



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
------------- -------------
BÀI TH Ả O LUẬN
L Ị CH SỬ Đ Ả NG CỘNG S Ả N VIỆT NAM ĐỀ TÀI
P hân tích đường lối của đảng về giải quyết vấn đề chiến tranh biên
giới phía B ắc của V iệt N am
H à Nội, năm 2023 lOMoAR cPSD| 45474828 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC....................3
1.1. Bối cảnh lịch sử..........................................................................................3
1.1.1. Tình hình thế giới................................................................................3
1.1.2. Tình hình trong nước...........................................................................4
1.2. Diễn biến của cuộc chiến tranh biên giới (Việt- Trung) 1979- 1989.........4
1.2.1. Giai đoạn 1: Tháng 2-3/1979...............................................................5
1.1.2. Giai đoạn 2: Diễn biến trân Ṿ ị Xuyên - Hà Tuyên.............................7
1.3. Kết quả và ý nghĩa......................................................................................8
1.3.1. Kết quả................................................................................................8
1.3.2. Ý nghĩa lịch sử..................................................................................10
CHƯƠNG 2: ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC CỦA VIỆT NAM........................11
2.1. Nội dung đường lối của Đảng về giải quyết vấn đề chiến tranh biên giới
phía Bắc của Việt Nam....................................................................................11
2.2. Đánh giá công tác thực hiện đường lối của Đảng về giải quyết vấn đề chiến
tranh biên giới phía Bắc của Việt Nam..................................................14
2.2.1. Thành tựu và ý nghĩa.........................................................................14
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân...................................................................16
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN ĐƯỜNG LỐI CỦA
ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA
BẮC CỦA VIỆT NAM......................................................................................19
3.1. Ý nghĩa lịch sử.........................................................................................19
3.2. Bài học rút ra và giá trị thực tiễn..............................................................21
KẾT LUẬN........................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................25 MỞ ĐẦU
“Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công
việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Chính sự vận dụng 1 lOMoAR cPSD| 45474828
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin của Đảng trong thực tiễn cách mạng với những đường
lối kháng chiến đúng đắn đã chứng minh giá trị bền vững, sức sống của học thuyết cách
mạng trong điều kiện lịch sử mới. Đường lối của Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết
định đến thắng lợi vẻ vang. Dân tộc ta thắng Trung Quốc - kẻ thủ mạnh hơn gấp nhiều
lần buộc chúng phải rút về nước bởi vì chúng ta có nhân dân anh hùng, có sự lao động
sáng tạo, tài năng và trí tuệ của Đảng. Do Vậy, việc nghiên “Đường lối của Đảng về giải
quyết vấn đề chiến tranh biên giới phía Bắc của Việt Nam” là hết sức cần thiết để qua
đó rút ra những bài học kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử phục vụ cho công cuộc đổi mới
toàn diện của đất nước hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong bối cảnh quốc tế và
trong nước có nhiều thuận lợi cũng như khó khăn mới, sẽ góp phần đắc lực vào nhiệm
vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa 2 lOMoAR cPSD| 45474828
CHƯƠNG 1: CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Tình hình thế giới
Năm 1972, Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt đầu nối lại quan hệ . Tổng thống Hoa
Kỳ sang thăm chính thức Trung Quốc. Việc Trung Quốc hàn gắn quan hệ với một đất
nước đang là kẻ thù của Việt Nam, thì hành động đó được cho là phản bội Việt Nam.
Năm 1974, sau khi Tổng Thống Mỹ đã thăm Trung Quốc thì Trung Quốc đã
đưa quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa và Mỹ thì lờ đi như không thấy, từ đó càng
làm cho quan hệ Việt Nam- Trung Quốc căng thẳng thêm.
Mối quan hệ giữa Việt Nam- Trung Quốc- Liên Xô:
Trước năm 1968, Trung Quốc và Liên Xô cùng giúp Việt Nam rất nhiều về
quân sự và viện trợ kinh tế, Việt Nam quan hệ tốt đẹp với cả hai nước. Khi Trung Quốc
và Liên Xô xảy ra mâu thuẫn về vấn đề lãnh thổ và biên giới. Một trong vấn đề đó là về
Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Lãnh đạo Trung Quốc luôn có ý định sát nhập Mông Cổ
vào Trung Quốc. Điều này gặp phải sự phản đối của Liên Xô và chính
Mông Cổ. Trung Quốc muốn mời Việt Nam vào Liên Minh chống Liên Xô nhưng Việt
Nam từ chối, nên Trung Quốc đã cắt giảm viện trợ cho Việt Nam. Phía Liên Xô thì càng
viện trợ cho Việt Nam nhiều hơn, nên Việt Nam càng ngả về Liên Xô.
Mối quan hệ giữa Việt Nam- Trung Quốc- Campuchia:
Trung Quốc chống lưng cho chế độ Pol Pot ở Campuchia, họ bơm khí tài, hỗ
trợ quân sự để Pol Pot đánh chiếm đảo Việt Nam, xâm phạm biên giới, giết nhiều người
dân Việt Nam. Đỉnh điểm là năm 1978, hàng chục nghìn người dân vô tội đã bị Pol Pot
sát hại, không những sát hại người Việt Nam , Pol Pot còn tạo ra một cuộc diệt chủng
tồi tệ bậc nhất lịch sử với chính người dân Campuchia. Điều đó khiến cho mặt trận đoàn
kết dân tộc cứu nước Campuchia đã cầu cứu Việt Nam giúp đỡ. Vì vậy mà Việt Nam
đưa quân sang lật đổ chế độ Pol Pot. Hành động đưa quân vào Campuchia của Việt Nam
khiến Trung Quốc xem là hành động xâm lược và nhìn xa hơn Trung Quốc lo sợ rằng
Việt Nam sẽ thành lập liên minh Đông Dương làm tăng sức mạnh của Việt Nam trong
khu vực và giảm sự ảnh hưởng của Trung Quốc.
Trong chuyến thăm Đông Nam Á tháng 12 năm 1978, Đặng Tiểu Bình tuyên
bố: “ Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học”. Để chuẩn bị cho cuộc
chiến với Việt Nam, nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đến Thái Lan xin mượn sân bay qua
các nước Đông Nam Á và Mỹ, Nhật để thỏa thuận trước việc các nước bảo vệ Trung
Quốc khi kéo quân vào Việt Nam sẽ không bị các nước này phản đối.
Ngày 7/12/1978, Ủy ban Quân sự Trung ương Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa
đã họp và quyết định mở một cuộc tấn công hạn chế ở khu vực biên giới Việt Nam- Trung Quốc. 3 lOMoAR cPSD| 45474828
1.1.2. Tình hình trong nước
Khi xảy ra chiến tranh biên giới phía bắc tình hình nước ta lúc đó rất khó khăn
do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở
Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực
quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương
tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ tại 6 tỉnh biên giới (Lai
Châu, Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai, Yên Bái), Hà Tuyên (nay là Hà Giang, Tuyên
Quang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh). Lực lượng tinh nhuệ nhất của phía Việt
Nam đóng ở biên giới Việt-Trung là Sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và Sư đoàn 316A
(đóng tại Sa Pa), ngoài ra còn có các sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345
ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ
yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều.
Lực lượng biên giới có khoảng 70.000 quân, sau được hai sư đoàn (327 và 337) từ tuyến
sau lên Lạng Sơn tiếp viện. Lực lượng độc lập gồm các trung đoàn 141,
147, 148, 197, trung đoàn pháo binh 68, các trung đoàn quân địa phương 95, 121, 192,
254 và 741. Quân đoàn 1 vẫn đóng quân quanh Hà Nội đề phòng Trung Quốc tiến sâu vào Bắc Bộ.
Quân đội Việt Nam được đánh giá là giàu kinh nghiệm chiến đấu, có vũ khí khá
hiện đại từ kho chiến lợi phẩm thu được của Mỹ và sự giúp đỡ của Liên Xô. Tuy nhiên
các yếu tố này không phát huy được nhiều lúc xảy ra chiến sự vì phần lớn quân chủ lực
đang chiến đấu ở Campuchia, lực lượng tham chiến chủ yếu là quân địa phương, công
an vũ trang và dân quân tự vệ bảo vệ biên giới.
Sau chiến tranh chống Mỹ viện trợ quốc tế của ta bị hạn chế, nước ta chỉ có Liên
Xô là nước viện trợ. Tình hình nước ta lúc đó gặp rất nhiều khó khăn. Ta đã phải vận
dụng, động viên tất cả các lực lượng quân dân để sản xuất ra vũ khí , huy động lực lượng
để chiến đấu với Trung Quốc.
1.2. Diễn biến của cuộc chiến tranh biên giới (Việt- Trung) 1979- 1989 Nguyên nhân:
Trung Quốc cho rằng Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô
(ngày 3-11-1978), khẳng định chính sách ngả hẳn về Liên Xô (nhất biên đảo) trong bối
cảnh mâu thuẫn Trung - Xô đang diễn ra gay gắt. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Việt
Nam đã phản bội vì Trung Quốc đã giúp Việt Nam rất nhiều về vật chất và ủng hộ về
tinh thần trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Việt Nam đưa quân xâm lược Campuchia, đánh chiếm thủ đô Phnôm Pênh của
một nước có chủ quyền, vì thế phải trừng phạt Việt Nam để cứu chính quyền Campuchia
Dân chủ của tập đoàn Pôn Pốt-Iêng Xary; để ngăn chặn ý đồ của Việt Nam mở rộng xâm
lược ra các nước khác trong khu vực. 4 lOMoAR cPSD| 45474828
Việt Nam chủ trương phản Hoa, bài Hoa, gây ra vụ nạn kiều, xua đuổi người Hoa
sinh sống lâu đời ở Việt Nam về nước, gây nên tình cảnh thống khổ cho Hoa kiều nên
Trung Quốc phải hành động để bảo vệ Hoa kiều.
Trung Quốc buộc phải phản kích để tự vệ vì các đơn vị bộ đội Việt Nam đã hàng
trăm lần tiến hành khiêu khích vũ trang, xâm phạm biên giới Trung Quốc, làm chết và
làm bị thương hàng trăm bộ đội biên phòng và người dân trên vùng biên giới của Trung Quốc.
1.2.1. Giai đoạn 1: Tháng 2-3/1979
Vào 3 giờ 30 phút rạng sáng 17-2-1979, quân Trung Quốc sử dụng pháo binh bắn
phá một số mục tiêu trong lãnh thổ của nước ta, sau đó huy động 600.000 quân, trên 500
xe tăng, xe bọc thép, hàng nghìn khẩu pháo các loại tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam dài hơn 1.400km.
Số quân Trung Quốc tham chiến lúc đó được cho nhiều hơn các đạo quân xâm
lược Việt Nam trong lịch sử. Thời điểm cao nhất, quân Mỹ huy động trên chiến trường
Việt Nam gần 550.000 quân, Pháp 250.000 quân... Hướng tấn công chủ yếu của quân
Trung Quốc là Lạng Sơn và Cao Bằng, hướng quan trọng là Lào Cai (Hoàng Liên Sơn);
hướng phối hợp là Phong Thổ (Lai Châu), hướng nghi binh, thu hút lực lượng ta là
Quảng Ninh và Hà Tuyên.
Không ai có thể tin rằng một dân tộc vừa phải trải qua 30 năm chiến tranh với
thương tích đầy mình lại đi khiêu khích, rồi xâm lược một nước khác, lại là nước lớn
hơn, thậm chí là nước đã từng ủng hộ và giúp đỡ to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ trước đó, như một số người Trung Quốc nói rằng cuộc chiến tranh
chống Việt Nam của họ chỉ là một “cuộc phản công tự vệ”.
Trước tình cảnh Tổ quốc lâm nguy, thêm một lần nữa, quân và dân Việt Nam
không còn con đường nào khác là buộc phải cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mình. Đây là thử thách đầy khắc nghiệt với dân tộc Việt
Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”, quân và dân ta, nhất là ở các tỉnh Việt Bắc và Tây Bắc, một lần nữa đã phát huy
cao độ truyền thống cách mạng, sát cánh cùng các lực lượng vũ trang, kiên quyết chiến
đấu, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc.
Trong những ngày đầu chiến tranh, phía Việt Nam chủ trương không tập trung
lực lượng dự bị chiến lược vào quyết chiến sớm, cũng không vội rút lực lượng chủ lực
cơ động phía Nam ra, mà phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa
phương, sử dụng lực lượng tại chỗ của Quân khu 1, Quân khu 2 là chính, có sự bổ sung
một bộ phận lực lượng từ tuyến sau lên tăng cường.
Diễn biến cuộc chiến (Quân khu 1): 5 lOMoAR cPSD| 45474828
Ngày 17/2/1979, tại mặt trận Lạng Sơn: Mở đầu cuộc tấn công, Trung Quốc sử
dụng Quân đoàn 43, 55 và 54 với 160 xe tăng, 350 pháo, đánh vào Bản Chắt, Chi Ma,
Ba Son, Tân Thanh, Tân Yên và Đồng Đăng. Lực lượng vũ frang địa phương đánh chặn
quân Trung Quốc từ 17-20/2 ở đường 1A và 1B gây cho đối phương nhiều thiệt hại.
Sau 10 ngày tấn công không đạt mục tiêu, ngày 27/2, Trung Quốc huy động thêm
3 quân đoàn tấn công Lạng Sơn, tuy nhiên cũng bị Quân khu 1 và lực lượng vũ trang địa
phương đánh chặn quyết liệt.
Ngày 4/3, Trung Quốc huy động lượng lớn binh lực đánh chiếm thị xã Lạng Sơn.
Với tinh thần “Phía trước không tiếc máu xương, phía sau không tiếc của”, chúng ta đã
gây cho đối phương nhiều thiệt hại nghiêm trọng.
Tại mặt trận Cao Bằng: Sáng 17/2/1979, Trung Quốc huy động 2 quân đoàn cùng
nhiều đơn vị chủ lực với 225 xe tăng và xe bọc thép, 300 trọng pháo, chia nhau tiến đánh
Thông Nông, Hà Quảng, Phục Hòa, Đông Khê và tiến chiếm thị xã Cao Bằng hồng tiêu
diệt sư đoàn 346 của ta.
Sư đoàn 346 và lực lượng vũ trang địa phương đã anh dũng chiến đấu, chặn đứng
nhiều đợt tấn công của đối phương. Để tăng cường, Quân khu 1 đã điều Trung đoàn 852
và thêm 1.300 chiến sĩ mới lên để tăng cường. Tuy vậy dựa vào thế quân đông, ngày
24/3 Trung Quốc đã ồ ạt đánh chiếm thị xã Cao Bằng, dù chiếm được thị xã này nhưng
đối phương thất bại âm mưu tiêu diệt được Sư đoàn 346.
Tại mặt trận Hoàng Liên Sơn: Suốt hai tiếng đồng hồ, từ 4h tới th ngày 17/2, pháo
binh Trung Quốc bắn phá, sau đó huy động 2 sư đoàn và một trung đoàn với 100 xe
tăng, 450 trọng pháo, chia ra các mũi tiến đánh Lào Cai, Cam Đường, Mường Khương,
Bản Phiệt và Phố Lu. Quân ta chiến đấu quyết liệt và đẩy lui nhiều đợt tấn công của đối phương.
Bị chặn đánh quyết liệt, mãi 17 ngày sau, quân Trung Quốc mới chiếm được các
trận địa của ta và tiến sâu vào lãnh thổ nước ta, có một số nơi đối phương lấn sâu tới
40km. Tuy vậy đối phương cũng không còn khả năng tiến tiếp do bị chặn đánh dữ dội.
Tại mặt trận Lai Châu: Trung Quốc huy động Quân đoàn 11 tiến đánh thị trấn
Phong Thổ. Tuy nhiên mãi tới 5/3 đối phương mới chiếm được thi trấn này, nhưng lại bị
quân ta phản công đánh bật ra ngay sau đó.
Tại mặt trận Hà Tuyên: Trung Quốc huy động 2 sư đoàn với sự hỗ trợ của pháo
binh để đánh chiếm Thanh Thủy, Đồng Văn và Mèo Vạc. Kiên quyết đánh trả, quân và
dân Việt Nam đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công và gây cho đối phương những thiệt hại to lớn.
Diễn biến cuộc chiến (Quân khu 2): 6 lOMoAR cPSD| 45474828
Tại mặt trận Quảng Ninh: Trung Quốc huy động 2 sư đoàn cùng pháo binh đánh
chiếm Móng Cái và Bình Liêu. Tuy nhiên đối phương đã bị quân ta đánh trả dữ dội. Đầu
tháng 3/1979, chúng ta bắt đầu phản công đẩy lùi các cánh quân Trung Quốc về nước.
Trung Quốc không thể ngờ sự phản kháng quyết liệt của Việt Nam đã chặn đứng
và bẻ gây mục tiêu của họ, điều này buộc Bắc Kinh phải đưa lực lượng dự bị chiến lược
vào tham chiến để giải vây cho những cánh quân đang bị ta bao vây.
Tuy nhiên do chiếm ưu thế hơn hẳn về quân số và hỏa lực, nên dù tổn thất lớn
nhưng quân Trung Quốc cũng đã tiến sâu vào nội địa nước ta. Nhưng càng về sau, quân
chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương của Việt Nam phản công dữ dội, bẻ gẫy và
chặn đứng đã tiến công, đồng thời từng bước đẩy lùi quân Trung Quốc về nước.
Ngày 4/3/1979 Ban Chấp hành Trung ương kêu gọi quân dân cả nước quyết tâm
bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước công bố Lệnh tổng động viên cả nước.
Do không đạt được mục đích đề ra, bị quân và dân các tỉnh biên giới giáng trả
mạnh mẽ, tổn thất nặng nề, bị thế giới và trong nước lên án, ngày 5/3/1979, Trung Quốc
buộc phải tuyên bố rút quân ngay sau khi nghe tin Việt Nam ra lệnh tổng động viên.
Với truyền thống nhân nghĩa, bao dung và mong muốn củng cố hòa bình, Việt
Nam đã ngừng mọi cuộc truy sát để cho quân Trung Quốc có thể rút về nước. Ngày
18/3/1979, Trung Quốc rút hết quân ra khỏi nước ta.
1.1.2. Giai đoạn 2: Diễn biến trân Ṿ ị Xuyên - Hà Tuyên
Mặt trận Vị Xuyên là chiến trường ác liệt chống quân xâm lược, diễn ra trong
suốt 10 năm (1979-1989). Hàng trăm trận chiến đấu đã diễn ra rất quyết liệt, nhiều cán
bộ chiến sĩ ở mọi miền đất nước và đồng bào ta đã hy sinh trên mảnh đất này. Đây là
cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất kể từ sau khi Việt Nam đánh thắng Mỹ.
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, Hà Giang là địa bàn trọng
điểm bị địch tiến hành lấn chiếm và phá hoại nhiều mặt so với toàn tuyến biên giới phía Bắc.
Sau cuộc tấn công đưa hơn 60 vạn quân tràn vào 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước
ta (gồm Lào Cai, Lai Châu, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và Quảng Ninh) vào rạng
sáng 17/2/1979 thất bại, Trung Quốc vẫn duy trì 12 sư đoàn và hàng chục trung đoàn
độc lập áp sát biên giới Việt Nam, thường xuyên gây tình trạng căng thẳng, tiếp tục lấn
chiếm lãnh thổ Việt Nam ở mọi quy mô, thực hiện kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt.
Biên giới Việt Nam - Trung Quốc sau sự kiện tháng 2/1979 vẫn luôn căng thẳng.
Trung Quốc thường xuyên dùng pháo, cối bắn vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi phía bên
kia còn đưa lực lượng biên phòng hoặc bộ đội địa phương tấn công vào một số đồn biên
phòng và trận địa phòng ngự của Việt Nam. Vì thế, đòi hỏi quân và nhân dân ta phải
luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng đánh trả tất cả các cuộc tấn công lấn chiếm biên giới, 7 lOMoAR cPSD| 45474828
những hành động gây hấn, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Diễn biến các trân tấn công của Trung Qụ ốc:
Từ ngày 2/4 đến ngày 27/4/1984, quân Trung Quốc đã bắn vào dọc biên giới lãnh
thổ Việt Nam hơn 28.300 viên đạn pháo. Riêng biên giới Hà Tuyên mà tập trung chủ
yếu ở khu vực Vị Xuyên đã hứng chịu 12.000 quả đạn pháo. Sau nhiều ngày dùng pháo
binh bắn phá ác liệt vào các tỉnh biên giới của Việt Nam, ngày 28/4/1984, Trung Quốc
lại mở cuộc tấn công xâm lược lấn chiếm biên giới Việt Nam. Đây là cuộc chiến tranh
xâm lược lần thứ hai của Trung Quốc vào Việt Nam. Trung Quốc đã lần lượt huy động
nhiều đơn vị, tổng số khoảng 50 vạn quân từ 8 trong 10 đại quân khu với hơn 20 sư đoàn
bộ binh, 171 trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, 3 sư đoàn pháo binh và các đơn vị pháo binh
của các sư đoàn bộ binh (tổng cộng hơn 400 khẩu pháo lớn các loại), trên 1000 xe cơ
giới phục vụ cho chiến đấu… tiến công toàn diện vào Vị Xuyên từ năm 1984-1989.
Lần này, Trung Quốc không tấn công trên chính diện rộng mà tập trung tấn công
lấn chiếm một phần đất ở khu vực biên giới huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà
Giang và Tuyên Quang). Với một chính diện khoảng 20km, sâu khoảng 10km; mục tiêu
là lấn tới bắc suối Thanh Thủy để vẽ lại đường biên giới sâu vào đất Việt Nam khoảng 5km.
Trước thế trân phản công đó của Việ t Nam, năm 1989 Trung Quốc ngừng bắṇ
pháo vào mặt trận Vị Xuyên. Ngày 15/5/1989, kẻ địch bắt đầu nổ mìn phá công xưởng
ở cao điểm 233 và một số nơi khác, bắt đầu rút quân. Cụ thể là từ 7h ngày 15/5/1989,
quân Trung Quốc cho nổ mìn đồng loạt phá bỏ hơn 20 căn hầm kiên cố ở một số điểm
cao mà họ đang chiếm giữ trên lãnh thổ Việt Nam, thuộc tuyến biên giới huyện Vị
Xuyên, tỉnh Hà Tuyên, nay thuộc tỉnh Hà Giang. Cũng từ ngày đó, hai bên đã ngừng bắn
trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Đến tháng 10/1989, Trung Quốc rút hết
quân khỏi đất Việt Nam, kết thúc 5 năm lấn chiếm biên giới Vị Xuyên, 10 năm tấn công
xâm lược Việt Nam (2/1979 – 10/1989).
Đến năm 1990, cuộc chiến mới thực sự kết thúc rồi bình thường hóa quan hệ hai nước vào năm 1991.
1.3. Kết quả và ý nghĩa 1.3.1. Kết quả
Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến nhưng
cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và tài sản.Cuộc chiến đặc biệt để lại
nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam, đặc biệt là nền kinh tế. Ngoài các thương vong về
con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận
chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách 8 lOMoAR cPSD| 45474828
thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt
trận quân sự, kinh tế, ngoại giao,...
Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu của ta như sau:
Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính Trung Quốc, phá hủy 76 xe tăng, xe thiết
giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo cối và giàn phóng hỏa tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt
hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với ký sự Sư đoàn Sao Vàng).
Về phía Việt Nam tại mặt trận này, sư đoàn 3 bị tổn thất khoảng 660 người chết và 840
bị thương, sư đoàn 337 tổn thất khoảng 650 tử trận, sư đoàn 338 tổn thất khoảng 260 tử
trận, sư đoàn 327 chưa có số liệu. 20 cá nhân và 14 đơn vị được phong tặng danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Quân đoàn 5 được mang danh hiệu “Binh đoàn
Chi Lăng”, Sư đoàn 337 được tặng danh hiệu “Sư đoàn Khánh Khê”.
Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính Trung Quốc, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp
và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn. 5 cá nhân và 17 đơn vị đã
được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Sư đoàn 311 được
mang danh hiệu “Sư đoàn Đông Khê”; Trung đoàn 567 được nhân dân địa phương tặng
danh hiệu “Trung đoàn Khâu Chỉ”, “Trung đoàn Phục Hòa”.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính Trung Quốc, phá hủy 66 xe
tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn. 12 cá
nhân và 6 đơn vị Viêt Nam được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang ̣ nhân dân.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên (Hà Giang): diệt 14.000 lính Trung
Quốc, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn.
Tỷ lệ tử vong hỏa tuyến trong những ngày đầu chiến tranh khá cao (thương binh
5,7% trong 30 ngày chiến đấu) do không đảm bảo về vận tải, quân y và sơ cứu.
Tình hình tốt hơn từ tuyến quân y trung đoàn và các tuyến sau.
Theo nguồn của Trung Quốc:
Tại mặt trận Lạng Sơn, họ bị tổn thất 1.271 lính tử trận và 3.779 lính bị thương.
Tại mặt trận Lào Cai, họ bị tổn thất 7.886 lính (bao gồm 2.812 tử trận). Chưa có thống
kê chi tiết của Trung Quốc về thương vong tại mặt trận Cao Bằng, Đông Khê và Móng Cái.
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam:
các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã,
735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường,
81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị
cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh
sống. Để được Liên Xô tăng cường viện trợ, từ 27 tháng 3 năm 1979, Việt Nam quyết 9 lOMoAR cPSD| 45474828
định cho tàu quân sự Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh. Về phía Trung Quốc, cuộc chiến
ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế.
Về lâu dài, cuộc chiến mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung
đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì
một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế. Sinh
hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra,
nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch
định biên giới sau này.
1.3.2. Ý nghĩa lịch sử
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam có ý nghĩa
thắng lợi rất to lớn, thể hiện ở một số khía cạnh cơ bản:
Cuộc chiến đấu khẳng định ý chí, sức mạnh bền bỉ của nhân dân Việt Nam quyết
tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
Tổ quốc, bởi Việt Nam lúc này vừa kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ chưa lâu (1975),
vừa kết thúc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và đang làm nhiệm vụ quốc tế giúp
đỡ nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot, thực hiện công cuộc hồi sinh
đất nước, kinh tế lại đang gặp rất nhiều khó khăn do cấm vận của Mỹ...
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc 1979 là sự kiện lịch sử đặc biệt, để lại
cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học quý báu:
Một là, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, dự đoán chính
xác âm mưu và hành động của các bên liên quan, nhất là động thái các nước lớn, trên cơ
sở đó có sự chuẩn bị toàn diện, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống.
Hai là, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự cường, kết hợp chặt chẽ đấu tranh
chính trị, quân sự với đấu ngoại giao để vừa phát huy sức mạnh tổng hợp trong nước,
vừa nêu cao tính chính nghĩa của cách mạng nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc
tế, không để các thế lực thù địch xuyên tạc hòng tìm cách cô lập.
Ba là, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh
chiến tranh nhân dân địa phương, đặc biệt là sức mạnh của lực lượng vũ trang tại chỗ
(bộ đội chủ lực quân khu, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, dân quân du kích) kết hợp với
sức mạnh hậu phương cả nước tạo thành những “trường thành thép” sẵn sàng đánh trả
có hiệu quả mọi cuộc tiến công từ bên ngoài ngay thời gian đầu.
Bốn là, vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống Việt Nam “lấy nhỏ
thắng lớn, lấy ít địch nhiều” với nghệ thuật quân sự hiện đại (phương thức tác chiến
chính quy), đồng thời biết khai thác, phát huy tư tưởng nhân văn “lấy đại nghĩa thắng
hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” của cha ông thuở trước kết hợp với chủ nghĩa
anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. 10 lOMoAR cPSD| 45474828
CHƯƠNG 2: ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHIẾN
TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC CỦA VIỆT NAM
2.1. Nội dung đường lối của Đảng về giải quyết vấn đề chiến tranh biên giới
phía Bắc của Việt Nam
Đường lối của đảng trong cuộc chiến
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam góp phần khẳng
định đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén của
Đảng, nhất là trong việc nắm bắt tình hình, đánh giá đúng khả năng hành động của đối
phương, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, chỉ huy các lực lượng vũ trang và nhân dân chuẩn
bị các mặt sẵn sàng đối phó; tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo dựng
thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Trong những năm đầu của chiến tranh biên giới phía Bắc, Đảng đã quyết định
thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam và xây dựng hệ thống các tổ chức cán bộ quân
đội, dân quân để thực hiện chiến lược kéo dài nhằm đánh bại kẻ thù. Ngoài ra, Đảng
cũng khẳng định sự cần thiết của việc đánh giặc và giải quyết tranh chấp biên giới đồng
thời. Đảng chủ trương không tập trung lực lượng dự bị chiến lược vào quyết chiến sớm,
cũng không vội rút lực lượng chủ lực cơ động phía Nam ra, mà phát huy sức mạnh tổng
hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, sử dụng lực lượng tại chỗ của Quân khu 1,
Quân khu 2 là chính, có sự bổ sung một bộ phận lực lượng từ tuyến sau lên tăng cường.
Để giải quyết vấn đề chiến tranh biên giới phía Bắc, Đảng đã lập ra Chiến lược
tổng thể phân tán và liên kết các chiến dịch đánh địch tại các vùng miền biên giới đồng
thời tăng cường quân sự, phát triển kinh tế, đưa đời sống của nhân dân tại địa phương lên mức độ cao hơn.
Đảng sử dụng bạo lực cách mạng gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang,
khởi nghĩa từng phần ở nông thôn phát triển thành chiến tranh cách mạng, kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến
tranh cách mạng; đánh địch trên ba vùng chiến lược, kết hợp ba thứ quân, phát triển và
kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa và
đánh lớn; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài với tạo thời cơ nhằm mở ra
những cuộc tiến công chiến lược tiến lên thực hiện tổng công kích và nổi dậy để đè bẹp
quân thù giành thắng lợi cuối cùng.
Nhằm tăng cường củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, Đảng cộng
sản Việt Nam, đã điều động một lực lượng cán bộ có năng lực ở miền xuôi lên tăng
cường cho một số cơ sở ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Đợt đầu tiên gồm 1.500 cán bộ.
Tháng 10/1978 diễn ra một đợt điều động nữa. Mục tiêu của các đợt điều động này là
kiện toàn các cơ quan Đảng, các tổ chức quần chúng, các cơ quan an ninh, quốc phòng,
thông tin liên lạc, giao thông vận tải, nông nghiệp, kế hoạch, thống kê, tài chính, vật tư,
thông tin văn hóa, y tế, giáo dục. Ngoài ra còn điều động cán bộ gắn với việc đưa lao 11 lOMoAR cPSD| 45474828
động miền xuôi đi xây dựng kinh tế ở các tỉnh miền núi. Nhà nước cũng ban hành bổ
sung một số chế độ đối với cán bộ công tác ở miền núi, biên giới và hải đảo.
Ngày 6-1-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về tăng cường chiến
đấu ở các tỉnh phía Bắc, nhấn mạnh: Phải theo dõi nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện
âm mưu và hành động tiến công, phá hoại của kẻ thù, quyết không để bị bất ngờ, không
mắc mưu khiêu khích… Gấp rút đẩy mạnh công tác sẵn sàng chiến đấu ở các địa phương
trên toàn biên giới, bảo đảm đánh thắng ngay từ đầu trong bất kỳ tình huống nào.
Ngày 8-1-1979, Quân ủy Trung ương ra Chỉ thị sẵn sàng chiến đấu, yêu cầu: Tất
cả các quân khu, quân chủng, binh chủng, đặc biệt là Quân khu 1, Quân khu 2 và các
tỉnh biên giới phía Bắc, các quân chủng Phòng không, Không quân, Hải quân phải ở
trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Các sư đoàn, các đơn vị trực thuộc của quân
khu, quân chủng, các trung đoàn, tiểu đoàn và đại đội bộ đội địa phương tỉnh và huyện
phải bảo đảm từ 1/3 đến 1/2 quân số luôn luôn tại trận địa, chiến hào. Các trận địa pháo
mặt đất, pháo phòng không phải bố trí sẵn ở trận địa để có thể nổ súng được ngay.
Ngày 11-1-1979, Bộ Tổng Tham mưu ra mệnh lệnh chuyển sang trạng thái sẵn
sàng chiến đấu cao nhất cho các lực lượng vũ trang, đặc biệt là các đơn vị làm nhiệm vụ
trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Thực hiện các chỉ thị, mệnh lệnh trên, quân và dân
cả nước, đặc biệt là các lực lượng vũ trang Quân khu 1, Quân khu 2 và nhân dân các
tỉnh biên giới phía Bắc gấp rút củng cố thế trận phòng thủ, chấn chỉnh tổ chức, biên chế,
bổ sung lực lượng, trang bị kỹ thuật, tăng cường huấn luyện, hoàn chỉnh phương án tác
chiến, sẵn sàng chiến đấu.
Lường định về một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, Trung ương Đảng đã khẩn
trương tăng cường lực lượng củng cố tuyến phòng thủ biên giới phía Bắc. Trước cuộc
tiến công quy mô lớn của Trung Quốc, ngày 17/2/1979, Chính phủ Việt Nam ra tuyên
bố nêu rõ: Nhà cầm quyền Trung Quốc đang đi ngược lại lợi ích của nhân dân, phá hoại
nghiêm trọng tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước, đồng thời khẳng định quân
và dân Việt Nam không có con đường nào khác là thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình để đánh trả.
Trước tình thế cấp bách, Chính phủ Việt Nam quyết định sử dụng các binh đoàn
chủ lực mạnh, sẵn sàng mở những chiến dịch phản công quy mô lớn của binh chủng hợp
thành. Theo phương châm đó, đầu tháng 3/1979, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng
Việt Nam ra lệnh cho Quân đoàn 2 đang làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia nhanh
chóng chuyển toàn bộ lực lượng về phía Bắc tập kết, đồng thời, ra quyết định thành lập
Quân đoàn 5 (ngày 2/3/1979) ngay tại mặt trận biên giới (gồm bốn sư đoàn bộ binh: 3,
338, 327, 337 cùng một số đơn vị kỹ thuật và bảo đảm khác). Các đơn vị chủ lực của
Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân và các binh chủng kỹ thuật khác
sẵn sàng tham gia chiến đấu. Để phát huy sức mạnh tổng hợp cả nước, ngày 4/3, Ủy ban 12 lOMoAR cPSD| 45474828
Thường vụ Quốc hội Việt Nam ra quyết định tổng động viên lực lượng bảo vệ Tổ quốc.
Kế hoạch tác chiến chiến lược được bổ sung thảo luận thông qua.
Để tỏ thiện chí hòa bình, mong muốn khôi phục quan hệ hữu nghị giữa hai nước,
Trung ương Đảng, Chính phủ Việt Nam ra lệnh cho các lực lượng vũ trang và nhân dân
trên vùng biên giới phía Bắc dừng chiến dịch phản công để tạo điều kiện cho quân Trung
Quốc rút về. Đến ngày 18/3/1979, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân khỏi Việt Nam.
Từ ngày 28 đến 30/5/1979, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VI nghe báo cáo về tình
hình chiến tranh bảo vệ lãnh thổ của Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, thông qua Nghị quyết
về “Thắng lợi vĩ đại của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và nhiệm vụ của nhân dân
ta trước tình hình mới”. Đàm phán cấp Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc
diễn ra vòng 1 tại Hà Nội từ ngày 18/4/1979, và vòng 2 tại Bắc Kinh từ ngày 8/6/1979.
Việt Nam đề nghị giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ trên cơ sở tôn trọng đường
biên giới lịch sử do các hiệp ước Trung – Pháp năm 1887 và năm 1895 hoạch định. Phía
Trung Quốc đưa ra lập trường 8 điểm, yêu cầu Việt Nam công nhận Hoàng Sa, Trường
Sa là của Trung Quốc, rút quân khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách đối với Lào,
Campuchia, nêu quan điểm của Trung Quốc về giải quyết vấn đề Campuchia. Các cuộc
đàm phán chỉ đạt được thỏa thuận về việc trao trả người bị bắt.
Trong hai ngày 26 và 27/5/1980, Hội nghị các tỉnh biên giới và miền núi phía Bắc
đã họp bàn những biện pháp tăng cường sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội, củng cố các cơ sở, bảo vệ kinh tế, chống chiến tranh gián điệp
và chiến tranh tâm lý của địch,.v.v. Nhiều vị lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước đã
tham dự và chỉ đạo Hội nghị. Hình thức các địa phương trực tiếp giúp đỡ nhau để giải
quyết khó khăn của các tỉnh biên giới đang được đặt ra. Cấp trên đã phân công Hải
Phòng và Hải Hưng giúp Quảng Ninh; Hà Bắc giúp Lạng Sơn; Bắc Thái giúp Cao Bằng;
Vĩnh Phú giúp Hoàng Liên Sơn; Thái Bình giúp Lai Châu; Hà Nam Ninh giúp Hà Tuyên;
Hà Sơn Bình giúp Sơn La.
Trong 5 năm (từ 1984 đến 1989), Đảng đã huy động tới hàng chục sư đoàn chủ
lực, các trung đoàn bộ binh địa phương, đặc công; một số trung đoàn, lữ đoàn pháo binh,
công binh, hóa học… hàng vạn dân quân, du kích tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới
Vị Xuyên, hàng chục vạn thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến phục vụ cho mặt trận Vị Xuyên
Ngoài ra Đảng còn tập chung tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp
tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Trước khi nổ ra cuộc chiến một thời gian, ngày
29.6.1978 Việt Nam đã gia nhập CMEA. Trước đó ngày 3.11.1978 tại Moscow, đại diện
nhà nước Liên bang Xô Viết và Việt Nam đã ký kết Hiệp ước hữu nghị XôViệt. Nhờ vậy
Việt Nam nhận được sự hỗ trợ đắc lực từ phía Liên Xô. Liên Xô đã điều động đội chuyên 13 lOMoAR cPSD| 45474828
gia và cố vấn tham gia hỗ trợ cho các cán bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam trong tình
huống phức tạp của chiến trường.
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ cho quân và dân ta là khẩn
trương khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhanh chóng ổn định đời sống nhân
dân; đồng thời gấp rút tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, phát triển lực lượng vũ
trang, đặc biệt là bộ đội chủ lực trên tất cả các hướng chiến lược ở biên giới phía Bắc.
Cùng với những đường lối về mặt quân sự Đảng ta cũng tập trung khôi phục kinh
tế giai đoạn chiến tranh như sau: Đảng đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta đi từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng
công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa
xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung
ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát
triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế
với quốc phòng làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế
công – nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững
mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
2.2. Đánh giá công tác thực hiện đường lối của Đảng về giải quyết vấn đề chiến
tranh biên giới phía Bắc của Việt Nam
2.2.1. Thành tựu và ý nghĩa a. Thành tựu
Đảng đã thực hiện một quá trình đánh giá chính xác về nguyên nhân và tình hình
của chiến tranh biên giới phía Bắc. Chính vì thế, Đảng đã đưa ra đúng đắn đường lối của
"chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc" và "đánh chủ nghĩa tư bản, giữ gìn cộng sản" để thể
hiện sự đoàn kết và đồng tâm giữa các tầng lớp nhân dân trong cuộc chiến.
Tại vùng biên giới phía Bắc, quân và dân ta đã xây dựng thế trận phòng thủ ngày
càng vững chắc, chiến đấu dũng cảm và có hiệu quả…củng cố thế trận chiến tranh nhân
dân, củng cố cơ sở chính trị ở những địa bàn xung yếu, xây dựng lực lượng dự bị. Quân
đội ta đã có một bước phát triển theo hướng chính quy, hiện đại; sức mạnh chiến đấu được nâng cao.
Đảng đã đưa ra một chiến lược phù hợp với tình hình thực tế của chiến tranh.
Thay vì tiếp tục chiến đấu đối đầu với quân đội Trung Quốc, Đảng đã chuyển đổi sang
một chiến lược phòng ngự chủ động. Điều này đã giúp đảm bảo an ninh quốc gia, đồng
thời tạo ra sự đồng lòng và sự ủng hộ của dân chúng. 14 lOMoAR cPSD| 45474828
Đảng đã trau dồi và nâng cao kỹ năng lãnh đạo, tổ chức và điều hành chiến tranh
của các chỉ huy quân đội Việt Nam=> Đánh giá lại kinh nghiệm và phương pháp chiến
tranh, từ đó cải tiến và hoàn thiện chiến lược quốc phòng và an ninh.
Đảng đã thể hiện sự nhanh nhạy và sáng suốt trong việc tìm kiếm đồng minh và
hòa giải với Trung Quốc. Để giải quyết cuộc xung đột, Đảng đã chủ động tìm kiếm các
nước trong khu vực để hình thành một liên minh vững mạnh, tạo ra áp lực đối với Trung
Quốc. Với đường lối của Đảng giúp cho Việt Nam có được sự ủng hộ của nhân dân thế
giới giúp dân ta kiên cường chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Việt Nam nhiều lần đàm phán với
Trung Quốc từng bước giải quyết những tranh chấp về biên giới lãnh thổ và các vấn đề
khác, khôi phục hòa bình, quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước.
Sự tăng cường hợp tác toàn diện với các nước xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan
hệ hợp tác kinh tế với một số nước ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa đã tăng được nguồn
viện trợ đáng kể, góp phần khôi phục đất nước sau chiến tranh.
Chính sách đối ngoại khôn ngoan giúp Việt Nam có được ủng hộ của Liên Xô và
các nước Đông Âu, cũng đã giúp nước ta nắm vững vị trí quan trọng trong ASEAN.
Thắt chặt tình hữu nghị giữa Việt Nam, Lào và Campuchia, đập tan âm mưu của
bọn phản động hòng chia rẽ tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương.
Đảng cũng đưa ra những chính sách kịp thời như tăng cường hỗ trợ vật chất, tài
chính và nhân lực cho quân đội. => đảm bảo tài nguyên, trang bị cho cuộc chiến, lực
lượng quân sự đầy đủ sẵn sàng tham gia chiến đấu, từ đó gây áp lực lên quân địch và
khiến họ mất tinh thần chiến đấu.
Việc giải quyết vấn đề chiến tranh biên giới phía Bắc không chỉ đơn thuần là một
vấn đề quân sự hay chính trị mà còn cần xét đến yếu tố kinh tế, văn hóa-xã hội do những
khó khăn sau thời kỳ chống Mỹ. Do đó, Đảng đã thực hiện việc tập trung phát triển kinh
tế, nâng cao năng lực sản xuất, cải thiện đời sống của nhân dân => giúp Việt Nam ổn
định về mặt kinh tế và xã hội, đồng thời nâng cao sức mạnh tổng thể của đất nước. Ngoài
ra, Đảng đã khai thác hiệu quả tác động của kinh tế vào chiến tranh, đặc biệt là trong
việc xây dựng các công trình phòng thủ và phục hồi hậu quả chiến tranh. Điều này đã
tạo động lực mạnh mẽ cho đất nước phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người dân
và đồng thời củng cố sức mạnh quân sự. b. Ý nghĩa
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam góp phần khẳng
định đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén của
Đảng. Đường lối của Đảng đã mang lại ý nghĩa quan trọng khi đưa ra chiến lược phòng
thủ toàn diện, đó là phương pháp tiếp cận đúng đắn với tình hình chiến tranh tại thời điểm đó.
Việc giải quyết chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 là một sự kiện quan
trọng trong lịch sử Việt Nam và có ý nghĩa lớn đối với Đảng và dân tộc Việt Nam. Đường 15 lOMoAR cPSD| 45474828
lối của Đảng trong việc giải quyết chiến tranh này góp phần bảo vệ chủ quyền, độc lập
và thống nhất của đất nước, thể hiện được sự đoàn kết dân tộc, đoàn kết quân đội và
nhân dân, chính nó đã tạo ra sức mạnh nội tại để đánh bại quân địch. Đồng thời, việc
giải quyết chiến tranh này cũng giúp đẩy mạnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt
Nam và Trung Quốc trong tương lai.
Đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường
đấu tranh, tất cả vì xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đường lối của Đảng về giải quyết chiến tranh biên giới phía Bắc là đường lối cho
sự giải phóng dân tộc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. 2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân a. Hạn chế
Trong giai đoạn từ 1979 đến 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra một loạt
chính sách và đường lối để giải quyết vấn đề chiến tranh biên giới phía Bắc. Bên cạnh
những ưu điểm và thành tựu đã đạt được, vẫn còn tồn tại một vài hạn chế cần chú ý:
Thứ nhất, trong quá trình giải quyết vấn đề, sự phối hợp giữa quân đội, chính
quyền địa phương và nhân dân còn hạn chế, gây ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các
chính sách. Trong quá trình chiến đấu: “Khi đối phương tiến công biên giới, thời gian
đầu ta bị bất ngờ về tác chiến chiến lược (quy mô lực lượng và không gian tiến công của
đối phương), bất ngờ cả về chiến dịch, chiến thuật, có nơi xe tăng đối phương vào sâu
10-12 km mới biết. Các tỉnh, huyện biên giới chưa có kế hoạch chuẩn bị sang thời chiến”.
Một số đơn vị có lúc nắm địch chưa sát với tình hình cụ thể (mục tiêu, lực lượng sử dụng
trên từng hướng…), vận dụng cách đánh chưa tốt, chưa kết hợp chặt chẽ cách đánh của
bộ đội chủ lực với cách đánh của bộ đội địa phương, dân quân du kích, chưa kết hợp
chặt chẽ phòng ngự kiên cường, vững chắc với tích cực phản công, tiến công phía trước
với cơ động đánh bên sườn và sau lưng địch. Việc quản lý bộ đôi, quản lý vũ khí trang
bị, giáo dục ý chí chiến đấu chưa tốt, duy trì kỷ luật chưa nghiêm. Một số cán bộ, chiến
sĩ tự động rút lui khi chưa có lệnh, ảnh hưởng đến sức mạnh chiến đấu của một số đơn
vị. Mặc dù thời gian sau đó Đảng đã có những chỉ đạo và quyết định kịp thời để đối phó
với cuộc xâm lược của Trung Quốc, nhưng việc triển khai và thực hiện các chỉ đạo và
quyết định này còn gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Các bộ, ngành, địa phương và nhân
dân chưa hiểu rõ và thực hiện đầy đủ các chỉ đạo và quyết định của Đảng. Đôi khi các
cấp chỉ huy chưa có sự phối hợp và hỗ trợ tốt cho nhau trong việc chỉ đạo và điều binh.
Thứ hai, trong quá trình giải quyết vấn đề, Đảng ta không đáp ứng kịp thời và
linh hoạt với các tình huống mới, gây ảnh hưởng đến khả năng giải quyết vấn đề. Chậm
trễ trong việc cập nhật, điều chỉnh các quan điểm và chủ trương về chiến tranh biên giới
phía Bắc theo sự thay đổi của tình hình quốc tế và khu vực, theo sự phát triển của Việt 16 lOMoAR cPSD| 45474828
Nam – Trung Quốc, theo sự ủng hộ và phản đối của các nước láng giềng và các tổ chức quốc tế.
Thứ ba, Đảng ta chưa hoàn toàn được sự đồng thuận và sự hợp tác của các lực
lượng chính trị, quân sự, dân tộc trong nước và các nước bạn bè trên thế giới trong việc
giải quyết vấn đề chiến tranh biên giới. Đảng ta đã gặp nhiều khó khăn trong việc thống
nhất quan điểm và hành động với các đồng minh xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Cuba,
Lào, Campuchia. Đảng ta cũng đã không có được sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước
phi chính phủ, các tổ chức quốc tế trong việc bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ của Việt Nam.
Thứ tư, công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính sách và các nghị quyết
của Đảng cũng như kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và việc thi
hành kỷ luật trong Đảng còn yếu. Những khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng về
tư tưởng và tổ chức đang làm cho bộ máy của chúng ta kém hiệu lực và có một sức ỳ rất
lớn. Kẻ địch đã lợi dụng và khoét sâu các khuyết điểm đó để làm tăng thêm những khó
khăn trong đời sống kinh tế - xã hội, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với sự
lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. b. Nguyên nhân
Thứ nhất, do sự thay đổi chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam sau khi
Việt Nam thống nhất đất nước và tham gia vào cuộc chiến ở Campuchia. Trung Quốc
đã coi Việt Nam là một mối đe dọa đến lợi ích chiến lược của mình ở Đông Nam Á và
đã tìm cách cô lập, trừng phạt và gây áp lực lên Việt Nam bằng các biện pháp kinh tế,
ngoại giao và quân sự. Trung Quốc cũng đã lợi dụng các vấn đề tranh chấp biên giới để
gây căng thẳng và khiêu khích với Việt Nam. Đồng thời, Trung Quốc cũng đã hợp tác
với các nước phương Tây để chống lại Liên Xô và các nước XHCN, trong đó có Việt
Nam. Do đó, Việt Nam đã gặp phải nhiều khó khăn và thách thức trong việc duy trì quan
hệ hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc
Thứ hai, do điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn: Trong thời điểm đó, nền kinh tế
Việt Nam còn rất khó khăn, không đủ tài nguyên và trang thiết bị cần thiết để giải quyết
vấn đề chiến tranh biên giới phía Bắc. Nền kinh tế Việt Nam trong thời gian này còn
đang ở trạng thái chuyển đổi từ kinh tế chiến tranh sang kinh tế đổi mới. Điều này đã
gây khó khăn trong việc đưa ra các quyết định và chính sách giải quyết vấn đề.
Thứ ba, do sự thiếu kiên nhẫn và quyết tâm của lãnh đạo Đảng trong việc xác
định vai trò và tư cách của Trung Quốc trong chiến tranh biên giới: Trong quá trình giải
quyết vấn đề, lãnh đạo Đảng không có đủ kiên nhẫn và quyết tâm để thực hiện các chính
sách giải quyết vấn đề. Việc này đã dẫn đến việc thực hiện các chính sách không hiệu
quả và gây nhiều hạn chế trong đường lối của Đảng. Mặc dù Đảng đã nhận thức được
nguy cơ xâm lược của Trung Quốc và đã chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt để đối phó,
nhưng Đảng cũng có những lúc dao động và do dự trong việc xử lý quan hệ với Trung 17 lOMoAR cPSD| 45474828
Quốc. Đôi khi Đảng coi Trung Quốc là một nước bạn, một nước anh em, một nước láng
giềng có chung chủ nghĩa; đôi khi lại coi Trung Quốc là một kẻ thù, một kẻ xâm lược,
một kẻ cản trở sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Do đó, Đảng đã không
có một chính sách nhất quán và kiên quyết để đối phó với Trung Quốc
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG
VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC CỦA VIỆT NAM
3.1. Ý nghĩa lịch sử
Đường lối giải quyết vấn đề chiến tranh biên giới phía Bắc của Đảng có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nước ta, có thể thấy sự lãnh
đạo sáng suốt, tài tình của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Trong cuộc chiến tranh đó, Đảng ta đã nhận định, đánh giá đúng tình hình, đề ra
chủ trương, đường lối, mục tiêu chính trị, có chiến lược, sách lược đúng đắn, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc đập tan hành động xâm lược của các thế lực phản động, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời làm
tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả. Thắng lợi đó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu,
cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phù hợp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của nhân dân Việt Nam góp phần khẳng
định đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén của
Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Việt Nam, nhất là trong việc nắm bắt tình hình, đánh
giá đúng khả năng hành động của đối phương, trên cơ sở đó kịp thời chỉ đạo, chỉ huy
các lực lượng vũ trang và nhân dân chuẩn bị các mặt sẵn sàng đối phó; tăng cường củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Qua thực tiễn điều hành, chỉ đạo chiến tranh, Trung ương Đảng và Chính phủ
Việt Nam luôn khẳng định về quyền tự vệ chính đáng của mình, kiên quyết đánh trả mọi
cuộc tiến công xâm phạm chủ quyền, nhưng đồng thời cũng luôn thể hiện rõ lòng bao
dung, khát vọng hòa bình, mong muốn chấm dứt xung đột để xây dựng mối quan hệ tốt
đẹp giữa hai dân tộc Việt Nam-Trung Quốc, góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, ổn
định trong khu vực cũng như trên thế giới.
Đường lối đã nêu cao tinh thần cách mạng, nắm chắc tình hình, dự đoán được âm
mưu và hành động của các bên liên quan, nhất là động thái các nước lớn.
Đường lối đã thể hiện được sự giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tự cường, kết
hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao của Đảng, kết hợp sức mạnh tổng
hợp trong nước, vừa nêu cao tính chính nghĩa của cách mạng nhằm tranh thủ sự đồng
tình, ủng hộ quốc tế, không để các thế lực thù địch xuyên tạc hòng tìm cách cô lập.
Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc bấy giờ, đường lối chung của cách
mạng Việt Nam đã thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc 18 lOMoAR cPSD| 45474828
giải quyết những vấn đề không có tiền lệ trong lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam
vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.
Chiến tranh đã đi qua, nhìn lại cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ
quốc cách đây hơn 40 năm là để khẳng định sự thật lịch sử và tính chính nghĩa của cuộc
chiến đấu bảo ấy; tri ân và tôn vinh đồng bào, chiến sĩ đã chiến đấu, hy sinh bảo vệ từng
tấc đất biên cương của Tổ quốc; tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, lòng biết
ơn sâu sắc của nhân dân, nhất là của tuổi trẻ đối với các thế hệ cha anh đã không tiếc
tuổi xuân, xương máu và tính mạng để bảo vệ nền độc lập, tự do, thống nhất, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trải qua cuộc chiến tranh, mối quan hệ của Việt Nam và Trung Quốc càng thân
thiết hơn, có nhiều hoạt động tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa hai
nước. Đặc biệt, trong các điện mừng 70 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-
Trung Quốc của lãnh đạo Việt Nam gửi các lãnh đạo Trung Quốc có đoạn viết: "Chủ
trương nhất quán, lâu dài của Đảng, Nhà nước Việt Nam là hết sức coi trọng, sẵn sàng
làm hết sức mình và ưu tiên hàng đầu phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống và đối
tác hợp tác chiến lược toàn diện với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc... Thực
tiễn đã chứng minh, việc không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị theo
hướng lành mạnh, ổn định trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi giữa hai
nước có ý nghĩa hết sức quan trọng cho việc thúc đẩy quan hệ hai nước, phù hợp với lợi
ích căn bản và lâu dài của nhân dân hai nước, góp phần củng cố hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới”.
Cùng với đường lối sáng tạo và kịp thời của Đảng đã khẳng định Biên giới phía
Bắc của nước ta là một nơi thiêng liêng, không ai có thể xâm phạm. Cho đến nay, nhân
dân Vị Xuyên vẫn ở lại, hứng chịu nhiều ảnh hưởng của bom mìn để lại, để giữ gìn và
bảo vệ biên giới, không phụ công của ông cha đi trước.
Trải qua hơn 40 năm chiến đấu và bảo vệ, cho đến nay, đường lối của Đảng trong
cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc được Đảng và Nhà nước ta vận dụng và có ý nghĩa
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Quá khứ bi hùng đó nhắc nhở chúng
ta, tất cả các thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau, phải luôn tăng cường đoàn kết,
xây dựng đất nước giàu mạnh để đủ sức đối phó với mọi tình huống trong một thế giới
tiềm ẩn nhiều nguy cơ, bất trắc.
Phát huy giá trị lịch sử của Đường lối giải quyết vấn đề chiến tranh biên giới phía
Bắc gợi mở những ý nghĩa sâu xa đối với việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Là một bộ phận trong đường lối chiến
lược của Đảng, chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc luôn bám sát và phục vụ mục tiêu
chiến lược của Đảng. 19