Phân tích con ngươi và bản chất con người - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Theo như chủ nghĩa Mác – Lênin có đề cập thì con người vừa là thực thể tự nhiên,vừa là thực thể xã hội. Cả hai phương diện này cùng tồn tại, chứa đựng lẫn nhau, tác độngqua lại với nhau tạo nên sự đặc biệt của con người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Đề bài: Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và bản chất
con người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Bài làm
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất con người
1.1. Khái niệm con người
Theo như chủ nghĩa Mác – Lênin có đề cập thì con người vừa là thực thể tự nhiên,
vừa là thực thể xã hội. Cả hai phương diện này cùng tồn tại, chứa đựng lẫn nhau, tác động
qua lại với nhau tạo nên sự đặc biệt của con người.
1.1.1. Con người là một thực thể tự nhiên
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ dưới đây:
- Thứ nhất, ‘con người kết quả tiến hóa phát triển lâu dài của giới tự
nhiên.’’[1]. Học thuyết Đácuyn về sự tiến hóa một cơ sở khoa học tiêu biểu để có thể
đi đến kết luận này.
- Thứ hai, ‘‘con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng ‘là thân thể của con người’.’’[2]. thế nên sự tác động làm biến đổi lẫn
nhau giữa con người và giới tự nhiên. ‘‘Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn
tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.’’[3].
1.1.2. Con người là một thực thể xã hội
Bản tính xã hội của con người được phân tích dưới góc độ sau đây:
- Thứ nhất, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì nhân tố
lao động biểu thị bản chất hội của con người. ‘Chính nhờ lao động con người
khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.’’[4]
- Thứ hai,‘xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn
tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và quy luật xã hội.’’[5]. Xã hội biến
1
đổi sẽ kéo theo con người thay đổi và ngược lại con người thay đổi sẽ dẫn đến sự biến đổi
của xã hội.
1.2. Bản chất con người
C.Mác khẳng đinh: ‘‘Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội’’. Nghĩa là bản chất của con người được tạo nên từ các mối quan hệ xã hội.
Nhưng không phải những sự kết hợp đơn giản thông thường sự tổng hòa giữa
chúng. Mọi mối quan hệ xã hội đều có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại và gắn
chặt chẽ với nhau. Các mối quan hệ hội thể hiện đặc trưng tính hội của con
người. Trong mỗi thời đại, các yếu tố ảnh hưởng đến các mối quan hệ khác nhau dẫn đến
biểu thị sự tổng hòa các mối quan hệ sẽ khác nhau qua thời gian và định hình nên những
con người khác nhau. Các mối quan hệ đó là: quan hệ chính trị, quan hệ sản xuất, quan hệ
pháp luật, quan hệ đạo đức, quan hệ thẩm mĩ, quan hệ lịch sử,… Từ mỗi nhân với
những cái riêng biệt, đặc sắc tạo hình tạo thành nên các quan hệ xã hội, và các quan hệ xã
hội trở thành tiêu chuẩn, chuẩn mực quay trở lại định hình mỗi cá nhân của xã hội.
Con người vừa là chủ thể của xã hội, vừa là lịch sử của xã hội.
2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa lý luận
- Quá trình hình thànhphát triển nhân cách hay bản chất con người do các yếu
tố điều kiện kinh tế - hội quy định. Bởi mỗi người sẽ những ý tưởng quan
điểm khác nhau trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, bản chất sẽ được định
hình riêng mỗi con người nhân sẽ hình thành nên những con người của hội
con người của xã hội sẽ quay lại điều chỉnh và cải tạo con người cá nhân.
- ‘Việc đánh giá con người thì cần phải cân nhắc chai phương diện bản tính tự
nhiên và phương diện bản tính hội, nhưng phải coi trọng hơn việc xem xét từ phương
diện bản tính xã hội. Mặt khác, khi xem xét việc xây dựng thái độ sống phải biết quan tâm
đến nhu cầu sinh học nhưng cũng phải lưu ý rèn luyện phẩm chất hội, tránh rơi vào
2
thái độ sống chạy theo nhu cầu bản năng tầm thường’’[6]. Qua đó, ta tìm hiểu được nhân
cách con người và các yếu tố tạo thành giá trị con người mới. Đó là mỗi người trong quá
trình hình thành nhân cách phải bao gồm các yếu tố về nhân ch đạo đức. Chính
vậy chúng ta cần phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện để có cả nhân cách và đạo đức, đây là
những yếu tố cần thiết cho sự phát triển toàn diện. Bởi vì, theo Bác Hồ đã nói “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Vì vậy
trong quá trình học tập, phát huy và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân cũng như nhân
cách của xã hội, chúng ta phải rèn luyện kết hợp tổng hòa giữa tri thức và đạo đức.
- ‘‘ Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nên cần chú trọng việc
xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan hệ xã hội tốt đẹp để có thể xây dựng,
phát triển được những con người tốt đẹp, hoàn thiện.’’[7]. Sự hình thành phát triển
nhân cách do các yếu tố văn hoá - hội chi phối. Thông qua các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc sẽ quyết định hành vi, tình cảm, nhân cách của mỗi con người. Và để
làm được điều này, chúng ta phải giáo dục nhân cách định hình cho mỗi con người trong
hội. ‘Đồng thời, trong hoạt động nhận thức thực tiễn phải luôn chú ý giải quyết
đúng đắn mối quan hệ hội nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mức nhân
hoặc xã hội con người là tổng thể các quan hệ xã hội’’[8]. Văn hóa - xã hội là tổng thể các
nền văn hóa nhân riêng lẻ được hình thành các yếu tố cấu thành nên văn hóa -
hội là tổng thể chuẩn mực thế giới quan về thẩm mỹ, đạo đức, văn hóa, chính trị, xã hội,...
Do đó, trong quá trình hình thành, nhằm đảm bảo tính giai cấp, tính dân tộc tính thời
đại, chúng ta phải giáo dục, phổ biến nâng cao trình độ nhận thức để được con
người của thời đại đó, của xã hội đó, của nền văn hóa dân tộc đó trong quá trình rèn luyện
bản thân mỗi con người cá nhân trong xã hội.
Ý nghĩa lý luận hình thành nhân cách con người.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Con người với cách một nhân nguồn nhân lực cho hội, cho cộng
đồng, do đó trong việc hình thành bản chất của mỗi nhân mỗi con người hội,
3
chúng ta hướng tới mục tiêu phát triển của nguồn nhân lực, đó quá trình phát triển
nguồn nhân lực quốc gia.
Chúng ta hướng tới giáo dục, đạo đức, thẩm mĩ, sức khỏe chất lượng cuộc
sống
Giáo dục toàn diện để phát triển con người Việt Nam cả đức, trí, thể, mỹ luôn là tư
tưởng xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước ta đã xác định nội dung: “phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung đổi mới căn bản
toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
XI. ‘‘Những quan điểm về giáo dục công dân toàn diện hướng tới công dân toàn cầu hiện
đã được phản ánh trong việc xác định mục tiêu đổi mới chương trình, sách giáo khoa,
giáo dục phổ thông “phát triển con người Việt Nam toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, hướng
tới “công dân toàn cầu”” và cụ thể hóa thành những phẩm chất chủ yếu là yêu nước, nhân
ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và phát triển toàn diện các năng lực gồm các năng
lực chung.’’[9]
Định hình yếu tố cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng, phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng tinh túy, quan
trọng cấu thành nguồn nhân lực của quốc gia, nhân tố quan trọng của sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. ‘Việt Nam đã và vẫn nhiều biện pháp ưu tiên để thu hút
nguồn nhân lực cho sự phát triển của đất nước, cụ thể là: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày
06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động sử dụng
nguồn nhân lực hoạt động tiếp theo trong quá trình đào tạo tuyển chọn nguồn nhân
lực. Nếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản nắm vững chuyên môn nghiệp vụ thì
việc sử dụng nguồn nhân lực sẽ rất hiệu quả. và ngược lại. Để phát huy nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay, cần: Quan tâm đến nhu cầu chính đáng của nhân dân, kết hợp hài hòa
4
lợi ích cá nhân và tập thể; kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người xưa, đồng thời phải
biết xây dựng mô hình phù hợp với từng thời kỳ lịch sử ...’’[10]
Quản lí nhà nước liên quan đến nguồn nhân lực
Định hướng điều tiết phát triển nguồn nhân lực vai trò then chốt trong quá
trình xây dựng đất nước, cụ thể phát triển sử dụng hợp nguồn nhân lực gắn với
đào tạo và bố trí nguồn nhân lực.‘‘Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt từ
những ngày đầu đổi mới đất nước, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả nguồn nhân lực và
yêu cầu của phát triển đất ớc cần để hội nhập quốc tế sâu rộng. Sau nhiều năm thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước toàn hệ thống
chính trị, nguồn nhân lực nước ta đã có bước phát triển vượt bậc về học vấn, chuyên môn.
Khoa học công nghệ, thể lực trí tuệ con người Việt Nam đã đạt đến một cấp độ mới.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta tăng đều hàng năm đã được Chương
trình phát triển Liên Hợp quốc đánh giá rất cao.’’[11]
Giải quyết mối quan hệ môi tường làm việc đến thực tiễn của nền kinh tế
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển nguồn nhân lực cũng như
xác định ra những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả làm việc của người lao động môi
trường làm việc. Môi trường làm việc không tốt thể gây ra những tác động nghiêm
trọng đến cả sức khoẻ thể chất và tâm thần của người lao động.‘Để khắc phục tình trạng
này, nhà nước đã đưa ra các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm đầu
đổi mới thiết bị, ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh, trang
thiết bị an toàn, chú trọng xử lý rác thải, nước thải ra môi trường xung quanh, nâng cao an
toàn vệ sinh lao động,…’’[12]. Môi trường làm việc tốt là điều kiện thuận lợi để nâng cao
năng suất làm việc, tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực về kỹ năng năng lực,
nam châm thu hút nhân tài và xây dựng đội ngũ nhân lực vững mạnh. Tạo môi trường làm
việc thuận lợi, chính sách đãi ngộ tốt để giữ chân nhân tài trong nước, tránh hiện tượng
chảy máu chất xám.
5
Ý nghĩa thực tiễn nâng cao giá trị con người, lấy con người làm điểm tựa để
phát triển đổi mới đất nước.
Tài liệu tham khảo
1
9. www.tapchicongsan.org.vn
10. moha.gov.vn
11. moha.gov.vn
12. moi-truong-lam-viec
6
| 1/6

Preview text:

Đề bài: Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và bản chất
con người. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
. Bài làm
1. Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và bản chất con người 1.1.
Khái niệm con người
Theo như chủ nghĩa Mác – Lênin có đề cập thì con người vừa là thực thể tự nhiên,
vừa là thực thể xã hội. Cả hai phương diện này cùng tồn tại, chứa đựng lẫn nhau, tác động
qua lại với nhau tạo nên sự đặc biệt của con người.
1.1.1. Con người là một thực thể tự nhiên
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ dưới đây:
- Thứ nhất, ‘‘con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên.’’[1]. Học thuyết Đácuyn về sự tiến hóa là một cơ sở khoa học tiêu biểu để có thể đi đến kết luận này.
- Thứ hai, ‘‘con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng ‘là thân thể vô cơ của con người’.’’[2]. Vì thế nên có sự tác động làm biến đổi lẫn
nhau giữa con người và giới tự nhiên. ‘‘Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn
tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên.’’[3].
1.1.2. Con người là một thực thể xã hội
Bản tính xã hội của con người được phân tích dưới góc độ sau đây:
- Thứ nhất, xét từ giác độ nguồn gốc hình thành con người, loài người thì nhân tố
lao động biểu thị bản chất xã hội của con người. ‘‘Chính nhờ lao động mà con người có
khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người.’’[4]
- Thứ hai, ‘‘xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn
tại của nó luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và quy luật xã hội.’’[5]. Xã hội biến 1
đổi sẽ kéo theo con người thay đổi và ngược lại con người thay đổi sẽ dẫn đến sự biến đổi của xã hội. 1.2.
Bản chất con người
C.Mác khẳng đinh: ‘‘Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội’’. Nghĩa là bản chất của con người được tạo nên từ các mối quan hệ xã hội.
Nhưng không phải những sự kết hợp đơn giản thông thường mà là sự tổng hòa giữa
chúng. Mọi mối quan hệ xã hội đều có vị trí, vai trò khác nhau, có tác động qua lại và gắn
bó chặt chẽ với nhau. Các mối quan hệ xã hội thể hiện đặc trưng tính xã hội của con
người. Trong mỗi thời đại, các yếu tố ảnh hưởng đến các mối quan hệ khác nhau dẫn đến
biểu thị sự tổng hòa các mối quan hệ sẽ khác nhau qua thời gian và định hình nên những
con người khác nhau. Các mối quan hệ đó là: quan hệ chính trị, quan hệ sản xuất, quan hệ
pháp luật, quan hệ đạo đức, quan hệ thẩm mĩ, quan hệ lịch sử,… Từ mỗi cá nhân với
những cái riêng biệt, đặc sắc tạo hình tạo thành nên các quan hệ xã hội, và các quan hệ xã
hội trở thành tiêu chuẩn, chuẩn mực quay trở lại định hình mỗi cá nhân của xã hội.
Con người vừa là chủ thể của xã hội, vừa là lịch sử của xã hội.
2. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn 2.1. Ý nghĩa lý luận
- Quá trình hình thành và phát triển nhân cách hay bản chất con người do các yếu
tố điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Bởi vì mỗi người sẽ có những ý tưởng và quan
điểm khác nhau trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, bản chất sẽ được định
hình riêng và mỗi con người cá nhân sẽ hình thành nên những con người của xã hội và
con người của xã hội sẽ quay lại điều chỉnh và cải tạo con người cá nhân.
- ‘‘Việc đánh giá con người thì cần phải cân nhắc cả hai phương diện bản tính tự
nhiên và phương diện bản tính xã hội, nhưng phải coi trọng hơn việc xem xét từ phương
diện bản tính xã hội. Mặt khác, khi xem xét việc xây dựng thái độ sống phải biết quan tâm
đến nhu cầu sinh học nhưng cũng phải lưu ý rèn luyện phẩm chất xã hội, tránh rơi vào 2
thái độ sống chạy theo nhu cầu bản năng tầm thường’’[6]. Qua đó, ta tìm hiểu được nhân
cách con người và các yếu tố tạo thành giá trị con người mới. Đó là mỗi người trong quá
trình hình thành nhân cách phải bao gồm các yếu tố về nhân cách và đạo đức. Chính vì
vậy chúng ta cần phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện để có cả nhân cách và đạo đức, đây là
những yếu tố cần thiết cho sự phát triển toàn diện. Bởi vì, theo Bác Hồ đã nói “Có tài mà
không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Vì vậy
trong quá trình học tập, phát huy và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân cũng như nhân
cách của xã hội, chúng ta phải rèn luyện kết hợp tổng hòa giữa tri thức và đạo đức.
- ‘‘ Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nên cần chú trọng việc
xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan hệ xã hội tốt đẹp để có thể xây dựng,
phát triển được những con người tốt đẹp, hoàn thiện.’’[7]. Sự hình thành và phát triển
nhân cách do các yếu tố văn hoá - xã hội chi phối. Thông qua các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc sẽ quyết định hành vi, tình cảm, nhân cách của mỗi con người. Và để
làm được điều này, chúng ta phải giáo dục nhân cách định hình cho mỗi con người trong
xã hội. ‘‘Đồng thời, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải luôn chú ý giải quyết
đúng đắn mối quan hệ xã hội – cá nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân
hoặc xã hội con người là tổng thể các quan hệ xã hội’’[8]. Văn hóa - xã hội là tổng thể các
nền văn hóa cá nhân riêng lẻ được hình thành và các yếu tố cấu thành nên văn hóa - xã
hội là tổng thể chuẩn mực thế giới quan về thẩm mỹ, đạo đức, văn hóa, chính trị, xã hội,...
Do đó, trong quá trình hình thành, nhằm đảm bảo tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời
đại, chúng ta phải giáo dục, phổ biến và nâng cao trình độ nhận thức để có được con
người của thời đại đó, của xã hội đó, của nền văn hóa dân tộc đó trong quá trình rèn luyện
bản thân mỗi con người cá nhân trong xã hội.
Ý nghĩa lý luận hình thành nhân cách con người.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Con người với tư cách là một cá nhân là nguồn nhân lực cho xã hội, cho cộng
đồng, do đó trong việc hình thành bản chất của mỗi cá nhân và mỗi con người xã hội, 3
chúng ta hướng tới mục tiêu phát triển của nguồn nhân lực, đó là quá trình phát triển
nguồn nhân lực quốc gia.
Chúng ta hướng tới giáo dục, đạo đức, thẩm mĩ, sức khỏe và chất lượng cuộc sống
Giáo dục toàn diện để phát triển con người Việt Nam cả đức, trí, thể, mỹ luôn là tư
tưởng xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Nhà nước ta đã xác định nội dung: “phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung đổi mới căn bản
và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
XI. ‘‘Những quan điểm về giáo dục công dân toàn diện hướng tới công dân toàn cầu hiện
đã được phản ánh trong việc xác định mục tiêu đổi mới chương trình, sách giáo khoa,
giáo dục phổ thông “phát triển con người Việt Nam toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, hướng
tới “công dân toàn cầu”” và cụ thể hóa thành những phẩm chất chủ yếu là yêu nước, nhân
ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm và phát triển toàn diện các năng lực gồm các năng lực chung.’’[9]
Định hình yếu tố cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng, phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng tinh túy, quan
trọng cấu thành nguồn nhân lực của quốc gia, là nhân tố quan trọng của sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước. ‘‘Việt Nam đã và vẫn có nhiều biện pháp ưu tiên để thu hút
nguồn nhân lực cho sự phát triển của đất nước, cụ thể là: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày
06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về xây dựng đội ngũ trí thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hoạt động sử dụng
nguồn nhân lực là hoạt động tiếp theo trong quá trình đào tạo và tuyển chọn nguồn nhân
lực. Nếu nguồn nhân lực được đào tạo bài bản và nắm vững chuyên môn nghiệp vụ thì
việc sử dụng nguồn nhân lực sẽ rất hiệu quả. và ngược lại. Để phát huy nguồn nhân lực ở
Việt Nam hiện nay, cần: Quan tâm đến nhu cầu chính đáng của nhân dân, kết hợp hài hòa 4
lợi ích cá nhân và tập thể; kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người xưa, đồng thời phải
biết xây dựng mô hình phù hợp với từng thời kỳ lịch sử ...’’[10]
Quản lí nhà nước liên quan đến nguồn nhân lực
Định hướng và điều tiết phát triển nguồn nhân lực có vai trò then chốt trong quá
trình xây dựng đất nước, cụ thể là phát triển và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực gắn với
đào tạo và bố trí nguồn nhân lực.‘‘Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt từ
những ngày đầu đổi mới đất nước, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả nguồn nhân lực và
yêu cầu của phát triển đất nước cần để hội nhập quốc tế sâu rộng. Sau nhiều năm thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống
chính trị, nguồn nhân lực nước ta đã có bước phát triển vượt bậc về học vấn, chuyên môn.
Khoa học công nghệ, thể lực và trí tuệ con người Việt Nam đã đạt đến một cấp độ mới.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta tăng đều hàng năm và đã được Chương
trình phát triển Liên Hợp quốc đánh giá rất cao.’’[11]
Giải quyết mối quan hệ môi tường làm việc đến thực tiễn của nền kinh tế
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc phát triển nguồn nhân lực cũng như
xác định ra những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả làm việc của người lao động là môi
trường làm việc. Môi trường làm việc không tốt có thể gây ra những tác động nghiêm
trọng đến cả sức khoẻ thể chất và tâm thần của người lao động. ‘‘Để khắc phục tình trạng
này, nhà nước đã đưa ra các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm đầu tư
đổi mới thiết bị, ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh, trang
thiết bị an toàn, chú trọng xử lý rác thải, nước thải ra môi trường xung quanh, nâng cao an
toàn vệ sinh lao động,…’’[12]. Môi trường làm việc tốt là điều kiện thuận lợi để nâng cao
năng suất làm việc, tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực về kỹ năng và năng lực, là
nam châm thu hút nhân tài và xây dựng đội ngũ nhân lực vững mạnh. Tạo môi trường làm
việc thuận lợi, chính sách đãi ngộ tốt để giữ chân nhân tài trong nước, tránh hiện tượng chảy máu chất xám. 5
Ý nghĩa thực tiễn nâng cao giá trị con người, lấy con người làm điểm tựa để
phát triển đổi mới đất nước. Tài liệu tham khảo 1 9. www.tapchicongsan.org.vn 10. moha.gov.vn 11. moha.gov.vn 12. moi-truong-lam-viec 6