










Preview text:
lOMoAR cPSD| 61464806
Đề cương cơ sở văn hoá 1. Văn hoá
Trình bày ngắn gọn và phân tích một định nghĩa văn hoá
Phân biệt văn hoá với văn minh, văn hiến, văn vật
Toạ độ và văn hoá việt nam
Đặc trưng và chức năng cơ bản của văn hoá Bài làm
1. Trình bày ngắn gọn và phân tích một định nghĩa văn hoá
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thuật ngữ văn hoá và khó lòng có thể đi đến
sự nhất quán trong quan điểm của mọi người. tuỳ vào vấn đề nghiên cứu, các nhà
khoa học sẽ tiếp cận với định nghĩa nào mà họ cho là phù hợp nhất
Khái niệm văn hoá Theo GS Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là 1 hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với Môi trường tự nhiên và Môi trường xã hội”.
Từ khái niệm văn hoá, giáo sư trần ngọc thêm đã nêu ra bốn đặc trưng văn
hoá là tính hệ thống khi cho rằng “ văn hoá là một hệ thống hữu cơ”, tính giá trị (
gồm các giá trị vật chất và tinh thần), văn hoá do con người sáng tạo và tích luỹ
trong quá trình tương tác với tự nhiên, xã hội nên nó có tính nhân sinh và tính lịch
sử văn hóa ở đây không phải là một tập hợp riêng lẽ mà là một hệ thống liên
kết bởi nhiều yếu tố, trong đó chứa đựng những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình lịch sử. Định nghĩa này nhấn mạnh sự gắn
kết chặt chẽ giữa văn hóa và hoạt động thực tiễn của con người, đặc biệt là trong
mối tương tác không ngừng giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội
Môi trường tự nhiên là nguồn cung cấp tài nguyên, cảm hứng và những điều
kiện sống, đồng thời tạo nên các thách thức buộc con người phải thích nghi và sáng tạo.
Môi trường xã hội bao gồm các mối quan hệ giữa con người với nhau, từ
gia đình, cộng đồng, đến các tổ chức xã hội, nơi hình thành và trao đổi các giá trị,
phong tục, tập quán, và các chuẩn mực. lOMoAR cPSD| 61464806
Từ sự tương tác đó, văn hóa không chỉ phản ánh cách con người hiểu, ứng
xử và sáng tạo trong môi trường của mình mà còn là nền tảng định hình bản sắc cá
nhân và cộng đồng. Văn hóa là "linh hồn" của một dân tộc, và qua thời gian, nó được
bảo tồn, truyền thừa, và phát triển, góp phần xây dựng nên các nền văn minh khác nhau.
Dù được phát biểu và có cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn chung vẫn
có một số điểm thống nhất trong các định nghĩa văn hoá :
Một là văn hoá là đặc trưng của xã hội loài người
Hai là văn hoá được thể hiện qua một hệ thống vật thể và phi vật thể tạo nên bản sắc
riêng của mỗi cộng đồng
Ba là văn hoá được học hỏi thông qua giáo dục, giao tiếp và tham gia vào các hoạt động cộng đồng
Phân biệt văn hoá với văn hiến văn minh văn vật
Những khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật thường được sử dụng rất
nhiều trong cuộc sống nhưng với những ý nghĩa chưa thực sự chính xác. Vì thế, chỉ
ra sự khác nhau về bản chất giữa những phạm trù này là cần thiết cho các quá trình
nhận thức và nghiên cứu. Khái niệm văn minh:
ở Phương Đông văn minh chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị,
pháp luật, văn hóa, nghệ thuật còn ở Phương Tây: (civitas: đô thị, thành phố) văn
minh là để chỉ xã hội đạt tới giai đoạn có tổ chức đô thị và chữ viết
Lâu nay không ít người sử dụng văn minh như một từ đồng nghĩa với văn
hóa. Song đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Có nhiều cách hiểu về văn
minh, nhưng chúng thường có một nét nghĩa chung là “trình độ phát triển”. Văn
minh chỉ trình độ phát triển nhất định về phương tiện vật chất, đặc trưng cho 1 khu
vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại. Như vậy, văn minh khác với văn hóa ở 3 điểm.
Thứ nhất, trong khi văn hóa có bề dày lịch sử thì văn minh là một lát cắt đồng đại
của một khoảng thời gian nhất định
Thứ hai trong khi văn hóa bao gồm các giá trị vật chất và tinh thần, thì văn minh
chủ yếu thiên về giá trị vật chất, kỹ thuật. lOMoAR cPSD| 61464806
Thứ ba trong khi văn hóa mang tính dân tộc thì văn minh lại mang tính siêu dân tộc-quốc tế.
Thứ tư về nguồn gốc, văn hoá gắn bó nhiều hơn với nông nghiệp phương đông còn
văn minh gắn bó nhiều với phương tây đô thị Khái niệm văn hiến và văn vật:
Về nguồn gốc, hai khái niệm này chỉ xuất hiện ở phương Đông.
Văn hiến có thể hiểu là để chỉ một nền văn hoá cao, thiên về các giá trị tinh
thần, thể hiện tính dân tộc và tính lịch sử rõ rệt. Văn = vẻ đẹp, hiến = hiền tài. Văn
hiến thiên về các giá trị văn hóa tinh thần do người hiền tài sáng tạo ra.. Đây là các
giá trị đóng góp cho quốc gia, cho đất nước. khi VN bị TQ đô hộ thì chữ Hán du
nhập vào nước ta, sau đó là sự xuất hiện của chữ Nôm để bù đắp vào chỗ mà chữ
Hán chưa đáp ứng được. Rồi sau hàng trăm năm lịch sử thì xuất hiện chữ Quốc ngữ
và được sử dụng cho đến bây giờ, nó thể hiện giá trị tinh thần to lớn, đóng góp rất
nhiều cho sự phát triển của đất nước, là tài sản vô giá của dân tộc.
Văn vật là truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch
sử. Văn là đẹp, vật là vật chất , văn vật thiên về những giá trị văn hóa vật chất. Văn
vật còn là khái niệm hẹp để chỉ những công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và
lịch sử như Phở Hà Nội, Cốm Làng Vòng, Gốm Bát Tràng .. đều là văn vật
Nhìn chung, Văn vật và văn hiến chỉ là những khái niệm bộ phận của “văn
hóa”. Chúng khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị: văn hiến thiên về giá trị tinh
thần, văn vật thiên về giá trị vật chất.
Khái niệm văn hóa, văn hiến, văn vật thường gắn với phương Đông nông
nghiệp, trong khi khái niệm văn minh thường gắn với phương Tây đô thị.
2. Toạ độ và loại hình văn hoá việt nam
Trước hết về toạ độ văn hoá, toạ độ văn hoá là phương pháp nghiên cứu văn
hóa theo hai trục cơ bản: không gian văn hóa và thời gian văn hóa. toạ độ văn hoá
việt nam được xác định :
Thứ nhất, không gian văn hoá việt nam :
- Không gian gốc của văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trú của ngườiBách
Việt với đáy là sông Dương tử và đỉnh là vùng bắc Trung bộ Việt Nam.
- Ở phạm vi rộng hơn, không gian văn hóa Việt Nam nằm trong khu vực cư trúcủa
người Indonesien lục địa với cạnh đáy là sông Dương tử ở phía bắc và đỉnh là
đồng bằng sông Mêkông ở phía nam.
Thứ hai, Thời gian văn hóa Việt Nam được chia thành các giai đoạn: lOMoAR cPSD| 61464806
- Giai đoạn văn hóa tiền sử với sự hình thành nghề nông nghiệp trồng lúa nước.
- Giai đoạn văn hóa Văn Lang – Âu Lạc với thời đại đồ đồng, là thời điểm đỉnhcao
rực rỡ trong lịch sử văn hóa dân tộc và có ảnh hưởng đến toàn khu vực.
- Giai đoạn văn hóa thời Bắc thuộc với Sự suy tàn của nền văn minh Văn Lang –
Âu Lạc chống lại âm mưu đồng hoá của trung quốc và bắt đầu giao lưu, tiếp nhận
văn hóa Trung Quốc và khu vực.
- Giai đoạn văn hóa Đại Việt với văn hóa bản địa tiếp sức với văn hóa Phật giáo,
chuyển sang văn hóa Nho giáo.
- Giai đoạn văn hóa Đại Nam và Giai đoạn văn hóa hiện đại
Về loại hình văn hoá, Việt Nam do ở góc tận cùng phía đông – nam nên thuộc
loại văn hóa gốc nông nghiệp điển hình và có các đặc trưng nổi bật :
- Thứ nhất cư dân sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nghề trồng trọt buộc
ngươi dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch.
Vì lẽ đó nên dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng và ươc vọng sống hòa hợp vời
thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng là nói “lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời”…
- Thứ hai vì nghề nông, nhât là nghề nông nghiệp lúa nước, phụ thuộc vào tất
cảmọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trong đất, trông mây; Trông mưa, trông
gió, trông ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức, hình thành lối tư duy
tổng hợp. Tổng hợp kéo theo hiện chứng – cái mà người nông nghiệp quan tâm
không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối
quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức
phong phú về các loại quan hệ này: Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau mùa lúa…
- Thứ ba, về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên
tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống
hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu
- Thứ tư, người dân nông nghiệp có tư tưởng trọng đức trọng văn trọng phụ nữ
.Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà, coi trọng cái bếp và
coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt Nam là
người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa khóa.
Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời. Phụ nữ Việt Nam cũng lOMoAR cPSD| 61464806
chính là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu, Con dại cái mang
- Thứ năm, lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của ngườilàm
nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn
biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống Đi với
Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy…
- Thứ sáu, Sống theo tình cảm, con người còn phải biết tôn trọng và cư xử
bìnhđẳng, dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân
chủ phong kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng
tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Người
nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
- Thứ bảy, người dân ở đây có thái độ dung hợp trong cách tiếp nhận. Trong lối
ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt còn quy
định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không những không có chiến
tranh tôn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật giáo, Đạo
giáo, Thiên chúa giáo…) đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến tranh
xâm lược, người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong
kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng,
cha ông ta thường dừng lại chủ động cầu hòa, “trải chiếu hoa” cho giặc về, mở
đường cho chúng rút lui trong danh dự.
Tuy nhiên, loại hình văn hoá này vẫn còn một số mặt hạn chế. Mặt trái
của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc (giờ cao su), sự
thiếu tôn trọng pháp luật… Lối sống trọng tình làm cho thói tùy tiện càng trở nên
trầm trọng hơn: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình. Trọng tình và linh hoạt
làm cho tính tổ chức của người nông nghiệp kém hơn so với cư dân các nền văn hóa gốc du mục.
3. Đặc trưng và chức năng cơ bản của văn hoá Văn
hoá có bốn đặc trưng : Một là : tính nhân sinh
Là đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa. Con người vừa là chủ thể, vừa là
sản phẩm và còn là đại biểu mang các giá trị văn hóa.
Văn hóa được tạo thành bởi các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra thông qua quá trình hoạt động. một đất nước có thể giàu khoáng sản, dầu mỏ, lOMoAR cPSD| 61464806
các nguồn lợi thiên nhiên nhưng chưa hẳn là giàu có về văn hóa. Văn hóa là thành
quả lao động sáng tạo của nhân loại. Những thành quả ấy phải phục vụ sự phát triển
toàn diện của con người, phục vụ cuộc sống hạnh phúc trong an toàn của toàn thể xã hội. Hai là : tính hệ thống
Văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội, là cơ sở
tồn tại và phát triển của xã hội. Văn hóa là sản phẩm mang tính xã hội cao do mọi
người cùng chung sức tạo ra. Ba là : tính lịch sử
Đây là đặc trưng được xác định bởi bề dày và chiều sâu của văn hóa. Một nền văn
hóa bao giờ cũng cũng được hình thành qua nhiều thế hệ trên chiều dài lịch sử. Văn
hóa là 1 quá trình vận động liên tục, không gián đoạn. Là sản phẩm của 1 xã hội, 1
thời đại nhất định là 1 quá trình không ngừng tích lũy và đổi mới.
Tính giá trị: là đặc trưng quan trọng của văn hóa. Giá trị là những chuẩn mực được
cộng đồng chấp nhận và theo đuổi. giá trị vh là thái độ, trách nhiệm và những quy
tắc ứng xử của mọi người trong những quan hệ giữa bản thân mình với gia đình, xã
hội và thiên nhiên. Văn hóa chỉ bao gồm các giá trị, các vẻ đẹp. - Tính dân tộc:
+ Là đặc trưng cho ta thấy cách thức tồn tại và biểu hiện của mọi cộng đồng, mọi
nền văn hóa. Một nền văn hóa cụ thể luôn chịu sự chi phối, chế ước của hoàn cảnh
tự nhiên và rất nhiều điều kiện sinh hoạt vật chất của con người.
+ Mỗi dân tộc sẽ có 1 ngôn ngữ chung, tuân thủ phong tục tập quán chung, cùng
chia sẻ những điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần, nuôi dưỡng thành tố chất
tâm lí và tính cách chung.
Các chức năng cơ bản của văn hóa
- Chức năng điều chỉnh xã hội: hướng tới sự chuẩn mực. Điều tiết xã hội, giúp xã
hội duy trì trạng thái cân bằng động, không ngừng thích ứng với những biến đổi
của môi trường và xã hội. Thông qua các bảng giá trị để định hướng cho phương
thức hành động và mục tiêu phấn đấu của mỗi cá nhân và toàn thể cộng đồng.
Căn cứ vào các thang giá trị các cá nhân không ngừng hoàn thiện bản thân, tiến
tới duy trì một xã hội ổn định.
Điển hình cho chức năng này mà ta có thể hình dung rõ nhất là văn hóa xếp hàng ngay lOMoAR cPSD| 61464806
- chức năng giáo dục: Là chức năng bao trùm của văn hoá, các chức năng khác về
một mặt nào đó cũng thực hiện chức năng giáo dục. văn hóa ảnh hưởng đến toàn
bộ hoạt động của mỗi cá nhân, nó cho mỗi người một lối sống, một phong cách
nhất định. Chức năng tập trung của văn hoá là bồi dưỡng con người, hướng lý
tưởng, đạo đức và hành vi của con người vào “điều hay lẽ phải, điều khôn lẽ
thiệt”. Truyền thống văn hoá tồn tại nhờ sự phát triển của giáo dục, tạo nên sự
phát triển liên tục của lịch sử nhân loại và lịch sử mỗi dân tộc. Một đứa trẻ lớn
lên trong một nền văn hóa riêng biệt, thường có cách ứng xử riêng biệt, thích ăn
một món nào đó, thích ăn theo một lối nào đó, nói theo một ngôn ngữ nào đó
- Chức năng tổ chức xã hội: văn hóa giúp vào việc duy trì các hệ thống xã hội,
thực hiện liên kết và tổ chức cộng đồng. Các hệ thống xã hội được hình thành là
do có liên hệ lẫn nhau các cá nhân hay các nhóm xã hội. Ví dụ như từng tập quán,
hay quy tắc ứng xử của từng vùng miền. Môi miền ở nước ta có một tập quán và
cách ứng xử khác nhau đã tạo thành những nét văn hóa rất đặc trưng của từng
vùng, người ta vẫn thường hay nói về chuyện người miền Nam sẽ sống rất thoải
mái trong khi người miền Bắc lại sống tiết kiệm hơn.
- Chức năng giao tiếp: Giúp kết nối các dân tộc, quốc gia, các nền văn hoá. Giúp
con người hiểu biết và cảm thông với nhau hơn. Mỗi một con người ở một xã
hội nào đó đều mang một dấu vết văn hóa đặc trưng. Văn hóa trở thành sợi dây
nối liền con người với con người.
2. Giáo lưu và tiếp biến văn hoá Giao lưu văn hoá
Lịch sử đã chứng minh, quá trình tồn tại, phát triển của loài người luôn
gắn liền với quá trình trao đổi các giá trị, sản phẩm văn hoá giữa vùng miền này
với vùng miền khác nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Vì vậy, giao lưu văn
hoá tồn tại như một quy luật của xã hội loài người.
Tạp chí Cộng sản số 13, tháng 7 năm 1996 định nghĩa: Giao lưu văn hoá
là sự tác động qua lại biện chứng giữa các yếu tố văn hoá nội sinh và ngoại sinh
trong quá trình phát triển .Các khái niệm được sử dụng tương đồng với giao lưu
văn hóa như: đan xen văn hoá, giao thoa văn hoá, hỗn dung văn hoá, thâm nhập văn hoá...
Trên thực tế, có hai loại hình giao lưu văn hoá chủ yếu: giao lưu văn hoá
tự nhiên, tự nguyện và giao lưu văn hoá cưỡng bức. Loại hình giao lưu văn hoá tự
nhiên thể hiện ý chí và thái độ tự nguyện vì mục đích phát triển; các yếu tố tích cực
đóng vai trò chủ đạo. Loại hình giao lưu văn hoá cưỡng bức là giao lưu văn hoá
trái quy luật, hệ quả của xâm lược, bành trướng, thôn tính lãnh thổ; diễn ra sự đồng lOMoAR cPSD| 61464806
hoá, áp đặt văn hoá (giữa văn hoá của chủ thể xâm lược với văn hoá bị xâm lược);
các yếu tố hạn chế, tiêu cực đóng vai trò chủ đạo (đối với văn hoá bị xâm lược).
Tiếp biến văn hoá
Tiếp biến văn hoá là tiếp nhận yếu tố văn hoá ngoại sinh, nhưng cải biến đi
cho phù hợp với bản chất của nền văn hoá dân tộc, làm cho văn hoá dân tộc phát
triển đa sắc nhưng không biến dạng. Ví dụ: thuật ngữ “savon ” trong tiếng Pháp
được người Việt tiếp nhận và biến đổi thành “ xà bông” . Có thể nói, những yếu tố
ngoại sinh trong một nền văn hóa là yếu tố tuy có gốc tích từ bên ngoài nhưng qua
tiếp biến văn hóa đã trở thành một bộ phận của nền văn hóa bản địa, góp phần làm
giàu cho nền văn hóa bản địa
. Như vậy, giao lưu văn hóa là điều kiện cần, và tiếp biến văn hóa là điều kiện
đủ để làm phong phú thêm, giàu mạnh thêm nền văn hóa của một dân tộc Giao
lưu và tiếp biến văn hoá trong văn hoá việt nam
Giao lưu và tiếp biến văn hóa là quy luật vận động và phát triển tất yếu của văn
hóa và đời sống. Văn hóa Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Việt Nam
nằm trên “ngã tư đường của các nền văn minh”, chịu ảnh hưởng từ các nền văn hoá
lớn nhu : trung quốc, ấn độ, phương tây..
Giao lưu, tiếp biến văn hóa Trung Hoa
Văn hoá Trung Hoa du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và có ảnh hưởng sâu
sắc trên nhiều phương diện, vì các lí do: Trung Hoa là nền văn hoá lớn của khu vực,
có bề dày lịch sử; là nước láng giềng có vị trí cận kề Việt Nam; Việt Nam bị Trung
Hoa xâm lược từ sớm, cai trị lâu dài. Quá trình giao lưu, tiếp biến với văn hóa Trung
Hoa đối với văn hóa Việt Nam diễn ra ở cả hai trạng thái: giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện.
Giao lưu cưỡng bức xảy ra vào những giai đoạn lịch sử mà người Việt bị xâm
lược, bị đô hộ: từ thế kỉ I đến thế kỉ X (thời Bắc thuộc) và từ 1407- 1427 (thời Minh
thuộc). Suốt thời kì Bắc thuộc, nhà Hán thực hiện chính sách đồng hóa, tiêu diệt văn
hóa của cư dân bản địa Việt. Tiếp đó, nhà Minh lại thực hiện nhiều chính sách tàn
bạo nhằm đồng hóa văn hóa Việt. Chắc chắn, ở những thời kì lịch sử đầy cam go
vàthử thách này, người Việt đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn để bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc.
Giao lưu tự nguyện với văn hóa Trung Hoa chủ yếu diễn ra ở những giai đoạn
hòa bình dưới các triều đại phong kiến, nhằm mục đích phát triển kinh tế, xã hội,
văn hóa... Tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng đến đời sống người Việt rất sâu sắc trên nhiều lĩnh vực: lOMoAR cPSD| 61464806 -
Về thể chế chính trị thời phong kiến, đạo đức xã hội: chịu ảnh hưởng của Nho
giavới những chuẩn mực “tam cương, ngũ thường”… -
Về tôn giáo và đời sống tâm linh: người Việt hấp thụ từ văn hóa Trung Hoa
cáctôn giáo lớn như Đạo giáo, triết lí âm dương ngũ hành… -
Về ngôn ngữ: các từ ngữ Hán Việt chiếm tỉ trọng đáng kể trong ngôn ngữ
ngườiViệt; chữ Nôm cũng được sáng tạo trên cơ sở hình thức văn tự chữ Hán. -
Về kiến trúc, ăn, mặc, ở và một số kĩ thuật canh tác nông nghiệp, người Việt
cũngthừa hưởng từ nền văn hóa Trung Hoa.
Có thể nói, văn hoá Trung Hoa ảnh hưởng sâu sắc đến văn hoá Việt Nam từ
lĩnh vực vật chất đếntinh thần, đặc biệt là tình cảm và lối tư duy, ứng xử dưới thời
trung đại. Người Việt đã tiếp nhận và cải biến những yếu tố văn hóa ngoại sinh nhằm
thúc đẩy sự phát triển của văn hóa dân tộc.
Giao lưu, tiếp biến văn hoá ấn độ
Với vị thế là trung tâm của Đông Nam Á tiền sử, nằm trên các ngả đường giao
thông thủy bộ ven biển thuận tiện, cư dân Việt cổ đã sớm có những cuộc giao lưu
tiếp xúc với các vùng đất phía Nam và phía Tây, trong đó có Ấn Độ.
Nếu giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với Trung Hoa tồn tại ở cả hai trạng thái:
giao lưu cưỡng bức và giao lưu tự nguyện, thì giao lưu văn hóa trong quan hệ Việt
Nam với Ấn Độ là giao lưu văn hóa tự nguyện.
Giao lưu văn hoá giữa Việt Nam với Ấn Độ diễn ra khá sớm, khoảng đầu thế
kỉ thứ II khi Phật giáo bắt đầu du nhập vào nước ta. Và các yếu tố văn hoá Ấn Độ
khi giao lưu với văn hóa Việt Nam đối với các vùng, miền khác nhau cũng có sự khác nhau.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam sớm nhất ở miền Bắc, sau đó đến miền Trung,
rồi miền Nam. Sở dĩ Phật giáo sớm được cư dân Việt chấp nhận rộng rãi, vì đã được
truyền bá vào đất Việt qua những nhà tu hành- sứ giả của hòa bình mà không phải
bằng con đường xâm lược, cưỡng bức
Tư tưởng lớn của đạo Phật là “từ bi hỉ xả” rất phù hợp với hiếu hòa, nhân ái,
thương yêu con người… đã được người Việt thích ứng và tiếp biến để làm giàu có
và phong phú thêm văn hóa bản địa.
Nơi nhà sư tu hành thường không phải là chốn hang sâu rừng thẳm, mà ngay
ở giữa xóm làng. Về Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt một phương diện nhất
định, chùa làng đã thay thế cho “ngôi nhà chung” trong đời sống cộng đồng: sân lOMoAR cPSD| 61464806
chùa, vườn chùa… là nơi tụ hội, nơi sinh hoạt văn hóa của đông đảo dân làng, không
phân biệt tuổi tác, địa vị… làm sống lại không khí “dân chủ bình đẳng nguyên thủy”.
Ngày nay, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, trở thành tôn giáo lớn nhất ở nước ta.
Văn hóa Ấn Độ còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành văn hóa
Chămpa với những biểu hiện: kiến trúc, điêu khắc, tập quán, tín ngưỡng
Giao lưu, tiếp biến với văn hoá phương tây
Giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với phương Tây diễn ra khoảng thế kỉ XVI,
thông qua hoạt động thương mại và truyền giáo của người Bồ Đào Nha và Pháp,
nhưng thực sự được tính từ mốc thời gian 1858, khi Pháp xâm lược Việt Nam. Cuộc
gặp gỡ giữa văn hóa Việt Nam và văn hoá Pháp là cuộc gặp gỡ giữa phương Đông
với phương Tây, giữa văn hoá nông nghiệp với văn hoá công nghiệp. Tính chất giao
lưu văn hóa ở thời kì này có cả hai dạng: cưỡng bức, áp đặt và tiếp nhận một cách
tự nguyện. Quá trình giao lưu và tiếp biến giữa văn hoá việt nam và văn hoá phương
tây giai đoạn nãy đã làm thay đổi một số phương diện về văn hoá:
- Tôn giáo: du nhập một tôn giáo mới là Thiên chúa giáo, đóng góp thêm vào việc
đa dạng tôn giáo so với trước đây là Phật giáo, Nho giáo và tín ngưỡng bản địa.
- hình thành chữ Quốc ngữ tạo tiền đề để Việt Nam tiếp tục hoàn thành chữ Quốc
ngữ của dân tộc ta hiện nay.
- kỹ thuật, công trình kiến trúc triều đình, dấu ấn kiến trúc văn hóa Pháp cũng đã
để lại một cách đậm nét. kiến trúc của phương Tây trong xây dựng nhà cửa, các
văn phòng chính phủ và các công trình như đường xá, cầu cống... chúng ta vẫn
tiếp tục học hỏi phương Tây và ứng dụng trong việc xây dựng các công trình công cộng
- xuất hiện các phong trào hình thức nghệ thuật : kịch nói, thơ mới, báo chí, hội hoạ…
mặc dù có một số mặt văn hóa chưa phù hợp với Việt Nam cũng được
tiếp thu vào như phong trào “ âu hoá nửa vời” nhưng nhìn chung, cuộc giao lưu tiếp
xúc với văn hóa phương Tây đã tạo ra bước ngoặt lớn đối với văn hóa Việt Nam. Từ
đây văn hóa Việt Nam đi vào vòng quay của văn minh phương Tây giai đoạn công
nghiệp, nhằm thúc đẩy hiện đại hóa đất nước. Kết quả là văn hóa Việt Nam có thay lOMoAR cPSD| 61464806
đổi diện mạo nhưng không hề làm mất đi bản sắc dân tộc thành tựu đáng chú ý
của văn minh đại việt
Văn minh Đại Việt là nền văn minh rực rỡ, tồn tại và phát triển chủ yếu
trong thời độc lập, tự chủ của quốc gia Đại Việt, kéo dài 1000 năm. kế thừa từ văn
minh Văn Lang – Âu Lạc, trải qua hơn 1000 năm đấu tranh chống Bắc thuộc, được
phát huy và phát triển trong hoàn cảnh đất nước độc lập, tự chủ. Các thành tựu đáng
chú ý của văn minh đại việt là :