Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin. Chứng minh năng lượng là vật chất - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
8 trang 11 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin. Chứng minh năng lượng là vật chất - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

104 52 lượt tải Tải xuống
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề tài : Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin. Chứng minh năng lượng là vật
chất.
Họ và tên :
Mã sinh viên :
Lớp : THMLN 22
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Lê Thư
Hà Nội 2021
A. MỞ ĐẦU
Thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã quy vật chất về một hay một vài dạng cụ
thể của xem chúng khởi nguyên của thế giới, tức quy vật chất về những
vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại thế giới bên ngoài. Trung hoa cổ đại
người ta cho rằng Ngũ Hành những yếu tố vật chất đầu tiên của thế giới. Hi
Lạp cổ đại Thales coi thực thể của thế giới là nước, với Heraclitus thì đó là lửa, còn
với Anaximenes thì là không khí.
Nhưng đỉnh cao nhất định nghĩa vật chất của hai nhà triết học Hi Lạp cổ đại
Leucippus (khoảng 500 440 TCN) Democritus (427 374 TCN) khi đều cho
rằng vật chất nguyên tử. Nguyên tử theo họ những hạt nhỏ nhất, không thể
phân chia, không khác nhau về chất, tồn tịa vĩnh viễn và sự phong phú của chúng
về hình dạng, tự thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật.theo thuyết
nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng nghĩa với
những vật thể con người thể cảm nhận được một cách trực tiếp, một
lớp các phần tử hữu hình rộng rãi nằm sâu trong mỗi sự vật, hiện tượng
Thế kỷ XV XVIII: Bắt đầu thời phục hưng, phương Tây đã sự bứt phá so
với phương Đông chỗ khoa học thực nghiệm ra đời, đặc biệt sự phát triển
mạnh của học, công nghiệp. Thuyết nguyên tử vẫn được các nhà triết học
khoa học tự nhiên thời Phục hưng Cận đại như Galileo,Thomas More,
Niccolò Machiavelli, Johannes Kepler, Newton, ... tiếp tục nghiên cứu, khẳng định
trên lập trường duy vật.
Năm 1895, Rontgen đã phát hiện ra tia X nguồn gốc từ nguuyên tử. Điều đã
chứng tỏ nguyên tử không phải là một cái gì hoàn toàn đơn giản. Năm 1896, Henri
Becquerel phát hiện được hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Uraniumnguyên
nhân bên trong do tính không bền vững của nguyên tử gây ra. Năm 1897,
Thomson phát hiện ra điện tử chứng minh rằng, điện tử một trong những
thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Những điều trên chứng tỏ rằng nguyên tử không
phải phần tử nhỏ nhất thể bị phân chia, chuyển hóa. Cùng với đó,
Thuyểt tương đối hẹp (1905) và Thuyết tương đối tổng quát (1916) của Einstein ra
đời đã chứng minh không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận
động của vật chất.
Trước những phát hiện trên, các nhà khoa học, nhà duy vật đã hoang mang, dao
động, bởi nó trái ngược hoàn toàn với những gì chủ nghĩa duy vật đi theo mấy trăm
năm vừa qua. Điều đó đã khiến cho những nhà khoa học "giỏi khoa học nhưng
kém cái về triết học" đã trượt từ chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc đến chủ
nghĩa tương đối, hoài nghi và cuối cùng rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy tâm.
Lợi dụng tình hình này, các nhà triết học duy tâm đã tấn công trực diện vào khái
niệm vật chất.Theo họ, nếu nguyên tử bị phá vx, tức "vật chất tiêu tan" thì chủ
nghĩa duy vật dựa trên khái niệm vật chất đã cũng phải bị biến mất.
Tình hình mới của lịch sử và thời đại đã thôi thúc V.I.Lenin đưa ra định nghĩa khoa
học về vật chất. Một mặt, trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên; mặt khác, kế thừa và tiếp tục phát triển
những tư tưởng triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự đối lập giữa vật chất
ý thức, về bản chất tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của
phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể v.v,
B. NỘI DUNG
1. Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin.
V.I. Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học,
đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang lầm lẫn hoặc
xuyên tạc những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất,
mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ và phát triển quan niệm duy vật
biện chứng về phạm trù vật chất.
Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, VI. Lênin đặc biệt
quan tâm đến việc tìm kiếm cho phạm trù này. V.I.Lêninphương pháp định nghĩa
chỉ ra rằng, không thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp định nghĩa các khái
niệm thông thường. Phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường quy
khái niệm cần định nghĩa vào khái niệm rộng hơn nó, rồi chỉ ra đặc điểm của nó.
Chẳng hạn định nghĩa: Glucose một loại monosaccarit với công thức phân tử
C6H12O6 phổ biến nhất. Glucose chủ yếu được tạo ra bởi thực vật hầu hết
các loại tảo trong quá trình quang hợp từ nước và CO2, sử dụng năng lượng từ ánh
sáng mặt trời. Nhưng đối với phạm trù vật chất, với cách một phạm trù triết
học - một phạm trù rộng nhất, rộng đến cùng cực, không thể có một phạm trù nào
rộng hơn phạm trù vật chất - thì duy nhất về mặt phương pháp luận chỉ có thể định
nghĩa vật chất bằng cách đối lập tuyệt đối với ý thức, xem vật chất thực tại
khách quan tồn tại độc lập với ý thức cái phản ánh nó. Vì vậy, trong định nghĩa
vật chất đã xuất hiện từ cảm giác (tức ý thức). Kế thừa những tưởng của Các
Mác và Ph. Ăngghen, VI. Lênin đã định nghĩa vật chất với tư cách là một phạm trù
triết học đem đối lập với phạm trù ý thức và bằng cách trên phương diện nhận thức
luận cơ bản. V.I. Lênin viết: “Không thể đem lại cho hai khái niệm nhận thức luận
này một định nghĩa nào khác ngoài cách chỉ rõ rằng trong hai khái niệm đó, cái nào
được coi là có trước”
Với phương pháp nêu trên, V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vật chất một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan. Khi
nói vật chất với cách một phạm trù triết học thì sự trừu tượng hoá,
không có sự tồn tại cảm tính. Song sự trừu tượng này chỉ cái đặc tính chung nhất,
bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể nào của vật chất cũng có,
đó là đặc tính tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của loài người. Đặc tính này
tiêu chuẩn bản duy nhất để phân biệt cáivật chất, cái gì không phải
vật chất. Nói cách khác, tính trừu tượng của phạm trù vật chất bắt nguồn từsở
hiện thực, do đó, không tách rời tính hiện thực cụ thể của nó. Vật chất là hiện thực
chứ không phải hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải
hiện thực chủ quan. Đây cũng chính là cái “phạm vi hết sức hạn chế” mà ở đó theo
V.I. Lênin, sự đối lập giữa vật chất ý thức tuyệt đối. Tuyệt đối hoá tính trừu
tượng của phạm trù này sẽ không thấy vật chất đâu cả, sẽ rơi vào quan điểm duy
tâm. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá tính hiện thực cụ thể của phạm trù này sẽ đồng
nhất vật chất với vật thể, và đó là thực chất quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước
Mác về vấn đề này.
Nội dung này đã khắc phục triệt để sai lầm bản của chủ nghĩa duy vật trước
Mác, đã quy vật chất về một dạng cụ thể của vật chất; đưa học thuyết duy vật
tiến lên một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi mới do những phát minh mới
nhất của khoa học tự nhiên đề ra. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã khắc phục
quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác, phê phán
thế giới quan duy tâm vật học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng
hoảng thế giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật
chất, khám phá ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng
làm phong phú tri thức của con người về thế giới.
Thứ hai, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác
Trái với quan niệm “khách quan” mang tính chất duy tâm về sự tồn tại của vật
chất, V.I. Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách
quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện
tượng cụ thể, cái trước ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, độc lập với ý
thức; còn cảm giác (tức là ý thức) của con người là cái có sau vật chất, do vật chất
sinh ra, phụ thuộc vào vật chất. Vật chất nội dung, nguồn gốc khách quan,
nguyên nhân phát sinh ra ý thức;không cái bị phản ánh là vật chất sẽ không
cái phản ánh là ý thức. Mặc dù, không phải mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong
thế giới khi tác động lên giác quan của con người đều được các giác quan con
người nhận biết; cái phải qua dụng cụ khoa học, thậm chí cái bằng dụng cụ
khoa học nhưng cũng chưa biết; có cái đến nay vẫn chưa dụng cụ khoa học để
biết được; song, nếutồn tại khách quan, hiện thực bên ngoài, độc lập, không
phụ thuộc vào ý thức của con người thì nó vẫn là vật chất.
Ý kiến trên đã đánh tan mọi luận điệu sai lầm của chủ nghĩa duy tâm dưới mọi
hình thức như duy tâm chủ quan, duy tâm khách quan, nhị nguyên luận v.v.
những trường phái triết học cố luận giải cho tinh thần là cái sinh ra mọi sự vật, hiện
tượng phong phú, đưa dạng của thế giới xung quanh chúng ta.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Chỉ một thế giới duy nhất thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy luật
vốn của đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện
tượng - hiện tượng vật chất hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn
tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện
tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức...), lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện
tượng vật chất và những gì có được trong các hiện tượng tinh thần ấy. vật chất tồn
tại khách quan, nhưng không phải tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một
cách hiện thực dưới dạng các sự vật, hiện tượng quá trình cụ thể,con người
bằng các giác quan của mình có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được. Nghĩa
là, ngoài dấu hiệu tồn tại khách quan, vật chất còn có một dấu hiệu quan trọng khác
đã tính thể nhận thức được. Khẳng định vật chất cái được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh... V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng, bằng
những phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh...) con người
thể nhận thức được thế giới vật chất.vậy, về nguyên tắc, trong thế giới vật
chất không cái gì là không thể biết, chỉ có những cái đã biếtnhững cái chưa
biết.
Khẳng định trên đây ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bác bỏ thuyết “bất
khả tri”, đồng thời có tác dụng khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế
giới vật chất, góp phần làm giàu kho tàng tri thức nhân loại. Ngày nay, khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển với những khám phá mới
mẻ càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất,
chứng tỏ định nghĩa vật chất của V.I. Lênin vẫn giữ nguyên giá trị, do đó mà,
chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày càng khẳng định vai trò hạt nhân thế giới
quan, phương pháp luận đúng đắn của các khoa học hiện đại.
Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác - Lênin. Định
nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã trêngiải quyết hại mặt vấn đề bản của triết học
lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó còn cung cấp nguyên tắc thế giới
quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết
không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hìnhmọi biểu hiện của chúng trong triết
học sản hiện đại về phạm trù này. Trong nhận thức thực tiễn, đòi hỏi con
người phải quán triệt xuất phát từ hiện thực khách quannguyên tắc khách quan
tôn trọng khách quan, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan... Định
nghĩa vật chất của V.I. Lênin sở khoa học cho việc xác định vật chất trong
lĩnh vực xã hội đó các điều kiện sinh hoạt vật chất, hoạt động vật chất các
quan hệ vật chất hội giữa người với người. còn tạo sự liên kết giữa chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ thống lý luận
thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách
duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trước hết các vấn
đề về sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất vật chất, về mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về mối quan hệ giữa giữa quy luật khách quan
của lịch sử và hoạt động có ý thức của con người...
Chứng minh năng lượng là vật chất
Năng lượng là khả năng cho phép mọi vật trong vũ trụ này di chuyển hay vận động
để tạo ra sự thay đổi. Khả năng này không tự sinh ra hay mất đi, hay nói cách khác
thì lượng năng lượng trong vũ trụ này không bao giờ thay đổi, chúng chỉ chuyển từ
dạng này sang dạng khác thông qua các quá trình khác nhau. Các dạng năng lượng
phổ biến bao gồm động năng của vật chuyển động, năng lượng tiềm tàng được lưu
trữ bởi vị trí của vật trong trường lực (lực hấp dẫn, điện hoặc từ), năng lượng đàn
hồi được lưu trữ bằng cách kéo căng vật thể rắn, năng lượng hóa học được giải
phóng khi nhiên liệu bị đốt cháy, năng lượng bức xạ mang theo ánh sáng năng
lượng nhiệt do nhiệt độ của một vật thể. Như vậy năng lượng là một phạm trù trừu
tượng tồn tại khách quan độc lập với ý thức. Mặc dù không thể cảm nhận trực tiếp
năng lượng nhưng chúng ta vẫn có thể nhận biết một cách gián tiếp sự thay đổi của
năng lượng qua những cảm giác được phản ánh như cảm giác nóng, lạnh (nhiệt
năng) hay áp lực lên các bộ phận của thể khi thực hiện một hoạt động (cơ
năng)... Khách quan hơn chúng ta các đơn vị, dụng cụ đo năng lượng các
dạng tồn tại khác nhau của năng lượng như động năng, hóa năng, quang năng, ...
Như vậy năng lượng tồn tại khách quan, được cảm giác phản ánh lại, tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác, từ đó suy ra năng lượng là vật chất
C. KẾT LUẬN
Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính phổ biến nhất, cơ bản nhất là thuộc tính tồn tại
khách quan, định nghĩa vật chất của Lênin đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác
nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với cách phạm trù triết học, khoa học
chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết
học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những thuộc không
thuộc về vật chất.
Thứ hai, khi khẳng định vật chất thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh, Lê-
nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là cái có trước, ý
thức cái sau, vật chất quyết định ý thức. Đó con người thể nhận thức
được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con người
đối với thực tại khách quan.
Mặc dù định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ nhưng nó vẫn giữ
nguyên giá trị thực tiễn khoa học. Hơn 100 năm đã trôi qua, định nghĩa kinh
điển về vật chất của triết học mácxit do V.I.Lênin nêu ra luôn ý nghĩa thế giới
quan phương pháp luận khoa học đối với giai cấp công nhân nhân loại tiến
bộ trong công cuộc sáng tạohội mới.cả trong thời đại hiện nay, định nghĩa
vật chất của V.I.Lênin vẫn sở luận khoa học cho chúng ta chống lại mọi
luận điểm sai lầm trong các trào lưu của triết học tư sản hiện đại, chống chủ nghĩa
giao điều chủ nghĩa xét lại, bảo vệ phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho chúng ta trong sự nghiệp sáng tạo xã hội mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Tái bản có sửa chữa, bổ sung), NXB Chính trị
Quốc gia.
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị
Quốc Gia.
| 1/8

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề tài : Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin. Chứng minh năng lượng là vật chất. Họ và tên : Mã sinh viên : Lớp : THMLN 22
Giảng viên hướng dẫn : Nguyễn Thị Lê Thư Hà Nội 2021 A. MỞ ĐẦU
Thời cổ đại các nhà triết học duy vật đã quy vật chất về một hay một vài dạng cụ
thể của nó và xem chúng là khởi nguyên của thế giới, tức quy vật chất về những
vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Ở Trung hoa cổ đại
người ta cho rằng Ngũ Hành là những yếu tố vật chất đầu tiên của thế giới. Ở Hi
Lạp cổ đại Thales coi thực thể của thế giới là nước, với Heraclitus thì đó là lửa, còn
với Anaximenes thì là không khí.
Nhưng đỉnh cao nhất là định nghĩa vật chất của hai nhà triết học Hi Lạp cổ đại là
Leucippus (khoảng 500 – 440 TCN) và Democritus (427 – 374 TCN) khi đều cho
rằng vật chất là nguyên tử. Nguyên tử theo họ là những hạt nhỏ nhất, không thể
phân chia, không khác nhau về chất, tồn tịa vĩnh viễn và sự phong phú của chúng
về hình dạng, tự thế, trật tự sắp xếp quy định tính muôn vẻ của vạn vật.theo thuyết
nguyên tử thì vật chất theo nghĩa bao quát nhất, chung nhất không đồng nghĩa với
những vật thể mà con người có thể cảm nhận được một cách trực tiếp, mà là một
lớp các phần tử hữu hình rộng rãi nằm sâu trong mỗi sự vật, hiện tượng
Thế kỷ XV – XVIII: Bắt đầu thời kì phục hưng, phương Tây đã có sự bứt phá so
với phương Đông ở chỗ khoa học thực nghiệm ra đời, đặc biệt là sự phát triển
mạnh của cơ học, công nghiệp. Thuyết nguyên tử vẫn được các nhà triết học và
khoa học tự nhiên thời kì Phục hưng và Cận đại như Galileo,Thomas More,
Niccolò Machiavelli, Johannes Kepler, Newton, ... tiếp tục nghiên cứu, khẳng định
trên lập trường duy vật.
Năm 1895, Rontgen đã phát hiện ra tia X có nguồn gốc từ nguuyên tử. Điều đã
chứng tỏ nguyên tử không phải là một cái gì hoàn toàn đơn giản. Năm 1896, Henri
Becquerel phát hiện được hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Uranium có nguyên
nhân bên trong là do tính không bền vững của nguyên tử gây ra. Năm 1897,
Thomson phát hiện ra điện tử và chứng minh rằng, điện tử là một trong những
thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Những điều trên chứng tỏ rằng nguyên tử không
phải là phần tử nhỏ nhất mà nó có thể bị phân chia, chuyển hóa. Cùng với đó,
Thuyểt tương đối hẹp (1905) và Thuyết tương đối tổng quát (1916) của Einstein ra
đời đã chứng minh không gian, thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất.
Trước những phát hiện trên, các nhà khoa học, nhà duy vật đã hoang mang, dao
động, bởi nó trái ngược hoàn toàn với những gì chủ nghĩa duy vật đi theo mấy trăm
năm vừa qua. Điều đó đã khiến cho những nhà khoa học "giỏi khoa học nhưng
kém cái về triết học" đã trượt từ chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc đến chủ
nghĩa tương đối, hoài nghi và cuối cùng rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy tâm.
Lợi dụng tình hình này, các nhà triết học duy tâm đã tấn công trực diện vào khái
niệm vật chất.Theo họ, nếu nguyên tử bị phá vx, tức là "vật chất tiêu tan" thì chủ
nghĩa duy vật dựa trên khái niệm vật chất đã cũng phải bị biến mất.
Tình hình mới của lịch sử và thời đại đã thôi thúc V.I.Lenin đưa ra định nghĩa khoa
học về vật chất. Một mặt, trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên; mặt khác, kế thừa và tiếp tục phát triển
những tư tưởng triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự đối lập giữa vật chất và
ý thức, về bản chất và tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của
phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể v.v, B. NỘI DUNG
1. Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin.
V.I. Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất của khoa học,
đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi, duy tâm đang lầm lẫn hoặc
xuyên tạc những thành tựu mới trong nhận thức cụ thể của con người về vật chất,
mưu toan bác bỏ chủ nghĩa duy vật, qua đó bảo vệ và phát triển quan niệm duy vật
biện chứng về phạm trù vật chất.
Để đưa ra được một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, VI. Lênin đặc biệt
quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. V.I.Lênin
chỉ ra rằng, không thể định nghĩa vật chất bằng phương pháp định nghĩa các khái
niệm thông thường. Phương pháp định nghĩa các khái niệm thông thường là quy
khái niệm cần định nghĩa vào khái niệm rộng hơn nó, rồi chỉ ra đặc điểm của nó.
Chẳng hạn định nghĩa: Glucose là một loại monosaccarit với công thức phân tử
C6H12O6 và phổ biến nhất. Glucose chủ yếu được tạo ra bởi thực vật và hầu hết
các loại tảo trong quá trình quang hợp từ nước và CO2, sử dụng năng lượng từ ánh
sáng mặt trời. Nhưng đối với phạm trù vật chất, với tư cách là một phạm trù triết
học - một phạm trù rộng nhất, rộng đến cùng cực, không thể có một phạm trù nào
rộng hơn phạm trù vật chất - thì duy nhất về mặt phương pháp luận chỉ có thể định
nghĩa vật chất bằng cách đối lập tuyệt đối nó với ý thức, xem vật chất là thực tại
khách quan tồn tại độc lập với ý thức là cái phản ánh nó. Vì vậy, trong định nghĩa
vật chất đã xuất hiện từ cảm giác (tức ý thức). Kế thừa những tư tưởng của Các
Mác và Ph. Ăngghen, VI. Lênin đã định nghĩa vật chất với tư cách là một phạm trù
triết học
và bằng cách đem đối
lập với phạm trù ý thức trên phương diện nhận thức
luận cơ bản. V.I. Lênin viết: “Không thể đem lại cho hai khái niệm nhận thức luận
này một định nghĩa nào khác ngoài cách chỉ rõ rằng trong hai khái niệm đó, cái nào
được coi là có trước”
Với phương pháp nêu trên, V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
”.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan. Khi
nói vật chất với tư cách là một phạm trù triết học thì nó là sự trừu tượng hoá,
không có sự tồn tại cảm tính. Song sự trừu tượng này chỉ cái đặc tính chung nhất,
bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện tượng, quá trình cụ thể nào của vật chất cũng có,
đó là đặc tính tồn tại khách quan và độc lập với ý thức của loài người. Đặc tính này
là tiêu chuẩn cơ bản duy nhất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là
vật chất. Nói cách khác, tính trừu tượng của phạm trù vật chất bắt nguồn từ cơ sở
hiện thực, do đó, không tách rời tính hiện thực cụ thể của nó. Vật chất là hiện thực
chứ không phải là hư vô và hiện thực này mang tính khách quan chứ không phải
hiện thực chủ quan. Đây cũng chính là cái “phạm vi hết sức hạn chế” mà ở đó theo
V.I. Lênin, sự đối lập giữa vật chất và ý thức là tuyệt đối. Tuyệt đối hoá tính trừu
tượng của phạm trù này sẽ không thấy vật chất đâu cả, sẽ rơi vào quan điểm duy
tâm. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá tính hiện thực cụ thể của phạm trù này sẽ đồng
nhất vật chất với vật thể, và đó là thực chất quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vấn đề này.
Nội dung này đã khắc phục triệt để sai lầm cơ bản của chủ nghĩa duy vật trước
Mác, đã là quy vật chất về một dạng cụ thể của vật chất; đưa học thuyết duy vật
tiến lên một bước mới, đáp ứng được những đòi hỏi mới do những phát minh mới
nhất của khoa học tự nhiên đề ra. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã khắc phục
quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác, phê phán
thế giới quan duy tâm vật lý học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng
hoảng thế giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới vật
chất, khám phá ra những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất, không ngừng
làm phong phú tri thức của con người về thế giới.
Thứ hai, thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác
Trái với quan niệm “khách quan” mang tính chất duy tâm về sự tồn tại của vật
chất, V.I. Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính hiện thực khách
quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức của các sự vật, hiện
tượng cụ thể, là cái có trước ý thức, không phụ thuộc vào ý thức, độc lập với ý
thức; còn cảm giác (tức là ý thức) của con người là cái có sau vật chất, do vật chất
sinh ra, phụ thuộc vào vật chất. Vật chất là nội dung, là nguồn gốc khách quan, là
nguyên nhân phát sinh ra ý thức;không có cái bị phản ánh là vật chất sẽ không có
cái phản ánh là ý thức. Mặc dù, không phải mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong
thế giới khi tác động lên giác quan của con người đều được các giác quan con
người nhận biết; có cái phải qua dụng cụ khoa học, thậm chí có cái bằng dụng cụ
khoa học nhưng cũng chưa biết; có cái đến nay vẫn chưa có dụng cụ khoa học để
biết được; song, nếu nó tồn tại khách quan, hiện thực ở bên ngoài, độc lập, không
phụ thuộc vào ý thức của con người thì nó vẫn là vật chất.
Ý kiến trên đã đánh tan mọi luận điệu sai lầm của chủ nghĩa duy tâm dưới mọi
hình thức như duy tâm chủ quan, duy tâm khách quan, nhị nguyên luận v.v. là
những trường phái triết học cố luận giải cho tinh thần là cái sinh ra mọi sự vật, hiện
tượng phong phú, đưa dạng của thế giới xung quanh chúng ta.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo quy luật
vốn có của nó mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại hai hiện
tượng - hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Các hiện tượng vật chất luôn
tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào các hiện tượng tinh thần. Còn các hiện
tượng tinh thần (cảm giác, tư duy, ý thức...), lại luôn luôn có nguồn gốc từ các hiện
tượng vật chất và những gì có được trong các hiện tượng tinh thần ấy. vật chất tồn
tại khách quan, nhưng không phải tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một
cách hiện thực dưới dạng các sự vật, hiện tượng và quá trình cụ thể, và con người
bằng các giác quan của mình có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhận biết được. Nghĩa
là, ngoài dấu hiệu tồn tại khách quan, vật chất còn có một dấu hiệu quan trọng khác
đã là tính có thể nhận thức được. Khẳng định vật chất là cái được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh... V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng, bằng
những phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh...) con người
có thể nhận thức được thế giới vật chất. Vì vậy, về nguyên tắc, trong thế giới vật
chất không có cái gì là không thể biết, chỉ có những cái đã biết và những cái chưa biết.
Khẳng định trên đây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bác bỏ thuyết “bất
khả tri”, đồng thời có tác dụng khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế
giới vật chất, góp phần làm giàu kho tàng tri thức nhân loại. Ngày nay, khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển với những khám phá mới
mẻ càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật biện chứng về vật chất,
chứng tỏ định nghĩa vật chất của V.I. Lênin vẫn giữ nguyên giá trị, và do đó mà,
chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày càng khẳng định vai trò là hạt nhân thế giới
quan, phương pháp luận đúng đắn của các khoa học hiện đại.
Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của triết học Mác - Lênin. Định
nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết hại mặt vấn đề cơ bản của triết học trên
lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó còn cung cấp nguyên tắc thế giới
quan và phương pháp luận khoa học để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết
không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết
học tư sản hiện đại về phạm trù này. Trong nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con
người phải quán triệt nguyên tắc khách
quan – xuất phát từ hiện thực khách quan
tôn trọng khách quan, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan... Định
nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong
lĩnh vực xã hội
– đó là các điều kiện sinh hoạt vật chất, hoạt động vật chất và các
quan hệ vật chất xã hội giữa người với người. Nó còn tạo sự liên kết giữa chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thành một hệ thống lý luận
thống nhất, góp phần tạo ra nền tảng lý luận khoa học cho việc phân tích một cách
duy vật biện chứng các vấn đề của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trước hết là các vấn
đề về sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất vật chất, về mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về mối quan hệ giữa giữa quy luật khách quan
của lịch sử và hoạt động có ý thức của con người...
Chứng minh năng lượng là vật chất
Năng lượng là khả năng cho phép mọi vật trong vũ trụ này di chuyển hay vận động
để tạo ra sự thay đổi. Khả năng này không tự sinh ra hay mất đi, hay nói cách khác
thì lượng năng lượng trong vũ trụ này không bao giờ thay đổi, chúng chỉ chuyển từ
dạng này sang dạng khác thông qua các quá trình khác nhau. Các dạng năng lượng
phổ biến bao gồm động năng của vật chuyển động, năng lượng tiềm tàng được lưu
trữ bởi vị trí của vật trong trường lực (lực hấp dẫn, điện hoặc từ), năng lượng đàn
hồi được lưu trữ bằng cách kéo căng vật thể rắn, năng lượng hóa học được giải
phóng khi nhiên liệu bị đốt cháy, năng lượng bức xạ mang theo ánh sáng và năng
lượng nhiệt do nhiệt độ của một vật thể. Như vậy năng lượng là một phạm trù trừu
tượng tồn tại khách quan độc lập với ý thức. Mặc dù không thể cảm nhận trực tiếp
năng lượng nhưng chúng ta vẫn có thể nhận biết một cách gián tiếp sự thay đổi của
năng lượng qua những cảm giác được phản ánh như cảm giác nóng, lạnh (nhiệt
năng) hay áp lực lên các bộ phận của cơ thể khi thực hiện một hoạt động (cơ
năng)... Khách quan hơn chúng ta có các đơn vị, dụng cụ đo năng lượng và các
dạng tồn tại khác nhau của năng lượng như động năng, hóa năng, quang năng, ...
Như vậy năng lượng tồn tại khách quan, được cảm giác phản ánh lại, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác, từ đó suy ra năng lượng là vật chất C. KẾT LUẬN
Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính phổ biến nhất, cơ bản nhất là thuộc tính tồn tại
khách quan, định nghĩa vật chất của Lênin đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác
nhau căn bản giữa phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học
chuyên ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết
học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Thứ hai, khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản ánh, Lê-
nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là cái có trước, ý
thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con người có thể nhận thức
được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại, phản ánh của con người
đối với thực tại khách quan.
Mặc dù định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ nhưng nó vẫn giữ
nguyên giá trị thực tiễn và khoa học. Hơn 100 năm đã trôi qua, định nghĩa kinh
điển về vật chất của triết học mácxit do V.I.Lênin nêu ra luôn có ý nghĩa thế giới
quan và phương pháp luận khoa học đối với giai cấp công nhân và nhân loại tiến
bộ trong công cuộc sáng tạo xã hội mới. Và cả trong thời đại hiện nay, định nghĩa
vật chất của V.I.Lênin vẫn là cơ sở lý luận khoa học cho chúng ta chống lại mọi
luận điểm sai lầm trong các trào lưu của triết học tư sản hiện đại, chống chủ nghĩa
giao điều và chủ nghĩa xét lại, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho chúng ta trong sự nghiệp sáng tạo xã hội mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Tái bản có sửa chữa, bổ sung), NXB Chính trị Quốc gia.
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc Gia.