái thiện lên ngôi để cứu rỗi tâm hồn con người như niềm hi vọng của thế giới.
+ Nguyễn Tuân cũng không nhìn nhân vật bằng con mắt thông thường. Với ông, Huấn
Cao không phải là tử tù nguy hiểm mà là người nghệ sĩ bậc thầy trong nghệ thuật thư
pháp, đang sáng tạo ra cái đẹp siêu việt trước khi đi vào cõi bất tử. Trong cảnh này,
cái tài, thiên lương và khí phách của bậc chính nhân quyện vào nhau làm nên một vẻ
đẹp có thể cứu rỗi những tâm hồn.
– Đi tìm những cái phi thường, quá độ, vượt ngưỡng.
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn của những gì nhàn nhạt, trong khuôn khổ, ông
luôn tìm đến những cái độc đáo. Trong cảnh này, mọi thứ đều vượt lên trật tự thông
thường và người ta phải lấy một tiêu chí khác để đánh giá. Chính Nguyễn Tuân cũng
khẳng định đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
– Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
+ Kiến thức điện ảnh: Để làm nổi bật cảnh cho chữ, tác giả như một nhà quay phim
lành nghề đưa máy quay đến cận cảnh, để thấy “tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi
phân chuột, phân gián”, rồi lại đưa ống kính lên cao để soi rõ “ba cái đầu người đang
chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Tiếp đó lại quay viễn cảnh
với động tác của cả ba nhân vật.
+ Kiến thức hội hoạ: Tác giả vẽ bức tranh cho chữ với sự đối chọi gay gắt của hai
mảng màu sáng và tối. Màu sáng của bó đuốc, tấm lụa bạch còn màu tối của, phân
chuột, phân gián, mạng nhện.
Hai mảng màu ấy làm nền cảnh cho tâm cảnh là hình tượng Huấn Cao đang xuất thần
sinh thành ra những con chữ như một báu vật.
+ Kiến thức điêu khắc: Nguyễn Tuân khắc hoạ hình tượng như một bức điêu khắc
sống động với tư thế “đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc”, với trạng thái “ thở dài,
buồn bã”. Ngoài ra, khi miêu tả ba người chăm chú trên tấm lụa bạch, người ta đã thấy
đậm chất điêu khắc với những đường nét được chạm nổi, sống động.
– Ngoài ra, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân sử dụng ở đây độc đáo, giàu chất tạo hình, có
sắc thái biểu cảm cao và rất sáng tạo. Hơn nữa, chúng còn có nhịp điệu chậm rãi, trang
trọng với những từ Hán Việt, gợi hồn xưa đất nước. Đây cũng chính là điều mà Tự lực
văn đoàn ngạc nhiên khi đọc Vang bóng một thời và trao giải cho tập truyện, điều làm
nên cái riêng của Nguyễn Tuân.
– > Tóm lại, nhìn từ mọi góc độ, đều thấy được những nét đặc trưng của Nguyễn Tuân
trong cảnh cho chữ. chính vì vậy, có thể thấy rằng bút lực của nhà văn tài hoa đã tập trung ở cảnh này.
* Mở rộng liên hệ với một số tác phẩm khác của Nguyễn Tuân trước và sau cách
mạng tháng Tám để thấy phong cách nghệ thuật của nhà văn bậc thầy này có những
nét ổn định và có những cách tân.
Qua đó khẳng định rằng chính phong cách nghệ thuật đặc sắc đã góp phần làm nên
thành công của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù nói riêng và vị trí của Nguyễn
Tuân trong văn học Việt Nam nói chung. III. Kết luận
Nhà thơ Lê Đạt đã viết: “Mỗi công dân có một dạng vân tay/Mỗi nhà thơ thứ thiệt có
một dạng vân chữ”. Yêu cầu này không chỉ đối với nhà thơ, mà với nhà văn cũng thật
cần thiết. Nguyễn Tuân chính là nhà văn có “vân chữ” không thể lẫn, điều ấy đã được
chứng minh thuyết phục qua cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù. ....................
Xem thêm: Dàn ý phân tích cảnh cho chữ hay nhất
Phân tích Cảnh cho chữ ngắn gọn
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
Chữ người tử tù là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất trong tập Vang bóng
một thời. Tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, người
nghệ sĩ tài hoa, người nghĩa sĩ bản lĩnh, khí phách hơn người. Chi tiết cho chữ cuối tác
phẩm được coi là tình tiết đặc sắc nhất góp phần phát triển mạch truyện và bộc lộ trọn
vẹn vẻ đẹp của Huấn Cao, có nhiều đánh giá cho rằng cảnh cho chữ trong nhà lao là
cảnh tượng xưa nay chưa từng thấy.
Cảnh cho chữ được diễn ra trong một không gian và thời gian vô cùng đặc biệt, nơi
Huấn Cao viết lên những nét chữ “vuông lắm, đẹp lắm” không phải nơi thư phòng
sạch sẽ, cũng không phải nơi phong cảnh hữu tình như thường lệ mà lại là không gian
u tối, ngột ngạt của ngục tù “ một buồng tối, chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện,
tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian cho chữ sao cũng thật đặc biệt,
đó không phải ban ngày hay bất cứ thời điểm nào khác trong ngày mà là giữa đêm
khuya khoắt, khi bóng tối bao phủ và khi mọi người đã chìm vào giấc ngủ. Huấn Cao
lựa chọn thời điểm đặc biệt như vậy có lẽ là muốn giúp viên quản ngục tránh được
những điều tiếng không đáng có. Bởi ngục tù là nơi đầy rẫy những thị phi, những bon
chen và những trò hãm hại nhau. Huấn Cao không muốn một con người tốt đẹp như
viên quản ngục bị cuốn vào vòng xoáy của sự bon chen xấu xa ấy.
Người cho chữ ở đây là Huấn Cao, tuy nhiên khác với hình dáng của những tao nhân
mặc khách khi cho chữ, Huấn Cao không được thư thái, tự do về thể xác, uống rượu
thưởng trà mà cổ đeo gông chân vướng xiềng vẽ lên những nét chữ vuông vắn trên
giấy trắng. Người xin chữ là viên quản ngục – người có đam mê với cái tài mà Huấn
Cao sáng tạo ra. Điều đặc biệt ở đây là vị trí của người cho chữ và kẻ xin chữ lại hoàn
toàn đối lập, nếu như Huấn Cao là kẻ tử tù nguy hiểm bị biệt giam thì viên quản ngục
lại là người cai quản nhà ngục có trách nhiệm giam giữ những kẻ tử tù nguy hiểm.
Thế nhưng khi cho chữ thì vị trí của hai người lại có sự thay đổi hoàn toàn, viên quản
ngục từ một người bề trên, kẻ nắm trong tay quyền lực, nắm trong tay quyền sinh
quyền sát trở nên khúm núm, phục tùng cho kẻ tử tù khi “tay run run bê chạy mực” thì
Huấn Cao kẻ tử tù lại trở thành người nắm thế chủ động, người tặng chữ và tặng
những lời khuyên cho viên quản ngục. Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên thay
đổi môi trường sống để cho thiên lương được trong sáng. Quản ngục đã vô cùng xúc
động và quỳ lạy Huấn Cao “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Như vậy, khung cảnh cho chữ thật khác biệt, vị trí và quyền lực của những nhân vật
trong truyện hoàn toàn bị đảo ngược, nghi thức cho chữ thông thường hoàn toàn bị đổi
ngược mang đến những cảm nhận đặc biệt cho độc giả, đồng thời thể hiện được những
tư tưởng, quan niệm sâu sắc của nhà văn Nguyễn Tuân.
Cảnh cho chữ của Huấn Cao và viên quản ngục tuy được thực hiện trong khung cảnh
tối tăm của ngục tù nhưng bức họa chữ ấy lại đẹp đẽ hơn bao giờ hết bởi nó được
chiếu sáng bởi cái tâm, bởi ánh sáng của thiên lương.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Nguyễn Tuân (sinh năm 1910, mất năm 1987) là một nhà văn lớn, giữ một vị trí quan
trọng và có đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã để lại
cho nền văn học nước nhà rất nhiều tác phẩm độc đáo, trong đó có truyện ngắn "Chữ người tử tù".
"Chữ người tử tù" được sáng tác và in lần đầu năm 1939 (khi đó mang tên "Dòng chữ
cuối cùng", sau đó được tuyển in trong tập truyện "Vang bóng một thời" (1940) và
được đổi tên thành "Chữ người tử tù"), trong hoàn cảnh Hán học ở nước ta gặp suy vi,
những nho sĩ "cuối mùa" sống giữa thời buổi "Tây Tàu nhố nhăng" mặc dù buông
xuôi bất lực nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời. Họ không chịu a dua
theo thời, chạy theo danh lợi mà vẫn cố giữ "thiên lương" và "sự trong sạch của tâm
hồn". Trong số những con người tài hóa ấy, nổi bật lên là hình tượng ông Huấn Cao
trong "Chữ người tử tù" - một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm trong
sáng, mặc dù chí lớn không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.
Nhân vật Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp. Ông không
chỉ có tài về nghệ thuật thư pháp mà còn có cái trí tuệ uyên bác. Từng nét chữ của ông
ẩn chứa cả văn hóa, quan niệm về nhân thế. Người ta treo chữ ông trong nhà không
chỉ để chiêm ngưỡng cái đẹp của bức thi họa, mà còn để ngẫm nghĩ những tư tưởng
sâu sắc. Nhưng "tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ
ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời". Thêm vào đó, Huấn Cao được miêu tả là
một người chính trực, khẳng khái, không vì tiền bạc, quyền thế mà ép mình cho chữ
bao giờ. Thật vậy, ngay lúc bước vào tù lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim,
ông Huấn không hề mảy may run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải. Lúc bị
giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản ngục, ngày ngày đưa rượu thịt
vào cho ông, ông vẫn thản nhiên đón nhận và coi đó là "hứng sinh bình", thậm chí ông
còn coi khinh viên quản ngục, không muốn hắn bước vào buồng giam của ông thêm
lần nào nữa. Thế nhưng, khi hiểu ra nỗi lòng và sở thích cao quý của viên quản ngục,
đồng thời cảm động trước tấm lòng biệt nhỡn của viên quản ngục qua lời kể của thầy
thơ lại, Huấn Cao đã đồng ý với ước nguyện của viên quản ngục, tạo nên một cảnh
tượng độc đáo diễn ra ở chốn ngục tù.
Từ xưa đến nay, ta vẫn thường thấy cảnh cho chữ được diễn ra tại những nơi trang
trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân
đã xây dựng nên một cảnh cho chữ trong một hoàn cảnh vô cùng khác lạ, đó là trong
ngục tù tăm tối, trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường. Trong không gian đêm
khuya vắng lặng, chỉ còn “văng vẳng tiếng mõ chòi canh”, dưới ánh sáng đỏ rực của
bó đuốc tẩm dầu, nơi buồng giam chật hẹp và ẩm ướt, viên quản ngục hàng ngày khét
tiếng tàn bạo giờ đây lại khúm núm, trái ngược với một kẻ tử tù "cổ đeo gông, chân
vướng xiềng" lại đĩnh đạc và làm chủ nơi ngục tù.
Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng nét chữ vừa đẹp đẽ vừa chứa đựng nhiều ý
nghĩa sâu sắc của ông Huấn dần hiện ra. Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên
viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững, bởi phải có
thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Hành động xin "bái lĩnh" của y
chính là sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác. Có thể
thấy, toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần khiết
của khí phách của thiên lương. Huấn Cao dù ngày mai có phải chịu án tử hình nhưng
người tử tù ấy không chết mà sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp, như hiện thân cho
vẻ đẹp hoàn mỹ, cùng với đó là những tử tưởng và lời dạy của ông Huấn sẽ theo viên
quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.
Cảnh cho chữ của Huấn Cao và viên quản ngục trong "Chữ người tử tù" được đánh
giá là "cảnh tượng xưa nay hiếm". Thông qua cảnh cho chữ của Huấn Cao, Nguyễn
Tuân đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái
ác; từ đó cho thấy tài năng nghệ thuật của mình trong việc tạo dựng tình huống truyện
độc đáo, trong nghệ thuật dựng cảnh, khắc họa tính cách nhân vật và trong cả việc sử
dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình.
Phân tích cảnh cho chữ
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
“Chữ người tử tù” là ánh sáng lung linh nhất, ngời chói nhất, đa màu sắc nhất để tô
điểm cho tuyệt tác “Vang bóng một thời”.
“Chữ người tử tù” đã thể hiện một bút pháp thật sắc sảo với từng câu văn, nét chữ như
chất chứa cả đại dương ý nghĩa cuồn cuộn dâng trào của nhà văn Nguyên Tuân.
“Chữ người tử tù” thật sự đi vào lòng người khi Nguyễn Tuân đã biết tạo dựng một
nhân vật điển hình. Đặc biệt là ông đã tạo dựng cảnh Huấn Cao cho chữ “một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có”.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói cảnh Huấn Cao cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có”? Nguyên do thật đơn giản, đó là các bậc nho sĩ ngày xưa “tao nhân mặc
khách”, ”bụng đựng đầy chữ thánh hiền” khi viết chữ hoặc cho chữ phải ở những nơi
trăng thanh gió mát, hoa hương ngào ngạt, ly rượu nồng nàn chếnh choáng hơi men…
Có như thế thì viết chữ mới hay, cho chữ mới đáng được thưởng thức và mới đạt đến
trình độ thẩm mỹ tuyệt vời. Nhưng ở đây Huấn Cao cho chữ quản ngục lại vào một
phòng giam tối mịt “tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”.
Đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
“Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” ấy đã diễn ra vào đêm hôm khuya khoắt,
ngay tại nhà tù. Cảnh đêm buông xuống không gian bốn bề chỉ còn văng vẳng tiếng
mõ trên vọng canh. Ngoài nhà tù đã tối thì bước chân vào nhà tù kín mít hẳn phải “sẫm đen hơn nữa”.
Theo viên quản ngục và thầy thơ lại vào phòng gian có một bó đuốc sáng rực lan tỏa
khắp bốn bề. Và không khí lúc đó mới “tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực” , rồi
“lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo”.
Không phải ngẫu nhiên nhà văn Nguyên Tuân lại nhắc đến bó đuốc “sáng rực” đó đến
hai lần, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật cũng như Bác Hồ viết “Phương đông màu
trắng chuyển sang hồng” vậy.
Chính bởi vì thế mà sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt.
Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn
ngời chói vẫn ngời tỏa, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của mẹ
con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của
bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sau xa hơn thì
ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang
sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên
lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó
là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ
chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ
những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện…
Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương.
Bản hùng ca chữ tâm đó sẽ ngời tỏ và sáng lạn hơn nữa khi nó đi liền với cái tài hoa,
cái đẹp lại làm mờ nhạt đi sự nhơ bẩn, sự phàm tục.
Ở đây, sự nhơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: ”một buồng tối chật hẹp, ẩm
ướt,tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Một cái buồng
giam thật kinh sợ chẳng khác gì chi một chuồng trâu của nhà nông! Phân gián, mạng
nhện, tổ rệp lại cộng thêm ẩm ướt, chật hẹp thì đẩy sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh
điểm. Sự nhem nhuốc, sự phàm tục này tưởng chừng như mãi mãi tồn tại. Song với sự
xuất hiện của phiếm lụa, của lọ mực đã xua tan đi mùi ô uế. Phiến lụa, mùi mực là
biểu tượng cái đẹp, cái thơm tho. Cho nên, phân gián, phân chuột cùng với không khí
chật hẹp, nền nhà ẩm ướt dần dần mất đi, bởi “cái đẹp là địa hạt của sự sống”, “cái đẹp
đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”, cái đẹp là
mục đích mà con người ta muốn vươn lên. Màu trắng của phiến lụa là tâm hồn cao
khiết của con người; mùi thơm của lọ mực là mùi thơm của tình người, tình đời. Màu
trắng ấy, mùi thơm ấy hội tụ lại thành biểu tượng của cái đẹp, cái thiên lương.
Trong cảnh cho chữ này người ta để ý nhiều tới người tù Huấn Cao “chọc trời, khuấy
nước”, nay đã sa cơ, lỡ vận. Nhưng không thể không để ý tới viên quản ngục và thầy
thơ lại, đó là hai con người mới “đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền” biết coi trọng cái đức,
mến mộ cái tài, nhất là tài viết chữ của Huấn Cao. Quản ngục và thầy thơ lại có thể coi
đó là tâm hồn của nhà văn Nguyễn Tuân đang sùng kính cái đẹp, đang khát khao cái
đẹp. Huấn Cao, quản ngục, thầy thơ lại là ba điểm sáng tạo nên một tượng đài, trong
đó Huấn Cao là trung tâm: “ba cái đầu người đang chăm chú nhìn trên tấm lụa bạch”.
Ba con người có ba địa vị xã hội khác nhau, giờ đây họ đang muốn điểm màu, tô son
cho cái đẹp lên ngôi thay thế sự phàm tục, nhơ nhuốc bẩn thỉu.
Cái đẹp, cái cao thượng và sự phàm tục, nhơ nhuốc, hai cái đó đối lập nhau trong một
hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đã cùng thủ thỉ ném cùng một lúc hai cái đó vào nhà giam
tạo ra sự mâu thuẫn cực độ. Từ đó làm bật lên bản chất cái đẹp, cái cao thượng. Nhất
là Huấn Cao chỉ ngày mai thôi sẽ bị giải về kinh, rồi phải bước lên đoạn đầu đài,
nhưng ông vẫn ung dung lắm, vẫn nghệ sĩ lắm. Ông nhận xét về mùi hương của thỏi
mực đúng là của một con người “bần tiện bất năng duy, uy vũ bất năng khuất”: ”Thoi
mực thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm của lọ mực bốc lên
không?”… Ôi cái mùi thơm của thỏi mực ấy nó ngào ngạt lan tỏa như “Dạ lan thơm
nức lạ lùng – Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương”. Đó là mùi thơm danh tiếng
của Huấn Cao vẫn còn ngào ngạt đến muôn đời. Nhà tù ở đây đã không còn là nhà tù
nữa mà nó đã trở thành nơi chứa đựng mùi thơm tho của thiên lương con người.
Trước cái đẹp đang lên ngôi thì Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đập
đập tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng”, đó là thái độ uy nghi, đường
hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ
ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Cái chết đang tiến lại gần,
nhưng người tù Huấn Cao vẫn nói về sự sống, hướng về cái đẹp, cái thiện của đời. Do
đó nhà tù chỉ còn là để cho Huấn Cao thể hiện thêm khí phách của một người anh
hùng mà thôi. Cũng chính vì thế mà người tù ở đây đã hóa thành chủ, còn bọn quản lý
nhà ngục lại hóa ra tôi tớ trung thành của người tù. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối
này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà
ngục phải khiếp sợ, kính nể: ”viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền
kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu
mực”. Những chi tiết đó, những hình ảnh đó tưởng chừng như không có trong nhà tù,
nhưng thực ra nó lại diễn ra theo lô gic đích thực của những người biết tôn thờ, biết
kính trọng cái đẹp “hàng hàng gấm thêu”, “lời lời châu ngọc”, cái phí phách “chọc
trời, khuấy nước” cái bản chất thiên lương mà Huấn Cao đã đem lại.
Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên
lương. Cái đẹp, cái thiên lương bỗng nhiên trở nên thiêng liêng tuyệt đối, bởi “cái đẹp
của tâm hồn mới làm cho con người ta kính trọng”. Chính vì vậy, mọi thứ nhem
nhuốc, đen tối, cường quyền đã hóa thành những thứ bủn xỉn, chập choạng rơi xuống bùn sâu.
Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái
thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi.
Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn
nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Cái hoài bão tung hoành
của một đời con người: “chọc trời, khuấy nước”, “Năm năm hùng bá một phương Hải
Tần”, “Trong hang tối mắt thần khi đã quắc – Là khiến cho mọi vật đều im hơi” của
Huấn Cao với tấm lụa trắng trẻo, nét chữ tươi tắn, vuông vắn thì chốn ngục tù bẩn thỉu
này làm sao xứng đáng để treo một đôi câu đối về bản chất thiên lương của con người
quý như báu vật ấy. Và hơn nữa, Huấn Cao cũng khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên
lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở
đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời
lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên
quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt
rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ
mê muội này xin bái lĩnh” đúng là câu nói của một con người có văn hóa và biết tôn
sùng cái đẹp. Cái vái của quản ngục cũng là cái vái của Nguyễn Tuân trước cái tâm,
cái đẹp, cái tài danh mà ông tôn sùng. Cái vái ấy thật giống với cái vái của Cao Chu
Thần trước vẻ đẹp của hoa mai:
“Nhất sinh đê thủ bái hoa mai”
(Một đời chỉ biết cúi lạy trước vẻ đẹp của hoa mai).
Cảnh Huấn Cao cho chữ được Nguyễn Tuân khắc họa đạm nét. Ở đây không phải là
cảnh cho chữ bình thường nữa, mà đó đã trở thành cảnh thọ giáo thiêng liêng của
người cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy của Huấn Cao chắc khác chi một
chúc thư về lẽ sống cảu đời người trước khi ông đi vào cõi bất tử. Với lời khuyên đầy
tình người ấy đã có sức mạnh mãnh liệt cảm hóa tâm hồn con người bấy lâu đã cam
chịu nô lệ nay nhận ra trở về với thiên lương. Tóm lại, cái phí phách tinh thần bất
khuất đã chiến thắng một cách vang dội trước thái độ cam chịu nô lệ.
Với bút pháp lãng mạn, nghệ thuật đối lập đòn bẩy và cách xây dựng nhân vật đầy cá
tính đi đôi với cách tạo cảnh hấp dẫn được nhà văn Nguyễn Tuân triệt để khai thác
trong toàn bộ truyện ngắn “Chữ người tử tù” cũng như cảnh Huấn Cao cho chữ ở cuối
truyện. Với bút pháp ấy, nghệ thuật ấy nhà văn muốn ca ngợi cái đẹp, cái cao thượng,
cái phí phách đường hoàng của tinh thần bất khuất cùng với lương tâm trong sáng của
con người.Những vẻ đẹp ấy xứng đáng là những tia sáng cho muôn đời soi vào mà noi
theo. Mọi người chúng ta hãy hướng về tia sáng đó thì nhất định bóng tối sẽ ngả về phía sau.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân - thiện - mỹ, người ta
thường nhắc tới Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh
giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong
các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một
nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như
vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng
độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam - là phần đặc sắc nhất của thiên truyện
này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên
đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên
phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút, giải tỏa
những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.
Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự của mình với thầy thơ
lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi
lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ
rực của một bó đuốc tẩm dầu, “ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra.
Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không
gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ
bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi
cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ
và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “một
người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên
tấm lụa trắng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển
động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng
nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở
thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.
Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao - người có tài
viết chữ nhanh , đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại - những người thích chơi chữ. Họ
đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử
hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội,
họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ
của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng
ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn
thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và
bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối.
Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét
chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng
thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào
lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn
ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn
Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương
chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.
Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn:
“đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên
lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy
sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng
không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ
thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn.
Người ta thưởng thức không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm
trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và
chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.
Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động “vái người tù một vái,
chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này
xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người
tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với
cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung
cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt
lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một
niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn
khao khát hướng tới chân - thiện - mỹ.
Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm
chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” mà đặc biệt là
cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong
truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với
cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật
trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm
nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngợi viên quản ngục và thầy thơ
lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những
“thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu
nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có
“thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.
“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao
cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của
đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và
mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng
muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.
Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim
quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện
ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang
chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng
xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng
tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng
tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng
là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp
tả thực, phân tích tâm lí nhân vật (văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật).
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc
đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối
với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó
tác giả cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang
bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối
vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.
Cảnh cho chữ - Mẫu 3
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ
người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng
gợi cảm, gây ấn tượng.
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu say đắm
cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là đỉnh cao của nhân
cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng
khi ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của
Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động
trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái
đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện;
ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang
bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng
và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả
một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một đã qua nay
chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà nho giáo, một lãnh tụ
của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dùng
khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá
Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông cùng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai
tính cách của nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ
đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa
thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với
xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là
viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo
trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là
một tên đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang
bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một
quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri
kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ
tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của
truyện được thể hiện một cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thể mà ép mình viết câu
đối bao giờ. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho
chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết
sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý
cái đẹp của chữ nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có
biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Viên
quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị
đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ
thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà
ngươi đừng đặt chân vào đây. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã
nói một lời sâu sắc và cảm động: thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.
Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái
đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được
thiên lương. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi ở đây
khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ
được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. Đêm hôm
ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện,
đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa
tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu
nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính
trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc
tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm
lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội
khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh
người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thơ lại trở nên nhỏ bé, bị động,
khúm núm trước người tử tù.Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần
đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật
hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi
lộng lẫy, còn viên quản ngục và thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không
phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả
đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn
kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang
sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều
thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách.
Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình,
nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời
của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục
có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó.
Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp
trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái
dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng
rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ.
Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong
trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm
núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực
không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con
người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ
người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng
gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp
điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bị trắng toát lên trong đoạn văn.
Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ
tươi tắn nó nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng
của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối
với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ
cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao
nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.
Cảnh cho chữ - Mẫu 4
Nguyễn Tuân là một trong năm tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có đóng
góp không nhỏ đối với nền văn học hiện đại. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Tuân luôn khát
khao đi tìm cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời để sáng tạo nên những kiệt tác văn học
độc đáo. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”của ông
cũng chứa đựng những nét đẹp đó.
Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi là một thú chơi tao nhã của những kẻ có học thức.
Thú chơi chữ thể hiện được toàn bộ cái đẹp, cái tài năng và cả trí tuệ của người viết
cũng như người thưởng thức. Cảnh cho chữ thường được diễn ra tại những nơi trang
trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Rồi từ đó những nét chữ
uyển chuyển mang trong nó cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng cũng những nét chữ
uyển chuyển có hồn ấy, Nguyễn Tuân lại cho nó sinh ra trong một hoàn cảnh khác lạ,
“ một cảnh xưa nay hiếm”. Đó là cảnh cho chữ trong tác phẩm: ”Chữ người tử tù”
trích trong tập “Vang bóng một thời”.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ông có đóng góp rất lớn cho nền văn học nước nhà đặc biệt là ở thể tùy bút. Nguyễn
Tuân có nhiều tác phẩm hay như: Một chuyến đi, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, sông Đà,
Vang bóng một thời,... Vang bóng một thời là một trong những tác phẩm thành công
nhất của Nguyễn Tuân, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất trong kho tàng văn học Việt Nam.
Truyện ngắn “chữ người tử tù” ban đầu có tên là “dòng chữ cuối cùng”. Đây là tác
phẩm kết tinh tài hoa của Nguyễn Tuân trước Cách Mạng và được nhà phê bình Vũ
Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm đạt gần tới sự hoàn thiện, toàn mĩ”. Nhân vật
chính trong truyện ngắn này là Huấn Cao- một con người văn võ song toàn. Huấn Cao
có tiếng là người có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp. Ông không chỉ cái cái tài về nghệ
thuật thư pháp mà còn có cái trí tuệ uyên bác. Từng nét chữ của ông ẩn chứa cả văn
hóa, quan niệm về nhân thế. Người ta treo chữ ông trong nhà không chỉ để chiêm
ngưỡng cái đẹp của bức thi họa, mà còn để ngẫm nghĩ những tư tưởng sâu sắc. Nhưng
“tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà
treo là một vật báu trên đời”. Không chủ có tài về nghệ thuật, ông Huấn còn là người
có thiên lương. Tính ông chính trực, khẳng khái, không vì tiền bạc, quyền thế mà ép
mình cho chữ bao giờ. Gặp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm, khiến
người đọc dễ dàng liên tưởng tới người thủ lĩnh tài ba văn vó phong toàn, người anh
hùng dân tộc Cao Bá Quát. Được nhân dân ca tụng:
“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đảo Tùng Tuy thất thịnh Đường”.
Thật vậy, ngay lúc bước vào tù lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông Huấn
không những không mảy may run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn
lạnh lùng “thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Lúc
bị giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản ngục, ngày ngày đưa rượu thịt
vào cho ông và các đồng chí, ông vẫn thản nhiên đón nhận và coi đó là “hứng sinh
bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, không muốn hắn bước vào buồng
giam của ông thêm lần nào nữa.
Một con người có tài năng về nghệ thuật, có thiên lương cao đẹp, lại có khí phách
ngang tàn và tính khoảnh như Huấn Cao tưởng chừng như sẽ không bao giờ chịu chấp
nhận tặng chữ của mình cho viên quản ngục. Thế nhưng, khi hiểu ra nỗi lòng và sở
thích cao quý của viên quản ngục, biết ông đã bất chấp cả tính mạng của mình vì thú
vui cao quý, Huấn Cao đã thay đổi định kiến về một kẻ tiểu lại giữ tù như ông , ân hận
vì thiếu chút nữa “đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” và quyết định tặng chữ
cho ông. Chính lúc này, thiên lương của ông đã tự tỏa sáng, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ
rực của bó đuốc, tỏa sáng cả căn buồng giam chật hẹp ẩm thấp đầy phân gián phân
chuột hôi hám. Trong chính cái đêm hôm ấy, cái đẹp đã lên ngôi. Từ một viên quản
ngục hàng ngày khét tiếng tàn bạo giờ đây lại khúm núm. Một kẻ tử tù, “ cổ đeo gông,
chân vướng xiềng” lại đĩnh đạc, làm chủ nơi ngục tù. Kẻ tử tù ấy dù bị giam hãm về
thể xác nhưng nhân cách y lại tự do khác hẳn với kẻ tưởng chừng tự do nhưng lại bị
trói buộc cả tâm hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác ngự trị này. Nơi ngục tù tăm tối
ấy, đêm nay lại diễn ra “cảnh xưa nay chưa từng có”. Cảnh cho chữ - cho một vật báu
trên đời lại được diễn ra tại nơi tối tăm chật hẹp. Cái ánh sáng của ngọn đuốc cháy đỏ
rực xóa tan bóng đêm tăm tối. Mùi thơm từ chậu mức bốc lên xoa dịu đi mùi hôi tanh của căn phòng.
Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng nét chữ vừa đẹp, vừa vuông của ông Huấn
dần hiện ra. Vậy là cái đẹp có thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, cái tội lỗi nhưng
không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì thế, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao
đã khuyên viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững, phải
có thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Cái thiên lương cao đẹp của
ông Huấn cũng là sáng bừng cả thiên lương ẩn giấu của quản ngục. Hành động xin
“bái lĩnh” của y chính là sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại thảm hại của cái xấu,
cái ác. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi có trăng hoa tuyết nguyệt mà lại ở trong căn
buồng tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại là nơi cái đẹp được “khai sinh”,
thăng hoa. Toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần
khiết của khí phách của thiên lương. Người tử tù dù ngày mai có phải chịu án tử hình
nhưng kẻ ấy không chết mà sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao là hiện
thân cho vẻ đẹp hoàn mỹ, con người ấy chỉ có thể chết về tinh thần , nhưng tử tưởng
đẹp của ông Huấn và từng lờ dạy của ông sẽ còn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục
trong suốt cuộc đời còn lại.
Câu chuyện thành công không chỉ vì nó phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời
mà còn vì cái độc đáo khác lạ của tình huống truyện. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ
giữa hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người là viên quan quản ngục- một công
cụ trấn át kẻ tù tội phục vụ cho triều đình, còn người kia là kẻ tử tù chống lại triều
đình. Thế nhưng chính cái đẹp đã đẩy hai con người hoàn toàn khác biệt ấy trở thành
tri kỉ. Họ là người nghệ sĩ, biết yêu và coi trọng cái đẹp. Cái độc đáo của truyện cũng
nằm trong chính từng nhân vật. Huấn Cao - tên tử tù – lại là một nghệ sĩ sáng tạo ra
cái đẹp. Viên quản ngục - công cụ trấn tội phạm của triều đình- lại là con người có
mong muốn thưởng thức cái đẹp. Cả câu chuyện mang vẻ cổ kính từ nhân vật, cảnh
cho chữ cho đến ngôn ngữ câu văn. Chính nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp với
bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn đã đem đến thành công cho tác phẩm. Không
gian ẩm thấp nơi buồng giam, thời gian đêm tối bóng dáng con người trong đêm và
ánh sáng bó đuốc như ánh sáng của thiên lương, của tài năng, khí phách. Màn đêm
tăm tối của ngục từ - hiện thân cho cái ác - lại bị ánh sáng của tài năng, thiên lương
làm sụp đổ. Không gian được miêu tả hẹp dần: từ căn phòng đến ánh sáng ngọn đuốc,
tấm lụa trắng tinh rồi đến từng con chữ vuông vắn.
Dường như, cảnh cho chữ và hình tượng nhân vật Huấn Cao đã giúp Nguyễn Tuân thể
hiện thành công phong cách nghệ thuật của mình. Ông luôn hướng tới cái đẹp, cái phi
thường lí tưởng, đã đẹp phải tuyệt mĩ, đã tài phải siêu phàm, nhưng cũng có cá tính độc đáo.
Câu chuyện kết thúc nhưng dư âm về cái đẹp, cái khí phách hiên ngang và thiên lương
cao quý của ông Huấn vẫn còn vương vấn. Người đọc có thể hình dung ra một viên
quản ngục từ biệt nơi quan trường đầy thị phi mà trở về quê nhà. Ngày ngày, ông thư
thả ngắm bức thi họa của ông Huấn ban cho được treo ngay ngắn trong gian giữa ngôi
nhà mà trong lòng vẫn khắc sâu lời khuyên răn của ông Huấn.
Cảnh cho chữ - Mẫu 5
Nguyễn Tuân được sinh ra trong 1 gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của
ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có
những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ
người tử tù" được in trong tập “Vang bóng một thời" đánh dấu tài năng của Nguyễn
Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là 1 văn phẩm đạt gần đến độ hoàn
mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đâm vẻ đẹp
lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của
thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh
tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa này chưa từng có.
Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa 2 nhân vật Huấn Cao và viên
quản ngục, cả 2 đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không
chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết
thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú
chơi chữ. Và quản ngục là 1 trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được
đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà, Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong 1
hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người
có thú chơi chữ tao nhã kia lại là 1 viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có
thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có 3 người. Liệu Huấn Cao có thể cho
chữ cho kẻ tiểu lại như quan nhục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không
thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của
quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình
tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là để phô trương
tài năng mà là để tạ 1 tấm lòng.
Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng,
cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân
say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc sảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ
điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huân tại
nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy
tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián Trong không khí trang nghiêm 3 nhân
vật hiện lên trong 3 tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gông, còn chân vướng
xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ đậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm
núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run
run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều
có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp Những nét chữ của con người
chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng xiêu vẹo mà “vuông, tươi tắn nói
lên hoài bão tung hoành của 1 đời con người". Những nét chữ như phượng múa rồng
bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn
trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện
được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần
tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ
xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai
mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải…. Ông
còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới
chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt
ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được
hết cái đẹp, phải có 1 môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy,
Huấn cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không
thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ 1 tấm lòng, để chia sẻ với 1
tri kỉ và để nâng đỡ 1 thiên lương.
Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng.
Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói 1 câu mà dòng nước
mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh “. Qua thái độ
kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với
người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, đưa những con người
đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng
thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế,
bẩn thỉu, Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của
cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm tỏa
ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải,
không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.
Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh “xưa nay chưa từng có" vì thú chơi
chữ là 1 thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết
thư pháp không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hóa nhất
định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát,
thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ
trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia
quá đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh
sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của
triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm
chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn
Tuân đã làm 1 cuộc đảo lộn trật tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không con người tử
tù, cũng không còn quản ngục, gông xiềng bị vô hiệu hóa, chỉ còn người nghệ sĩ đang
sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp
Qua truyện ngắn “Chữ người tử tù" người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm
thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm.
Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hóa
truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia.
Cảnh cho chữ - Mẫu 6
Trong một không khí khói tỏa như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm
dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần
hồ. Khói bốc tỏa cay mắt. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô
nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một
chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên
phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”.
Đoạn văn miêu tả đặc sắc đầy chất tạo hình và điện ảnh trên hẳn đã góp phần làm sáng
tỏ thêm nhân định : Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc;
đồng thời cũng khẳng định thêm sự phong phú, chính xác về kiến thức lịch sử, văn
hoá, xã hội…., năng lực quan sát lọc lõi và trí tưởng tượng mạnh mẽ và bay bổng của
tác giả Vang bóng một thời.
Đoạn văn miêu tả cảnh tượng người tử tù tặng thư pháp nơi ngục thất vừa thảm đạm
vừa hào hùng khiến cho cả ba nhân vật Huấn Cao, quản ngục và thơ lại bỗng thăng
hoa thành những hình tượng kì vĩ phi thường – Xây dựng được cốt cách phi phàm,
những “con người khổng lồ” nhưng có khi phải lặn ngụp “dưới đáy” xã hội, đó cũng
là một đặc trưng nổi bật của bút pháp lãng mạn chủ nghĩa nói chung. Đoạn văn chứa
đầy mơ ước thiết tha của Nguyễn sở dĩ gọi thức tâm linh người đọc, cũng bởi cả ba
nhân vật, tuy ở các vị trí xã hội xa cách nhau nhưng lại có khả năng bổ sung phẩm tính
cho nhau ấy, đều là những mảnh hồn của tác giả say đắm hóa thân : tam vị nhân vật,
nhất thế ? Nguyễn Tuân. Bút pháp đoản thiên tiểu thuyết phong cách điêu khắc của
Nguyễn dựng nên nhóm tượng đài Thiên lương – Tam vị nhất thể sáng láng này
dường như muốn tạo tác một biểu hiện làm đối chứng với cái hiện thực xã hội thực
dân nửa phong kiến tồi tệ hiện hữu trước mắt tác giả. Sự thực, cái xã hội nhãn tiền ấy
đã được Nguyễn Tuân lịch sử hoá , “Sơn Hưng Tuyên” hóa qua bối cảnh câu chuyện
ông Huấn cho chữ ; đó là một xã hội “hỗn loạn xô bồ” với những thế nhân “cặn bã”,
những “lũ quay quắt” sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc : đối với kẻ sa cơ thất thế thì
sẵn sàng hung hăng “hết cho mấy hèo bây giờ” – “Ở đây, khó giữ thiên lương”…Khi
viết những dòng Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã và đang được nếm trải thấm
thía cái mùi vị xã hội ấy – thậm chí, một sự nghiệm sinh khá kĩ lưỡng, tất nhiên chưa
đến độ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng lê bước dần tới nơi đoản mệnh như ông Huấn,
nhưng bất hạnh đến mức tù đày khổ nhục đắng cay (1929 – 1930) thì cũng đã từng:
“những trái tim đó (của các tù nhân – V.T) thỉnh thoảng có lên tiếng nhưng một cách
dữ dội và tàn ác. Những cuộc xô xát giữa tù và tù giữa bữa cơm mắm nhà nước phát,
thường bắt đầu từ việc tranh giành một quả ớt. Quả ớt đỏ đã nhuộm đỏ những nắm
cơm đỏ bị những vần tay vấy máu mân mê. Những bữa cơm cá thối trong một bầu
không khí kinh khủng như vậy…” (Một chuyến đi). Có thể nói nguyên mẫu nhân vật
Huấn Cao là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đắc Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ
trăm năm trước ; nhưng nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều đại
Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước mắt người đang
sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để “dĩ cổ vi kim” (lấy
xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràng của tác giả. Bất đắc chí, bất mãn, phản kháng
chế độ xã hội thực dân địa đang tiếp tục nuôi dưỡng quy luật đau thương : thân phận
không phải là hệ quả của bản chất – tinh thần dân tộc sâu xa của nhà văn Nguyễn
Tuân yêu nước thâm trầm chủ yếu là ở chỗ đó. Một biểu hiện nữa của tinh thần dân
tộc trong Chữ người tử tù là thái độ luyến tiếc của một nhã thú văn hoá cổ truyền đang
lụi tàn dần trong xã hội thời Tây : thưởng ngoạn thư pháp. Do chữ Nho là thứ văn tự
tượng hình, rất nhiều chữ giống như tranh hiện đại chủ nghĩa (siêu thực, trừu tượng),
nét bút lông lại rất mềm mại dễ dàng bộc lộ cá tính và nhân cách…; do đó viết chữ
Nho không đơn thuần là thao tác kí hiệu hóa ngôn ngữ, mà nhiều khi trở nên một hành
động nghệ thuật đích thực : sáng tạo thư pháp (thư pháp có khi đứng riêng một mình,
có khi phối hợp cùng nghệ thuật tạo hình : xuất hiện trên tranh thuỷ mặc…).
Người Việt Nam xưa sử dụng chữ Nho, hòa đồng cùng truyền thống văn hóa phương
Đông đã say mê thư pháp, và cũng sản sinh được không ít những nét chữ vừa “Như
Phượng múa rồng bay”, vừa phát tiết nhân phẩm. Một trong các danh sĩ Bắc Hà Về
thư pháp chính là Cao Chu Thuần (1808 – 1855) với văn chương “vô tiền Hán” và
nhân cách thì “Một đời chỉ cúi trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”)… Xây
dựng một ngũ quan biết nung nấu sở nguyện : “Có được chữ ông Huấn mà treo, là có
một vật báu trên đời”, lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước thiên
lương và thư pháp kiệt xuất của người tử tù : “Người tù viết xong một chữ, viên quản
ngục lại vội khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa
óng”…; Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với một mảng văn hóa truyền
thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá cổ truyền
đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa oán hờn thế cục
“Tây Tàu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt. Về nguyên nhân tinh thần gắn
bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với văn hóa dân tộc ngàn xưa, có thể tìm thấy ở
nguồn gốc gia đình, cũng như ở ngay đời thường của Nguyễn – một con người tài hoa
và am tường và đã sống chan hoà cùng folklore Việt (nghệ thuật sân khấu dân gian :
chèo, tuồng ; nghệ thuật tạo hình dân gian ; dân ca : đào nương ca, trong đó có hát ca trù…).
Cuối cùng, tính dân tộc trong truyện ngắn Chữ người tử tù còn thể hiện ở sự trân
trọng, Nguyễn Tuân đã học thuộc tiếng mẹ đẻ, trong đó có lớp từ cổ đã tạo hiệu quả
lợi hại cho việc tái hiện một cách rất cụ thể – lịch sử, rất hội hoạ điêu khắc và điện
ảnh… những cảnh và người gần trăm năm trước.
Tất nhiên, sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật không phải chỉ ở số lượng từ phong phú
mà còn ở khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ, ngữ điệu của câu…- Nhà văn
Nguyễn Tuân có đầy đủ những điều kiện đó. Một ví dụ nhỏ: tác giả Chữ người tử tù
đã dùng từ “ngấc”, những sách phụ lục văn 12 đã in sai là : “Viên quan coi ngục ngóc
đầu” ; “ngấc” và “ngóc” có phần gần gũi về ngữ âm nhưng ngữ nghĩa khá xa nhau, và
về phương diện gây ngữ cảm thì càng rất khác nhau : ngóc đầu là đứng thẳng dậy, gây
ngữ cảm đáng sợ (rắn ngóc đầu, bọn tội phạm ngóc đầu…), còn ngấc đầu là nhức đầu
nghiêng nghiêng, gây ngữ cảm tội nghiệp (đối với người mệt mỏi, ốm đau…). Các
điều kiện thiết yếu đối với một con người cầm bút sáng tác văn chương ấy, một phần
do thiên bẩm mà Nguyễn có ; phần khác do công phu học hỏi nghiêm túc xuất phát từ
cõi lòng gắn bó với cộng đồng. Theo nhà văn Vũ Bằng : “… không cứ thư gửi cho vợ,
bất cứ cái gì viết ra giấy,in ra chữ, Nguyễn Tuân đều thận trọng, ít ra cũng là thận
trọng hơn so với những nhà văn, nhà thơ khác (…) Thực tôi chưa thấy bản thảo nào
sạch sẽ và viết chữ kiểu cách, nắn nót như bản thảo của Nguyễn Tuân. Trong khi đa số
anh em khác viết trên những tờ giấy nham nhở, cắt xén xô bô, tờ to tờ nhỏ khác nhau,
bao giờ Tuân cũng viết lên những tờ giấy trắng thượng hạng, cắt xén rất đều, kìm kẹp
cẩn thận và không bao giờ quên đóng ở trên đầu một cái dấu xanh in một cánh buồm
“Gió đã lên”, và thường đến cuối bài lại kí một chữ bay bướm và đóng một cái dấu
son đỏ trên màu cánh sen. Sau này cũng có nhiều người cũng bắt chước lối chơi lập dị
đó để bây giờ cái chuyện đó cũng hoá ra thường, nhưng nếu trí nhớ của tôi không lầm
thì Tuân là nhà văn trẻ đầu tiên bắt chước các cụ in nhãn hiệu và đóng dấu vào bản
thảo và sách vở. Đến cái chữ viết của anh cũng cầu kì. Anh viết như nhà nho viết câu
đối chữ thả, uốn éo, lên xuống tỏ rõ thái độ tôn kính của Nguyễn Tuân đối với tiếng
dân tộc ; đồng thời… than ôi! cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân muốn nói gót, hoặc cũng
muốn… xin chữ ông Huấn Cao!
Không phải ngẫu nhiên, mà chính các tố chất tài, tình và đức của “nhà văn đặc biệt
Việt Nam” Nguyễn Tuân đã hiệp đồng cùng nhau tạo Chữ người tử tù – một trong
những truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.
Cảnh cho chữ - Mẫu 7
Nguyễn Tuân là một nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp, ông khao khát xê dịch để biết được
những cái mới, những cái hay của cuộc đời. Đặc biệt, ông quan niệm rằng mỗi một
con người đều là những người nghệ sĩ tài hoa trong công việc của mình. Bằng ngòi
bút tài hoa, uyên bác, Nguyễn Tuân đã vẽ nên một cảnh "xưa nay chưa từng có" trong
truyện ngắn Chữ người tử tù. Cảnh cho chữ của nhân vật Huấn Cao với người quản
ngục hiện lên là một cảnh đắt giá, có giá trị nghệ thuật đặc sắc đối với nền văn học, nó
cũng giống như cái cảnh đắt trời cho mà nhân vật Phùng chứng kiến trong truyện ngắn
Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Cái mà bạn đọc ấn tượng đậm
nét với cảnh cho chữ chính là hoàn cảnh và con người hiện lên trong không gian chật
hẹp, tù túng của chốn lao tù.
Chữ người tử tù có tên ban đầu là Dòng chữ cuối cùng, in trên tạp chí Tao đàn năm
1939. Sau đó được in trong tập Vang bóng một thời. Tập truyện này gồm 11 truyện, là
kết tinh của tài năng uyên bác cũng như ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân. Truyện
ngắn Chữ người tử tù kể về một người tài hoa, viết chữ rất đẹp có tên là Huấn Cao.
Ông đã đứng lên thay mặt người dân để chống lại chế độ phong kiến thối nát lúc bấy
giờ nhưng lại bị cho là một tên cầm đầu đám phản nghịch. Và thế là Huấn Cao bị đưa
vào ngục chờ ngày tử hình. Trong mấy ngày ở trong ngục, hình ảnh nhân vật Huấn
Cao hiện lên là một con người có tài năng, trí tuệ hơn người, có khí thế bất khuất và
thiên lương trong sáng. Cả ba điều này đều hội tụ rõ nét trong cảnh cho chữ ở cuối truyện.
Hoàn cảnh cho chữ trong truyện hiện lên thật éo le, khác thường. Thời xưa, người ta
coi việc chơi chữ là một thú vui tao nhã, để thưởng thức nghệ thuật. Con người
thường chơi chữ vào những đêm trăng sáng, khi phong cảnh nên thơ, hữu tình, họ làm
vài chén rượu dưới ánh trăng và cùng nhau ngâm thơ, viết chữ. Ấy thế mà Huấn Cao -
một người có tài viết chữ đẹp nổi tiếng cả một vùng tỉnh Sơn - lại viết chữ trong ngục
tù với cái "buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột,
phân gián". Chữ ông Huấn "vuông lắm, đẹp lắm", cả đời "cũng mới viết có bộ tứ bình
và một bức trung đường cho ba người bạn của ta thôi. Ta nhất sinh không vì vàng bạc
hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ" . Rõ ràng, một người vừa có tài,
vừa trân trọng cái đẹp như Huấn Cao sẽ không bao giờ cho đi những nét chữ "tung
hoành cả đời người" trong một không gian chật hẹp, tù túng và bẩn thỉu đến như vậy.
Cho nên Nguyễn Tuân mới gọi đây là cảnh "xưa nay chưa từng có".
Hình ảnh người tử tù được Nguyễn Tuân miêu tả thật hiên ngang: "một người tù, cổ
đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm vải lụa trắng tinh". Biện
pháp đối lập làm hiện lên trước mắt người đọc một cảnh tượng thật khác thường, trong
không gian u tối, ẩm mốc ở nhà lao, một con người tài hoa đang viết những nét chữ
trên tấm lụa trắng tinh, trái ngược hẳn với sự u uất nơi đây. Còn người quản ngục thì
"khúm núm bưng chậu mực". Ta lại thấy được sự đối lập một lần nữa. Người quản
ngục, một người có quyền thế, đang nắm trong tay sinh mạng của người tử tù thì lại
khép nép, cúi đầu trước cái đẹp, còn người tử tù sắp phải chết thì lại ung dung, tự tại
hơn bất cứ lúc nào. Nhà văn Nguyễn Tuân đã rất tài năng khi miêu tả cảnh tượng cho
chữ hết sức nghệ thuật này. Cái đẹp đã khiến cho con người ta quên mình, khiến cho
hai nhân vật tượng trưng cho cái thiện và cái ác có thể cúi đầu, cùng nhau thưởng thức
nghệ thuật mà quên đi thực tại. Người quản ngục không còn là một tên lính cai quản
cứng nhắc, không còn hiện thân cho cái ác nữa mà như là một con người bình dị, biết
trân quý cái đẹp. Tài năng viết chữ của Huấn Cao quả thực đã đạt đến độ phi thường,
khiến cho người ta chấp nhận cúi đầu để xin chữ.
Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn khuyên người quản ngục: "Ở đây lẫn lộn, ta khuyên
thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với
những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người".
Câu nói của Huấn Cao cho thấy ông không chỉ là một người có thiên lương trong
sáng, nhân cách cao cả mà ông còn biết trân trọng thiên lương của người khác, muốn
người đó bảo toàn được lương tâm của mình. Đáp lại lời khuyên của Huấn Cao, người
quản ngục cũng tỏ một thái độ thật thành kính: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh", ông
cảm động, vái người tử tù trong khi những giọt nước mắt đang lăn dài trên má. Phải
chăng đó là sự tiếc nuối cho một con người tài hoa, uyên bác sắp phải chịu một cái
chết oan? Hay là giọt nước mắt thức tỉnh lương tâm, rằng sau này ông sẽ theo lời
Huấn Cao, tìm đến nơi có thể giữ được cái tâm lương thiện của mình? Dù là hiểu theo
nghĩa nào thì cảnh cho chữ cũng hiện lên thật đẹp giữa người thực sự biết quý trọng
cái đẹp và người cho đi nét đẹp của cuộc đời.
Cảnh cho chữ vừa cho thấy khí thế ung dung, tự tại của người tử tù cổ đeo gông, chân
vướng xiềng, vừa thể hiện những nét chữ tài hoa cùng thiên lương trong sáng của
Huấn Cao. Song song cùng với đó cũng là nét đẹp của người quản ngục. Dù là đại
diện cho cái ác, đang phục vụ và làm việc cho cái ác nhưng người quản ngục vẫn giữ
được cái tâm lương thiện và say mê cái đẹp. Khung cảnh chốn ngục tù tù túng, chật
hẹp và bẩn thỉu đến đâu thì ta lại càng thấy hai con người họ hiện lên thật đẹp đẽ, phi thường.
Chữ người tử tù quả thật là một tác phẩm khắc họa cái nét rất riêng trong phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cảnh đẹp hiếm có khi cho chữ cũng chính là cái nhìn
của người nghệ sĩ này đối với cuộc đời. Rằng dù ở trong hoàn cảnh nào thì con người
ta vẫn có những nét đẹp và phẩm chất đáng ngợi ca, đáng học hỏi.
Cảnh cho chữ - Mẫu 8
Chữ người tử tù là truyện ngắn đặc sắc, là đỉnh cao trong nghệ thuật khắc hoạ cái đẹp
của Nguyễn Tuân. Dù là trong hoàn cảnh tăm tối nhất của cuộc đời, là cảnh ngục tù
chết chóc thì cũng chẳng thể nào vùi lấp được vẻ đẹp tuyệt mỹ trong tâm hồn con
người. Cảnh cho chữ là chi tiết truyện xuất sắc góp phần to lớn tạo nên giá trị nhân
văn cho toàn bộ tác phẩm. Qua đó, nhà văn khẳng định một chân lý bất diệt: Cái đẹp
luôn trường tồn, thắng thế trước nghịch cảnh éo le của cuộc đời.
Nguyễn Tuân - nhà văn cả đời đi tìm cái đẹp với phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên
bác ông đã làm lay động trái tim người đọc bằng những sáng tác của mình. Nhà văn
luôn đặt con người dưới góc nhìn nghệ sĩ, nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hoá,
thẩm mỹ. Chữ người tử tù nằm trong tập truyện Vang bóng một thời, đây là một sáng
tác được đánh giá hay nhất, tuyệt vời nhất và có giá trị nhân văn sâu sắc nhất của cả
tập truyện. Tác phẩm là câu chuyện kể về những ngày cuối đời của người anh hùng
Huấn Cao, trong cảnh ngục tù tăm tối cái đẹp vẫn hiện hữu và toả sáng hơn bao giờ
hết. Có thể nói tác phẩm thành công là nhờ tài năng sáng tạo tình huống truyện độc
đáo của Nguyễn Tuân, thế những để đẩy cảm xúc truyện lên cao trào, đạt đến độ hoàn
mỹ của một thiên truyện thì phải nhắc đến cảnh cho chữ “có một không hai” đầy bất
ngờ, gây sửng sốt cho người đọc.
Thuở xưa, chơi chữ đã trở thành lối văn hoá tao nhã, thanh cao của người Việt. Những
câu đối, bài thơ với nét chữ bay bổng được treo trong nhà như một thú vui giúp cho
tâm hồn con người thư thái, bình yên. Thưởng thức cái đẹp thanh cao hay là những
thầy nho cho chữ trước nay đều ở trong những khung cảnh thơ mộng, nhẹ nhàng có
thế cái đẹp mới được thỏa sức bộc lộ hết những khía cạnh tươi mới của mình. Người
ngắm nhâm nhi một tách trà nóng cùng nhau trò chuyện ngâm thơ, đối chữ. Ấy vậy
mà trong Chữ người tử tù Nguyễn Tuân đã tạo ra một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt
ra khỏi những chuẩn mực xưa cũ, tác giả gọi đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa
từng có”. Chính chi tiết truyện mới mẻ này đã làm nên sức lôi cuốn, hấp dẫn cho người đọc.
Vào một đêm khuya vắng lặng tại trại giam tỉnh Sơn chỉ còn tiếng gõ mõ vọng canh,
đây là một khoảng thời gian buồn tẻ nhất trong một ngày dài, tất cả vạn vật dường như
đã chìm sâu vào im lặng nhường chỗ cho bóng tối thống trị, chỉ còn tiếng gõ mõ đều
đều trong canh dài, không một bóng người lai vãng. Khung cảnh nhà giam hiện lên tù
túng, chật hẹp, mệt mỏi với từng tiếng thở dài oán thán “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,
tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả miêu tả thật sinh
động, chân thực hoàn cảnh éo le của người anh hùng Huấn Cao, một người nghệ sĩ tài
hoa, văn võ uyên bác giờ đây phải giam mình trong nhà tù tăm tối, đấy là nơi chôn vùi
cuộc đời chẳng phải nơi mà con người có thể sinh sống. Thế nhưng chính tại nơi tầm
thường, hạ đẳng ấy lại xảy ra một sự việc thật trọng đại, làm rung động trái tim của
những con người tài hoa chân chính.
Một không gian tối tăm quanh năm không thấy ánh mặt trời, dù là ngày hay đêm đều
nhuốm màu bóng tối thì giờ đây có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn
nguyên vẹn lần hồ”. Buồng giam ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng
đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”. Dường như họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc
dâng trào để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ. Sự đối lập giữa tư thế và vị
thế của người cho chữ - Huấn Cao và người nhận chữ - viên quản ngục đã được
Nguyễn Tuân khắc hoạ thật sinh động, “một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng,
đang đậm tô nét chữ trên tấm vải lụa trắng tinh, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ
lại “run run bưng chậu mực”. Có lẽ đứng trước cái đẹp trái tim con người bỗng rung
động, như có thứ gì đó bóp nghẹt lại, không ai nói với nhau lời nào nhưng đủ để cảm
nhận niềm hạnh phúc đang tuôn trào trong lồng ngực. Từ một viên quản ngục “quyền
cao chức trọng” giờ đây phải cúi đầu trước vẻ đẹp tài hoa, trước người tử tù có tấm
lòng thiên lương. Có tiếng “thở dài, buồn bã” của Huấn Cao khi những nét chữ cuối
cùng đã viết xong, ông nói giọng đĩnh đạc: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên
thay chốn ở đi.” Tấm lòng nhân hậu của Huấn Cao đã thức tỉnh, cứu rỗi tâm hồn của
những người lương thiện nhưng lạc vào con đường tha hoá, rối ren. Viên quản ngục
cảm động, vái người tử tù một vái “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” những giọt nước
mắt lăn dài trên má như lời kính trọng sâu sắc dành cho vị anh hùng Huấn Cao.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp
thiên lương, nó không đơn độc mà mang một sức mạnh vô hình “nhân đạo hoá” cái ác,
cái xấu xa đi vào con đường chân chính, tươi đẹp. Đoạn văn thể hiện rõ nét phong
cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân, ông luôn đặt con người trong vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ. Ông có kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực, sức tưởng tượng vô cùng độc
đáo. Nguyễn Tuân vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối chọi gay gắt,
một bên là khung cảnh tăm tối ngục tù, một bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.
Cảnh cho chữ trong tác phẩm Chữ người tử tù là một sáng tạo nghệ thuật mới mẻ của
Nguyễn Tuân. Cảnh lạ lùng, hiếm có, khiến ta sửng sốt bội phần thế nhưng nhờ chi
tiết truyện này hình ảnh cái đẹp hiện lên thật diệu kỳ, thể hiện tấm lòng trân trọng,
nâng niu của tác giả trước nét thanh cao của nghệ thuật tuyệt mỹ.
Cảnh cho chữ - Mẫu 9
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho hiếu học, Nguyễn Tuân đã dành cả cuộc
đời mình để săn tìm cái đẹp hướng đến chân – thiện – mỹ. Không thể phủ định được
những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ
người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời” là truyện ngắn đặc sắc đánh dấu tài
năng nghệ thuật của Huấn Cao trước cách mạng tháng Tám và được coi là một tác
phẩm gần như đạt đến độ hoàn mỹ. Ở cuối tác phẩm, cảnh cho chữ là cảnh được tác
giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao, qua chi tiết đó tác
giả muốn khẳng định sự chiến thắng của thiên lương. Có thể nói đây cảnh tượng đắt
giá nhất xưa nay chưa từng có.
Chúng ta có thể thấy, từ xưa tới nay chơi chữ là thú vui tao nhã, thanh cao của những
người có học thức, các sĩ tử,... Các câu đối, châm ngôn cuộc sống, bài thơ nổi tiếng
được những người nghệ sĩ thư pháp uyển chuyển viết lên giấy giúp cho tâm hồn của
con người được thư thái. Chơi chữ chính là nói lên cái đẹp, tài năng và trí tuệ của con
người. Chúng ta sẽ thường bắt gặp cảnh cho chữ được diễn ra ở những nơi trang trọng,
có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc, rồi từ đó có những nét chữ uyển
chuyển trong đó có cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng với sự sáng tạo của Nguyễn
Tuân thì cảnh cho chữ là một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn
mực xã hội xưa cũ và cho đến bây giờ chúng ta vẫn gọi đó là “cảnh tượng xưa nay
chưa từng có”. Nhưng chính chi tiết lạ lùng ấy đã làm cho giá trị nội dung và giá trị
nghệ thuật của tác phẩm được nâng lên, từ đó tạo nên sức lôi cuốn và hấp dẫn cho bạn đọc.
Không gian và thời gian trong cảnh cho chữ được tác giả miêu tả rất sinh động và
chân thực. Vào một đêm khuya vắng lặng, khi bóng tối đã bao trùm và thống trị nơi
đây. Cùng với tiếng gõ mõ vọng cạnh, nhà tù đã hiện lên một cách chật hẹp, tù túng,
ẩm thấp, mệt mỏi và những tiếng thở dài bất lực trước xã hội đương thời. Một nghệ sĩ
tài hoa, uyên bác giờ đây lại bị giam trong nhà tù tăm tối, thế nhưng tại chính nơi hạ
đẳng, tăm tối đó lại xảy ra một cảnh tượng làm rung động trái tim của những con
người tài hoa chân chính.
Một không gian tăm tối không thể thấy ánh mặt trời dù là ngày hay đêm, trong khung
cảnh như vậy có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”.
Ngay lúc này buồng gian ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực
của một bó đuốc tẩm dầu”, họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo
nên một tác phẩm hoàn mỹ. Sự đối lập về vị thế giữa Huấn Cao – người cho chữ và
người nhận chữ - viên quản ngục, tác giả đã khắc họa sắc nét, sinh động từng hành
động, cử chỉ và thái độ của 2 nhân vật này. Chỉ qua một chi tiết nhỏ này thôi tác giả đã
bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi tăm tối.
Có lẽ vì đứng trước cái đẹp nên những cảnh tượng xung quanh đang diễn ra bỗng
nhiên như chậm lại, khiến cho trái tim con người rung động, như có một thứ gì đó bóp
nghẹt, không ai nói với nhau câu nào nhưng vẫn đủ để cảm nhận được niềm hạnh
phúc, vui sướng đang tuôn trào trong lồng ngực của mỗi con người yêu cái đẹp nơi tù
túng này. Ta có thể thấy lạ, là một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” nhưng lại
cúi đầu trước một người tù, thực chất viên quản ngục đang cúi đầu trước cái vẻ đẹp tài
hoa và người tử tù có tấm lòng thiên lương trong sáng. Khi nét chữ cuối cùng đã viết
xong Huấn Cao thở dài buồn bã, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề và đổi chỗ
ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng, thức tỉnh và cứu rỗi tâm hồn viên quản
ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi vấy bẩn của xã hội. Trước những lời khuyên
đó, viên quản ngục đã xúc động, cảm kích và kính trọng Huấn Cao, những giọt nước
mắt lăn dài trên má ông chính là những giọt nước mắt thể hiện sự tiếc thương cho số
phận người anh hùng đầy khí phách Huấn Cao.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, tác giả Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của
cái đẹp thiên lương, ở bất cứ đâu, cho dù là nơi tối tăm nhất thì cái đẹp vẫn tồn tại,
thậm chí là tồn tại không đơn độc. Nó như một sức mạnh vô hình chỉ đường dẫn lối
cho những người tốt có tấm lòng nhân hậu đang bị lạc nơi bóng tối bao trùm và tội ác
hoành hành trở về đúng con đường chân chính, tươi đẹp. Người đọc có thể cảm nhận
được rằng tác giả là người giàu kiến thức, có sức tưởng tượng cô cùng phong phú và
độc đáo. Chính vì vậy mà tác giả có thể vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng
tối đối lập nhau gay gắt, một bên là màu của khung cảnh tăm tối nơi ngục tù, một bên
là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.
Kết tinh bởi tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho
chữ thành cảnh tượng chưa nay chưa từng có. Tác phẩm đã thể hiện sự tiếc nuối của
chính tác giả và người đọc trước số phận của những con người yêu cái đẹp, luôn
hướng đến cái chân – thiện – mỹ. Xen vào đó, tác giả đã khéo léo bày tỏ tấm lòng của
mình một cách kín đáo, tiếc thương trước số phận người anh hùng nhân hậu, khí
phách và có nhân cách cao thượng.
Cảnh cho chữ - Mẫu 10
Khi nhắc đến lối văn chương hướng đến cái đẹp chân chính, người ta nghĩ ngay đến
người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân, dành cả cuộc đời để tìm kiếm cái đẹp. Trong các
sáng tác của Nguyễn Tuân nói chung và tác phẩm “Chữ người tử tù” nói riêng, tác giả
đã miêu tả nhân vật của mình như một người nghệ sĩ đầy tài năng.Bên cạnh đó, nhà
văn còn khéo léo sáng tạo lên một cảnh tượng vô cùng độc đáo, cảnh tượng xưa nay
chưa từng có đó là “cảnh cho chữ” – đây là chi tiết được đánh giá là xuất sắc nhất của thiên truyện.
Tác phẩm lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng” sau đó được đổi thành “Chữ người
tử tù”. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã đánh giá “đây là một văn phẩm đạt
gần tới sự hoàn mỹ”. Nhân vật chính trong truyện ngắn này chính là Huấn Cao – một
con người văn võ song toàn, một người anh hùng có tấm lòng nhân hậu và thiên lương
trong sáng. Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ nhanh và đẹp, những người biết
chơi chữ thời bấy giờ ai cũng mong muốn có được chữ của Huấn Cao để treo trong
nhà. Nghệ thuật thư pháp và tài hoa uyên bác chính là 2 phẩm chất cao thượng tồn tại
trong con người Huấn Cao. Văn hóa, quan niệm về nhân thế được ẩn chứa trong từng
nét chữ của ông, người ta treo chữ của ông trong nhà không chỉ là để ngắm và thưởng
thức cái đẹp mà còn để suy ngẫm về những tư tưởng sâu sắc. Nhưng không phải ai
cũng có thể có được chữ Huấn Cao, ông chỉ cho những người thân tri kỉ, chính vì vậy
có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà người ta coi đó là báu vật. Huấn Cao không
chỉ nổi tiếng là người viết chữ đẹp, có tài về nghệ thuật mà ông còn là người có thiên
lương. Ông không phải là người vì tiền bạc, vì quyền uy mà ép mình làm những điều
trái với lương tâm, trái với luân thường đạo lý.
Ngay cả khi bước vào tù lao, phải vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông không
những không run sợ mà trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn lạnh lùng “thúc
mạnh đầu thang gỗ gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Khi bị giam trong
nhà lao, ngày ngày viên quản ngục sai người đưa rượu thịt vào, ông thản nhiên đón
nhận và coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, ông
không muốn viên quản ngục bước chân vào phòng giam của mình thêm một lần nào nữa.
Một người ngang tàn, có tài năng nghệ thuật, vị anh hùng khí phách rất ít khi cho ai
chữ của mình. Thế nhưng khi hiểu ra được tấm lòng của viên quản ngục, biết ông bất
chấp cả tính mạng của mình vì cái đẹp, vì thú vui cao quý, Huấn Cao đã có sự thay đổi
định kiến của mình về viên quản ngục, ân hận về việc thiếu chút nữa đã phụ mất một
tấm lòng trong thiên hạ và quyết định tặng chữ cho viên quản ngục. Chính lúc này,
trong không gian của nhà tù chật chội, tăm tối, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ rực của bó
đuốc, tỏa sáng cả buồng giam chật hẹp ẩm thấp hôi hám đầy mùi phân gián, phân
chuột hôi hám thì thiên lương của ông được tỏa sáng, cũng ngay chính lúc này cái đẹp
chính thức lên ngôi. Hằng ngày viên quản ngục khét tiếng tàn bạo giờ lại khúm núm,
cúi đầu. Còn kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” bị giam hãm về thể xác nhưng
nhân cách ông lại tự do khác hẳn với kẻ tự do về thể xác nhưng lại bị trói buộc về tâm
hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác thống trị.
Từng nét chữ vừa đẹp vừa uyển chuyển của Huấn Cao dần xuất hiện trên tấm lụa
trắng. Chính nơi đầy tăm tối và tội ác bao trùm này đã cái đẹp đã nảy sinh và lên ngôi.
Ngay sau khi cho chữ xong Huấn Cao còn cho viên quản ngục lời khuyên nên đổi
nghề, đổi chỗ ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng bền vững. Chính cái thiên
lương cao đẹp của Huấn Cao đã làm sáng bừng cả thiên lương ẩn dấu sâu bên trong
con người viên quản ngục. Hành động của viên quản ngục “vái” Huấn Cao nó thể hiện
sự kính trọng, biết ơn và những giọt nước mắt của viên quản ngục xót thương cho số
phận người anh hùng Huấn Cao. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi trăng hoa tuyết
nguyệt mà nó lại diễn ra ngay trong ngục tù tăm tối nơi cái ác và bóng tối bao trùm,
nơi mà cái ác ngự trị cũng chính là nơi cái đẹp lại “khai sinh”. Nguyễn Tuân đã xây
dựng nhân vật Huấn Cao đại diện cho vẻ đẹp hoàn mỹ, và những tư tưởng đẹp đẽ của
ông sẽ mãi ở lại với đời và sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.
Qua tác phẩm, tác giả không chỉ muốn phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời
mà còn thể hiện sự khác lạ của tình huống truyện. Hai con người hoàn toàn đối lập
nhau nhưng số phận lại đưa hai con người này đến với nhau và trở thành tri kỉ. Một
người là viên quản ngục – công cụ trấn áp kẻ tù tội phục vụ triều đình, còn Huấn Cao
lại là người chống đối lại triều đình. Để có thể đưa tác phẩm đi đến thành công tác giả
đã kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả thực và bút
pháp lãng mạn. Không gian ẩm thấp nơi buồng giam, ánh sáng ngọn đuốc như ánh
sáng của thiên lương, của tài năng, khí phách, bóng tối của màn đêm bao trùm của
ngục tù chính là hiện thân của cái ác đối lập với ánh sáng của ngọn đuốc đại diện cho
ánh sáng tài năng đã được tác giả miêu tả một cách sinh động và chân thực.
Có thể nói thành công trong nghệ thuật là nhờ tác giả đã dồn hết tài năng và tâm
huyết, ông luôn hướng tới cái đẹp, cái chân - thiện – mỹ, cái phi thường, lý tưởng, cái
đẹp phải tuyệt mỹ, đã tài là phải siêu phàm. Chính những điều này đã làm nên giá trị
đặc sắc cho tác phẩm “Chữ người tử tù” để rồi đến tận bây giờ người ta vẫn gọi cảnh
cho chữ trong tác phẩm là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
Làm nên giá trị cho tác phẩm, kết tinh giá trị tư tưởng của văn bản trong Chữ người tử
tù không gì khác chính là cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục. Đây là cảnh tượng
xưa nay chưa từng có. Nó là kết tinh nghệ thuật, hoàn thiện vẻ đẹp phẩm chất nhân vật
và là kết tinh những giá trị tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Tuân.
Huấn Cao vốn là một người Nho sĩ, vì bất mãn với thực tại xã hội đương thời, đã đứng
lên khởi nghĩa, nhưng cuối cùng thất bại ông bị bắt giam và chờ ngày hành quyết. Ông
là một người tài hoa, có tài viết chữ đẹp mà ai cũng ao ước gặp gỡ. Ông gặp quản
ngục tại nơi mà ông bị giam giữ. Không gian gặp gỡ của họ là chốn tù lao, nơi chỉ có
lừa lọc và chém giết lẫn nhau. Đây đồng thời cũng là ngày sống cuối cùng của người
tử tù Huấn Cao. Vị thế của các nhân vật có sự thay đổi khác nhau, trên bình diện xã
hội: Huấn Cao là kẻ tử tù, mang trong mình mong muốn lật đổ và thay đổi trật tự xã
hội, còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, là người đại diện cho trật tự
xã hội đương thời. Trên bình diện xã hội, họ là những người đối nghịch với nhau.
Còn trên bình diện nghệ thuật: Huấn Cao là một người nghệ sĩ với tài năng viết chữ
đẹp, được biết bao người coi trọng, mến mộ; còn viên quản ngục là kẻ liên tài, là
người trân trọng cái đẹp và cái tài sáng tạo ra cái đẹp. Ở đây họ lại là những người bạn
tri âm, tri kỉ. Còn trên bình diện nhân cách: Huấn Cao là người có khí phách kiên
cường, có thiên lương trong sáng, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ; quản ngục
là người biết biết kính mến khí phách và chính là tấm lòng trong thiên hệ. Trong quan
hệ này họ cũng là những người tri âm. Như vậy mối quan hệ giữa họ vô cùng phức
tạp, với những vị thế khác nhau khiến cho mối quan hệ trở nên chồng chéo.
Trong những ngày ở nhà lao tỉnh Sơn, viên quản ngục có thái độ biệt đãi đặc biệt với
ông Huấn Cao: cặp mắt hiền từ khi nhận tù nhân, đồ ăn thức uống trong những ngày
ông Huấn trong ngục, không chỉ vậy quản ngục còn đích thân xuống nhà lao gặp Huấn
Cao với sự lễ độ, khúm núm, dù bị Huấn Cao đuổi ra ngoài vẫn khiêm nhường, lặng lẽ
mà không hề nổi cáu. Bởi quản ngục mong muốn có được nét chữ ông Huấn để treo
trong nhà. Ngày nhận tin Huấn Cao sẽ bị giải đi, quản ngục lặng người đi bởi ông biết
có thể cả đời sẽ không bao giờ có được chữ ông Huấn Cao. Và chính trong hoàn cảnh
đó, thầy thơ lại đã đánh liều xin với Huấn Cao, và được Huấn Cao nhận lời cho chữ.
Đây chính là bối cảnh dẫn đến cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có.
Không gian cho chữ vô cùng đặc biệt, người ta chỉ xin chữ và cho chữ ở những nơi
sạch sẽ, yên tĩnh, trang trọng còn trong tác phẩm cảnh cho chữ lại diễn ra ở nhà tù tối
tăm, bẩn thỉu, đó là nơi chỉ tồn tại cái xấu, cái ác, lừa lọc và giả dối với nhau. Thời
gian cho chữ cũng là một điểm đặc biệt khac: Huấn Cao cho chữ khi mà chỉ đến sáng
mai sẽ phải đi chịu án tử hình. Ông đã dành những giây phút cuối cùng của cuộc đời
để vừa hoàn thành nguyện ước cho quản ngục, vừa để lại những gì tinh túy, đẹp đẽ
nhất cho cuộc đời. Trong không gian tăm tối ấy ánh lên là tấm vải lụa trắng bạch trắng
tinh còn nguyên vẹn lần hồ, người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét
chữ. Mỗi chữ quản ngục viết ra “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng
tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” còn thầy thơ lại thì “run run bưng chậu mực”.
Trước cái đẹp, con người ta dường như không quan tâm tới bất cứ chuyển động nào từ
thế giới bên ngoài, họ chỉ nhìn thấy Huấn Cao và những nét chữ ông đậm tô, thành
kính và thiêng liêng trước khoảnh khắc cái đẹp được tạo tác. Ông Huấn Cao viết xong
phần lạc khoản, lặng lẽ thở dài và đỡ viên quản ngục dậy. Ông thương cho quản ngục
phải ở nơi đen tối, làm nghề này thì khó có thể giữ được thiên lương cho lành vững,
rồi cũng đến lem luốc cả đời lương thiện đi. Chính cái đẹp đó đã có sức mạnh cải hóa
con người. Giữa người cho chữ và nhận chữ có sự chuyển đổi vị thế cho nhau, cho
thấy sự cảm hóa của cái đẹp. Người cho chữ là người nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp lại ở
vị thế của tử tù; vốn là đối tượng cần được giáo dục, cảm hóa lại ban phát những lời
khuyên chí tình cho quản ngục. Người xin chữ ở vị thế quản ngục, cai quản tử tù, tiếp
nhận, bái lĩnh những lời khuyên của tử tù. Qua đó Nguyễn Tuân muốn truyền tải
thông điệp: niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, của cái thiện.
Cảnh cho chữ đã được Nguyễn Tuân vận dụng thủ pháp đối lập tương phản triệt để,
đem lại hiệu quả nghệ thuật cao. Không khí cổ xưa của một thời đã cách xa hàng trăm
năm đã được Nguyễn Tuân gợi lại qua ngôn ngữ và cử chỉ của nhân vật. Cảnh cho chữ
là một bức tranh giàu chất hội họa, đồng thời ông vận dụng linh hoạt kĩ thuật điện ảnh,
liên tục chuyển góc, chuyển cảnh, quay cận rồi quay xa giúp người đọc có cái nhìn
trọn vẹn về nhân vật.
Cảnh cho chữ là một cảnh đặc sắc, “xưa nay chưa từng có”, kết tinh giá trị nghệ thuật
và tư tưởng của Nguyễn Tuân, làm nổi bật và hoàn chỉnh vẻ đẹp nhân cách của mỗi
nhân vật. Với cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã khẳng định, giữa chốn nhà lao tù ngục,
không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị mọi thứ mà chính người tử tù
với tài năng và cốt cách làm chủ. Qua đó, ông cũng ngầm khẳng định sự chiến thắng
của cái đẹp, cái tài hoa và nhân cách cao đẹp với cái xấu xa, độc ác, tàn nhẫn.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Nguyễn Tuân là tên tuổi lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, một nhà văn bậc
thầy, một con người có nhân cách văn hóa mẫu mực suốt một đời “đi tìm cái đẹp, cái
thật” trong văn chương. Nhà văn duy mỹ ấy ông say đắm, ngợi ca và tôn thờ cái đẹp.
Điều đó được ông thể hiện tài tình qua cảnh cho chữ nơi cửa ngục của người tử tù
Huấn Cao và viên quan coi ngục. Đây được coi là đoạn văn quan trọng nhất hội tụ
được giá trị nghệ thuật và tư tưởng của tác phẩm, đồng thời tô đậm thêm vẻ đẹp của
Huấn Cao và viên quản ngục với bút pháp tương phản và lí tưởng hóa cái đẹp.
Đoạn văn tả cảnh cho chữ nằm ở cuối tác phẩm, là đỉnh cao của tình huống truyện éo
le. Người tử tù Huấn Cao bị bắt giam nơi cửa ngục vì tội làm phản chống lại triều
đình, viên quan coi ngục là người có nhiệm vụ trông coi phạm nhân nhưng cũng là
một người say mê cái đẹp, khao khát có được chữ của ông Huấn. Biết được tấm lòng
biệt nhỡn liên tài và tấm chân tình của viên quan coi ngục Huấn Cao đã đồng ý cho
chữ. Với nghệ thuật tương phản rõ rệt cảnh cho chữ đã tháo cởi nút thắt của tình
huống truyện, để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm.
Trước tiên, sự tương phản về vị trí giữa người cho và người nhận. Người cho chữ ở
đây là tên tử tù sắp phải chịu án chém đầu, tên tội phạm nguy hiểm “có tài bẻ khóa và
vượt ngục” và kẻ cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình . Kẻ xin chữ là viên
quan coi ngục người đại diện cho bộ máy cai trị của triều đình ấy. Xét về địa vị xã hội
họ là hai người đối nghịch nhau nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỉ
cùng ham mê, say đắm cái đẹp. Một người có tài viết chữ đẹp, người kia lại suốt một
đời ngưỡng mộ tài năng ấy. Chính điều đó đã làm cho địa vị trí trong xã hội bị xóa
nhòa để làm nổi bật lên sự đồng điệu của hai tâm hồn. Xét về một bình diện khác
Huấn Cao là một người tù bị gông cùm xiềng xích và giam giữ về nhân thân nhưng tự
do về nhân cách còn người kia tự do về nhân thân nhưng nhân cách lại bị cầm tù.
Thứ hai, tương phản giữa thời gian và không gian cho chữ. Thời gian ở đây là đêm
cuối cùng của một đời người anh hùng ở trong khoảnh khắc đếm từng cánh bởi ngày
mai ông cùng các bạn của mình sẽ bị áp giải vào kinh lĩnh án hành hình. Không gian
cũng thật đối lập bởi thông thường cái đẹp phải được sáng tạo ở nơi trong sạch, nghệ
thuật thư pháp thú vui tao nhã và thanh tao phải được thực hiện giữa thanh thiên bạch
nhật trong thư phòng sang trọng ngào ngạt của mùi hương trầm lan tỏa, có ánh đèn
lung linh huyền ảo. Nhưng cảnh cho chữ trong tác phẩm trái lại hoàn toàn được
Nguyễn Tuân đánh giá là “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có” bởi nó diễn ra ở một
nơi là buồng giam của tử tù, nơi tăm tối và “chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện,
đất bừa bãi phân chuột, phân gián” dưới “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”,
ánh sáng trắng của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn đã xóa tan đi bóng tối và mùi mực
thơm thanh khiết áp đảo mùi hôi bẩn thỉu đó là sự thắng thế của cái đẹp với cái phàm
tục dơ bẩn. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân tốn công sức, giấy mực để miêu
tả không gian nơi đây tất cả chi tiết đều có dụng ý nghệ thuật. Nhà văn tả cái bẩn thỉu
để làm nổi bật lên giá trị của cái đẹp. Thế là không còn cái nhà ngục nào tồn tại với
mùi ẩm mốc, mạng nhện… chỉ còn cái mùi của thiên lương thuần khiết, thanh cao hiện hữu.
Thứ ba, tương phản về vị thế và tâm tế của người cho và kẻ xin chữ. Người cho chữ là
“Một người tù cổ đeo gông chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng
tinh căng trên mảnh ván” Huấn Cao lúc này không còn là một tên tử tù sắp bị tử hình
mà là một người nghệ sĩ tài ba sáng tạo ra cái đẹp, nhà tù phong kiến giam giữ được
thân hình ông nhưng không trói nổi nhân cách, tâm hồn ông. Đối lập với tư thế ung
dung, tự do tự tại của người tử tù là sự “khúm núm” của viên quan coi ngục và “run
run” của thầy thơ lại những con người đại diện cho quyền uy lại khép nép đến thế. Cái
“khúm núm” của quan coi ngục không phải là cái cúi đầu hèn hạ mà trái lại rất đáng
trân trọng. Ông cúi đầu thành kính trước cái đẹp đó là một điều nên làm ở trong đời.
Vị thế và tâm thế bị đảo ngược hoàn toàn. Người có quyền lại không có uy, người tử
tù lại giữ trong tay quyền sát quyền sinh, người đáng lẽ phải giáo dục, giáo hóa tội
phạm thì nay lại được tội phạm giáo dục lại. Đây không còn là một cảnh cho chữ bình
thường mà là cảnh giáo hóa thiêng liêng về nhân cách làm người của người cho và
người nhận chữ thông qua đoạn cuối là khi Huấn Cao cho viên quan coi ngục lời
khuyên vô giá. Bởi theo ông “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng
đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.
Nguyễn Tuân với tài năng nghệ thuật tương phản với bút pháp tả thực và lãng mạn
đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết,
tỉ mỉ gây ấn tượng sâu sắc. Giọng văn chậm rãi, từng câu từng chữ như thước phim
quay chậm cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có” làm nổi bật lên nhân cách của con
người hiện thân cho cái đẹp.
Cảnh cho chữ - Mẫu 3
Một trong những đặc điểm nổi bật của bút pháp lãng mạn là tô đậm những cái kì vĩ,
phi thường bằng cách tạo ra những tương phản, đối lập. Cảnh Huấn Cao cho chữ quản
ngục trong tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân chính là một cảnh tiêu biểu
của nghệ thuật lãng mạn. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tổỉ, của cái
đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái
độ cam chịu, nô lệ. Chính vì thế mà bản thân tác giả cũng đã xác nhận đó là: "Cảnh
tượng xưa nay chưa từng cỏ".
Muốn hiểu được giá trị của đoạn văn tả cảnh cho chữ trước hết phải thấy được bố cục
của câu chuyện. Truyện tự nó đã chia làm hai phần: phần đầu chủ yếu giới thiệu về
các nhân vật tham gia vào câu chuyện - có thể xem là phần dẫn chuyện. Trên cơ sở
giới thiệu lai lịch, tính cách nhân vật, tác giả dẫn dắt người đọc vào phần chính của
truyện: cảnh cho chữ. Đây là cảnh quy tụ các nhân vật và chủ đề tác phẩm đồng thời là
kết tinh toàn bộ bút lực và tư tưởng Nguyễn Tuân. Tác phẩm có ba nhân vật chia làm
hai tuyến. Hai tuyến có mối tương quan hết sức oái ăm. Tính chất xung đột, tương
phản khiến cho cuộc gặp gỡ của họ mang đầy kịch tính, hết sức éo le.
Trước hết, xét trên bình diện xã hội, họ là hai kẻ đối địch, một người được coi là kẻ
phản loạn cầm đầu một cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, một người là quan chức
thuộc bộ máy cai trị cửa chính cái triều đình ấy. Nhưng xét trên bình diện nghệ thuật
thì họ là những kẻ tri âm. Ở một khía cạnh khác, đây còn là sự đối mặt của hai loại tà,
hai kiểu tù nhân: một người tự do về nhân thân, nhưng bị cầm tù. về nhân cách. Người
kia tự do về nhận cách nhưng lại cầm tù về nhân thân. Ta có thể coi đây là cuộc gặp
gỡ giữa một kẻ tử tù (Huấn Cao) và một người tù chung thân (quản ngục). Cuộc gặp
gỡ diễn ra trong một hoàn cảnh oái ăm: nhà tù. Chọn tình huống gặp gỡ này, Nguyễn
Tuân đặt quản ngục trước sự lựa chọn: hoặc làm tròn bổn phận một cai tù hoặc trọng đạo tri kỷ.
Làm tròn bổn phận quản ngục đồng nghĩa với việc giẫm đạp lên tấc lòng tri kỷ. Làm
tròn đạo tri kỉ thì tất phải tư bỏ bổn phận nhà nước của một viên quan. Ngục quan lựa
chọn theo hướng nào thì ý nghĩa tư tưởng, câu chuyện sẽ nghiêng theo hướng ấy.
Theo hướng thứ nhất, chiến thắng sẽ thuộc về cái tầm thường, còn theo hướng thứ hai,
cái đẹp, cái thiện lương sẽ chiến thắng. Cho nên, xét về một mặt nào đó thì Chữ người
tử tù có thể xem là câu chuyện về số phận của cái đẹp mà cảnh cho chữ chính là cảnh
quyết định cho số phận đó.
Huấn Cao cho chữ là để đáp lại một tấm lòng. Chữ của Huấn Cao là tinh huyết và tâm
huyết của Huấn Cao. Huấn Cao cho chữ quản ngục là đem lòng mình đạp lại kẻ tri
âm. Đó là tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Cứ theo cách Nguyễn Tuân miêu tả
nhân vật ở phần đầu và cách đặt nhân vật trong tình huống thường thấy ở chủ nghĩa
lãng mạn để tô đậm các nhân vật và tư tưởng nghệ thuật thì cảnh cho chữ không thể
diễn ra đơn giản. Đó cũng là điều mà cả đời viết văn của mình. Nguyễn Tuân không bao giờ chấp nhận.
Nguyễn Tuân viết về Huấn Cao với những nét bút lãng mạn, tô đậm tài hoa, khí phách
và thiên lương. Đặc biệt Nguyễn Tuân nhấn mạnh tính khảng khái và khí khái của
Huấn Cao. Viết đẹp nhưng sinh thời Huấn Cao chỉ mới viết cho ba người bạn thân.
Muốn có được chữ Huấn Cao không thể lấy vàng bạc ra mua, không thể lấy vàng bạc
ra mua, không thể dùng quyền uy mà ép. Muốn có được chữ Huấn Cao trước hết phải
được ông kết nạp vào số nhưng tri kỉ hiếm hoi của mình. Ngục quan bị Huấn Cao coi
là kẻ tiểu nhân, lại làm nghề thất đức. Huấn Cao không che giấu thái độ "khinh bạc
đến điều" đối với ngục quan. Cơ hội tiếp cận, trò chuyện đã khó nói gì đến tri kỉ. Giữa
họ là cả một vực sâu ngăn cách.
Quan hệ giữa quản ngục và Huấn Cao cải thiện được hay không, lúc này hoàn toàn
phụ thuộc vào thái độ của Huấn Cao. Khi Huấn Cao phát hiện ra "một tấm lòng trong
thiên hạ" có "thiên lương" trong trẻo nơi ngục quan thì quan hệ hoàn toàn thay đổi. Sự
khinh bỉ đã nhường chỗ cho sự trân trọng. Chính tấm lòng ngục quan đã làm cảm
động tấm lòng Huấn Cao. Thì ra từ trong sâu thẳm ngăn cách. Cái tâm đã làm cảm
động cái tài và khi cái tài và cái tâm có sự chuyển hóa thì cái đẹp ra đời.
Nguyễn Tuân là nhà văn thiên về chủ nghĩa "duy mỹ". Nhưng trước sau Nguyễn Tuân
vẫn tin ở "thiên lương" con người. Ông không chí hướng tới cái "mĩ" mà còn hướng
tới cái "chân", cái "thiện". Sự ra đời của cái đẹp chính là sự hòa hợp tuyệt diệu giữa tài
hoa và tâm thiện đạt đến độ chân như. Đó là tư tưởng Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân ngưỡng mộ vẻ đẹp của khí phách, vẻ đẹp của tài hoa, vẻ đẹp của thiên
lương. Ông đã dồn bút lực dựng lên sức sống của những vẻ đẹp ấy nên dù Huấn Cao
có ra đi mãi mãi thì tất cả vẫn vẹn nguyên, vẫn sống mãi.
Cảnh cho chữ - Mẫu 4
Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân được biết đến với quan niệm thẩm mỹ
trân trọng, đề cao cái đẹp, khám phá cái khác thường và xây dựng các hình tượng
nhân vật mang đậm nét tài hoa nghệ sĩ. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đã
được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đây là thiên truyện ngắn kết
tinh những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, trong đó cảnh cho chữ “xưa nay
chưa từng có” diễn ra chốn ngục tù tăm tối đã ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về sự
chiến thắng của cái đẹp trước cái xấu, cái ác.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù”, cảnh tượng cho chữ được diễn ra vào cuối tác phẩm
và diễn ra trong hoàn cảnh trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường. Cảm động trước
tấm lòng biệt nhỡn liên tài qua lời kể của thầy thơ lại, Huấn Cao đã đồng ý với ước
nguyện của viên quản ngục, tạo nên một cảnh tượng độc đáo “xưa nay chưa từng có”
diễn ra chốn ngục tù. Trong không gian đêm khuya vắng lặng, chỉ còn “văng vẳng
tiếng mõ chòi canh”, dưới ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, nơi buồng giam chật
hẹp và ẩm ướt, Huấn Cao - người tử tù “cổ đeo gông, ch”khúm núm”, thầy thơ lại
“run run bưng chậu mực”. Tác giả Nguyễn Tuân đã vận dụng thành công thủ pháp đối
lập để tái hiện thành công cảnh cho chữ mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Trong văn hóa thời trung đại, chơi chữ là một thú vui tao nhã, những nét chữ uốn lượn
tung hoành còn thể hiện rõ phẩm chất, tài năng của bậc quân tử, đấng anh hùng. Bởi
vậy, thú vui này thường gắn liền với những bối cảnh thanh tao như chốn viện sảnh,
thư phòng, trà thất. Tuy nhiên, cảnh tượng cho chữ diễn ra trong truyện ngắn “Chữ
người tử tù” lại được khắc họa trong một bối cảnh hoàn toàn đối lập. Đó là buồng
giam chật hẹp nơi tỉnh Sơn với sự tăm tối, chật hẹp, ẩm ướt, “tường đầy mạng nhện”,
“đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Thời gian diễn ra cảnh cho chữ trong đêm khuya
trước khi Huấn Cao bị dẫn ra pháp trường đã tô đậm hơn nữa bối cảnh độc đáo của cảnh tượng này.
Không chỉ đặc biệt ở bối cảnh không gian và thời gian, cảnh cho chữ còn là “cảnh
tượng xưa nay chưa từng có” bởi sự đảo lộn vị thế giữa người cho chữ và người nhận
chữ. Huấn Cao - người cho chữ vốn là kẻ tử tù “đường bệ ung dung” phác họa những
nét chữ thể hiện hoài bão, lí tưởng, còn viên quản ngục - người nhận chữ là đại diện
cho quyền lực lại “khúm núm sợ sệt”. Giữa những phút giây đó, không còn tồn tại mối
quan hệ xã hội giữa người tử tù và quản ngục, thơ lại, mà chỉ còn người nghệ sĩ tài
hoa đang tạo ra cái đẹp - những nét chữ uốn lượn trước đôi mắt và sự kính phục của
những tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và yêu cái đẹp. Những dòng chữ tươi tắn uốn lượn
trên tấm lụa trắng hương thơm của thỏi mực đã chiến thắng, lấn át sự lạnh lẽo, ẩm ướt
chốn ngục tù tăm tối. Người tử tù vươn lên làm chủ, còn những người vốn có quyền
uy tối cao tại buồng giam lại gọi Huấn Cao bằng danh xưng “Ngài”, “xin bái lĩnh”,
“xin lĩnh ý” đầy tôn kính và thái độ nhún nhường, khép nép cùng hành động cúi đầu,
vái lạy trước tù nhân. Với cảnh tượng cho chữ độc đáo, chốn ngục tù đã trở thành nơi
trị ngộ, gặp gỡ của những con người yêu và say mê cái đẹp. Không chỉ dừng lại ở đó,
cảnh tượng cho chữ còn thể hiện những ý niệm sâu xa ẩn chứa trong lời khuyên của
Huấn Cao dành cho viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay
chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ
vuông tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người... Tôi
bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi
đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi
cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên của Huấn Cao đã thể
hiện quan điểm thẩm mỹ và thái độ của ông về nghệ thuật và cuộc sống con người.
Qua việc tái hiện cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”, tác giả Nguyễn Tuân
đã gửi gắm những ý niệm ẩn dụ về tư tưởng và quan điểm nghệ thuật. Trước hết, sự
thay đổi vị thế giữa các nhân vật đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp trước
những điều tầm thường, sự xấu xa, độc ác. Đồng thời, qua đó, vẻ đẹp của nhân vật đã
được khắc họa rõ nét hơn. Hình tượng nhân vật Huấn Cao đã hiện lên chân thực, sinh
động với phẩm chất, tài năng, khí phách hiên ngang, phi thường; còn bức chân dung
viên quản ngục - “thanh âm trong trẻo chen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn
xô bồ” được tô đậm hơn nữa ở tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” và hướng về cái đẹp. Đặc
biệt, lời khuyên của Huấn Cao dành cho viên quản ngục còn thể hiện quan điểm thẩm
mỹ của Nguyễn Tuân: “cái đẹp gắn liền với cái thiện”, sự thiên lương, trong sáng
không thể tồn tại trong môi trường của cái xấu, cái ác.
Bằng bút pháp lãng mạn, tác giả Nguyễn Tuân đã tái hiện thành công cảnh cho chữ
diễn ra chốn ngục tù để thể hiện những giá trị tư tưởng sâu sắc. Đoạn văn còn thể hiện
tài năng của nhà văn trong việc vận dụng thủ pháp tương phản, đối lập kết hợp ngôn
ngữ giàu chất tạo hình, điêu luyện để tạo nên “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
về sự chiến thắng của cái đẹp.
Cảnh cho chữ - Mẫu 5
Nguyễn Tuân được đánh giá là "một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp", là một con người
rất mực tài hoa và là bậc thầy của truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia làm hai
giai đoạn, trước và sau Cách mạng tháng Tám. Ở giai đoạn trước, ông thoát li hiện
thực, tìm lại vẻ đẹp của một thời vang bóng xa xưa với những phong tục và thú vui tao
nhã, tập "Vang bóng một thời" là tập truyện tiêu biểu nhất của ông ở thời kì ấy, trong
đó không thể không kể đến Chữ người tử tù với thú chơi chữ truyền thống của Huấn
Cao và viên quản ngục. Chữ người tử tù in trong tập Vang bóng một thời xuất bản
năm 1940. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm.
Đã từ rất lâu, chơi chữ được coi là nét văn hóa tao nhã của người Việt ta. Những câu
đối với nét chữ bay bổng được viết để treo trong nhà như một thú vui giúp cho tâm
hồn con người được thư thái hơn. Khi thưởng thức cái đẹp thanh cao, các nhà nho cho
chữ đều diễn ra ở những khung cảnh thơ mộng, yên tĩnh để khơi nguồn cảm xúc, cái
đẹp được bộc lộ hết những khía cạnh của mình. Vậy mà trong Chữ người tử tù, cảnh
cho chữ ấy lại diễn ra ở nơi tù ngục tối tăm, vượt ra khỏi chuẩn mực của xã hội, tác
giả gọi đó là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác
phẩm, ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục
bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao.
Chính vì thế cảnh cho chữ có ý nghĩa mở nút, giải tỏa những băn khoăn của người
đọc, từ đó làm toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.
Đêm buông xuống, ánh sáng đã nhường chỗ cho màn đêm tối tăm. Đây là khoảng thời
gian buồn tẻ, hiu hắt nhất của ngày, vạn vật như chìm vào im lặng chỉ còn tiếng gõ mõ
đều đều trong canh dài, không một bóng người lai vãng. Khung cảnh nhà giam hiện
lên tù túng, chật hẹp với từng tiếng thở dài oán than “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt,
tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả miêu tả thật sinh
động, chân thực hoàn cảnh éo le của người anh hùng Huấn Cao, một người nghệ sĩ tài
hoa giờ đây phải giam mình trong nhà tù tăm tối. Thế nhưng chính tại nơi tầm thường
ấy lại xảy ra một sự việc thật trọng đại, làm rung động trái tim của những người tài hoa chân chính.
Nhà giam ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc
tẩm dầu”. Dường như cả ba người đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để
tạo nên một tác phẩm nghệ thuật hoàn mỹ. Sự đối lập giữa tư thế và vị thế của người
cho chữ - Huấn Cao và người nhận chữ - viên quản ngục đã được Nguyễn Tuân khắc
hoạ thật rõ nét, “một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ
trên tấm vải lụa trắng tinh, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng
chậu mực”. Có lẽ đứng trước cái đẹp trái tim con người bỗng rung động, như có thứ gì
đó bóp nghẹt lại, không ai nói với nhau lời nào nhưng đủ để cảm nhận niềm hạnh
phúc đang tuôn trào trong lồng ngực. Từ một viên quản ngục “quyền cao chức trọng”
giờ đây phải cúi đầu trước vẻ đẹp tài hoa, trước người tử tù có tấm lòng thiên lương.
Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng nét chữ vừa đẹp, vừa vuông của Huấn Cao
dần hiện ra. Vậy là cái đẹp có thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, cái tội lỗi nhưng
không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì thế, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao
đã khuyên viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ ở để giữ thiên lương trong sáng của mình,
có thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Cái thiên lương cao đẹp của
Huấn Cao cũng là sáng bừng cả thiên lương ẩn giấu của quản ngục. Hành động xin
"bái lĩnh" chính là sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác.
Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi có trăng hoa tuyết nguyệt mà lại ở trong căn buồng
tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại là nơi cái đẹp được "khai sinh", thăng hoa.
Toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần khiết của
khí phách của thiên lương. Người tử tù dù ngày mai có phải chịu án tử hình nhưng kẻ
ấy không chết mà sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao là hiện thân cho vẻ
đẹp hoàn mỹ, con người ấy chỉ có thể chết về tinh thần, nhưng tư tưởng đẹp của Huấn
Cao và từng lời dạy của ông sẽ còn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.
Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp
thiên lương, nó không đơn độc mà mang một sức mạnh vô hình “nhân đạo hoá” cái ác,
cái xấu xa đi vào con đường chân chính, tươi đẹp. Đoạn văn thể hiện rõ nét phong
cách nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Tuân, ông luôn đặt con người trong vẻ đẹp tài hoa
nghệ sĩ. Ông có kiến thức phong phú về nhiều lĩnh vực, sức tưởng tượng vô cùng độc
đáo. Nguyễn Tuân vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối chọi gay gắt,
một bên là khung cảnh tăm tối ngục tù, một bên là ánh sáng chói loá của nét đẹp hoàn mỹ.
Cảnh cho chữ - Mẫu 6
Giữa những bộn bề phức tạp của buổi chợ phiên văn chương, giữa những náo nhiệt
đông đúc của gian hàng lãng mạng. Nguyễn Tuân được nhận ra là một chủ cửa hàng
cá đặc biệt với chất ngông đầy mới mẻ và cá tính, độc đáo của mình Nguyễn Tuân đã
đưa người đọc phiêu du vào cuộc hành trình đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng. Tiêu
biểu cho cuộc hành trình gian truân, vất vả đó là tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đi sâu
vào khám phá tác phẩm người đọc sẽ không khỏi ấn tượng trước cảnh cho chữ ở cuối
truyện, nhận xét về tình huống này có ý kiến cho rằng cảnh cho chữ trong truyện ngắn
Chữ Người Tử Tù là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Quả không sai khi nói rằng sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả
nhào nặn từ đời sống, nếu sáng tác của văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư
cấu và tưởng tượng mà không mong hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm
xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ
mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Tuân đã không ngừng
tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị thế của mình trong nền văn học Việt
Nam hiện đại, đồng thời tìm ra cho mình một phong cách hoàn toàn khác so với
những nhà văn cùng thời. Ông luôn khát khao đi tìm cái đẹp với một niềm tin bất diệt,
cái đẹp bao giờ cũng có sức cảm hóa đối với cái xấu và cái ác. Đọc Chữ Người Tử Tù
ta sẽ thấy rõ được điều đó, đây là một trong 11 chuyện in trong tập “vang bóng một
thời”, lúc đầu tác phẩm có tên là “dòng chữ cuối cùng” in trong tạp chí Tao Đàn năm
1938, sau đó đổi thành “Chữ Người Tử Tù” in trong tập “vang bóng một thời” xuất bản năm 1940.
Chữ Người Tử Tù, xoay quanh cuộc gặp gỡ éo le giữa Huấn Cao và viên quản ngục.
Tuy xét trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng xét trên bình diện
nghệ thuật họ lại là những tri ân, tri kỷ, giữa họ có những mối liên hệ khăng khít, một
bên là say mê cái đẹp viên quản ngục và một bên là người ban cái đẹp. Đặc biệt tình
huống cho chữ ở cuối truyện đã trở thành một tình huống độc đáo, đặc sắc để đưa cái
tài, cái đẹp lên ngôi đồng thời làm sáng ngời vẻ đẹp của Huấn Cao.
Nhận xét về cảnh cho chữ ở cuối truyện có ý kiến cho rằng “đây là một cảnh tượng
xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” tiếc là cảnh tượng hiếm
gặp hiếm xảy ra và trong truyện ngắn này cảnh cho chữ thực sự là một cảnh tượng
như vậy. Ý kiến trên đã một lần nữa khẳng định được sự khéo léo của nghệ thuật,
trong việc tạo dựng tình huống truyện và khẳng định được sự hấp dẫn không bị thời
gian vùi lấp của Chữ Người Tử Tù nói chung và cảnh cho chữ nói riêng.
Cảnh tượng cho chữ được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả đầy đủ, chi tiết từ không
gian, thời gian, đến địa điểm vào lúc nửa đêm khi trại giam tỉnh sơn chỉ còn đọng lại
tiếng mõ trên vọng canh, tại một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện,
đất đầy phân gián đang diễn ra cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Người cho chữ là
kẻ tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, con người nhận chứ là viên quản ngục, người
đại diện cho chính quyền phong kiến. Gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, với
việc cho chữ là một việc làm thanh cao thường diễn ra ở nơi trang trọng như thư
phòng sạch sẽ, người cho chữ phải là nghệ nhân ở trong tâm thế ung dung thoải mái.
Nhưng trong truyện ngắn này thì hoàn toàn đối lập, vì cảm động trước tấm lòng của
viên quản ngục mà Huấn Cao đã bằng lòng dành đêm cuối cùng của cuộc đời để viết
những dòng chữ cuối cùng cho một tấm lòng tri kỷ, trong thiên hạ. Dù biết mình sắp
chết, nhưng Huấn Cao vẫn cho ra đời những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, trong tư thế
thoải mái, tự tại, còn viên quản ngục thì khúm núm, run run, sợ sệt cất những đồng
kẽm đánh dấu ô. Đến đây trật tự kỷ cương đã bị đảo ngược, tù nhân trở thành người
ban phát cái đẹp và răn dạy quản ngục, quản ngục thì khúm núm với lạy tù nhân.
Cảnh cho chữ ở cuối truyện chắc hẳn đã để lại trong lòng bạn đọc ít nhiều những suy
ngẫm, Huấn Cao trong lúc cận kề cái chết, vẫn cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật, đó
là những nét chữ mềm mại, cứng cáp thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người.
Đó cũng chính là sự ký thác của ông dành cho hậu thế, cảnh cho chữ ở cuối truyện đã
một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiện luôn chiến thắng cái xấu, cái ác, mà ta thấy
rằng dù có những người phải sống trong cái xấu, cái ác vẫn luôn hướng về cái thiên
lương. Đó là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân vào con người, với cảnh cho chữ ở cuối
truyện Nguyễn Tuân không làm Huấn Cao chết đi mà đã đưa nhân vật vào cõi bất tử.
Bằng sự sáng tạo độc đáo, đặt nhân vật vào tình huống éo le, Nguyễn Tuân đã đưa hai
con người, ở hai địa vị trái ngược nhau vào một điểm chung đó là sự say mê cái đẹp.
Cảnh cho chữ ở cuối truyện thực sự là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đi sâu
vào tình huống này ta thấy được rằng, đến đây viên quản ngục và Huấn Cao đã hòa
làm một, để cho cái đẹp lên ngôi. Cảnh cho chữ thật sự là ngọn đuốc rực rỡ, thắp sáng
cả thiên truyện “Chữ người tử tù”.
Với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, ngôn từ sắc sảo, góc cạnh, câu
văn giàu hình ảnh, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên cảnh tượng cho chữ “một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có”. Để khẳng định sức mạnh, có thể chiến thắng cái xấu,
cái ác, cảm hóa con người của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.
Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn đó những nét chữ vuông vắn, tươi tắn hội tụ sự
tài hoa, bất khuất của Huấn Cao. Đó là những nỗi niềm kí thác dành cho hậu thế,
thông qua cảnh tượng cho chữ Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của Huấn Cao
và viên quản ngục. Có lẽ đây chính là lý do “Chữ Người Tử Tù” trở thành mốc son
chói lọi trên nền vàng úa của vang bóng một thời.
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
Cảnh cho chữ - Mẫu 1
Nguyễn Tuân được coi là một trong những tác giả lớn người đã có những đóng góp vô
cùng tích cực cho nền văn học Việt Nam. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân ông miệt mài đi
tìm cái đẹp và khát khao cháy bỏng tạo nên những điều chưa từng có trong thực tế. Và
đến đây người ta không thể nào quên cảnh cho chữ được tác giả tái hiện trong tác
phẩm “Chữ người tử tù”. Nó đã đưa Nguyễn Tuân trở thành một bậc thầy trong việc
xây dựng tình huống truyện.
Cảnh cho chữ được nhắc đến ở cuối tác phẩm khi mà tâm trạng của viên quản ngục
thầy thơ lại đang vô cùng rối ren. Họ phải đối diện với sự thật là ông Huấn Cao sắp
phải hành hình. Và chính tình huống này được coi như việc cởi nút thắt tháo gỡ những
băn khoăn của người đọc đồng thời nó đã bộc lộ một giá trị vô cùng lớn lao của tác phẩm.
Sau khi nhận được công văn về việc Huấn Cao cùng đồng bọn phản nghịch sẽ bị xử
tử, viên quản ngục lấy làm xót xa ông mang chuyện kể lại với thầy thơ lại. Nghe xong,
thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam để tỏ rõ nỗi lòng với Huấn Cao. Và cũng chính
đêm hôm ấy, dưới một khung cảnh chưa từng có trong lịch sử một việc chưa từng có
đã diễn ra. Nơi ngục giam đầy u tối với lập lòe ngọn đèn dầu leo lét người ta thấy một
người tử tù cổ đeo gông, chân mang xiềng ung dung đĩnh đạc thả hồn vào từng nét
chữ trên dải lụa trắng. Trong sự khúm núm của những viên quản ngục, thầy thơ lại.
Đến đây ta bắt gặp hai thứ vô cùng đối lập đó chính là sự thanh tao của nghệ thuật và
sự đen tối dơ bẩn của chế độ cũ. Tưởng chừng nó không thể xuất hiện cùng nhau
nhưng lại hòa quyện trong một khung cảnh hết sức “bất ngờ” và đầy rẫy éo le.
Đêm hôm ấy có lẽ là đêm cuối cùng của người tử tù Huấn Cao và cảnh cho chữ cũng
là những giây phút cuối cùng của cuộc đời ông. Hai con người ở hai thái cực khác
nhau của xã hội một bên đại diện cho pháp luật, một bên là tử tù thế nhưng cuối cùng
họ đã gặp nhau và đồng cảm với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhà văn vô cùng
sáng tạo khi đã tạo nên một tình huống truyện đầy éo le, đầy rẫy sự tương phản. Mà
dường như bóng tối, sự dơ bẩn của nhà tù phong kiến thực dân không thể làm làm lu
lờ đi sự thiện lương trong con người. Nói cách khác thì cái đẹp nghệ thuật đã chiến
thắng tất cả những xấu xa những định kiến của xã hội. Thế mới thấy, nghệ thuật có
sức mạnh lớn lao đến nhường nào nó có thể xóa nhòa mọi ranh giới, mọi khoảng cách
để người và người đến gần nhau hơn. Nghệ thuật chính là cảnh giới cao nhất của cuộc
sống mà con người muốn hướng đến, ở đó không có thứ bậc, không có sang hèn chỉ
có tâm hồn đồng cảm mà thôi.
Sau khi cho chữ xong Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên về quê để tránh xa
chốn dơ bẩn này vì bởi lẽ “chỗ này không hợp với ông đâu”. Có lẽ Huấn Cao bằng cái
tài của một bậc hiền triết cũng đủ hiểu được viên quản ngục là người thế nào. Vì thế
ông mới bảo họ tránh xa nơi này ra. Muốn chơi chữ thì phải giữ được thiên lương. Ở
trong một môi trường đầy rẫy sự cám dỗ và cái ác thì cái đẹp không thể bền vững và
tồn tại được. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, từ những thứ trái nghịch nhưng
nó không thể song song tồn tại với nhau. Thú chơi chữ cũng vậy nó không chỉ thể hiện
qua nét mực mà còn phải cảm nhận bằng chính sự rung cảm sâu sắc bên trong của mỗi
người. Cái gốc của việc chơi chữ chính là cái thiện và lối sống văn hóa.
Trước những lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục chỉ biết chắp tay và chảy
nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng chính sức mạnh của tình
người, của sự thiện lương của một con người xuất chúng tài ba Huấn Cao đã “cứu
vớt” một linh hồn trong đống bùn lầy của cái ác. Trên con đường đi tìm cái chết của
mình Huấn Cao đã gieo mầm để những con người lạc lối như thầy thơ lại viên quản
ngục trỗi dậy. Và cũng vì lẽ đó hình tượng của người anh hùng càng trở nên lớn lao
hơn bao giờ hết. Nó khẳng định một điều bất diệt đó chính là dù ở bất cứ đâu, trong
bất kì hoàn cảnh nào thì con người luôn khát khao đến sự chân thiện mỹ.
Bàn về nghệ thuật trước cách mạng có người cho rằng Nguyễn Tuân chính là một nhà
văn theo tư tưởng duy mỹ tức là ông chỉ chăm chăm đi tìm kiếm cái đẹp. Thế nhưng
đặt trong hoàn cảnh tác phẩm này thì quan điểm đó có vẻ sai lầm. Vì trong tác phẩm
chữ người tử tù mà đặc biệt trong cảnh cho chữ này Nguyễn Tuân không chỉ tôn sùng
cái đẹp mà còn nhấn mạnh cái đẹp bao giờ cũng đi liền với đạo đức với sự thiện
lương. Và viên quản ngục thầy thơ lại chính là những thanh âm trong trẻo trong cái
bản nhạc đầy xô bồ đó. Đồng thời cũng thể hiện một tình yêu nước bất diệt căm ghét
bọn thống trị và ca ngợi những con người có tài có tâm như Huấn Cao và viên quản ngục.
Chữ người tử tù được xem như một bài ca bất diệt về tài năng nhân cách của con
người và sức sống bền bỉ của nghệ thuật. Những dòng chữ của Huấn Cao như một sự
gieo mầm của sự sống, gieo mầm cho nhân cách và nó sẽ được tiếp nối mãi cho đến
sau này. Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn, hình ảnh vô cùng chậm rãi giàu sức
gợi như một đoạn phim quay chậm để tái hiện một tình huống truyện đầy bi đát. Ngôn
ngữ điêu luyện nhưng chân thực, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật từ đó tái hiện
lên một cảnh tượng khiến nhiều người suy ngẫm.
Có thể nói cảnh cho chữ trong thiên phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân chính
là một tình huống vô cùng đắt giá. Nó chính là bài ca ca ngợi sự tài hoa của những con
người nghĩa khí, cho sự bất diệt của nghệ thuật. Đồng thời cũng ngầm khẳng định cái
đẹp nghệ thuật có sức mạnh lớn lao. Có thể cảm hóa được những điều xấu xa của cuộc đời.
Cảnh cho chữ - Mẫu 2
Hình ảnh ông đồ của Vũ Đình Liên đưa ta vào quá khứ xa xăm khi tính dân tộc của in
đậm trên mỗi câu đối bằng mực tàu giấy đỏ hoặc lụa trắng. Cứ đến Tết là nhà nhà đến
gặp thầy đồ xin mấy chữ chơi xuân. Cho nên thú cho chữ là thú vui tao nhã, là của
những con người có chút hiểu biết, những người thật sự có thiên lương mới cảm được.
Thế nhưng khi đến với tác phẩm “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân lại xây dựng lên
một cảnh tượng cho chữ hiếm có với nhiều đặc sắc nghệ thuật độc đáo.
Quả là một cảnh tượng cho chữ xưa nay chưa từng bởi bản thân nơi cho chữ không
phải bên những hoa đào, hoa mai, sập bàn thảnh thơi cũng không phải là thầy đồ với
con trẻ mà là cảnh cho chữ diễn ra trong chốn ngục tù với những tuyến nhân vật đối
nghịch nhau về vị thế và giai cấp. Không gian được tái dựng là “buồng tối chật hẹp
đầy phân chuột, phân gián”, hôi hám và ẩm thấp. Con người trong đó cũng ở vị thế
khác nhau, một kẻ tử tù còn hai kẻ kia là cai tù có trách nhiệm chuẩn bị thi hành án.
Mặt khác, đã là cảnh tượng cho chữ thì không thể nào thiếu: chữ, người cho chữ, giấy,
mực. Quả thật, những thứ nào cũng đã đạt đến độ “xưa nay chưa từng có”. Dù là giấy
hay mực viết đều như đang phả ra linh hồn lớn lao của giá trị tinh túy cổ xưa. Chỉ
miêu tả một tấm lụa thôi mà Nguyễn Tuân có đủ mọi cách thể hiện “một tấm lụa bạch
còn nguyên vẹn lần hồ”, “một bức lụa trắng”, “phiến lụa óng”, “tấm lụa trắng tinh”,
“vuông lụa trắng”… Đến “thỏi mực” được chú trọng miêu tả mùi hương “Thoi mực,
thầy mua ở đâu mà tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên
không?”. Người cho chữ thì kì vĩ “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang
dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Đến con chữ thì dường
như hội tụ cả nghệ thuật thư pháp một thời “vang bóng” xa xưa. Chữ phải thật “vuông,
tươi tắn” và “nói lên hoài bão tung hoành của đời người”. Như vậy, cảnh tượng cho
chữ có sự đối lập giữa hiện thực và tâm tưởng, ánh sáng và bóng tối, cao cả, tốt đẹp với xấu xa.
Khi xây dựng cảnh tượng cho chữ, Huấn Cao đã hình tượng hóa cảnh tượng này. Nếu
như ở đầu truyện ngắn, ba nhân vật thơ lại, quản ngục và Huấn Cao như ba đốm sáng
lạc lõng, lẻ loi thì kết thúc ba đốm sáng ấy lại kết hợp làm một, xua đi bóng tối bao la
dày đặc ở chốn ngục tù. Cái thiên lương trong sáng, cái đẹp và cái tài đã tập hợp họ
lại. Chính sự tập hợp này đã tạo thành một ngọn lửa soi sáng chốn ngục tù. Nguyễn
Tuân đã dựng lên một cảnh tượng hào hùng, miêu tả sống động mọi chi tiết đều rõ
như khắc chạm, thể hiện tài năng bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc, từ dùng rất phong
phú, câu văn có nhịp điệu… Nhà văn đã dựng lên thật đẹp nhóm hình tượng ba người
tạo nên một nhóm “tượng đài thiên lương”. Đặc biệt hình tượng có sự đảo lộn về trật
tự ngôi thứ trong xã hội. Viên quản ngục thì lúng túng, kính trọng kẻ tử tội còn tội
nhân thì đứng đường hoàng răn dạy đạo lý cho kẻ cai tù. Chốn lao tù xưa nay chỉ là
những lừa lọc, chết chóc, thô bỉ thì nay trở thành thị điểm của sự sáng tạo nghệ thuật.
Không khí của nhà tù hoàn toàn sụp đổ trước không khí của cảnh cho chữ.
Qua cảnh tượng cho chữ tác giả đã thể hiện sự chiến thắng của cái ánh sáng và bóng
tối, của thiên lương với cái xấu xa và khẳng định con người dù sống trong cái ác cái
nhưng vẫn luôn hướng về cái cao cả. Phải chăng đó cũng là niềm tin vào con người và
vào nghệ thuật nhân văn của tác giả. “Chữ người tử tù” đã thể hiện tài dựng người,
dựng cảnh, tạo không khí, ngôn ngữ góc cạnh, lời văn trang nhã, câu văn diễn xuôi mà
âm điệu trầm bổng… trong văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân xứng đáng là một trong
những cây bút tài hoa, độc đáo, uyên bác và sâu sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
Cảnh cho chữ - Mẫu 3
Trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, cảnh cho chữ thực sự gây ấn
tượng rất mạnh cho người đọc. Có thể nói, tác giả đã dồn bút lực tạo nên một kiểu kết
truyện đặc sắc, để lại rất nhiều dư âm. Chỉ với cảnh này, các nhân vật mới thực sự bộc
lộ tất cả những gì vốn có của mình.
Một Huấn Cao trước đây chỉ được biết đến qua lời truyền tụng viết chữ rất nhanh và
rất đẹp, thì giờ đây bàn tay tài hoa ấy sẽ vung bút viết nên những nét chữ vuông vắn,
tươi tắn trên tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ trước con mắt cảm phục của những
người được vinh hạnh chứng kiến. Một thầy thơ lại trước đây ta ngờ rằng “hẳn không
phải là kẻ xấu hay là vô tình", thì lúc này “run run bưng chậu mực” với thái độ khiêm
nhường, cung kính, như tự chứng thực phẩm cách trong sạch của mình. Một quản
ngục vốn có thiên lương và tấm lòng biệt nhỡn liên tài, trong tình huống này đã không
ngần ngại cúi đầu trước khí phách, tài hoa. Rõ ràng, trong cảnh cho chữ, tất cả đều
được đẩy đến đỉnh điểm, tột cùng, là sự thăng hoa của mọi vẻ đẹp. Không phải ngẫu
nhiên mà Nguyễn Tuân đã xem đây là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Không gian dành cho người nghệ sĩ chẳng phải là một thư phòng ấm áp, sang trọng
như xưa nay vẫn thấy, mà là một buồng giam chật chội, ẩm thấp, hôi hám; tường đầy
mạng nhện, nền nhà đầy phân chuột, phân gián. Thời gian là vào ban đêm, nhưng lại
là đêm cuối cùng của một tử tù. Ánh sáng soi tỏ căn buồng là một bó đuốc tẩm dầu đỏ
rực, khói tỏa nghi ngút như một đám cháy nhà gọi cảm giác thật dữ dội. Người nghệ sĩ
– nhân tố trung tâm quyết định sự ra đời của tác phẩm – là một người tử tù “cổ đeo
gông, chân vướng xiềng", chỉ vài giờ sau sẽ bị giải đến pháp trường.
Trong đoạn kết của tác phẩm, người đọc còn được chứng kiến sự thay đổi vị thế kì lạ
và ngoạn mục, đảo lộn cả trật tự vốn có của chốn lao tù. Người coi ngục, đại diện của
quyền lực nhà nước, thì trở nên nhỏ bé, lặng lẽ phục dịch bên cạnh người tử tù và chắp
tay cúi đầu vái nhận lời khuyên bảo của tử tù. Còn người tử tù, kẻ bị tước hết mọi
quyền (kể cả quyền sống) thì lại trở nên cao lớn lồng lộng, với quyền uy tối thượng
của người nghệ sĩ trong giây phút xuất thần sáng tạo.
Tuy nhiên, trong khung cảnh trang nghiêm, xúc động này, khoảng cách ấy không phải
là bất biến. Khi bức chữ đã được viết xong, khi mùi mực thơm tho tinh khiết tỏa ngát
cả căn buồng, thanh tẩy những gì ô uế, thì trước mắt ta không còn kẻ cao người thấp,
kẻ sang người hèn. Ba con người, ba mái đầu chụm vào nhau cung kính lặng lẽ ngắm
nhìn bức chữ, rưng rưng xúc động trước cái đẹp vừa được sinh thành.
Chiêm ngưỡng cảnh cho chữ đầy ngoạn mục, người đọc còn bị cuốn hút bởi nghệ
thuật độc đáo, già dặn của Nguyễn Tuân: dựng không khí, tạo tình huống, khắc họa
nhân vật. Cảnh cho chữ mang đậm chất điện ảnh bởi Nguyễn Tuân đã biết phát huy
tối đa hiệu quả của phép tương phản. Đó là sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng;
giữa cái đẹp cao cả của nghệ thuật và chốn lao tù ô uế, phàm tục; giữa người tù thân
thể bị gông xiềng mà nhân cách và tinh thần tự do với viên quản ngục có quyền hành
mà chẳng khác nào chịu án chung thân về mặt tinh thần; giữa con người thiên lương
và con người công cụ… Xét trên mọi phương diện, cảnh cho chữ là biểu hiện sâu sắc
nhất của cảm hứng lãng mạn của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù.