



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI BÀI THẢO LUẬN ĐỀ TÀI
Phân tích đường lối của Đảng về giải quyết vấn đề chiến
tranh biên giới phía Bắc của Việt Nam
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam Nhóm: 8
Mã lớp học phần: 231 _HCMI0131_ 09
Giảng viên: Nguyễn Ngọc Diệp lOMoAR cPSD| 45474828
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
NHÓM 8 LỊCH SỬ ĐẢNG - LSĐ 231-HCMI0131-09 ST Họ và tên MSV Lớp hành chính T 73 Nguyễn Thị Hồng Nhung 21D170027 K57N1 74 Vũ Hồng Nhung 21D290134 K57DK1 75 Lưu Thị Hồng Như 21D170178 K57N2 76 Trương Quỳnh Như 21D170223 K57N3 77 Nguyễn Thị Ngọc Oanh 21D290184 K57DK2 78 Dương Hà Quang Phúc 21D70269 K57N4 79 Nguyễn Quế Phương 21D170224 K57N3 80 Hoàng Thị Phượng 21D170134 K57N1 81 Nguyễn Minh Quân 21D170135 K57N1 82 Nguyễn Thị Quế 21D170180 K57N2 lOMoAR cPSD| 45474828 Mục Lục
Mở đầu............................................................................................................................ 1
Nội dung ......................................................................................................................... 2
1. Bối cảnh lịch sử chung ........................................................................................... 2
1.1. Hoàn cảnh thế giới ........................................................................................... 2
1.2. Trong nước ....................................................................................................... 3
2. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc ......................................................... 3
2.1. Bối cảnh ............................................................................................................ 3
2.2. Diễn biến ........................................................................................................... 6
3. Đường lối của Đảng trong cuộc chiến ................................................................ 12
3.1. Mối quan hệ Việt - Trung trong bối cảnh lúc bấy giờ ................................ 12
3.2. Đường lối và chỉ thị của Đảng trong cuộc chiến ......................................... 15
3.3. Kết quả ........................................................................................................... 16
3.4. Bài học ............................................................................................................ 17
3.5. Hậu chiến tranh ............................................................................................. 18
Kết luận ........................................................................................................................ 20
Tài liệu tham khảo ....................................................................................................... 21 Mở đầu
Chiến tranh biên giới 1979, hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt –
Trung năm 1979, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam,
diễn ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên
toàn tuyến biên giới giữa 2 nước.
Chiến tranh biên giới Việt – Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai
quốc gia, diễn ra trong khoảng một tháng với thiệt hại về người và tài sản cho cả hai phía. 1 lOMoAR cPSD| 45474828
Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố hoàn thành việc rút quân vào ngày 16
tháng 3 năm 1979 sau khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng bên phía Việt Nam ký lệnh Tổng
động viên toàn dân và Trung Quốc đã đánh chiếm các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao
Bằng và một số thị trấn vùng biên. Sau đó cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố đã chiến thắng.
Mặc dù chịu thiệt hại lớn và thất bại trong việc buộc Việt Nam phải rút quân khỏi
Campuchia nhưng Trung Quốc đã chứng minh được rằng đối thủ Liên Xô sẽ không trực
tiếp tham chiến để bảo vệ đồng minh Việt Nam của mình. Cuộc chiến cũng để lại hậu
quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước.
Xung đột vũ trang tại biên giới giữa hai nước vẫn còn tiếp diễn thêm hơn mười năm nữa.
Tới năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, Quan hệ ngoại giao Việt – Trung mới chính thức
được bình thường hóa. Nội dung
1. Bối cảnh lịch sử chung 1.1.
Hoàn cảnh thế giới
Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam Lê
Duẩn nêu ra vấn đề Hoàng Sa, phản ứng không nhượng bộ của Trung Quốc làm nhà
lãnh đạo Việt Nam khó chịu. Lê Duẩn thẳng thừng từ chối việc đưa Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc, ông cũng phủ nhận quan niệm
của Trung Quốc rằng "chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các
nước cộng sản châu Á". Ông rút ngắn thời gian thăm Trung Quốc và rời nước này mà
không tổ chức tiệc đáp lễ Trung Quốc theo truyền thống ngoại giao, cũng không ký thỏa
thuận chung, không đưa ra bất cứ một phát biểu hoặc thông cáo nào về cuộc viếng thăm.
Cũng trong chuyến thăm này, Trung Quốc thông báo rằng sẽ không giữ mức viện trợ
như đã hứa năm 1973. Bắc Kinh bắt đầu nói về một Việt Nam "hắc tâm", "vô ơn", "ngạo
ngược".Viện trợ của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ.
Điều kiện đầu tiên Trung Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại viện trợ là phải từ chối tất
cả các khoản viện trợ của Liên Xô.
Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô thì Trung Quốc thấy
mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt Nam cũng đang cố gắng xây dựng mối quan 2 lOMoAR cPSD| 45474828
hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương mà trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng
đầu. Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống nhất đã trở thành một sức mạnh quan
trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á. Những
điều này làm cho Trung Quốc lo ngại về một "tiểu bá quyền" Việt Nam, cộng với việc
bị Liên Xô bao vây từ phía bắc. Như vậy, nước Campuchia chống Việt Nam đã trở thành
một đồng minh quan trọng đối với Trung Quốc. 1.2. Trong nước
Tuy nhận được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương
và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Việt Nam nhất định cùng lúc
giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa
Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Việt Nam và Trung Quốc
về cách thức tiến hành cuộc chiến với Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt.
Trung Quốc muốn Việt Nam chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ,
trong khi Việt Nam muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất đất nước.Và hơn
thế nữa, Việt Nam muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước
nào làm trung gian. Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Việt Nam bắt đầu đàm phán trực tiếp với
Hoa Kỳ, trong khi đó Trung Quốc phản đối.
2. Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc. 2.1. Bối cảnh 2.1.1.
Mối quan hệ quốc tế.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc Việt Nam, quốc gia đã nhận được
sự ủng hộ và đồng lòng từ cộng đồng quốc tế. Một số quốc gia đã tuyên bố ủng hộ Việt
Nam trong cuộc chiến này bao gồm Cuba và Liên Xô
Tuy nhận được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương
và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Việt Nam nhất định cùng lúc
giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên
Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Việt Nam và Trung Quốc về
cách thức tiến hành cuộc chiến với Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Trung 3 lOMoAR cPSD| 45474828
Quốc muốn Việt Nam chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong
khi Việt Nam muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất đất nước. Và hơn thế
nữa, Việt Nam muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước
nào làm trung gian. Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Việt Nam bắt đầu đàm phán trực tiếp với
Hoa Kỳ, trong khi đó Trung Quốc phản đối.
2.1.2. Các bước đi và toan tính từ trước của Trung Quốc.
Trung Quốc là nước láng giềng của Việt Nam. Trong quá trình đấu tranh cách mạng,
nhân dân hai nước gắn bó mật thiết, đoàn kết giúp đỡ nhau. Nhưng sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam thắng lợi (1975), quan hệ hai nước dần xấu đi.
Đầu năm 1979, khi Quân đội nhân dân Việt Nam tiến công đánh đổ tập đoàn phản
động Pol Pot, giúp đỡ nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, mở ra công cuộc
hồi sinh đất nước, chính quyền Trung Quốc cùng một số nước khác ra sức tuyên truyền
xuyên tạc sự xuất hiện của Quân tình nguyện Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia.
Mục đích của họ là muốn chống phá cách mạng Việt Nam, hậu thuẫn cho các thế
lực phản động để mưu toan áp đặt lợi ích dân tộc của họ trên bán đảo Đông Dương. Sau
nhiều lần gây ra các vụ khiêu khích quân sự quy mô nhỏ, từ ngày 17/2/1979, phía Trung
Quốc đã huy động 60 vạn quân, trên 500 xe tăng, xe bọc thép; hàng ngàn khẩu pháo các
loại... mở cuộc tiến công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía
Bắc từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh), trong đó hướng tiến công
chủ yếu là Cao Bằng-Lạng Sơn; hướng tiến công quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên
Sơn); hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu); hướng nghi binh thu hút lực lượng là
Quảng Ninh, Hà Tuyên.Mở cuộc tiến công xuống biên giới phía Bắc Việt Nam, các nhà
cầm quyền Trung Quốc hướng đến những mục tiêu cơ bản:
Thứ nhất, buộc Việt Nam phải rút Quân tình nguyện ra khỏi Campuchia, tạo điều
kiện cho quân Pol Pot hồi phục lực lượng, giữ được những căn cứ còn lại, tiếp tục chống
phá chính quyền cách mạng Campuchia vừa thiết lập. 4 lOMoAR cPSD| 45474828
Thứ hai, tranh thủ sự ủng hộ của một số nước lớn đang chống phá cách mạng Việt
Nam (trong đó có Mỹ) để giúp Trung Quốc thực hiện “bốn hiện đại hóa” (nông nghiệp,
công nghiệp, quân đội, khoa học-kỹ thuật).
Thứ ba, phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng, kích động bạo loạn, hạ uy thế quân
sự, chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược năm 1975.
Thứ tư, thị uy sức mạnh đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á; đồng thời
thăm dò phản ứng của Liên Xô và dư luận thế giới để chuẩn bị cho những bước phiêu lưu quân sự sau này.
2.1.3. Tương quan lực lượng.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc Việt Nam, Trung Quốc đã huy
động khoảng 60 vạn quân, trên 500 xe tăng, xe bọc thép và hàng ngàn khẩu pháo các
loại để tiến công xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc từ
Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh). Trong khi đó, lực lượng của Việt
Nam bao gồm sư đoàn Sao Vàng đã bảo vệ Lạng Sơn.
Bộ Chỉ huy phía Trung Quốc chủ quan nhận định: với lực lượng, vũ khí trang bị
chiếm ưu thế áp đảo hiện tại (bộ binh đông hơn gấp 3,5 lần; pháo binh nhiều gấp 5,7
lần; xe tăng, thiết giáp nhiều gấp 9,8 lần...), quân Trung Quốc sẽ nhanh chóng đập tan
hệ thống phòng thủ biên giới của Việt Nam; mặt khác, một bộ phận lớn Quân đội Việt
Nam đang thực hiện nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, lực lượng tăng cường cho mặt trận
biên giới sẽ gặp nhiều khó khăn.
Từ nhận định đó, Bộ Chỉ huy phía Trung Quốc đề ra kế hoạch là nhanh chóng đánh
chiếm một số thị xã, địa bàn quan trọng, sau đó tùy điều kiện tình hình cụ thể có thể phát
triển sâu vào nội địa Việt Nam.
Trên mỗi hướng tiến công, quân Trung Quốc thường kết hợp đánh chính diện với
vu hồi, thọc sâu, bao vây, chia cắt; phối hợp giữa bộ binh, xe tăng, xe bọc thép và pháo
binh, thực hiện đánh phá triệt để toàn diện rất tàn khốc. Tuy nhiên, trên thực tế, quân
Trung Quốc đã gặp phải sự giáng trả quyết liệt từ phía Việt Nam. 5 lOMoAR cPSD| 45474828 2.2. Diễn biến.
2.2.1. Diễn biến cuộc chiến.
Rạng sáng 17/ 2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên giới, đồng loạt
tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn
(Quảng Ninh) với chiều dài 1.200 km.
Dù từng tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn
bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới. Thời điểm Trung Quốc tấn công, tổng lực lượng
phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ có khoảng 50.000 quân Trong
khi đó, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập; 6 trung
đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo
hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn. Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000
người, gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.
Trên mặt trận Lạng Sơn, các cánh quân lớn của Trung Quốc chia làm nhiều mũi
đánh vào Bản Chất (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn
Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn). Dù bị bất ngờ song chỉ với lực lượng
dân quân địa phương, Việt Nam đã quả cảm chặn đánh, ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày.
Những người lính đầu tiên bảo vệ đất nước là bộ đội địa phương, công an vũ trang
(bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới.
Ngày 20/2, Trung Quốc tăng cường lực lượng chi viện, mở các đường tấn công mới
vào điểm cao nhằm tiến xuống phía nam Đồng Đăng. Quân và dân Lạng Sơn bám trụ
trận địa, đánh trả mạnh mẽ các mũi tấn công phía trước, phía sau của địch, buộc quân
xâm lược phải co về đối phó và bị đẩy lùi ở nhiều mặt trận.
Sau 10 ngày chiến đấu không đạt được mục tiêu, ngày 27/2, Trung Quốc tung thêm
một quân đoàn nhằm vào thị xã Lạng Sơn dùng chiến thuật biển người hòng xâm chiếm
các mục tiêu quan trọng. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt giữa 2 quân đoàn tăng cường của
Trung Quốc và lực lượng vũ trang địa phương Việt Nam. Ở điểm cao 417, đoàn An Lão
đã đánh bật hàng chục đợt tấn công, loại khỏi vòng chiến đấu trung đoàn 850 của Trung 6 lOMoAR cPSD| 45474828
Quốc. Đặc biệt, ở khu vực cầu Khánh Khê trên đường 1B, chiến sĩ đoàn Tây Sơn đã
kiên cường chặn đứng một sư đoàn quân và một tiểu đoàn xe tăng Trung Quốc.
Ở hướng Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của Trung Quốc hình thành hai cánh
quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông đánh xuống và từ phía đông bắc qua
Thạch An, Quảng Hòa đánh lên nhằm hợp điểm ở thị xã Cao Bằng.
Cả hai cánh quân đều bị bộ đội địa phương và dân quân Cao Bằng đánh chặn. Cánh
quân tây bắc dựa vào sức đột phá của xe tăng bị chặn tại Hòa An. Cánh quân đông bắc
cũng bị đánh quyết liệt ở Thạch An và Quy Thuận, bị chặn đứng trên đường số 4. Mũi
đánh vào Trà Lĩnh, Phục Hòa gồm 2 sư đoàn nhằm chiếm đèo Mã Phục, Khâu Chia cũng
bị lực lượng vũ trang địa phương phản kích xé tan đội hình, bỏ chạy về bên kia biên giới.
3 ngày đầu, quân Trung Quốc tại Cao Bằng đã bị thiệt hại 4 tiểu đoàn, bị phá hủy
hàng chục xe tăng, xe bọc thép và buộc phải đưa lực lượng dự bị vào vòng chiến. Trên
trận địa phòng ngự tại đồi Khâu Chia, các lực lượng của Việt Nam đã chặn đứng một sư
đoàn Trung Quốc trong 12 ngày, diệt hơn 4.000 lính. Ngày 12/3, quân Trung Quốc tháo chạy.
Trên tuyến Hoàng Liên Sơn, mờ sáng 17/2, các sư đoàn tuyến 1 của hai quân đoàn
Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới Hoàng Liên Sơn từ phía tây bắc đến đông bắc
thị xã Lào Cai. Cùng với việc đánh nhiều mũi vào các huyện Bát Xát, Mường Khương,
bắn pháo dữ dội vào thị xã, quân Trung Quốc đồng thời bắc cầu qua sông Nậm Thi, cho
xe tăng và bộ binh tiến vào thị xã Lào Cai và khu vực Bản Phiệt. Dân quân, tự vệ thị xã
cùng các lực lượng vũ trang ở đây đánh trả quyết liệt. Sau 7 ngày, hai quân đoàn Trung
Quốc không qua nổi trận địa đánh chặn, phục kích của quân và dân Hoàng Liên Sơn.
Trên các hướng Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, cùng một lúc quân Trung Quốc
chia các hướng đánh vào nhiều điểm. Hai sư đoàn Trung Quốc tiến công theo đường 10
vào Nậm Cúm, Phong Thổ (Lai Châu) và đụng độ với lực lượng vũ trang địa phương.
Qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ.
Ở Hà Tuyên, một sư đoàn Trung Quốc tấn công vào các đồn chốt biên phòng đã
vấp phải sự kháng cự quyết liệt của công an vũ trang, dân quân, bộ đội các huyện Đồng 7 lOMoAR cPSD| 45474828
Văn, Thanh Thủy, Mèo Vạc và đồng bào các dân tộc. Hơn 1.000 lính Trung Quốc thiệt mạng.
Tại Quảng Ninh, Trung Quốc dùng hai sư đoàn bộ binh tiến công vào Pò Hèn,
Móng Cái, Cao Ba Lanh, huyện Bình Liêu. Trong hai ngày 19 và 20/2, hai trung đoàn
Trung Quốc đã bị đánh lui, tháo chạy sát về biên giới.
Trung Quốc rút quân
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động viên toàn quốc.
Cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố "hoàn thành mục tiêu chiến tranh" và rút quân. Các
nhà quan sát lúc đó cho rằng rút lui là hành động rất khó, có thể gây cho Trung Quốc
nhiều tổn thất nếu bị quân tinh nhuệ Việt Nam phản công.
Ngày 7/3, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút
quân. Ngày 18/3, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân.
2.2.2. Phản ứng quốc tế.
Ngay khi cuộc chiến nổ ra, Hoa Kỳ tuyên bố giữ vị trí trung lập và kêu gọi "sự rút
quân lập tức của Việt Nam khỏi Campuchia và Trung Quốc khỏi Việt Nam", nói rằng
"việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam là sự tiếp nối của việc Việt Nam xâm lược
Campuchia". Nhưng theo đánh giá của Nayan Chanda, Hoa Kỳ đã là quốc gia phương
Tây duy nhất gần như ủng hộ cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, trong khi phần
lớn các quốc gia phương Tây phản đối hành động quân sự của Trung Quốc.
Ngày 18 tháng 2,Chính phủ Liên Xô lên án việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam và
chỉ trích sự vô trách nhiệm và tội ác của Ban lãnh đạo Trung Quốc: "Việc Trung Quốc
tiến công xâm lược Việt Nam chứng tỏ một lần nữa rằng, Bắc Kinh có thái độ vô trách
nhiệm biết nhường nào đối với vận mệnh của hòa bình và Ban Lãnh đạo Trung Quốc sử
dụng vũ khí một cách tùy tiện, đầy tội ác biết nhường nào!... Những hành động xâm
lược đó trái với những nguyên tắc của Liên Hợp Quốc, chà đạp thô bạo luật pháp quốc
tế, càng vạch trần trước toàn thế giới chính sách bành trướng của Bắc Kinh ở Đông Nam Á". 8 lOMoAR cPSD| 45474828
Liên Xô Hiệp định ký kết với Việt Nam, Quỹ Trung Quốc rút quân và hỗ trợ kết
thúc cuộc vận động chuyển, phát triển khai hải quân và cung cấp thông tin quân sự cho Việt Nam.
Đêm hôm Trung Quốc tuyên bố rút quân, Cuba cảnh báo Trung Quốc là nước này
sẽ hỗ trợ Việt Nam, kể cả việc đưa quân đến nếu cần. Sau khi biết tin Trung Quốc rút
quân, nhật báo Pravda của Liên Xô cũng đưa ra bình luận rằng "Liên Xô hiểu được dã
tâm của Bắc Kinh vì vậy đã không đáp lại những khiêu khích quân sự của Trung Quốc
với mục đích duy nhất là làm leo thang căng thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ"
Tại Liên Hợp Quốc, tranh cãi kịch liệt xảy ra xung quanh vấn đề an ninh ở Đông
Nam Á. Hai sự kiện Việt Nam đánh vào Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và Trung
Quốc đánh vào Việt Nam cùng được đưa ra bàn luận. Hội đồng Bảo an bị chia rẽ sâu sắc
sau các cuộc họp vào các ngày cuối tháng 2. Các nước ASEAN muốn tất cả các lực
lượng quân sự nước ngoài rút quân về nước. Mỹ ủng hộ lập trường này. Liên Xô tuyên
bố không ủng hộ bất cứ nghị quyết nào không lên án Trung Quốc và đòi Trung Quốc rút
quân. Ngày 23 tháng 2, Liên Xô cùng Tiệp Khắc đưa dự thảo nghị quyết trong đó lên án
Trung Quốc xâm lược, đòi Trung Quốc rút quân và bồi thường chiến tranh cho Việt
Nam, và kêu gọi cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Còn Trung Quốc thì chỉ trích Liên
Xô "khuyến khích Việt Nam tấn công Trung Quốc và xâm lược Campuchia". Ngày 24
tháng 2, Trung Quốc đưa dự thảo nghị quyết đòi Việt Nam "lập tức rút quân hoàn toàn
khỏi Campuchia". Cuối cùng, Liên Hợp Quốc không đi đến được một nghị quyết nào.
2.2.3. Hậu quả.
Theo công bố chính thức của Việt Nam, trong tuần đầu tiên của chiến tranh, lực
lượng vũ trang 6 tỉnh biên giới đã loại khỏi vòng chiến 16.000 quân Trung Quốc, con số
này tiếp tục tăng lên 27.000 vào ngày 28-2 và 45.000 vào ngày 5-3- ngày Bắc Kinh bắt đầu rút quân.
Tính đến ngày 18-3 khi chiến tranh tạm thời chấm dứt, các đơn vị bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, công an vũ trang, cảnh sát, dân quân tự vệ của Việt Nam đã tiêu diệt
62.500 tên địch (trong đó bắt sống 260 tù binh), đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn và 18
tiểu đoàn, bắn cháy 280 xe tăng, thiết giáp và 270 xe quân sự, phá hủy 115 khẩu pháo, cối và dàn hỏa tiễn. 9 lOMoAR cPSD| 45474828
Mặc dù vậy, cuộc xâm lược của Bắc Kinh đã gây ra những thiệt hại vô cùng nặng
nề cho nước Việt Nam lúc đó đã phải hứng chịu 35 năm chiến tranh liên tục. Lính Trung
Quốc đã gây ra những vụ hãm hiếp, tàn sát, bắn phá... bừa bãi làm trên 10.000 dân
thường Việt Nam bị thương vong. Bên cạnh đó quân Trung Quốc còn thực hiện chính
sách cướp bóc và phá hoại triệt để ở các khu vực chiếm đóng được. Ước tính 320/320
xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm
trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ, 600.000 mét vuông nhà ở và 80.000 héc-ta hoa màu ở
khu vực chiến sự bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong
số 3,5 triệu dân ở biên giới bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống. Các thị xã
lớn Lạng Sơn, Cao Bằng và Cam Đường gần như bị hủy diệt hoàn toàn, lính Trung Quốc
dùng mìn đánh sập hầu hết các công trình, nhà ở, cầu, đường bộ và đường sắt… Ngay
cả những di tích lịch sử hoàn toàn không có ý nghĩa gì về mặt quân sự như hang Pắc Bó
(Cao Bằng) - từng là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, động Tam Thanh,
Nhị Thanh (Lạng Sơn)… cũng bị phá hoại.
Phía Trung Quốc chính thức thừa nhận có 20.000-30.000 quân bị thương vong trong
cuộc chiến, 2/3 là của các đơn vị trên hướng Quảng Châu, trong đó 4.000 thương vong
xảy ra chỉ trong hai ngày đầu tiên. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu của phương Tây đánh
giá con số thiệt hại thực của Trung Quốc cao hơn nhiều, có thể lên đến 46.00062.000
quân (với khoảng 13.000-26.000 người chết) và khoảng 400 xe tăng bị phá hủy. Họ cũng
cho rằng thương vong của các lực lượng vũ trang Việt Nam thấp hơn với khoảng 8.000- 10.000 người chết.
Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc tạm thời kết thúc sau 1 tháng, tuy nhiên tiếp
nối ngay sau đó là một thời kỳ dài Trung Quốc tiến hành một cuộc chiến tranh phá hoại
nhiều mặt chống lại Việt Nam. Các hoạt động vũ trang như phục kích, tập kích, pháo
kích, tiến công lấn chiếm… tiếp tục được Bắc Kinh duy trì với cường độ cao nhằm tạo
ra tình trạng căng thẳng, bất ổn ở khu vực biên giới Việt-Trung, gây ra nhiều tổn thất
cho lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam. Ở nhiều nơi giao tranh diễn ra ác liệt, kéo
dài như khu vực bình độ 400 ở Cao Lộc (Lạng Sơn) năm 1981 hay khu vực Thanh Thủy
ở Vị Xuyên (Hà Tuyên) từ 1984-1989… Phải tới năm 1990, quan hệ hai nước mới được
bình thường hóa, và đến đây hòa bình thực sự mới được lập lại trên lãnh thổ Việt Nam. 10 lOMoAR cPSD| 45474828
2.2.4. Ý nghĩa lịch sử.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam diễn ra trong vòng
khoảng một tháng (từ 17/2-18/3/1979) nhưng có ý nghĩa thắng lợi rất to lớn, thể hiện ở
một số khía cạnh cơ bản:
Quân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 quân Trung Quốc, bắn cháy
và phá hủy 550 xe quân sự, trong đó có 280 xe tăng, xe thiết giáp, phá hủy 115 khẩu
pháo và cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, đồ dùng quân sự... buộc đối phương sớm rút
quân, qua đó làm thất bại hoàn toàn ý đồ của các nhà cầm quyền Trung Quốc muốn áp
đặt lợi ích nước lớn lên bán đảo Đông Dương.
Cuộc chiến đấu này thêm một lần nữa khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân
dân Việt Nam quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, bởi Việt Nam lúc này vừa kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ chưa lâu (1975), vừa kết thúc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và đang làm
nhiệm vụ quốc tế giúp đỡ nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, thực
hiện công cuộc hồi sinh đất nước, kinh tế lại đang gặp rất nhiều khó khăn do cấm vận của Mỹ…
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam góp phần khẳng
định đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén của
Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Việt Nam, nhất là trong việc nắm bắt tình hình, đánh
giá đúng khả năng hành động của đối phương, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, chỉ huy
các lực lượng vũ trang và nhân dân chuẩn bị các mặt sẵn sàng đối phó; tăng cường củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Qua thực tiễn điều hành, chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Đảng và Chính phủ Việt
Nam luôn khẳng định về quyền tự vệ chính đáng của mình, kiên quyết đánh trả mọi cuộc
tiến công xâm phạm chủ quyền, nhưng đồng thời cũng luôn thể hiện rõ lòng bao dung,
khát vọng hòa bình, mong muốn chấm dứt xung đột để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
giữa hai dân tộc Việt Nam-Trung Quốc, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định
trong khu vực cũng như trên thế giới. 11 lOMoAR cPSD| 45474828
3. Đường lối của Đảng trong cuộc chiến. 3.1.
Mối quan hệ Việt - Trung trong bối cảnh lúc bấy giờ.
Việt Nam luôn luôn biết ơn sự giúp đỡ tận tình của Chính phủ và nhân dân Trung
Quốc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong công cuộc
xây dựng đất nước. Việt Nam rất coi trọng quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc.
Sau khi giải phóng miền Nam, từ ngày 22 đến 28/9/1975 đoàn đại biểu cấp cao Đảng
và Nhà nước Việt Nam do Bí thư Thứ nhất BCH T.Ư Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn
dẫn đầu đi thăm, cảm ơn Trung Quốc và bàn biện pháp củng cố, tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai nước.
Chính phủ Trung Quốc cam kết thực hiện các khoản viện trợ đã hứa cho Việt Nam
trước năm 1975 để xây dựng 111 công trình. Tháng 10/1976, Trung Quốc giúp Việt
Nam một số vũ khí phòng thủ. Trong năm 1977, Trung Quốc cho Việt Nam vay 900.000 tấn lương thực.
Các cuộc xung đột nổ ra ở biên giới Việt – Trung (khu vực Cao Bằng – Lạng Sơn)
vào cuối năm 1976 và tháng 3/1977 gần như trùng hợp với thời gian diễn ra tình hình
căng thẳng ở biên giới Việt Nam – Campuchia ở phía Tây Nam. Việt Nam và Trung
Quốc tiến hành đàm phán về vấn đề biên giới Cao Lạng – Quảng Tây.
Đoàn Trung Quốc đề nghị bàn biện pháp ngăn ngừa xung đột, giữ nguyên trạng
trong khi chờ Chính phủ hai nước giải quyết vấn đề biên giới Trung – Việt. Đoàn Việt
Nam đề nghị bàn biện pháp chấm dứt các vụ vi phạm biên giới quốc gia và trở lại đường biên giới lịch sử.
Ngày 25/7/1977, Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh nhận được thông báo của Phó
Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm cho biết Trung Quốc đồng ý đàm phán về vấn đề
biên giới vào hạ tuần tháng 9/1977 ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Cuộc đàm phán cấp
Thứ trưởng diễn ra ba vòng. Hai vòng đầu gồm 8 phiên, từ ngày 20/9/1977 đến
2/12/1977 ở Bắc Kinh. Vòng thứ ba từ ngày 13 đến 26/12/1977 ở Hà Nội. Tất cả các
vòng đàm phán đều không đi đến được thỏa thuận. Trong quá trình diễn ra các vòng đàm
phán, từ ngày 20 đến ngày 25/11/1977, Tổng Bí thư Ban chấp hành T.Ư Đảng Cộng sản 12 lOMoAR cPSD| 45474828
Việt Nam đã đi thăm Trung Quốc. Vấn đề Campuchia được đặt lên bàn đàm phán tại
Bắc Kinh và bất đồng sâu sắc.
Từ tháng 4/1978, khi Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh
ở Thành phố Hồ Chí Minh, Trung Quốc đã nêu lên vấn đề người Hoa và có những động
thái bất hợp tác. Ngày 12/5/1978, Trung Quốc gửi Công hàm thông báo Chính phủ Trung
Quốc cắt 21 hạng mục công trình viện trợ cho Việt Nam.
Ngày 18/5/1978, Chính phủ Việt Nam gửi Công hàm cho Chính phủ Trung Quốc
nêu quan điểm của Chính phủ Việt Nam về vấn đề người Hoa ở Việt Nam. Ngày
25/5/1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố về việc Trung Quốc xuyên tạc chính
sách của Chính phủ Việt Nam đối với người Hoa ở Việt Nam.
Ngày 30/5/1978, Trung Quốc tuyên bố cắt thêm 51 hạng mục công trình viện trợ,
và đến ngày 3/7/1978 tuyên bố cắt toàn bộ viện trợ kinh tế, rút hết chuyên gia về nước.
Trong khi đó, các vụ xung đột vẫn liên tiếp diễn ra trên biên giới hai nước.
Ngày 5/6/1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố 4 điểm về vấn đề người Hoa ở
Việt Nam. Bản tuyên bố kêu gọi những người Hoa đã từng sinh sống ở Việt Nam nên ở
lại Việt Nam. Những người Hoa ở miền Bắc Việt Nam và những người Việt gốc Hoa ở
miền Nam Việt Nam muốn rời Việt Nam sẽ được làm thủ tục xuất cảnh theo đúng luật
của Chính phủ Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cho phép chuyến tàu đầu tiên của Trung
Quốc sau khi đã làm đầy đủ thủ tục theo luật lệ Việt Nam đối với tàu nước ngoài sẽ được
vào cảng từ ngày 20/6/1978.
Ngày 22/7/1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Công hàm cho Bộ Ngoại giao Trung
Quốc chấp nhận yêu cầu của phía Trung Quốc là hai nước mở cuộc đàm phán cấp Thứ
trưởng ngoại giao để giải quyết vấn đề người Hoa cư trú ở Việt Nam.
Từ tháng 8/1978, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu đàm phán về vấn đề người Hoa
ở Việt Nam. Từ ngày 8/8 đến ngày 26/9/1978, đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao hai
nước diễn ra. Cuộc đàm phán tiến hành 7 phiên tại Hà Nội, trong bối cảnh ở biên giới
phía Bắc, Trung Quốc tiến hành đóng cửa các cửa khẩu, đẩy người Hoa trở lại Việt Nam.
Cuộc đàm phán không có kết quả. Ngày 26/9/1978, một lần nữa phía Trung Quốc đơn
phương tuyên bố đình chỉ không kỳ hạn cuộc đàm phán. 13 lOMoAR cPSD| 45474828
Ngày 3/10/1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bị vong lục cho Đại Sứ quán Trung
Quốc phản đối lực lượng vũ trang Trung Quốc liên tục xâm phạm lãnh thổ Việt Nam
(tháng 7 có 58 lượt, tháng 8 có 323 lượt, tháng 9 có 723 lượt). Ngày 12/10/1978, Bộ
Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố kịch liệt phản đối Trung Quốc ngày càng tăng cường
xâm phạm lãnh thổ, uy hiếp an ninh Việt Nam.
Ngày 2/11/1978, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố về việc quân
Trung Quốc gây ra một vụ nổ súng nghiêm trọng mới ở Cao Bằng, tiếp tục khiêu khích, chuẩn bị chiến tranh.
Nhằm tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, Đảng cộng sản
Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã điều động một lực lượng
cán bộ có năng lực ở miền xuôi lên tăng cường cho một số cơ sở ở các tỉnh miền núi
phía Bắc. Đợt đầu tiên gồm 1.500 cán bộ. Tháng 10/1978 diễn ra một đợt điều động nữa.
Mục tiêu của các đợt điều động này là kiện toàn các cơ quan Đảng, các tổ chức quần
chúng, các cơ quan an ninh, quốc phòng, thông tin liên lạc, giao thông vận tải, nông
nghiệp, kế hoạch, thống kê, tài chính, vật tư, thông tin văn hóa, y tế, giáo dục. Ngoài ra
còn điều động cán bộ gắn với việc đưa lao động miền xuôi đi xây dựng kinh tế ở các
tỉnh miền núi. Nhà nước cũng ban hành bổ sung một số chế độ đối với cán bộ công tác
ở miền núi, biên giới và hải đảo.
Ngày 26/12/1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Công hàm cho Đại sứ quán Trung
Quốc tại Việt Nam phản đối lực lượng vũ trang Trung Quốc chiếm cao điểm 494 ở xã
Cao Lâu, huyện Cao Lộc và mốc số 2 ở xã Đào Viên huyện Tràng Định, Lạng Sơn, phục
kích bắt cóc chiến sĩ biên phòng Việt Nam.
Ngày 30/12/1978, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là “bất khả xâm phạm”. Tình hình căng thẳng đến cực điểm.
5h sáng ngày 17/2/1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới kéo dài
1.400km tiến vào 6 tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên
(Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái), Lai Châu, điều động
9 quân đoàn chủ lực; 2.559 khẩu pháo, 500 xe tăng và xe thiết giáp tiến sâu vào đất Lạng
Sơn, Lai Châu 10 – 15km, vào Cao Bằng 40 – 50km. 14 lOMoAR cPSD| 45474828 3.2.
Đường lối và chỉ thị của Đảng trong cuộc chiến.
Lường định về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, cuối năm 1978, Trung ương
Đảng, Chính phủ Việt Nam khẩn trương tăng cường lực lượng củng cố tuyến phòng thủ
biên giới phía Bắc. Trước cuộc tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17-021979,
Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố nêu rõ: Nhà cầm quyền Trung Quốc đang đi ngược lại
lợi ích của nhân dân, phá hoại nghiêm trọng tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai
nước, đồng thời khẳng định quân và dân Việt Nam không có con đường nào khác là thực
hiện quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả.
Trong những ngày đầu chiến tranh, phía Việt Nam chủ trương không tập trung lực
lượng dự bị chiến lược vào quyết chiến sớm, cũng không vội rút lực lượng chủ lực cơ
động phía Nam ra, mà phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương,
sử dụng lực lượng tại chỗ của Quân khu 1, Quân khu 2 là chính, có sự bổ sung một bộ
phận lực lượng từ tuyến sau lên tăng cường.
Trải qua 10 ngày chiến đấu, các lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và nhân
dân Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc đã chiến đấu rất anh dũng, tiêu diệt nhiều
sinh lực, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm chậm ý định “đánh nhanh, chiếm
nhanh” của quân Trung Quốc, buộc đối phương phải tung lực lượng dự bị chiến lược
vào tham chiến. Với ưu thế quân đông, nhiều vũ khí trang bị kỹ thuật, quân Trung Quốc
từng bước tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, lần lượt chiếm một số địa bàn, thị xã quan
trọng như: Lào Cai (19-02), Cao Bằng (24-02), Cam Đường (25-02), Lạng Sơn (05-3)...
Trước tình hình cấp bách đó, Chính phủ Việt Nam quyết định sử dụng các binh đoàn
chủ lực mạnh, sẵn sàng mở những chiến dịch phản công quy mô lớn của binh chủng hợp
thành. Theo phương châm đó, đầu tháng 3-1979, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng
Việt Nam ra lệnh cho Quân đoàn 2 đang làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia nhanh
chóng chuyển toàn bộ lực lượng về phía Bắc tập kết, đồng thời, ra quyết định thành lập
Quân đoàn 5 (ngày 02-3-1979) ngay tại mặt trận biên giới (gồm bốn sư đoàn bộ binh: 3,
338, 327, 337 cùng một số đơn vị kỹ thuật và bảo đảm khác). Các đơn vị chủ lực của
Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân và các binh chủng kỹ thuật khác
sẵn sàng tham gia chiến đấu. Để phát huy sức mạnh tổng hợp cả nước, ngày 04-3, Ủy 15 lOMoAR cPSD| 45474828
ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam ra quyết định tổng động viên lực lượng bảo vệ Tổ
quốc. Kế hoạch tác chiến chiến lược được bổ sung thảo luận thông qua.
Vào thời gian này, do bị thiệt hại nặng nề mà chưa đạt được mục tiêu cơ bản đề ra,
lại bị dư luận quốc tế lên án mạnh mẽ, tối 05-3-1979, chính quyền Trung Quốc tuyên bố
rút quân về nước. Để tỏ thiện chí hòa bình, mong muốn khôi phục quan hệ hữu nghị
giữa hai nước, Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam ra lệnh cho các lực lượng vũ
trang và nhân dân trên vùng biên giới phía Bắc dừng chiến dịch phản công để tạo điều
kiện cho quân Trung Quốc rút về. Đến ngày 18-3-1979, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân khỏi Việt Nam. 3.3. Kết quả.
Tháng 3/1979, quân Trung Quốc bị thiệt hại nặng nề đã buộc phải rút quân về nước.
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bắc Kinh tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu chiến tranh, chiến
thắng và bắt đầu rút quân. Ngày hôm sau quân Trung Quốc rút về phía bắc sông Kỳ
Cùng. Ngày 16 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam.
Tuy nhiên, tại một số điểm thuộc một số tỉnh ở khu vực biên giới, chiến tranh vẫn
còn tiếp diễn, đặc biệt ở mặt trận Vị Xuyên của tỉnh Hà Giang, những trận đánh đẫm
máu để giành giật từng điểm cao với những hy sinh vô cùng lớn vẫn chưa chấm dứt, mà
phải đến tháng 9/1989 chiến tranh mới thật sự kết thúc.
Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến nhưng cả
hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và tài sản.
Phía Việt Nam: Lời nói đầu Hiến pháp Việt Nam năm 1980 khẳng định "Vừa trải
qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hòa bình
để xây dựng Tổ quốc, nhưng lại phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược
cùng bè lũ tay sai của chúng ở Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc,
quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền
Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình". 16 lOMoAR cPSD| 45474828
Phía Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình khẳng định mặc dù có nhiều thất bại về quân sự
nhưng Trung Quốc "đã đạt được chiến thắng về chính trị và chiến thắng chung cuộc".
Ông còn khẳng định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn".
Cuộc chiến tranh của Trung Quốc xâm lược Việt Nam năm 1979 gây tổn thất rất lớn cho cả hai bên.
Dù có bao biện, che đậy hay tuyên truyền trên các thông tin đại chúng bằng các cách
gọi “dạy cho Việt Nam một bài học; Việt Nam là tiểu bá…” hay vin vào các nguyên cớ
này, khác thì cũng không thể làm đảo lộn được sự thật rằng cuộc chiến tranh Trung Quốc
xâm lược tháng 2/1979 nằm trong mục tiêu phục vụ mộng bá quyền nước lớn, bắt Việt
Nam phải lệ thuộc, phụ thuộc… là phi nghĩa. Một lẽ thông thường là đối với dân tộc nói
chung, dân tộc Việt Nam nói riêng bắt buộc phải tiến hành cuộc chiến tranh chống thực
dân, đế quốc để có hòa bình đã thể hiện tính chất chính nghĩa một cách rõ ràng. Việt
Nam có hòa bình và không bao lâu thì lại phải tiến hành chiến tranh chống quân Trung
Quốc xâm lược tháng 2/1979 càng cho thấy tính chính nghĩa, mà công luận tiến bộ thế
giới đã thừa nhận. Trước tòa án lương tâm, lương tri của nhân loại, cuộc chiến tranh do
Trung Quốc xâm lược Việt Nam tháng 2/1979 là vô nhân đạo, phản nhân văn. 3.4. Bài học.
Kết thúc chiến tranh biên giới Phía Bắc tổng kết lại, ban lãnh đạo nước ta cũng đã
rút ra được nhiều bài học lớn.
Thứ nhất đó là Việt Nam đã đánh giá không đúng về việc nước láng giềng, chọn sai
sự giúp đỡ để chúng có cơ hội tấn công xâm chiếm nước ta. Sau khi giành thắng lợi năm
1975 thì tạm quên mất sự cảnh giác với kẻ thù.
Thứ hai, nước ta cần điều chỉnh lại chính sách nội và ngoại giao, không thể nhượng
bộ Trung Quốc hay bất cứ nước nào có ý đồ xấu với lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, chúng
ta phải tăng cường cuộc gặp cấp cao với Trung Quốc để đánh giá tình hình và củng cố thêm quan hệ.
Thứ ba, đó là Việt Nam cần phải quốc tế hóa việc giải quyết các cuộc chiến, xung
đột, mở rộng quan hệ hợp tác, liên kết với các nước và trường quốc tế. Như vậy, khi có 17 lOMoAR cPSD| 45474828
bất cứ vấn đề gì còn nhận được viện trợ và sự giúp đỡ lớn. Đó là một kinh nghiệm về
sau để thay đổi về chiến lược phát triển và bảo vệ Tổ Quốc.
Cuối cùng, nước ta sau khi phục hồi sau chiến tranh biên giới phía Bắc nên chú
trọng vào phát triển mọi mặt kinh tế – văn hóa – xã hội. Tạo nên quốc gia vững mạnh
toàn diện để tự bảo vệ mình, cân bằng lực lượng với các quốc gia khác, đặc biệt là không
lép vế trước Trung Quốc. Đồng thời xây dựng chiến lược ngoại giao thông minh, khéo léo hơn. 3.5. Hậu chiến tranh.
Khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố
họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam". Trên thực tế, quân Trung
Quốc chiếm đóng khoảng 60 km² lãnh thổ có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước
khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn,
quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu
tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến lược
quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam.
Từ tháng 3 năm 1979 đến hết tháng 9 năm 1983, Trung Quốc đã cho lực lượng vũ
trang xâm nhập biên giới Việt Nam 48.974 vụ, trong đó xâm nhập biên giới trên bộ 7.322
vụ có nổ súng, khiêu khích; xâm nhập vùng biển 28.967 vụ; xâm nhập vùng trời biên
giới 12.705 vụ (với hơn 2.000 tốp máy bay).
Trung Quốc bắn pháo thường xuyên vào các vùng dân cư, tiếp tục lấn chiếm đất đai,
xâm canh, xâm cư, di chuyển, đập phá cột mốc, dựng bia, chôn mộ trong đất Việt Nam.
Tính đến tháng 3 năm 1983, Trung Quốc còn chiếm giữ 89 điểm của Việt Nam.Việc
Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm giận, và giữa hai
phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực đó. Xung
đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, lên cao
vào các năm 1984–1985.Trong tháng 5 – tháng 6 năm 1981, quân Trung Quốc mở cuộc
tấn công vào đồi 400 (mà Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn – 法卡山) ở huyện Cao Lộc,
Lạng Sơn, xa hơn về phía tây, quân Trung Quốc cũng vượt biên giới đánh vào các vị trí
quanh đồi 1688 ở tỉnh Hà Tuyên. Giao tranh diễn ra hết sức đẫm máu với hàng trăm
người thuộc cả hai bên thiệt mạng. Ngày 1 tháng 2 năm 1984, Tổng Bí thư Đảng Cộng 18