














Preview text:
lOMoAR cPSD| 44919514
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân ……o0o…… BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN Đề tài số 4 :
Phân tích cơ sở lý luận và nội dung quan
điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể của phép
biện chứng duy vật và liên hệ với thực tiễn
Họ và tên sinh viên : Trần Thu
Uyên Mã sinh viên : 11235959
Lớp : LLNL1105(123)_16 Khóa : 65 Hà Nội - 2023 Mục lục : 1 lOMoAR cPSD| 44919514
Lời mở đầu ……………………………………………………………………… 4 I.
Khái niệm cơ bản ……………………………………………………5
1. Khái niệm biện chứng …………………………………………………5
2. Lịch sử phát triển của phép biện chứng ……………………………….5
2.1 Phép biện chứng duy tâm ……………………………………………… 5
2.2 Phép biện chứng duy vật ………………………………………………6 a) Chủ nghĩa duy vật
……………………………………………………….6 b) Những nguyên tắc cơ bản
………………………………………………7
II. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể ……… 7
III. Nội dung quan điểm của phép biện chứng duy vật ……………… 8
1. Quan điểm toàn diện …………………………………………………8
a) Nội dung ……………………………………………………………9
b) Yêu cầu của quan điểm toàn diện ……………………………………9 c) Ý nghĩa của quan điểm toàn
diện …………………………………….10
2. Quan điểm lịch sử - cụ thể ………………………………………….10
IV. Liên hệ thực tiễn ………………………………………………10
1. Quan điểm toàn diện với việc xây dựng đường lối phát triển kinh tế ở
Việt Nam ……………………………………………………………10
2. Quan điểm toàn diện với việc xử lý các tình huống trong phát triểnkinh tế và kinh doanh
……………………………………………………12
Kết luận …………………………………………………………………12
Tài liệu tham khảo ………………………………………………………14 Lời cảm ơn :
Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến TS. Phạm Văn Sinh.
Trong quá trình học tập và tìm hiểu bộ môn Triết học, em đã nhận được sự quan 2 lOMoAR cPSD| 44919514
tâm giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình, tâm huyết của thầy. Thầy đã giúp em tích lũy
thêm được nhiều kiến thức để có cái nhìn sâu sắc và hoàn thiện hơn trong cuộc
sống. Từ những kiến thức mà thầy truyền tải, em đã dần trả lời được những câu
hỏi trong cuộc sống thông qua Tư tưởng Triết học Mác – Lênin.
Có lẽ kiến thức là vô hạn mà sự tiếp nhận kiến thức của bản thân mỗi người luôn
tồn tại hạn chế nhất định. Do đó, trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận, chắc
chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bản thân em rất mong nhận được những
góp ý từ thầy để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Kính chúc thầy sức khỏe, hạnh phúc và thành công trên con đường sự nghiệp giảng dạy. 3 lOMoAR cPSD| 44919514 Lời mở đầu :
Chúng ta đang sống trong thời đại kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi người phải được
đào tạo về trình độ học vấn, năng lực, phẩm chất đạo đức, ý thức làm việc tốt hơn
để có thể đáp ứng được yêu cầu của thế giới. sự thay đổi khoa học và công nghệ.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, con người và nguồn nhân lực hiện được coi là yếu tố
quan trọng nhất, quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của nền
kinh tế nước ta. Đây là yếu tố hết sức cấp thiết và cần được cập nhật để đáp ứng
yêu cầu về con người, nguồn nhân lực ở nước ta nói riêng và quốc tế nói chung.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội và
đồng thời phải là người có hiểu biết, có đạo đức.
Từ đây, mỗi người dần trở lại đúng vị trí là người tạo ra các giá trị, trong đó có
các giá trị tinh thần và vật chất cho bản thân và cho xã hội. Vấn đề cốt lõi là chúng
ta phải thực hiện chiến lược giáo dục đào tạo nguồn nhân lực, phát triển toàn diện
con người cả về thể chất và tinh thần. Sứ mệnh của Giáo dục và Đào tạo là đưa
con người đạt được những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hóa và yêu cầu mới
đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới cũng như xu
hướng phát triển kinh tế trên thế giới. . Và với đề tài: “Phân tích cơ sở lý luận,
nội dung của quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể của phép biện chứng duy vật
và mối quan hệ của nó với thực tiễn”, đồng thời vận dụng nguyên lý đó vào hoạt
động nhận thức kiến thức, thực tiễn của chính cuộc sống của mình, chúng ta sẽ
tìm hiểu thêm về cơ sở lý luận cũng như nội dung cơ bản của nguyên lý toàn diện
của phép biện chứng duy vật.
I. Khái niệm cơ bản
1. Khái niệm biện chứng
“Biện chứng” thường được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, biện chứng diễn tả
sự tác động qua lại, sự biến đổi, vận động tự thân của các sự vật, nằm ngoài
phạm vi ý thức, can thiệp của con người… Thứ hai, biện chứng cũng là phạm
trù dùng để thể hiện mối liên hệ và sự vận động, sự biến đổi của chính quá
trình vận động khách quan tới con người. Một cách dễ hiểu, biện chứng là sự
khái quát những mối liên hệ phổ biến và những quy luật chung nhất của quá
trình vận động và phát triển. Biện chứng là một phương pháp triết học, bao
gồm ba giai đoạn biện chứng: chính đề, phản đề, hợp đề. Biện chứng bao gồm
hai bản thể nhỏ là biện chứng chủ quan và biện chứng khách quan. Giữa biện 4 lOMoAR cPSD| 44919514
chứng chủ quan và biện chứng khách quan có mối liên hệ nhất định, tạo tiền
để cho cơ sở phương pháp luận của hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
2. Lịch sử phát triển của phép biện chứng
2.1 Phép biện chứng duy tâm
- Trong triết học cổ điển Đức :
• Tư tưởng biện chứng cơ bản trong triết học Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh.
• Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, phép biện chứng duy tâm
trong triết học cổ điển Đức là hình thức thứ hai của phép biện chứng.
• Trong triết học nhị nguyên của Cantơ, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư
tưởng về sự thống nhất giữa các mặt đối lập, theo đó, sự thống nhất và thâm
nhập lẫn nhau của các mặt đối lập (lực hút và lực đẩy) là động lực của sự
vận động, phát triển và động lực đó có trước vật chất; vận động tách rời vật
chất. Trong triết học duy tâm chủ quan của Phíchtơ, tư tưởng biện chứng
cơ bản là tư tưởng cho rằng, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển. Mâu
thuẫn và phát triển chỉ tồn tại trong ý thức, mâu thuẫn thể hiện sự vận động
tiến bộ của tư duy trong quá trình nhận thức. Trong triết học duy tâm khách
quan của Sêlinh, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mối liên hệ phổ
biến, về sự thống nhất và về sự phát triển; tư tưởng về sự thống nhất biện
chứng của tự nhiên, về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong tự nhiên.
- Phép biện chứng duy tâm của Hêghen :
• Trong triết học Hêghen, phép biện chứng duy tâm được phát triển đến đỉnh
cao với hình thức và nội dung phong phú. Hình thức
• Về hình thức, phép biện chứng của Hêghen đã bao quát cả ba lĩnh vực, bắt
đầu từ các phạm trù lôgíc đến lĩnh vực tự nhiên, tinh thần và kết thúc bằng
biện chứng của toàn bộ quá trình lịch sử. Nội dung
• Về nội dung, ông Hêghen chia phép biện chứng thành tồn tại, bản chất và khái niệm.
1) Tồn tại là cái vỏ bên ngoài, trực tiếp, nông nhất mà con người có thể
cảm giác và được cụ thể hoá trong các phạm trù chất, lượng và độ. 2) Bản
chất là tầng gián tiếp của thế giới, không thể nhận biết được bằng cảm giác,
tồn tại trong mâu thuẫn đối lập với chính mình và được thể hiện trong các
phạm trù hiện tượng - bản chất, hình thức - nội dung, ngẫu nhiên - tất yếu,
khả năng - hiện thức v.v.
3) Còn khái niệm (mà hiện thân của nó là giới hữu cơ, sự sống) là sự thống
nhất giữa tồn tại với bản chất, là cái vừa trực tiếp (có thể cảm giác được), 5 lOMoAR cPSD| 44919514
vừa gián tiếp (không thể cảm giác được) và được thể hiện trong các phạm
trù cái phổ quát, cái đặc thù, cái đơn nhất. Phép biện chứng trong giai đoạn
này là sự phát triển; là sự chuyển hoá từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, từ
chất này sang chất khác được thực hiện nhờ giải quyết mâu thuẫn. Phát
triển được coi là sự tự phát triển của ý niệm tuyệt đối, từ tồn tại đến bản
chất, từ bản chất đến khái niệm, trong đó khái niệm vừa là chủ thể, vừa là
khách thể, đồng thời là ý niệm tuyệt đối. Hêghen coi phát triển là nguyên
lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và
khẳng định tha hoá được diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.
• Hạn chế của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là nó
còn mắc phải hạn chế vì đó là biện chứng của cái phi vật chất, là biện chứng
của khái niệm, của tư duy thuần tuý, phản ánh một lực lượng thần bí nào
đó ở bên ngoài thế giới vật chất.
2.2 Phép biện chứng duy vật
a) Chủ nghĩa duy vật
- Phép biện chứng duy vật, phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa
duy vật biện chứng là một bộ phận của triết học do Karl Marx và Friedrich
Engles đề xướng. Với cốt lõi là sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
- Theo Friedrich Engles: “Phép biện chứng là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”.
- Theo V.I.Lênin: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật
đó và ông cũng cho rằng: Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đên
tất cả các mặt của mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó.” .
b) Các nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng duy vật gồm 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc toàn diện;
nguyên tắc lịch sử cụ thể; nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
II. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và lịch sử - cụ thể 6 lOMoAR cPSD| 44919514
- Theo Ăngghen, phép biện chứng là khoa học nghiên cứu các mối liên hệ phổ
biến và sự phát triển, với đối tượng là trạng thái tồn tại có tính quy luật phổ
biến của sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất. Phép biện chứng duy
vật gồm hai nguyên lý khái quát chung tính biện chứng của thế giới, sáu
cặp phạm trù phản ánh mối liên hệ, tác động biện chứng phổ biến nhất giữa
các mặt của sự vật và ba quy luật cơ bản nghiên cứu mối liên hệ và khuynh
hướng phát triển của thế giới vật chất, từ đó chỉ ra nguồn gốc, cách thức,
khuynh hướng của sự vận động, phát triển của thế giới ấy. Trong đó, nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển vẫn là những nguyên lý có
trình độ khái quát và phạm vi ứng dụng phổ quát nhất. Nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến. Trong cùng tồn tại, các đối tượng luôn tương tác với nhau,
qua đó thể hiện các thuộc tính và bộc lộ bản chất bên trong, khẳng định sự
thực tồn của mình. Sự thay đổi các tương tác tất yếu làm thay đổi thuộc
tính đối tượng, có thể biến mất hoặc chuyển hóa thành các đối tượng khác.
Sự tồn tại, hiện hữu của các đối tượng phụ thuộc vào tương tác của nó với
các đối tượng khác, chứng tỏ các đối tượng có liên hệ với các đối tượng
khác. “Mối liên hệ” là một phạm trù triết học dung để chỉ sự ràng buộc,
quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối
tượng hay giữa các đối tượng với nhau. Liên hệ là mối quan hệ giữa hai
đối tượng mà khi đối tượng này thay đổi dẫn đến sự thay đổi của đối tượng
kia. Chẳng hạn như mối liên hệ giữa vận tốc và khối lượng của vật, khi vận
tốc vận động của vật thay đổi dẫn đến khối lượng của vật thay đổi, sự ảnh
hưởng của môi trường sống đến cơ thể sinh vật…Ngược lại với mối liên
hệ là sự cô lập, khi sự thay đổi của đối tượng này không làm thay đổi các
đối tượng khác, ví dụ như sự thay đổi của luật pháp không ảnh hưởng tới
tương tác giữa các hạt cơ bản…Điều đó cho thấy, các đối tượng tồn tại vừa
có sự liên hệ vừa có sự cô lập với nhau, một số thay đổi của đối tượng này
ảnh hưởng đến sự thay đổi của đối tượng khác, còn một số khác thì không.
Ví dụ điển hình là mối quan hệ giữa cơ thể sống và môi trường, khi chỉ
những thay đổi môi trường gắn với hoạt động sống mới làm cơ thể sống
thay đổi, còn những thay đổi của môi trường không gắn với hoạt động đó
không làm cơ thể sống thay đổi. Do đó, liên hệ và cô lập là những mặt tất
yếu, cùng tồn tại của mọi mối quan hệ giữa các đối tượng. Với quan điểm
duy vật biện chứng, các sự vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại trong
mối quan hệ qua lại lẫn nhau, quy định lẫn nhau, thâm nhập, chuyển hóa
lẫn nhau, không tách biệt nhau. Đó là nội dung của nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến, dựa trên cơ sở tính thống nhất của thế giới vật chất. 7 lOMoAR cPSD| 44919514 .
III. Nội dung quan điểm về phép biện chứng duy vật 1. Quan điểm toàn diện
“Toàn diện” có thể được hiểu như sau: ‘toàn’ là tất cả, ‘diện’ là mặt, như
vậy toàn diện là tất cả các mặt. Theo từ điển Việt Nam, “toàn diện” là đầy
đủ các mặt, không thiếu mặt nào. Quan điểm toàn diện là quan điểm mà ở
đó, khi đi vào nghiên cứu cần lưu ý quan tâm tới tất cả các yếu tố, kể cả
chỉ gián tiếp hay trung gian liên quan đến sự vật. Quan điểm toàn diện có
cơ sở lý luận xuất phát từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến (xem mục 4.1
– chương 1). Như ta đã biết, không có bất kì sự vật nào tồn tại độc lập hoàn
toàn với sự vật, hiện tượng khác, chúng không tồn tại riêng biệt, đơn độc
mà luôn có những mối liên hệ nhất định với nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu
một sự vật, hiện tượng cũng cần để ý, quan tâm tới các sự vật xung quanh
nó, để có được sự nhìn nhận đánh giá sâu sắc và đa chiều nhất. Trong thực
tế, khi đưa ra nhận định về một vấn đề, ta cần đưa ra sự vật ra xem xét trên
nhiều mặt và trên các mối quan hệ của nó, điều này sẽ giúp chúng ta tránh
được lối mòn máy móc, siêu hình, phiến diện, phát huy tối đa hiệu quả quá trình làm việc. a) Nội dung -
Nguyên tắc toàn diện trong sự đối lập với chủ nghĩa chiết trung và
thuậtngụy biện, nêu ra các mối liên hệ chính qua đó tìm ra được các mặt,
mối liên hệ tất yếu của sự vật, hiện tượng; nhận thức chúng trong sự hợp
nhất hữu cơ nội tại bởi chỉ như thế nhận thức mới có khả năng chỉ ra được
đầy đủ nhất sự tồn tại khách quan với nhiều tính chất, nhiều mối liênhệ,
quan hệ và tác động qua lại của các khách thể nhận thức. -
Nguyên tắc toàn diện quan sát mối quan hệ gắn với hiện thực;
khôngsuy viễn, mộng tưởng bởi mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng với
nhu cầu của con người rất phong phú và trong từng tình cảnh, chỉ nêu lên
được một vài mối quan hệ thích hợp đối với nhu cầu của con người, nên
nhận thức về sự vật, hiện tượng cũng chỉ mang tính chất tương đối, không
tuyệt đối. Khi đã nhận thấy được việc đó, ta sẽ có thể tránh được những
sai lầm khi tuyệt đối hoá những tri thức có sẵn, coi đó là những chân lí 8 lOMoAR cPSD| 44919514
đúng đắn nhất mà không bổ sung, không phát triển. Qua đó giúp ta thấy
được vai trò của các mặt trong từng thời đoạn cũng như của toàn bộ quá
trình vận động, phát triển của các mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng. -
Nguyên tắc toàn diện quan sát những mối liên hệ đồng bộ, toàn
diện,không cục bộ, không phiến diện; nghĩa là trong thực tế, phải dùng
đồng bộ một hệ thống các phương pháp, phương tiện khác nhau để tác
động làm thay đổi các mặt, mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng.
Song ở từng bước, từng thời điểm phải nắm bắt được những điểm cốt lỗi
từ đó tập kết lực lượng để xử lí, tránh trì trệ. -
Nguyên tắc toàn diện cho phép báo trước được khả năng vận động
vàphát triển của sự vật, hiện tượng nhằm mục đích giảm thiểu các vấn đề về bê trễ, cổ hủ.
b) Yêu cầu của quan điểm toàn diện
Để đạt được, vận dụng được quan điểm toàn diện, con người cần phải biết
liên kết, móc nối, nhận thức được mối liên hệ qua lại của các sự vật, hiện
tượng, bởi chỉ khi ta nhìn nhận được quan điểm toàn diện thì mới có thể
đưa ra các nhận thức đúng đắn. Còn nữa, muốn hiểu rõ được bản chất của
sự việc, ta phải biết để ý phân biệt từng mối liên hệ, không nhầm lẫn, vận
dụng cao. Hơn thế, nó đòi hỏi ta phải biết nắm bắt khuynh hướng, khả năng
phát triển của sự vật, cũng như am hiểu tường tận tình hình thực tế hiện
tại, và nhận biết được sự thay đổi, dao động của các hiện tượng ấy.
c) Ý nghĩa của quan điểm toàn diện
Áp dụng quan điểm toàn diện sẽ cho ta cái nhìn sâu, rộng, đúng đắn về các
vấn đề. Chỉ khi được xem xét toàn diện, trên mọi mắt, những nổi bật, những
quan trọng nhất mới được bộc lộ rõ ràng để ta phát huy, và những thiếu
sót, hạn chế mới có cơ hội được nhìn nhận chính xác để khắc phục, sửa
đổi. Quan điểm này cung cấp cho ta cái nhìn đúng đắn, khách quan, từ hiện
tượng ta có thể kết luận được bản chất. Điều này không chỉ có ý nghĩa
trong các mối quan hệ, mà còn có ý nghĩa với chính những nhu cầu của con người.
2. Quan điểm lịch sử - cụ thể
Khi nhận thức sự vật và những tác động vào sự vật, chủ thể nhận thức phải
chúý đến hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể xung quanh sự vật
đó trong quá trình sự vật đó tồn tại và vận động biến đổi, nghĩa là phải 9 lOMoAR cPSD| 44919514
nghiên cứu trong khoảng thời gian nhất định, những điều kiện trong không
gian khi đó tác động, ảnh hưởng như thế nào đến sự vật, hiện tượng. Không
chỉ vậy, khi muốn vận dụng một lý thuyết khoa học nào đó để giải quyết
vấn đề thực tiễn, cần nghiên cứu lý thuyết khoa học đó, phải xem xét hoàn
cảnh, điều kiện, thời điểm tạo nên lý thuyết đó, nội dung mà lý thuyết khi
đó phát biểu; cùng với đó cũng phải phân tích hoàn cảnh thực tiễn của vấn
đề, từ đó tìm ra những hiệu quả, hạn chế của lý luận đó để ứng dụng vào
thực tiễn. Lý do là bởi, vận động, biến đổi là thuộc tính cố hữu của sự vật,
hiện tượng, theo thời gian, những tương tác của chúng có thể ảnh hưởng,
tạo nên sự thay đổi về thuộc tính, những mối liên hệ của đối tượng nào đó,
do đó, một số đánh giá, kết luận về đối tượng đó chỉ mang tính tương đối,
vì vậy, trong giải quyết vấn đề thực tiễn, cần phải nghiên cứu thêm cả hoàn
cảnh hiện tại liên quan tới đối tượng đó, có như vậy, việc giải quyết vấn đề
mới trở nên hiệu quả.
IV. Liên hệ thực tiễn
1. Quan điểm toàn diện với việc xây dựng đường lối phát triển kinh tế ở Việt Nam
Trong lĩnh vực kinh tế, chủ trương, chính sách hoặc giải pháp kinh tế cụ thể.
Muốn biết đúng sai phải trải qua quá trình áp dụng vào sản xuất, kinh doanh
cũng như quản lý các quá trình đó. Nguyên tắc chính sách cũng như các giải
pháp kinh tế chỉ đúng khi mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất, phát
triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng và văn minh. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những tiến bộ
và thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, hiện nay đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết. Hoạt động nghiên cứu lý thuyết nhằm tìm ra câu trả lời cho những câu
hỏi này của thời kỳ cách mạng hiện nay. Quá trình cải cách ở nước ta vừa là
mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung
và công tác lý luận nói riêng chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta những hiểu
biết mới phong phú và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hiện nay, nước ta đang đổi mới toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, trong
đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế quan liêu tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một bài toán hết
sức mới, chưa có lời giải đáp. Và chúng ta không bao giờ có thể có sẵn giải
pháp trước khi bắt đầu đổi mới. Quá trình đổi mới Nhìn chung, đặc biệt là đổi
mới kinh tế và nhận thức về quá trình đổi mới không tách rời nhau mà tương 10 lOMoAR cPSD| 44919514
tác và phát triển cùng nhau. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực hành
của mình, chúng ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan và lấy hiện thực
khách quan làm nền tảng cho hoạt động của mình. Gắn lý luận với thực tiễn
để hoạt động khoa học, có căn cứ. Tinh thần này là vấn đề cần được nghiên
cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI. “Sau Đại hội Đảng lần thứ VI,
chúng ta trải qua một giai đoạn nền kinh tế chưa phát triển được do chưa khắc
phục về cơ bản những hệ luỵ cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội tạo ra. Tới năm
1991, kinh tế Việt Nam bắt đầu khởi sắc, bước vào giai đoạn ổn định và phát
triển. Tăng trưởng kinh tế của thời kỳ 1992-1997 đã cao gấp hơn hai lần của
thời kỳ 1977-1991, 8,77%/năm so với 4,07%/năm. Lạm phát của thời kỳ này
cũng đã giảm mạnh so với thời kỳ 1986-1991 (bình quân năm là 9,5% so với
180,2%). Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 2 chữ số xuống còn một chữ số; đến
năm 1996 còn 5,88%. Mất cân đối cán cân thương mại giảm dần và đến 1992,
lần đầu tiên đã xuất siêu nhẹ. GDP bình quân đầu người tính bằng USD năm
1997 đạt 361 USD, cao gấp gần 4,2 lần năm 1988. Việt Nam đã chuyển vị thế
từ nước kém phát triển sang nhóm nước đang phát triển, từ chỗ bị bao vây,
cấm vận sang bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993 đến 1997,
lượng vốn ODA cam kết là 10,8 tỷ USD, giải ngân gần 3,85 tỷ USD). FDI ttừ
1991-1996 thu hút 27,8 tỷ USD vốn đăng ký, bình quân 1 năm trên 4,63 tỷ
USD, cao gấp 8,7 lần mức bình quân trong 3 năm trước đó, vốn thực hiện đạt
trên 9,2 tỷ USD. Lượng kiều hối gửi về nước từ 1993 đến 1997 đạt gần 1,55
tỷ USD...’’ [GS. Nguyễn Mại].
2. Quan điểm toàn diện với việc xử lý các tình huống trong phát
triển kinh tế và kinh doanh
- Tập trung vào chất lượng và số lượng phát triển kinh tế. Tập trung đầu tư
vào nông nghiệp và phát triển các trang trại sản xuất tư nhân hoặc tổ chức
nhỏ. Tạo nguồn vốn cho công nghiệp nhẹ và hiện đại hóa thiết bị dây
chuyền sản xuất. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến thực phẩm, tích
hợp công nghệ thông tin vào sản xuất và đời sống.
- Tăng nhanh khả năng và tiềm lực tài chính cho đất nước bằng các đầu tư
cho xuất khẩu thu lợi nhuận cao và nguồn vốn nhanh. Phát triển công tác
thu và nộp thuế, phổ biến bằng mọi phương tiện thông tin đại chúng. Phát
hành trái phiếu Nhà nước theo định kỳ, làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. 11 lOMoAR cPSD| 44919514
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, gọi vốn đầu tư nước ngoài
bằng cách mở rộng, nới lỏng chính sách về đầu tư, hệ thống hoá luật đầu
tư nước ngoài, tạo cơ sở kinh tế thuận lợi và những dự án nhiều tiềm năng. Kết luận :
Kinh tế Việt Nam sẽ có bước phát triển gì nữa trước thiên niên kỷ mới?
Phải chăng đổi mới kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu của thời đại? Tất nhiên, câu trả lời cho những câu hỏi này vẫn
còn. Nhưng điều chắc chắn là chỉ cần Đảng và đất nước đi đúng đường, có
những lựa chọn quyết đoán thì chúng ta sẽ thu được nhiều thành tựu mới. Nhà
nước sử dụng đòn bẩy kinh tế là kế hoạch trực tiếp và kế hoạch gián tiếp để
bảo đảm thực hiện đúng phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc
gia. Trước thực tế quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam kể từ Cách mạng
Tháng Tám, chúng ta cần khẳng định lại vai trò không thể thiếu của các lý luận.
Các chính sách và hướng dẫn xuất phát từ thực tế điều hành nền kinh tế. Khi
đi vào đúng tiến trình lịch sử của nhân loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị bỏ lại
phía sau mà ngày càng có vị thế mạnh mẽ hơn. 12 lOMoAR cPSD| 44919514
Tài liệu tham khảo :
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin ( I,II )
2. Tạp chí triết học
3. Tạp chí nghiên cứu lý luận 4. Luật Minh Khuê
5. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI của Đảng cộng sản Việt Nam. 13 lOMoAR cPSD| 44919514 15
Downloaded by Trang Thu (htttc1k21@gmail.com)