lOMoARcPSD| 47206071
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
-----

-----
BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ 1
:
Phân tích giải pháp chống độc quyền mà Chính phủ
Việt Nam sử dụng nhằm giảm thiểu tác động độc quyền
trong lĩnh vực điện quốc gia
Giảng viên : Hồ Thị Mai Hương
Hà Nội, tháng 4 năm 2023
lOMoARcPSD| 47206071
2
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài......................................................................4
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan....................................................5
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................7
4.Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu...............................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................8
6. Kết cấu của đề tài: gồm 3 chương...........................................................................9
lOMoARcPSD| 47206071
3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN............10
1.1. Khái niệm về độc quyền..............................................................................10
1.2. Cấu trúc thị trường độc quyền...................................................................10
1.2.1. Thị trường độc quyền thuần túy.................................................................10
1.2.2. Thị trường cạnh tranh độc quyền...............................................................11
1.2.3. Thị trường độc quyền nhóm.......................................................................11
1.3. Nguyên nhân dẫn đến độc quyền...............................................................12
1.4. Cơ sở đưa ra giải pháp chống độc quyền của các quốc gia.......................13
1.4.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu........................13
1.4.2. Một số lý thuyết của vấn đề nghiên cứu......................................................13
1.4.3. Nội dung và nguyên lí giải quyết vấn đề nguyên cứu..................................14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN TRONG LĨNH VỰC
ĐIỆN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM.............................................................................20
2.1. Giới thiệu về lĩnh vực điện lực Việt Nam.......................................................20
2.2. Nguyên nhân dẫn đến độc quyền ở lĩnh vực điện lực của Việt Nam...........21
2.3. Các giải pháp chống độc quyền trong lĩnh vực điện quốc gia ở Việt Nam
hiện nay...................................................................................................................24
2.3.1. Phải xây dựng thị trường điện cạnh tranh ở Việt Nam...............................24
2.3.2. Xây dựng lộ trình hình thành và phát triển thị trường điện ở Việt Nam......24
2.3.3 Giải pháp hiện đại: giai đoạn thí điểm thị trường phát hiện cạnh tranh.....26
2.4. Đánh giá các giải pháp chống độc quyền lĩnh vực điện ở Việt Nam............27
CHƯƠNG 3: CÁC ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ VỚI VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN
ĐIỆN CỦA VIỆT NAM.............................................................................................29
3.1. Quan điểm/định hướng giải quyết vấn đề nghiên cứu..................................29
3.2. Những vấn đề đặt ra và gợi ý đề xuất giải quyết vấn đề...............................32
3.3. Các kiến nghị với vấn đề nghiên cứu.............................................................36
3.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...............................................37
KẾT LUẬN................................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................39
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế, hội của đất nước, Ðảng
Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực phát triển ngành năng lượng
nước nhà. Theo Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2050 của Chính phủ, mục tiêu dài hạn của ngành năng lượng phải bảo
đảm an ninh năng lượng quốc gia, góp phần bảo đảm giữ vững an ninh, quốc phòng
và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước; cung cấp đầy đủ năng lượng
lOMoARcPSD| 47206071
4
với chất lượng cao cho phát triển kinh tế - hội; khai thác sử dụng hợp lý,
hiệu quả nguồn tài nguyên năng luợng trong nuớc; đa dạng hóa phương thức đầu tư
kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng, hình thành phát triển thị trường năng
lượng cạnh tranh lành mạnh; phát triển nhanh, hiệu quả bền vững ngành năng
lượng đi đôi với bảo vệ môi truờng. Với phương châm “năng luợng phải đi trước
một bước”, ngành năng lượng phải đảm bảo cung cấp đủ các yêu cầu về điện, than,
các loại hình nhiên liệu khác, làm tiền đề vững chắc cho công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của cả nuớc. một trong số các cấu phần quan trọng của lĩnh vực năng
lượng nói chung, ngành điện Việt Nam đóng vai trò quan trọng, là một trong những
ngành công nghiệp mũi nhọn.
Tuy vậy, Việt Nam, việc sản xuất, phân phối điện năng vẫn do Nhà nước
trực tiếp Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) độc quyền, thống lĩnh thị trường
ngành điện. Đến nay, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không còn đơn vị
sản xuất điện duy nhất nhưng EVN vẫn giữ tỷ trọng độc quyền cao vì vẫn là đơn vị
mua duy nhất từ các nguồn phát và là đơn vị bán duy nhất. Vào những năm gần đây,
ngành điện trong nước cụ thể là tổng công ty điện lực Việt Nam EVN đã dần đà biểu
hiện những bê bối của mình trong vấn đề sản xuất kinh doanh, phân phối, cũng như
điều hành. Cụ thể vụ bối điện kế điện tử vào năm 2004-2005 gây ra nhiều tổn
thất lớn cho người tiêu dùng, rồi đến vụ tăng giá điện vào đầu tháng 1/2007 trong
khi tình trạng cắt điện xảy ra liên tục trên diện rộng, sau đó việc trả lại cho Nhà
nước 13 dự án nhiệt điện than lý do thiếu vốn. “Một mình một chợ” nên EVN
khiến người tiêu dùng phụ thuộc vào phân phối điện của họ. Từ những phân tích trên
càng khẳng định việc độc quyền ngành điện dẫn tới những hệ lụy nghiêm trọng cho
nền kinh tế, thị trường người tiêu ng. vậy việc nghiên cứu phân tích giải
pháp chống độc quyền mà Chính phủ Việt Nam sử dụng để giảm thiểu tác động độc
quyền trong lĩnh vực điện quốc gia là một đỏi hỏi cấp thiết.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
2.1 Những công trình nghiên cứu trong nước
Những nghiên cứu về thị trường điện nước ta tập trung nghiên cứu thực trạng
của ngành điện Việt Nam, những yêu cầu cải cách đặt ra và những kinh nghiệm trên
thế giới khu vực để tìm ra hình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt
Nam, đề ra một lộ trình cải cách thích hợp. Có thể kể đến như:
lOMoARcPSD| 47206071
5
- Nguyễn Thành Sơn (2014) với nghiên cứu Xây dựng phát triển thị trườngbán
buôn điện cạnh tranh Việt Nam đã phân ch, đánh giá hiện trạng xu hướng phát
triển của ngành điện Việt Nam, đề xuất cho bước phát triển tiếp theo của thị trường điện
Việt Nam các giai đoạn hoàn thiện thị trường phát điện cạnh tranh. - Nguyễn Thành
Sơn (2014), Một số giải pháp phát triển thị trường bán buôn điện cạnh tranh Việt Nam
hiện nay, Tạp chí điện & Đời sống, Hội Điện lực Việt Nam, số 179 tháng 03/2014.
- Lộ trình cải cách thị trường điện Việt Nam do Bộ Công Thương đề xuất gồm 4
giai đoạn: đến năm 2010 cho phép các nhà đầu tư ớc ngoài và tư nhân (IPP) tham gia
sản xuất điện để bán điện cho EVN; 2010 - 2014 tự do hoá một phần thị trường bán
buôn điện; 2014 - 2022 tự do hoá hoàn toàn thị trường bán buôn và sau 2022 tự do hoá
cả thị trường bán lẻ điện. Cải cách thị trường điện Việt Nam theo lộ trình u trên
Chính phủ đang từng ớc phát triển thị trường điện cạnh tranh một cách ổn định, xóa
bỏ bao cấp trong ngành điện, tăng quyền lựa chọn nhà cung cấp điện cho khách hàng sử
dụng điện.
- Theo chuyên gia kinh tế, PGS-TS Ngô T Long, Nghị quyết số 55-NQ/TW
vềđịnh hướng Chiếnợc phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045 của Bộ Chính trị ban hành hồi đầu m đã nêu nhiều đột phá
trong phát triển năng ợng quốc gia. Trong đó, điểm nhấn đáng lưu ý khuyến khích
và tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng. Chiến
lược phát triển EVN được xây dựng trên cơ sở Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị là rất
phù hợp với định hướng xóa bỏ độc quyền, từng bước nhân hóa ngành năng lượng
quan trọng này.
- Tại buổi tọa đàm “Gỡ nút thắt đầu của ngành điện Việt Nam”, do Liên
minhNăng lượng bền vững Việt Nam (VSEA) tổ chức ngày 30/3/2021, tại Hà Nội. Phát
biểu khai mạc buổi tọa đàm, bà Ngụy Thị Khanh - Giám đốc Trung tâm Phát triển sáng
tạo xanh (GreenID) cho biết Việt Nam đang thị trường bán buôn cạnh tranh, nhưng
mới chỉ một người mua Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), nên vẫn chưa hình
thành một thị trường điện cạnh tranh hoàn chỉnh. Nhìn vào các ngành khác như viễn
thông, việc phá vỡ độc quyền đã đem lại rất nhiều lợi ích cho người dân, đất nước, giúp
Việt Nam tên trong bản đồ viễn thông thế giới. Thành tựu từ ngành viễn thông cho
thấy nhiều bài học cho các ngành khác như ngành điện.
lOMoARcPSD| 47206071
6
- Cũng tại buổi tọa đàm, chia sẻ về kinh nghiệm xóa bỏ độc quyền trong ngànhviễn
thông, TS. Doãn Hợp - nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông cho biết,
không có lĩnh vực nào không có cạnh tranh mà lại lành mạnh. Việt Nam cần phải có cơ
chế thúc đẩy cạnh tranh, chấp nhận cạnh tranh trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế,
trong đó có ngành điện. Để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, cần chuyển đổi cơ chế từ dễ
quản sang dễ m giàu, thay đổi duy quản sang duy phục vụ, quản theo
nguyên tắc vì sự phát triển, bỏ các nguyên tắc quản lý truyền thống.
2.2 Những nghiên cứu nước ngoài
- Bài báo “Monopoly in Electricity Generation and Electricity Supply is a threatto
Investment Expansions in Kenya” (2014) của Peter Ogira chỉ ra tác động của tình trạng
thiếu điện, sản xuất điện độc quyền cung cấp điện đối với đầu Kenya. Nghiên
cứu chỉ ra rằng bằng cách loại bỏ độc quyền khỏi sản xuất điện cung cấp điện sẽ có
thể khiến Kenya trở thành quốc gia công nghiệp hóa hoàn toàn trong vòng bảy năm sau
khi loại bỏ độc quyền. Kết quả cũng chỉ ra rằng nếu không xóa bỏ độc quyền phát điện
và cung cấp điện thì tầm nhìn 2030 sẽ khó đạt được.
- Nghiên cứu “China's electricity market-oriented reform: From an absolute to
arelative monopoly” của Qiang Wang và Xi Chen cho biết trước năm 1985, ngành điện
của Trung Quốc hoàn toàn do các công ty nhà nước trung ương độc quyền. Thế độc
quyền tuyệt đối đã bị phá vỡ kể từ năm 1985, khi chính phủ Trung Quốc mở cửa cho
các đơn vị đầu thuộc sở hữu nhà nước ngoài trung ương và các nhà đầu tư nước ngoài
trong việc cung cấp điện nhằm giải quyết tình trạng thiếu điện kinh niên. Năm 2002, kế
hoạch cải cách điện lực toàn diện mang tên Đề án Cải cách ngành Điện đã được ban
hành. Tuy nhiên, việc thực hiện kế hoạch này đã bị trì hoãn do thiếu điện. Tệ hơn nữa,
một loại độc quyền mới đã được phát triển ới cái nền “nnước tiến bộ, khu vực
nhân rút lui” trong những năm cuối. Theo một nghĩa nào đó, độc quyền tuyệt đối trước
đây đã biến đổi độc quyền tương đối hiện tại. Họ cho rằng tình trạng độc quyền tương
đối đã đảo ngược cải cách theo định hướng thị trường trong ngành điện của Trung Quốc.
Nếu độc quyền tương đối không thay đổi, nó sẽ có hại cho phúc lợi công cộng.
- Nghiên cứu “Điều tiết các doanh nghiệp độc quyền đã tư nhân hóa tại Anhquốc”
(1989) của M.E. Beesley and Stephen Littlechild
- Tập sách “Thiết kế thị trường điện cạnh tranh” (1998) do Frederick S. Hillierbiên
tập.
lOMoARcPSD| 47206071
7
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam ngày ng hội nhập u vào nền kinh tế thế giới, chính
vậy chúng ta cần những thay đổi lớn trong công tác quản lý cũng như điều hành kinh
tế. Tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp phát triển một cách
thuận lợi hơn. Tuy nhiên hiện nay chúng ta vẫn ưu ái quá nhiều cho một số ngành đã
dẫn tới việc độc quyền tạo ra những tổn thất không nhỏ cho xã hội. Chính sự độc quyền
này góp phần không nhỏ trong việc làm chậm quá trình tăng trưởng cũng như phát triển
của ngành đó điển hình ở Việt Nam. Chúng không tạo ra động lực thúc đẩy cho sự phát
triển của ngành đó điển hình Việt Nam chính ngành điện, đại diện cho ngành điện
chính tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN). Do vậy cần phải những giải pháp
hạn chế độc quyền nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của trong lĩnh vực điện nói
riêng, và tới nền kinh tế nói chung. Với mong muốn hiểu rõ hơn về những giải pháp mà
chính phủ đưa ra nhằm giảm thiểu tác động của độc quyền ngành điện, nhóm chúng em
đã chọn đề tài nghiên cứu: Phân tích giải pháp chống độc quyền Chính phủ Việt
Nam sử dụng để giảm thiểu tác động độc quyền trong lĩnh vực điện quốc gia”.
4. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu sự độc quyền của EVN, những mặt tích cực hạn chế
của hiện tượng độc quyền cùng với các giải pháp của Nhà nước.
b. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài tìm hiểu u hơn về thực trạng của độc quyền
trong nghành điện, phân tích nguyên nhân và các đề xuất kiến nghị, từ đó phân tích các
giải pháp của Nhà Nước để từ đó đưa ra ý kiến riêng về một sgiải pháp cho nghành
điện
c. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình sản xuất kinh doanh, phân phối cũng như điều hành
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận chung theo học thuyết kinh tế của chủ
nghĩa Mác-LêNin để tìm hiểu nghiên cứu. Ngoài ra có sự phân tích, thống kê, so sánh
tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau
lOMoARcPSD| 47206071
8
-Phương pháp chung: để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng tổng hợp các phương
pháp trong đó lấy phương pháp luận duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung trong
nghiên cứu
-Phương pháp chuyên nghành: dựa trên cơ sở lý luận chung, luận án sử dụng các
phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác-Leenin: phương pháp trừu
tượng khoa học, làm sở trong việc nghiên cứu triển khai. Bên cạnh đó luận án coi
trọng việc điều tra, tổng kết thực tiễn, phương pháp h thống, phân tích, tổng hợp,
phương pháp logic-lịch sử, điều tra xã hội học, so sánh, thống kê, khảo sát… để nghiên
cứu từ đó khái quát hóa nêu lên những kiến nghị hoàn thiện giải pháp. Các phương pháp
được sử dụng cụ thể là:
Một là, hệ thống hóa các văn bản chính sách cạnh tranh, độc quyền nhất các
quy định, chính sách, pháp luật, thể chế tác động trực tiếp, gián tiếp cạnh tranh, chống
độc quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Hai là, tiến hành phân tích thống kê, so sánh, tổng hợp các tài liệu, số liệu từ các
văn bản, báo cáo của các quan nhà nước, các công trình nghiên cứu của các tác giả,
các bài viết có liên quan đến độc quyền, chống độc quyền doanh nghiệp như: số liệu báo
cáo từ các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các kết quả công bố các hội nghị, hội thảo, các
cuộc điều tra khảo sát những thông tin, số liệu thu nhập thông qua khảo sát những
thông tin, số liệu thu nhập qua việc khảo sát các cơ quan, doanh nghiệp
Ba là, án sử dụng các phương pháp đbảng, biểu nhằm minh chứng cho
những đánh giá, nhận định, đồng thời khái quát hóa lý luận và thực tiễn, thấy được mối
quan hệ giữa quy định chính sách, với kết quả của việc tạo môi trường cạnh tranh,
chống độc quyền doanh nghiệp
Bốn là, sử dụng phương pháp xin ý kiến chuyên gia, trao đổi với các nhà khoa
học về các vấn đề luận cũng như thực tiễn về chống độc quyền trong doanh nghiệp
nước ta
6. Kết cấu của đề tài: gồm 3 chương
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về độc quyền và độc quyền nhà nước
Chương 2: Thực trạng về độc quyền nnước ở Việt Nam hiện nay một số giải pháp
Chương 3: Các đề xuất và kiến nghị đối với vấn đề nghiên cứu
lOMoARcPSD| 47206071
1
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
CHỐNG ĐỘC QUYỀN
hái niệm v
Độc quyền trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán sản xuất ra sản phẩm đó cho
người mua không bất kỳ sự lựa chọn nào khác giữa người bán người mua. Đây một
trong những dạng của thất bại thị trường, trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh
tranh. Mặc trên thực tế hầu như không thể tìm được trường hợp nào đáp ứng hoàn hảo hai tiêu
chuẩn của độc quyền do đó độc quyền thuần túy thể coi là không tồn tại nhưng những dạng
độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự không hiệu quả của lợi ích hội. Độc quyền được
phân loại theo nhiều tiêu chí: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc
quyền v.v.
ấu trúc thị
1.2.1. Thị trường độc quyền thuần túy
1.2.1.1. Thị trường độc quyền bán thuần túy
Khái niệm: Thị trường độc quyền bán thuần túy (sau đây sẽ gọi là độc quyền bán)
là thị trường mà trong đó chỉ có duy nhất một doanh nghiệp cung ứng toàn bộ hang hóa
hay dịch vụ trên thị trường. Doanh nghiệp cung ứng duy nhất này được gọi doanh
nghiệp độc quyền bán.
Thị trường độc quyền bán thuần túy có các đặc trưng sau đây
Thứ nhất, trên thị trường này chỉ có một người bán duy nhất. Do là người bán duy
nhất trên thị trường nên cầu thị trường cũng chính cầu đối với doanh nghiệp độc
quyền.
Thứ hai, sản phẩm hang hóa trên thị trường này không hang hóa thay thế gần
gũi. Với đặc trưng này, doanh nghiệp độc quyền bán sẽ không phải lo ngại về phản ứng
của các doanh nghiệp khác đối với chính sách giá của mình.
Thứ ba, rào cản lớn về việc gia nhập thị trường. Điều này nghĩa ngay cả
khi doanh nghiệp độc quyền thu được lợi nhuận kinh tế dương khiến cho các doanh
nghiệp khác rất muốn gia nhập thị trường để cũng thu được lợi nhuận kinh tế dương
lOMoARcPSD| 47206071
1
nhưng những rào cản gia nhập đã ngăn cản các doanh nghiệp khác làm điều đó. Việc
này, khác hẳn với đặc trưng của thị trường CTHH đã nghiên cứu ở nội dung trước.
1.2.1.2. Độc quyền mua thuần túy
Khái niệm: Độc quyền mua thuần túy thị trường trong đó chỉ một người
mua và có rất nhiều người bán. Trong thị trường độc quyền bán thuần túy, người bán có
sức mạnh thị trường nên họ thể ảnh hưởng đến mức giá mua. Ngược lại, trong thị
trường độc quyền mua thuần túy, do người mua người mua duy nhất trên thị trường
nên người mua có sức mạnh thị trường, họ cũng có thể tác động đến mức giá mà họ phải
trả cho sản phẩm mình mua. 1.2.2. Thị trường cạnh tranh độc quyền
Khái niệm: thị trường cạnh tranh độc quyền là một thị trường trong đó rất
nhiều doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm đôi nét khác biệt với các doanh nghiệp
khác mỗi doanh nghiệp chỉ khả năng quyết định giá bán sản phaamra của chính
doanh nghiệp mình.
Thị trường cạnh tranh độc quyền có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thị trường cạnh tranh độc quyền cũng là một thị trường gồm rất nghiều người
mua và rất nhiều người bán.
Thứ hai, sản phẩm hang hóa trên thị trường cạnh tranh độc quyền không hoàn toàn
giống nhau mà có đôi nét khác biệt. Hay ta có thể nói sản phẩm hang hóa trên thị trường
này có thể thay thế dễ dàng cho nhau nhưng không thay thế hoàn hảo.
Thứ ba, trên thị trường này cũng có sự tự do gia nhập và rút lui khỏi ngành. Tức là
nếu ngành này đang hoạt động lợi nhuận kinh tế ơng thì các doanh nghiệp mới
hoàn toàn có thể gia nhập ngành này mà không gặp sự cản trở nào, ngược lại nếu ngành
này đang chịu lợi nhuận kinh tế âm thì các doanh nghiệp có thể rời khỏi ngành.
1.2.3. Thị trường độc quyền nhóm
Độc quyền nhóm là hình thái thị trường mà trong đó có một số doanh nghiệp cùng
tham gia hợp tác sản xuất kinh doanh một hoặc một số loại hang hóa, mà sản lượng của
họ chiếm toàn bộ hoặc là phần chủ yếu sản lượng của nền kinh tế.
Ví dụ: chế tạo sắt thép, ô tô, than, ti vi,…
- Đặc trưng cơ bản của độc quyền nhóm
+ Số lượng người bán ít nhưng có nhiều người mua.
+ Hàng hóa của doanh nghiệp đưa ra thị trường có thể giống nhau hoặc khác nhau.
lOMoARcPSD| 47206071
1
+ Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp rất lớn. Đây chính đặc điểm
nổi bật nhất của hình thái độc quyền nhóm. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp khi xây dựng các
đối sách của mình đều phải chú ý đến hành vi các đối thủ.
+ Việc gia nhập thị trường là rất khó khan.
+ Hình thức cạnh tranh phi giá cả: Quảng cáo, bao bì, nhãn mác.
guyên nhân
Sự xuất hiện của độc quyền được xuất phát từ nhiều nguyên nhân, thể kể đến
một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, độc quyền xuất hiện là kết quả của quá trình cạnh tranh. Quá trình cạnh
tranh sẽ làm cho những doanh nghiệp nào kém hiệu quả, có những quyết định kinh doanh
sai lầm sẽ bị những doanh nghiệp khác m ăn hiệu quả hơn thôn tính, chiếm lĩnh thị
phần và rốt cuộc sẽ bị đào thải ra khỏi cuộc chơi. Trong trường hợp cực đoan nhất, nếu
tất cả các doanh nghiệp khác đều bị một doanh nghiệp duy nhất đánh bại thì rốt cuộc,
cạnh tranh tự do đã để lại một doanh nghiệp duy nhất trên thương trường doanh
nghiệp đó đương nhiên có được vị thế độc quyền.
Thứ hai, do được chính phủ nhượng quyền khai thác thị trường. Nhiều hãng tr
thành độc quyền là nhờ được chính phủ nhượng quyền khai thác một thị trường nào đó,
dụ các địa phương cho phép một công ty duy nhất cung cấp nước sạch trên địa bàn
địa phương mình. Ngoài ra, với những ngành được coi chủ đạo của quốc gia, thể
ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng của đất nước thì chính phủ thường tạo cho một
chế thể tồn tại dưới dạng độc quyền nhà nước như cung cấp điện, sản xuất
khí…
Thứ ba, do chế độ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Khi một cá nhân, tổ chức có những
tác phẩm, phát minh, sáng chế đáp ứng được một số điều kiện có nh sáng tạo, tính mới
thì có thể được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đây được coi là một biện pháp để
khuyến khích mọi người tham gia hoạt động nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp
mới nâng cao năng suất lao động và đời sống tinh thần cho xã hội.
Thứ tư, do sỡ hữu được một nguồn lực đặc biệt. việc nắm giữ được một nguồn lực
hay một khả năng đặc biệt nào đó đủ khả năng hỗ trợ trong việc độc quyền sản phẩm sẽ
giúp người sở hữu có được vị thế độc quyền trên thị trường một cách chắc chắn hơn.
lOMoARcPSD| 47206071
1
Thứ năm, do được chính phủ nhượng quyền khai thác thị trường về một sản phẩm kinh
doanh nhất định nào đó nên nhiều hãng trở thành độc quyền.
Ngoài ra, với những ngành được coi chủ đạo của quốc gia, chính phủ thường tạo ra cho
nó một cơ chế có thể tồn tại dưới dạng độc quyền nhà nước.
1.4. Cơ sở đưa ra giải pháp chống độc quyền của các quốc gia
1.4.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Để đưa ra giải pháp chống độc quyền, trước hết chúng ta cần phải hiểu thế nào là chống
độc quyền
Chống độc quyền (hay còn gọi là chống độc lập kinh tế) là một chiến lược kinh tế
được áp dụng để giảm thiểu hoặc loại bỏ sự kiểm soát quá mức của một doanh nghiệp
hoặc một nhóm doanh nghiệp đối với một thị trường cụ thể.
Các biện pháp chống độc quyền có thể bao gồm: giám sát hoạt động của các doanh
nghiệp có quyền độc quyền, áp dụng thuế hoặc phí để giảm sự khác biệt giữa giá cả sản
phẩm độc quyền sản phẩm tương tự của các đối thủ cạnh tranh, đưa ra quy định để
thúc đẩy sự cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại.
Chống độc quyền được xem một phương pháp quan trọng để bảo vệ sự cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trường đảm bảo rằng các doanh nghiệp không lợi dụng
quyền độc quyền của họ để cản trở sự cạnh tranh và tạo ra những bất lợi cho người tiêu
dùng.
1.4.2. Một số lý thuyết của vấn đề nghiên cứu
Lý thuyết của Antoine Augustin Cournot
thuyết độc quyền của Cournot một thuyết kinh tế cho rằng một doanh
nghiệp độc quyền trong một thị trường sẽ tăng giá cả giảm sản lượng để tối đa hóa
lợi nhuận của họ. thuyết này được đặt tên theo Antoine Augustin Cournot, một nhà
toán học kinh tế học người Pháp, đã đưa ra thuyết này trong cuốn sách "Recherches
sur les principes mathématiques de la théorie des richesses" ("Nghiên cứu về các nguyên
tắc toán học của lý thuyết giàu có") năm 1838.
Theo lý thuyết độc quyền của Cournot, một doanh nghiệp độc quyền trong một th
trường sẽ chọn sản lượng sao cho lợi nhuận của họ đạt đến mức tối đa. Doanh nghiệp sẽ
tính toán chi phí sản xuất giá thành để quyết định sản lượng sản phẩm tối ưu để bán
lOMoARcPSD| 47206071
1
trên thị trường. Tuy nhiên, do sự độc quyền, doanh nghiệp sẽ không phải cạnh tranh với
bất kỳ đối thủ nào, và sẽ có sức mạnh kiểm soát giá cả và sản lượng trên thị trường.
thuyết độc quyền của Cournot cho rằng doanh nghiệp độc quyền sẽ chọn một
mức giá cao hơn sản lượng thấp hơn so với thị trường cạnh tranh để đạt được lợi
nhuận tối đa. Tuy nhiên, lợi nhuận của doanh nghiệp độc quyền sẽ giảm nếu có sự cạnh
tranh xuất hiện trên thtrường. Nếu nhiều doanh nghiệp độc quyền trong cùng một
thị trường, mỗi doanh nghiệp sẽ tính toán sản lượng của họ để đạt được lợi nhuận tối đa
và sẽ không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này.
Như vậy, thuyết độc quyền của Cournot là một trong những thuyết quan trọng
nhất trong nh vực kinh tế được sử dụng rộng rãi để giải thích tình trạng độc quyền
trên thị trường.
1.4.3. Nội dung và nguyên lí giải quyết vấn đề nguyên cứu
1.4.3.1. Nội dung của vấn đề độc quyền ở Việt Nam
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mô hình kinh
tế trước đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải quyết
trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần giải quyết tình trạng độc quyền của
các doanh nghiệp nhà ớc. Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà ớc (rất nhiều trong
số đó kinh doanh không hiệu quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong
nhiều lĩnh vực một trong những do được các luật Mỹ sử dụng để khẳng định
Việt Nam không có nền kinh tế thị trường trong vụ kiện cá da trơn của Việt Nam . Để 4
hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các điều kiện gia nhập WTO trong thời gian
tới và tránh thua thiệt trong thương mại quốc tế, vấn đề này cần phải được hoàn thiện để
quy định một mức độ hợp lý cho sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù
hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay hai loại hình độc quyền sau: Loại thứ nhất kết
quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trường hợp công ty Coca Cola như đã phân
tích trên được coi dụ về hình thức độc quyền kết quả của cạnh tranh trên thị
trường nước uống ga của Việt Nam. Tuy thế, như đã đề cập trên, nền kinh tế thị
trường Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, vì vậy, cho đến nay chỉ có
một vài trường hợp liên quan đến độc quyền là kết quả của cạnh tranh trong nền kinh tế
lOMoARcPSD| 47206071
1
thị trường. Chắc chắn trong tương lai, loại hình độc quyền này sẽ phổ biến hơn. Tuy
nhiên, đây hiện tượng bình thường của bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào. Theo kinh
nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, vấn đề này sẽ được giải quyết
bằng những quy định về chống độc quyền trong luật cạnh tranh ncác quy định về
cấm đoán tự thân (per se prohibition), quy định về thoả thuận giá cgiữa các đối thủ
cạnh tranh, tẩy chay hàng hoá, lạm dụng sức mạnh thị trường, tập trung kinh tế v.v...
Luật cạnh tranh của Việt Nam 5 cũng đã bao gồm các quy định này. Đó những quy
định tại chương 2 về các vấn đề thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường và vị trí độc quyền, tập trung kinh tế. Nếu so với các nước có nền kinh tế
thị trường phát triển thì những quy định trong Luật cạnh tranh của Việt Nam về kiểm
soát độc quyền chưa thể nói là đầy đủ. Tuy thế, trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện
nay, việc quy định như vậy là tương đối rõ ràng và thống nhất. Trong tương lai, khi tính
cạnh tranh của thị trường đạt ở mức độ cao hơn với nhiều hành vi cạnh tranh khác phát
sinh, sự bổ sung các quy định mới về kiểm soát độc quyền sẽ cần thiết. Loại thứ hai
loại hình độc quyền được coi phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay độc quyền
kết quả của cơ chế hành chính trước đây và một số quy định của pháp luật ng như các
chính sách kinh tế hiện hành. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trước đây,
chúng ta chỉ thừa nhận hình thức sở hữu nnước sở hữu tập thể, sở hữu nhân
không tồn tại trong thời gian đó. Chế độ công hữu này đã tạo ra sự độc quyền nhà nước
trong tất cả c ngành kinh tế. Nhà nước thành lập các xí nghiệp quốc doanh để sản xuất
và cung ứng sản phẩm cho người tiêu dùng. Cơ chế quản lý kinh tế bằng các mệnh lệnh
hành chính đã hình thành nên c doanh nghiệp nhà nước độc quyền mà một số vẫn còn
tồn tại cho đến ngày nay. Hơn nữa, hiện nay còn có xu hướng độc quyền nhà nước biến
thành độc quyền doanh nghiệp. Việc nắm giữ đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi
thế cho VNPT ngăn cản các công ty khác tham gia vào thị trường viễn thông, bởi lẽ nếu
các công ty khác muốn cung cấp dịch vụ viễn thông họ buộc phải sử dụng đường trục
viễn thông quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về thị phần sẵn từ trước ng với
các quy định của pháp luật, VNPT đã tính giá dịch vụ viễn thông cung cấp cho người
sử dụng cao hơn 30% so với các nước ASEAN . Tình trạng này cũng tương tự như
Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN).nước ta đã một số doanh nghiệp sản xuất
điện nhưng chỉ EVN đ-ợc nắm giữ hệ thống truyền tải điện. Trong thị trường điện lực,
việc sản xuất điện có liên quan mật thiết đến việc truyền tải điện. Điều này làm cho các
lOMoARcPSD| 47206071
1
doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ thuộc vào EVN - một đối thủ cạnh tranh trên cùng
thị trường. Chính vậy, độc quyền của EVN đối với việc kinh doanh điện là điều không
thể tránh khỏi.
Nói tóm lại, viêc pháp luật quy định nhà nước nắm độc quyền đối với các phương
tiện thiết yếu” như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải điện hay các nhà ga
sân bay, hệ thống đường sắt nhưng không sự tách biệt ràng các yếu tố thuộc về
cạnh tranh tiềm năng và các yếu tố thuộc về độc quyền tự nhiên đã làm cho độc quyền
nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp. Qua đó cho thấy rằng: những quy định
này là không phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường và cần phải được thay
đổi trong thời gian tới. Không những thế, một số chính sách kinh tế thời gian qua cũng
nguyên nhân tạo ra độc quyền trong nền kinh tế nước ta. Điển nh chính sách thành
lập các tổng công ty đã tạo ra sự độc quyền của một vài doanh nghiệp nhà nước trong
c lĩnh vực như xây dựng, xi măng, lắp máy... Để thành lập các tổng công ty này, một
loạt các công ty nhỏ cùng tính chất ngành nghề được sáp nhập theo quyết định của
Chính phủ. Hơn nữa, nhà nước cũng đầu một lượng vốn lớn vào các tổng công ty. Kết
quả các công ty một sức mạnh thị trường đáng kể trong ngành nghề kinh
doanh nhanh chóng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực đó, không một doanh
nghiệp nào thể cạnh tranh với các tổng công ty nhà nước. Hiện nay, Chính phủ chủ
trương thành lập một số tập đoàn kinh tế nhất định. Việc xây dựng các tập đoàn kinh tế
quan trọng bởi xét về mức độ tập trung vốn công nghệ, hầu hết các doanh nghiệp
của Việt Nam đều rất nhỏ bé so với các công ty nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa
quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác đi cùng với cạnh tranh
điều không thể tránh khỏi. Để thể tham gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu,
Việt Nam rất cần thiết phải thành lập các tập đoàn kinh tế đủ mạnh trong những lĩnh vực
nhất định. Theo Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), trước hết, sẽ có 4
tập đoàn kinh tế được thành lập trong các lĩnh vực điện, ga và khí đốt, viễn thông xây
dựng. Theo chính sách này, các tập đoàn kinh tế được thành lập dựa trên việc sáp nhập
các công ty nhỏ thành công ty lớn hơn. Về mặt lý thuyết cũng như thực tế của luật cạnh
tranh, việc sáp nhập chỉ bị cấm trong trường hợp làm giảm đáng kể cạnh tranh hoặc đi
ngược lại với lợi ích công cộng, liên quan đến các vấn đề như lợi ích khách hàng, giải
quyết việc làm và tăng trưởng xuất khẩu. Ngược lại, nếu việc sáp nhập mà có nhiều khả
năng mang lại hiệu quả kinh tế ợt qua sự hạn chế cạnh tranh, sẽ không bị cấm.
lOMoARcPSD| 47206071
1
Trong trường hợp các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, việc tránh xung đột giữa độc quyền
kết quả của sáp nhập lợi ích công cộng rất cần thiết. Khi các tập đoàn kinh tế
được thành lập bởi Chính phủ thì sẽ rất dễ dàng cho các doanh nghiệp này được vị
trí thống lĩnh thị trường và sức mạnh thị trường đáng kể so với các doanh nghiệp khác.
Chính vì thế, nếu không những quy định cụ thể chính sách này có thể tạo ra vị trí độc
quyền cho các tập đoàn kinh tế. Thêm vào đó, do hình thức sở hữu một số cnh sách
của nhà nước cũng có ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp nhà ớc. Vì vậy, doanh nghiệp
nhà nước được hưởng một số lợi thế khi tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường
so với các thành phần kinh tế khác. Cụ thể là, trong một số trường hợp nhất định, nhà
nước trực tiếp hoặc gián tiếp bảo đảm cho các khoản ncủa doanh nghiệp, ưu đãi về
quyền sử dụng đất, miễn thuế trong một số trường hợp, được chỉ định ngân hàng cho
vay vốn hoặc được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Vì thế, có thể nói rằng: một chừng mực
nhất định, chính sách kinh tế đã trở thành rào cản tạo ra độc quyền trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
1.4.3.2. Nguyên lí giải quyết vấn đề độc quyền
Từ sự phân tích thực trạng độc quyền trên, thể thấy các rào cản thị trường
Việt Nam hiện nay rơi vào 3 trường hợp như sau: Thứ nhất, bằng một số hành vi kinh
doanh nhất định, các doanh nghiệp trên thị trường đã loại bỏ được các đối thủ khác
trở thành độc quyền trên thị trường đó. Thứ hai, sự tồn tại một số quy định của pháp luật
và các chính sách kinh tế đã tạo ra độc quyền cho các doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba,
pháp luật chưa có sự phân định rõ việc sử dụng các “ phương tiện thiết yếu liên quan
đến độc quyền tự nhiên, thế đã biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh
nghiệp. Loại rào cản thnhất hình thức tồn tại phổ biến tất cả các quốc gia sẽ
không phải là ngoại lệ đối với Việt Nam trong tương lai. Luật Cạnh tranh đã đưa ra một
số quy định tương đối phù hợp với hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay để điều chỉnh
quan hệ này.
Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải có các quy định để xử lý sự tồn tại của các loại rào
cản thứ hai thứ ba. Đối với loại hình thứ hai, cần thấy rằng: trong những hoàn cảnh
nhất định, sự tồn tại của rào cản thị trường do pháp luật tạo ra cần thiết. Điều này
được chứng minh chỗ, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận sự tồn tại của độc quyền
nhà nước trong các lĩnh vực liên quan đến lợi ích công cộng hoặc an ninh quốc phòng.
dụ như Chính phủ Australia thừa nhận rộng rãi sự độc quyền nnước trong các
lOMoARcPSD| 47206071
1
lĩnh vực cấp nước, điện lực, đường sắt, đường bộ, bưu chính, viễn thông. Việc thừa nhận
độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực này được giải thích dựa trên sở các hoạt
động nói trên là hình thức độc quyền tự nhiên” . 9 ở Việt Nam hiện nay, Nghị quyết của
Đảng đã khẳng định: Nhà nước nắm độc quyền trong các lĩnh vực dịch vụ công ích,
trong những ngành công nghiệp then chốt liên quan mật thiết tới đời sống kinh tế -
xã hội hoặc an ninh, quốc phòng như điện lực, viễn thông, cảng biển, thuốc lá, cấp thoát
nước, sản xuất khí, thuốc nổ... Thời gian tới, Chính phủ nên cụ thể hoá những quy
định này bằng cách đưa ra danh mục các lĩnh vực độc quyền nhà nước để bảo đảm tính
ràng của pháp luật tránh được việc biến độc quyền nhà ớc thành độc quyền
doanh nghiệp. Đồng thời, Chính phủ ng n thông tin kế hoạch cthể đối với việc
xoá bỏ độc quyền trong những ngành nghề nhất định. Thực tế cho thấy rằng, những lĩnh
vực thuộc về độc quyền nhà nước không phải giống nhau cho mọi quốc gia cũng
không tồn tại ổn định cho mọi thời kỳ, phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước. Tuy
thế, pháp luật nên quy định theo hướng nhà nước sẽ nắm giữ độc quyền trong các lĩnh
vực liên quan đến độc quyền tự nhiên và các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng.
Ngoài ra, cácquan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là cơ quan quản lý nhà nước về
cạnh tranh (sẽ được thành lập theo quy định của Luật Cạnh tranh) cần rà soát lại các văn
bản pháp luật để m ra những quy định về hạn chế cạnh tranh bất hợp lý, qua đó, đ
xuất cơ quan ban hành văn bản đó sửa đổi hoặc huỷ bỏ cho phù hợp với điều kiện kinh
tế thị trường nước ta. Chính ch về việc thành lập các tập đoàn kinh tế ng là vấn đề
cần xem xét. Các tập đoàn kinh tế khi được thành lập sẽ sức mạnh rất lớn thể
cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, cùng với việc thành lập các
tập đoàn kinh tế, nên có các quy định để khuyến khích hơn nữa các công ty nước ngoài
bao gồm cả các tập đoàn kinh tế đa quốc gia tham gia hoạt động kinh doanh trên thị
trường liên quan Việt Nam. Điều đó vừa bảo đảm được tính cạnh tranh của nền kinh
tế đồng thời tạo môi trường cho các tập đoàn kinh tế nước ta phát triển. Đối với loại hình
thứ ba là trường hợp mà các yếu tố độc quyền tự nhiên gắn liền với các hoạt động cạnh
tranh tiềm năng (nsản xuất điện, dịch vụ vận chuyển hành khách đường sắt hoặc dịch
vụ viễn thông). Nên có quy định tách các yếu tố độc quyền tự nhiên ra khỏi các hoạt
động cạnh tranh tiềm năng đó. dụ như dịch vụ cung cấp shạ tầng viễn thông,
hoạt động truyền tải điện, dịch vụ cung cấp nhà ga sân bay lần lượt phải được tách khỏi
dịch vụ viễn thông, sản xuất điện, và dịch vụ vận tải hàng không. Chính phủ nên thành
lOMoARcPSD| 47206071
1
lập các doanh nghiệp nhà nước riêng rẽ để quản các yếu tố độc quyền tự nhiên đó.
Cùng với việc làm này, Chính phủ nên ban hành các quy định về việc sử dụng phương
tiện thiết yếu liên quan đến độc quyền tự nhiên. Trước hết, các doanh nghiệp độc quyền
tự nhiên nắm giữ các “ phương tiện thiết yếu ” nên giao cho các Bộ chuyên ngành quản
lý. Ví dụ như Bộ Giao thông vận tải sẽ kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp quản
nhà ga sân bay, Bộ Công nghiệp sẽ quản các doanh nghiệp nắm giữ hệ thống truyền
tải điện... Thêm vào đó, cũng cần thấy rằng, không nhất thiết trong mọi trường hợp các
doanh nghiệp quản phương tiện thiết yếu liên quan đến độc quyền tự nhiên đều
phải đáp ứng yêu cầu việc sử dụng các sở đó. Vì vậy, cần có các quy định về lĩnh vực
này. Cụ thể là, nên quy định theo h-ớng các doanh nghiệp đó không phải chịu trách
nhiệm cung cấp “ phương tiện thiết yếu ” cho các doanh nghiệp khác trừ khi có nhu cầu
cần thiết để đẩy mạnh sự cạnh tranh có hiệu quả cho nền kinh tế. Ví dụ như, khi nhà ga
sân bay đã làm việc hết công suất, các doanh nghiệp độc quyền tự nhiên không có trách
nhiệm cung cấp các “ phương tiện thiết yếu ngay cả khi có yêu cầu của một nhà cung
cấp dịch vụ vận tải hàng không. Hơn thế nữa, nên các quy định liên quan đến việc
xác định giá cả khi sử dụng các phương tiện thiết yếu ”. Trong thực tế, các doanh
nghiệp nắm giữ các phương tiện thiết yếu” xu hướng tính giá độc quyền cho các
yếu tố đó. Vì vậy, để tránh giá cả độc quyền, Bộ chủ quản nên ấn định giá cho việc sử
dụng các dịch vụ thiết yếu này. Việc xác định giá cả sử dụng phương tiện thiết yếu”
không phải là công việc dễ dàng. Theo kinh nghiệm của một số nước, giá sử dụng các “
phương tiện thiết yếu ” phụ thuộc vào một số yếu tố như mức độ, khả năng cung cấp các
“phương tiện thiết yếu” , việc sử dụng theo kế hoạch trong tương lai của các doanh
nghiệp, mức độ thu hồi vốn chi phí xây dựng các “ phương
lOMoARcPSD| 47206071
2
tiện thiết yếu đó. Đồng thời, cũng nên tính đến tác động của giá cả để thúc đẩy sản
xuất và bảo dưỡng cácphương tiện thiết yếu” cũng như tác động quan trọng của việc
khuyến khích đổi mới công nghệ.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN TRONG LĨNH
VỰC ĐIỆN
QUỐC GIAVIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về lĩnh vực điện lực Việt Nam
Lưới điện là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của ngành điện tại Việt
Nam. Nó là hệ thống mạch điện, bao gồm các thiết bị, đường dây và trạm biến áp để
truyền tải và phân phối điện đến các khu vực, tòa nhà, hộ gia đình và các khách hàng
khác.
Lưới điện Việt Nam hiện đang phát triển rất mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về điện của đất nước. Hiện tại, lưới điện ở Việt Nam được chia thành hai hệ
thống chính: hệ thống truyền tải và hệ thống phân phối.
Hệ thống truyền tải được sử dụng để truyền tải điện từ các nhà máy điện hoặc
trạm biến áp đến các trạm biến áp lớn khác, sau đó truyền tải điện đến hệ thống phân
phối. Hệ thống truyền tải điện tại Việt Nam được kết nối với hệ thống điện quốc tế thông
qua các đường truyền điện với các nước láng giềng như Lào, Campuchia, Trung Quốc.
Hệ thống phân phối hệ thống chịu trách nhiệm phân phối quyền hạn từ các
trạm biến áp đến các khách hàng cuối cùng. Hệ thống phân phối điện tại Việt Nam được
phân theo các khu vực, bao gồm khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam và khu vực
đảo. Mỗi khu vực có một công ty điện lực địa phương phụ trách quản lý và vận hành hệ
thống lưới điện tại khu vực đó.
Hiện nay, lĩnh vực lưới điện tại Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển nhanh
chóng của các công nghệ mới, bao gồm hệ thống điện thông minh, năng lượng tái tạo
và lưu trữ năng lượng. Các công nghệ này đang được áp dụng để cải thiện hiệu quả hoạt
lOMoARcPSD| 47206071
2
động của hệ thống ới hệ thống lưới và giảm thiểu tác động đến môi trường. Tuy nhiên,
lưới điện Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức như khả năng đáp ứng nhu cầu về
điện, tình trạng mất điện và hao phí năng lượng trong quá trình truyền tải và phân phối,
thiếu hạ tầng và đầu tư, khả năng quản lý và vận tải chưa đạt yêu cầu.
Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) một trong những đơn vị lớn nhất trong
lĩnh vực điện tại Việt Nam. Được thành lập từ năm 1994, EVN có trụ sở chính tại thành
phố Hà Nội và là đơn vị chịu trách nhiệm về sản xuất, truyền tải, phân phối và bán điện
trên toàn quốc.
EVN hiện đang quản lý vận tải điều hành hệ thống lưới điện trên khắp đất nước,
bao gồm hệ thống truyền tải và phân phối điện. EVN cũng đảm nhiệm vai trò quan trọng
trong việc đầu tư, xây dựng vận hành các dự án điện quan trọng trong cả nước, bao
gồm các nhà máy nhiệt điện, nhà máy thủy điện, nhà máy gió, điện mặt trời, và các dự
án điện khác.
Ngoài ra, EVN còn tham gia các hoạt động nghiên cứu phát triển công ngh
điện, đào tạo nhân lực trong ngành điện, phối hợp với các quan, tổ chức quốc tế
trong việc phát triển ngành điện tại Việt Nam.
EVN cũng đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định giá cả hợp cho người
dân và doanh nghiệp trên toàn quốc.
Tổng công ty Điện lực Việt Nam đơn vị chịu trách nhiệm vsản xuất, truyền
tải, phân phối điện tại Việt Nam. Ngoài ra, còn nhiều công ty điện lực địa phương
khác trên toàn quốc chịu trách nhiệm về sản xuất, truyền tải và phân phối điện trong khu
vực của mình.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến độc quyền ở lĩnh vực điện lực của Việt Nam
Việt Nam hiện nay đang đối mặt với tình trạng độc quyền kinh tế trong một số
ngành lĩnh vực, ảnh hưởng tiêu cực đến sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh
nghiệp, mà nổi bật nhất là lĩnh vực điện lực.
Thứ nhất, nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là do chính sách ưu tiên đầu
tiên của chính phủ và hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà
nước, có thể dẫn đến sự thiếu cạnh tranh và độc quyền trong lĩnh vực điện lực. Trong
nhiều năm qua, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách hướng tới sát nhập các
doanh nghiệp sản xuất điện vào Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tạo ra sự độc

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47206071
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI -----  ----- BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MÔ 1
Đề tài : Phân tích giải pháp chống độc quyền mà Chính phủ
Việt Nam sử dụng nhằm giảm thiểu tác động độc quyền
trong lĩnh vực điện quốc gia
Giảng viên : Hồ Thị Mai Hương
Hà Nội, tháng 4 năm 2023 lOMoAR cPSD| 47206071
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 8 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài......................................................................4
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan....................................................5
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu..................................................................7
4.Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu...............................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................8
6. Kết cấu của đề tài: gồm 3 chương...........................................................................9 2 lOMoAR cPSD| 47206071
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN............10 1.1.
Khái niệm về độc quyền..............................................................................10 1.2.
Cấu trúc thị trường độc quyền...................................................................10
1.2.1. Thị trường độc quyền thuần túy.................................................................10
1.2.2. Thị trường cạnh tranh độc quyền...............................................................11
1.2.3. Thị trường độc quyền nhóm.......................................................................11 1.3.
Nguyên nhân dẫn đến độc quyền...............................................................12
1.4. Cơ sở đưa ra giải pháp chống độc quyền của các quốc gia.......................13
1.4.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu........................13
1.4.2. Một số lý thuyết của vấn đề nghiên cứu......................................................13
1.4.3. Nội dung và nguyên lí giải quyết vấn đề nguyên cứu..................................14
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN TRONG LĨNH VỰC
ĐIỆN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM.............................................................................20
2.1. Giới thiệu về lĩnh vực điện lực Việt Nam.......................................................20
2.2. Nguyên nhân dẫn đến độc quyền ở lĩnh vực điện lực của Việt Nam...........21
2.3. Các giải pháp chống độc quyền trong lĩnh vực điện quốc gia ở Việt Nam
hiện nay...................................................................................................................24
2.3.1. Phải xây dựng thị trường điện cạnh tranh ở Việt Nam...............................24
2.3.2. Xây dựng lộ trình hình thành và phát triển thị trường điện ở Việt Nam......24
2.3.3 Giải pháp hiện đại: giai đoạn thí điểm thị trường phát hiện cạnh tranh.....26
2.4. Đánh giá các giải pháp chống độc quyền lĩnh vực điện ở Việt Nam............27
CHƯƠNG 3: CÁC ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ VỚI VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN
ĐIỆN CỦA VIỆT NAM
.............................................................................................29
3.1. Quan điểm/định hướng giải quyết vấn đề nghiên cứu..................................29
3.2. Những vấn đề đặt ra và gợi ý đề xuất giải quyết vấn đề...............................32
3.3. Các kiến nghị với vấn đề nghiên cứu.............................................................36
3.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu...............................................37
KẾT LUẬN................................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................39 LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, Ðảng
và Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực phát triển ngành năng lượng
nước nhà. Theo Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2050 của Chính phủ, mục tiêu dài hạn của ngành năng lượng là phải bảo
đảm an ninh năng lượng quốc gia, góp phần bảo đảm giữ vững an ninh, quốc phòng
và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ của đất nước; cung cấp đầy đủ năng lượng 3 lOMoAR cPSD| 47206071
với chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội; khai thác và sử dụng hợp lý, có
hiệu quả nguồn tài nguyên năng luợng trong nuớc; đa dạng hóa phương thức đầu tư
và kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng, hình thành và phát triển thị trường năng
lượng cạnh tranh lành mạnh; phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững ngành năng
lượng đi đôi với bảo vệ môi truờng. Với phương châm “năng luợng phải đi trước
một bước”, ngành năng lượng phải đảm bảo cung cấp đủ các yêu cầu về điện, than,
các loại hình nhiên liệu khác, làm tiền đề vững chắc cho công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của cả nuớc. Là một trong số các cấu phần quan trọng của lĩnh vực năng
lượng nói chung, ngành điện Việt Nam đóng vai trò quan trọng, là một trong những
ngành công nghiệp mũi nhọn.
Tuy vậy, ở Việt Nam, việc sản xuất, phân phối điện năng vẫn do Nhà nước mà
trực tiếp là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) độc quyền, thống lĩnh thị trường
ngành điện. Đến nay, dù Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không còn là đơn vị
sản xuất điện duy nhất nhưng EVN vẫn giữ tỷ trọng độc quyền cao vì vẫn là đơn vị
mua duy nhất từ các nguồn phát và là đơn vị bán duy nhất. Vào những năm gần đây,
ngành điện trong nước cụ thể là tổng công ty điện lực Việt Nam EVN đã dần đà biểu
hiện những bê bối của mình trong vấn đề sản xuất kinh doanh, phân phối, cũng như
điều hành. Cụ thể là vụ bê bối điện kế điện tử vào năm 2004-2005 gây ra nhiều tổn
thất lớn cho người tiêu dùng, rồi đến vụ tăng giá điện vào đầu tháng 1/2007 trong
khi tình trạng cắt điện xảy ra liên tục trên diện rộng, sau đó là việc trả lại cho Nhà
nước 13 dự án nhiệt điện than vì lý do thiếu vốn. “Một mình một chợ” nên EVN
khiến người tiêu dùng phụ thuộc vào phân phối điện của họ. Từ những phân tích trên
càng khẳng định việc độc quyền ngành điện dẫn tới những hệ lụy nghiêm trọng cho
nền kinh tế, thị trường và người tiêu dùng. Vì vậy việc nghiên cứu phân tích giải
pháp chống độc quyền mà Chính phủ Việt Nam sử dụng để giảm thiểu tác động độc
quyền trong lĩnh vực điện quốc gia là một đỏi hỏi cấp thiết.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
2.1 Những công trình nghiên cứu trong nước
Những nghiên cứu về thị trường điện ở nước ta tập trung nghiên cứu thực trạng
của ngành điện Việt Nam, những yêu cầu cải cách đặt ra và những kinh nghiệm trên
thế giới và khu vực để tìm ra mô hình phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt
Nam, đề ra một lộ trình cải cách thích hợp. Có thể kể đến như: 4 lOMoAR cPSD| 47206071 -
Nguyễn Thành Sơn (2014) với nghiên cứu “ Xây dựng và phát triển thị trườngbán
buôn điện cạnh tranh Việt Nam ” đã phân tích, đánh giá hiện trạng và xu hướng phát
triển của ngành điện Việt Nam, đề xuất cho bước phát triển tiếp theo của thị trường điện
Việt Nam ở các giai đoạn hoàn thiện thị trường phát điện cạnh tranh. - Nguyễn Thành
Sơn (2014), Một số giải pháp phát triển thị trường bán buôn điện cạnh tranh Việt Nam
hiện nay, Tạp chí điện & Đời sống, Hội Điện lực Việt Nam, số 179 tháng 03/2014. -
Lộ trình cải cách thị trường điện Việt Nam do Bộ Công Thương đề xuất gồm 4
giai đoạn: đến năm 2010 cho phép các nhà đầu tư nước ngoài và tư nhân (IPP) tham gia
sản xuất điện để bán điện cho EVN; 2010 - 2014 tự do hoá một phần thị trường bán
buôn điện; 2014 - 2022 tự do hoá hoàn toàn thị trường bán buôn và sau 2022 tự do hoá
cả thị trường bán lẻ điện. Cải cách thị trường điện Việt Nam theo lộ trình nêu trên là
Chính phủ đang từng bước phát triển thị trường điện cạnh tranh một cách ổn định, xóa
bỏ bao cấp trong ngành điện, tăng quyền lựa chọn nhà cung cấp điện cho khách hàng sử dụng điện. -
Theo chuyên gia kinh tế, PGS-TS Ngô Trí Long, Nghị quyết số 55-NQ/TW
vềđịnh hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045 của Bộ Chính trị ban hành hồi đầu năm đã nêu nhiều đột phá
trong phát triển năng lượng quốc gia. Trong đó, điểm nhấn đáng lưu ý là khuyến khích
và tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng. Chiến
lược phát triển EVN được xây dựng trên cơ sở Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị là rất
phù hợp với định hướng xóa bỏ độc quyền, từng bước tư nhân hóa ngành năng lượng quan trọng này. -
Tại buổi tọa đàm “Gỡ nút thắt đầu tư của ngành điện Việt Nam”, do Liên
minhNăng lượng bền vững Việt Nam (VSEA) tổ chức ngày 30/3/2021, tại Hà Nội. Phát
biểu khai mạc buổi tọa đàm, bà Ngụy Thị Khanh - Giám đốc Trung tâm Phát triển sáng
tạo xanh (GreenID) cho biết Việt Nam đang có thị trường bán buôn cạnh tranh, nhưng
mới chỉ có một người mua là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), nên vẫn chưa hình
thành một thị trường điện cạnh tranh hoàn chỉnh. Nhìn vào các ngành khác như viễn
thông, việc phá vỡ độc quyền đã đem lại rất nhiều lợi ích cho người dân, đất nước, giúp
Việt Nam có tên trong bản đồ viễn thông thế giới. Thành tựu từ ngành viễn thông cho
thấy nhiều bài học cho các ngành khác như ngành điện. 5 lOMoAR cPSD| 47206071 -
Cũng tại buổi tọa đàm, chia sẻ về kinh nghiệm xóa bỏ độc quyền trong ngànhviễn
thông, TS. Lê Doãn Hợp - nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông cho biết,
không có lĩnh vực nào không có cạnh tranh mà lại lành mạnh. Việt Nam cần phải có cơ
chế thúc đẩy cạnh tranh, chấp nhận cạnh tranh trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế,
trong đó có ngành điện. Để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, cần chuyển đổi cơ chế từ dễ
quản lý sang dễ làm giàu, thay đổi tư duy quản lý sang tư duy phục vụ, quản lý theo
nguyên tắc vì sự phát triển, bỏ các nguyên tắc quản lý truyền thống.
2.2 Những nghiên cứu nước ngoài -
Bài báo “Monopoly in Electricity Generation and Electricity Supply is a threatto
Investment Expansions in Kenya” (2014) của Peter Ogira chỉ ra tác động của tình trạng
thiếu điện, sản xuất điện và độc quyền cung cấp điện đối với đầu tư ở Kenya. Nghiên
cứu chỉ ra rằng bằng cách loại bỏ độc quyền khỏi sản xuất điện và cung cấp điện sẽ có
thể khiến Kenya trở thành quốc gia công nghiệp hóa hoàn toàn trong vòng bảy năm sau
khi loại bỏ độc quyền. Kết quả cũng chỉ ra rằng nếu không xóa bỏ độc quyền phát điện
và cung cấp điện thì tầm nhìn 2030 sẽ khó đạt được. -
Nghiên cứu “China's electricity market-oriented reform: From an absolute to
arelative monopoly” của Qiang Wang và Xi Chen cho biết trước năm 1985, ngành điện
của Trung Quốc hoàn toàn do các công ty nhà nước trung ương độc quyền. Thế độc
quyền tuyệt đối đã bị phá vỡ kể từ năm 1985, khi chính phủ Trung Quốc mở cửa cho
các đơn vị đầu tư thuộc sở hữu nhà nước ngoài trung ương và các nhà đầu tư nước ngoài
trong việc cung cấp điện nhằm giải quyết tình trạng thiếu điện kinh niên. Năm 2002, kế
hoạch cải cách điện lực toàn diện mang tên Đề án Cải cách ngành Điện đã được ban
hành. Tuy nhiên, việc thực hiện kế hoạch này đã bị trì hoãn do thiếu điện. Tệ hơn nữa,
một loại độc quyền mới đã được phát triển dưới cái nền “nhà nước tiến bộ, khu vực tư
nhân rút lui” trong những năm cuối. Theo một nghĩa nào đó, độc quyền tuyệt đối trước
đây đã biến đổi độc quyền tương đối hiện tại. Họ cho rằng tình trạng độc quyền tương
đối đã đảo ngược cải cách theo định hướng thị trường trong ngành điện của Trung Quốc.
Nếu độc quyền tương đối không thay đổi, nó sẽ có hại cho phúc lợi công cộng. -
Nghiên cứu “Điều tiết các doanh nghiệp độc quyền đã tư nhân hóa tại Anhquốc”
(1989) của M.E. Beesley and Stephen Littlechild -
Tập sách “Thiết kế thị trường điện cạnh tranh” (1998) do Frederick S. Hillierbiên tập. 6 lOMoAR cPSD| 47206071
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, chính vì
vậy chúng ta cần có những thay đổi lớn trong công tác quản lý cũng như điều hành kinh
tế. Tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp phát triển một cách
thuận lợi hơn. Tuy nhiên hiện nay chúng ta vẫn ưu ái quá nhiều cho một số ngành đã
dẫn tới việc độc quyền tạo ra những tổn thất không nhỏ cho xã hội. Chính sự độc quyền
này góp phần không nhỏ trong việc làm chậm quá trình tăng trưởng cũng như phát triển
của ngành đó điển hình ở Việt Nam. Chúng không tạo ra động lực thúc đẩy cho sự phát
triển của ngành đó điển hình ở Việt Nam chính là ngành điện, đại diện cho ngành điện
chính là tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN). Do vậy mà cần phải có những giải pháp
hạn chế độc quyền nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của nó trong lĩnh vực điện nói
riêng, và tới nền kinh tế nói chung. Với mong muốn hiểu rõ hơn về những giải pháp mà
chính phủ đưa ra nhằm giảm thiểu tác động của độc quyền ngành điện, nhóm chúng em
đã chọn đề tài nghiên cứu: “ Phân tích giải pháp chống độc quyền mà Chính phủ Việt
Nam sử dụng để giảm thiểu tác động độc quyền trong lĩnh vực điện quốc gia”.
4. Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự độc quyền của EVN, những mặt tích cực và hạn chế
của hiện tượng độc quyền cùng với các giải pháp của Nhà nước. b. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu sâu hơn về thực trạng của độc quyền
trong nghành điện, phân tích nguyên nhân và các đề xuất kiến nghị, từ đó phân tích các
giải pháp của Nhà Nước để từ đó đưa ra ý kiến riêng về một số giải pháp cho nghành điện c. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình sản xuất kinh doanh, phân phối cũng như điều hành
5. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận chung theo học thuyết kinh tế của chủ
nghĩa Mác-LêNin để tìm hiểu và nghiên cứu. Ngoài ra có sự phân tích, thống kê, so sánh
tổng hợp từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau 7 lOMoAR cPSD| 47206071
-Phương pháp chung: để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng tổng hợp các phương
pháp trong đó lấy phương pháp luận duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung trong nghiên cứu
-Phương pháp chuyên nghành: dựa trên cơ sở lý luận chung, luận án sử dụng các
phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác-Leenin: phương pháp trừu
tượng khoa học, làm cơ sở trong việc nghiên cứu triển khai. Bên cạnh đó luận án coi
trọng việc điều tra, tổng kết thực tiễn, phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp,
phương pháp logic-lịch sử, điều tra xã hội học, so sánh, thống kê, khảo sát… để nghiên
cứu từ đó khái quát hóa nêu lên những kiến nghị hoàn thiện giải pháp. Các phương pháp
được sử dụng cụ thể là:
Một là, hệ thống hóa các văn bản chính sách cạnh tranh, độc quyền nhất là các
quy định, chính sách, pháp luật, thể chế tác động trực tiếp, gián tiếp cạnh tranh, chống
độc quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Hai là, tiến hành phân tích thống kê, so sánh, tổng hợp các tài liệu, số liệu từ các
văn bản, báo cáo của các cơ quan nhà nước, các công trình nghiên cứu của các tác giả,
các bài viết có liên quan đến độc quyền, chống độc quyền doanh nghiệp như: số liệu báo
cáo từ các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các kết quả công bố các hội nghị, hội thảo, các
cuộc điều tra khảo sát những thông tin, số liệu thu nhập thông qua khảo sát và những
thông tin, số liệu thu nhập qua việc khảo sát các cơ quan, doanh nghiệp
Ba là, lý án sử dụng các phương pháp sơ đồ bảng, biểu nhằm minh chứng cho
những đánh giá, nhận định, đồng thời khái quát hóa lý luận và thực tiễn, thấy được mối
quan hệ giữa quy định và chính sách, với kết quả của việc tạo môi trường cạnh tranh,
chống độc quyền doanh nghiệp
Bốn là, sử dụng phương pháp xin ý kiến chuyên gia, trao đổi với các nhà khoa
học về các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về chống độc quyền trong doanh nghiệp nước ta
6. Kết cấu của đề tài: gồm 3 chương
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về độc quyền và độc quyền nhà nước
Chương 2: Thực trạng về độc quyền nhà nước ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp
Chương 3: Các đề xuất và kiến nghị đối với vấn đề nghiên cứu 8 lOMoAR cPSD| 47206071
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN hái niệm v
Độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm đó cho
người mua mà không có bất kỳ sự lựa chọn nào khác giữa người bán và người mua. Đây là một
trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh
tranh. Mặc dù trên thực tế hầu như không thể tìm được trường hợp nào đáp ứng hoàn hảo hai tiêu
chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là không tồn tại nhưng những dạng
độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự không hiệu quả của lợi ích xã hội. Độc quyền được
phân loại theo nhiều tiêu chí: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc quyền v.v. ấu trúc thị
1.2.1. Thị trường độc quyền thuần túy
1.2.1.1. Thị trường độc quyền bán thuần túy
Khái niệm: Thị trường độc quyền bán thuần túy (sau đây sẽ gọi là độc quyền bán)
là thị trường mà trong đó chỉ có duy nhất một doanh nghiệp cung ứng toàn bộ hang hóa
hay dịch vụ trên thị trường. Doanh nghiệp cung ứng duy nhất này được gọi là doanh nghiệp độc quyền bán.
Thị trường độc quyền bán thuần túy có các đặc trưng sau đây
Thứ nhất, trên thị trường này chỉ có một người bán duy nhất. Do là người bán duy
nhất trên thị trường nên cầu thị trường cũng chính là cầu đối với doanh nghiệp độc quyền.
Thứ hai, sản phẩm hang hóa trên thị trường này không có hang hóa thay thế gần
gũi. Với đặc trưng này, doanh nghiệp độc quyền bán sẽ không phải lo ngại về phản ứng
của các doanh nghiệp khác đối với chính sách giá của mình.
Thứ ba, có rào cản lớn về việc gia nhập thị trường. Điều này có nghĩa là ngay cả
khi doanh nghiệp độc quyền thu được lợi nhuận kinh tế dương khiến cho các doanh
nghiệp khác rất muốn gia nhập thị trường để cũng thu được lợi nhuận kinh tế dương 1 lOMoAR cPSD| 47206071
nhưng những rào cản gia nhập đã ngăn cản các doanh nghiệp khác làm điều đó. Việc
này, khác hẳn với đặc trưng của thị trường CTHH đã nghiên cứu ở nội dung trước.
1.2.1.2. Độc quyền mua thuần túy
Khái niệm: Độc quyền mua thuần túy là thị trường mà trong đó chỉ có một người
mua và có rất nhiều người bán. Trong thị trường độc quyền bán thuần túy, người bán có
sức mạnh thị trường nên họ có thể ảnh hưởng đến mức giá mua. Ngược lại, trong thị
trường độc quyền mua thuần túy, do người mua là người mua duy nhất trên thị trường
nên người mua có sức mạnh thị trường, họ cũng có thể tác động đến mức giá mà họ phải
trả cho sản phẩm mình mua. 1.2.2. Thị trường cạnh tranh độc quyền
Khái niệm: thị trường cạnh tranh độc quyền là một thị trường mà trong đó có rất
nhiều doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm có đôi nét khác biệt với các doanh nghiệp
khác và mỗi doanh nghiệp chỉ có khả năng quyết định giá bán sản phaamra của chính doanh nghiệp mình.
Thị trường cạnh tranh độc quyền có các đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thị trường cạnh tranh độc quyền cũng là một thị trường gồm rất nghiều người
mua và rất nhiều người bán.
Thứ hai, sản phẩm hang hóa trên thị trường cạnh tranh độc quyền không hoàn toàn
giống nhau mà có đôi nét khác biệt. Hay ta có thể nói sản phẩm hang hóa trên thị trường
này có thể thay thế dễ dàng cho nhau nhưng không thay thế hoàn hảo.
Thứ ba, trên thị trường này cũng có sự tự do gia nhập và rút lui khỏi ngành. Tức là
nếu ngành này đang hoạt động có lợi nhuận kinh tế dương thì các doanh nghiệp mới
hoàn toàn có thể gia nhập ngành này mà không gặp sự cản trở nào, ngược lại nếu ngành
này đang chịu lợi nhuận kinh tế âm thì các doanh nghiệp có thể rời khỏi ngành.
1.2.3. Thị trường độc quyền nhóm
Độc quyền nhóm là hình thái thị trường mà trong đó có một số doanh nghiệp cùng
tham gia hợp tác sản xuất kinh doanh một hoặc một số loại hang hóa, mà sản lượng của
họ chiếm toàn bộ hoặc là phần chủ yếu sản lượng của nền kinh tế.
Ví dụ: chế tạo sắt thép, ô tô, than, ti vi,…
- Đặc trưng cơ bản của độc quyền nhóm
+ Số lượng người bán ít nhưng có nhiều người mua.
+ Hàng hóa của doanh nghiệp đưa ra thị trường có thể giống nhau hoặc khác nhau. 1 lOMoAR cPSD| 47206071
+ Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp rất lớn. Đây chính là đặc điểm
nổi bật nhất của hình thái độc quyền nhóm. Vì vậy, mỗi doanh nghiệp khi xây dựng các
đối sách của mình đều phải chú ý đến hành vi các đối thủ.
+ Việc gia nhập thị trường là rất khó khan.
+ Hình thức cạnh tranh phi giá cả: Quảng cáo, bao bì, nhãn mác. guyên nhân
Sự xuất hiện của độc quyền được xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể kể đến một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, độc quyền xuất hiện là kết quả của quá trình cạnh tranh. Quá trình cạnh
tranh sẽ làm cho những doanh nghiệp nào kém hiệu quả, có những quyết định kinh doanh
sai lầm sẽ bị những doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả hơn thôn tính, chiếm lĩnh thị
phần và rốt cuộc sẽ bị đào thải ra khỏi cuộc chơi. Trong trường hợp cực đoan nhất, nếu
tất cả các doanh nghiệp khác đều bị một doanh nghiệp duy nhất đánh bại thì rốt cuộc,
cạnh tranh tự do đã để lại một doanh nghiệp duy nhất trên thương trường và doanh
nghiệp đó đương nhiên có được vị thế độc quyền.
Thứ hai, do được chính phủ nhượng quyền khai thác thị trường. Nhiều hãng trở
thành độc quyền là nhờ được chính phủ nhượng quyền khai thác một thị trường nào đó,
ví dụ các địa phương cho phép một công ty duy nhất cung cấp nước sạch trên địa bàn
địa phương mình. Ngoài ra, với những ngành được coi là chủ đạo của quốc gia, có thể
ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng của đất nước thì chính phủ thường tạo cho nó một
cơ chế có thể tồn tại dưới dạng độc quyền nhà nước như cung cấp điện, sản xuất vũ khí…
Thứ ba, do chế độ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Khi một cá nhân, tổ chức có những
tác phẩm, phát minh, sáng chế đáp ứng được một số điều kiện có tính sáng tạo, tính mới
thì có thể được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đây được coi là một biện pháp để
khuyến khích mọi người tham gia hoạt động nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp
mới nâng cao năng suất lao động và đời sống tinh thần cho xã hội.
Thứ tư, do sỡ hữu được một nguồn lực đặc biệt. việc nắm giữ được một nguồn lực
hay một khả năng đặc biệt nào đó đủ khả năng hỗ trợ trong việc độc quyền sản phẩm sẽ
giúp người sở hữu có được vị thế độc quyền trên thị trường một cách chắc chắn hơn. 1 lOMoAR cPSD| 47206071
Thứ năm, do được chính phủ nhượng quyền khai thác thị trường về một sản phẩm kinh
doanh nhất định nào đó nên nhiều hãng trở thành độc quyền.
Ngoài ra, với những ngành được coi là chủ đạo của quốc gia, chính phủ thường tạo ra cho
nó một cơ chế có thể tồn tại dưới dạng độc quyền nhà nước.
1.4. Cơ sở đưa ra giải pháp chống độc quyền của các quốc gia
1.4.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Để đưa ra giải pháp chống độc quyền, trước hết chúng ta cần phải hiểu thế nào là chống độc quyền
Chống độc quyền (hay còn gọi là chống độc lập kinh tế) là một chiến lược kinh tế
được áp dụng để giảm thiểu hoặc loại bỏ sự kiểm soát quá mức của một doanh nghiệp
hoặc một nhóm doanh nghiệp đối với một thị trường cụ thể.
Các biện pháp chống độc quyền có thể bao gồm: giám sát hoạt động của các doanh
nghiệp có quyền độc quyền, áp dụng thuế hoặc phí để giảm sự khác biệt giữa giá cả sản
phẩm độc quyền và sản phẩm tương tự của các đối thủ cạnh tranh, đưa ra quy định để
thúc đẩy sự cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại.
Chống độc quyền được xem là một phương pháp quan trọng để bảo vệ sự cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trường và đảm bảo rằng các doanh nghiệp không lợi dụng
quyền độc quyền của họ để cản trở sự cạnh tranh và tạo ra những bất lợi cho người tiêu dùng.
1.4.2. Một số lý thuyết của vấn đề nghiên cứu
Lý thuyết của Antoine Augustin Cournot
Lý thuyết độc quyền của Cournot là một lý thuyết kinh tế cho rằng một doanh
nghiệp độc quyền trong một thị trường sẽ tăng giá cả và giảm sản lượng để tối đa hóa
lợi nhuận của họ. Lý thuyết này được đặt tên theo Antoine Augustin Cournot, một nhà
toán học và kinh tế học người Pháp, đã đưa ra lý thuyết này trong cuốn sách "Recherches
sur les principes mathématiques de la théorie des richesses" ("Nghiên cứu về các nguyên
tắc toán học của lý thuyết giàu có") năm 1838.
Theo lý thuyết độc quyền của Cournot, một doanh nghiệp độc quyền trong một thị
trường sẽ chọn sản lượng sao cho lợi nhuận của họ đạt đến mức tối đa. Doanh nghiệp sẽ
tính toán chi phí sản xuất và giá thành để quyết định sản lượng sản phẩm tối ưu để bán 1 lOMoAR cPSD| 47206071
trên thị trường. Tuy nhiên, do sự độc quyền, doanh nghiệp sẽ không phải cạnh tranh với
bất kỳ đối thủ nào, và sẽ có sức mạnh kiểm soát giá cả và sản lượng trên thị trường.
Lý thuyết độc quyền của Cournot cho rằng doanh nghiệp độc quyền sẽ chọn một
mức giá cao hơn và sản lượng thấp hơn so với thị trường cạnh tranh để đạt được lợi
nhuận tối đa. Tuy nhiên, lợi nhuận của doanh nghiệp độc quyền sẽ giảm nếu có sự cạnh
tranh xuất hiện trên thị trường. Nếu có nhiều doanh nghiệp độc quyền trong cùng một
thị trường, mỗi doanh nghiệp sẽ tính toán sản lượng của họ để đạt được lợi nhuận tối đa
và sẽ không có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này.
Như vậy, lý thuyết độc quyền của Cournot là một trong những lý thuyết quan trọng
nhất trong lĩnh vực kinh tế và được sử dụng rộng rãi để giải thích tình trạng độc quyền trên thị trường.
1.4.3. Nội dung và nguyên lí giải quyết vấn đề nguyên cứu
1.4.3.1. Nội dung của vấn đề độc quyền ở Việt Nam
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế kế
hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Một số yếu tố bất hợp lý của mô hình kinh
tế trước đây vẫn còn tồn tại và đòi hỏi cần phải có những giải pháp cụ thể để giải quyết
trong thời gian tới. Một trong những vấn đề cần giải quyết là tình trạng độc quyền của
các doanh nghiệp nhà nước. Sự tồn tại quá nhiều doanh nghiệp nhà nước (rất nhiều trong
số đó kinh doanh không hiệu quả) và việc độc quyền của doanh nghiệp nhà nước trong
nhiều lĩnh vực là một trong những lý do được các luật sư Mỹ sử dụng để khẳng định
Việt Nam không có nền kinh tế thị trường trong vụ kiện cá da trơn của Việt Nam . Để 4
hội nhập kinh tế thế giới cũng như đảm bảo các điều kiện gia nhập WTO trong thời gian
tới và tránh thua thiệt trong thương mại quốc tế, vấn đề này cần phải được hoàn thiện để
quy định một mức độ hợp lý cho sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước, vừa phù
hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay có hai loại hình độc quyền sau: Loại thứ nhất là kết
quả cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trường hợp công ty Coca Cola như đã phân
tích ở trên được coi là ví dụ về hình thức độc quyền là kết quả của cạnh tranh trên thị
trường nước uống có ga của Việt Nam. Tuy thế, như đã đề cập ở trên, nền kinh tế thị
trường Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, vì vậy, cho đến nay chỉ có
một vài trường hợp liên quan đến độc quyền là kết quả của cạnh tranh trong nền kinh tế 1 lOMoAR cPSD| 47206071
thị trường. Chắc chắn trong tương lai, loại hình độc quyền này sẽ phổ biến hơn. Tuy
nhiên, đây là hiện tượng bình thường của bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào. Theo kinh
nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, vấn đề này sẽ được giải quyết
bằng những quy định về chống độc quyền trong luật cạnh tranh như các quy định về
cấm đoán tự thân (per se prohibition), quy định về thoả thuận giá cả giữa các đối thủ
cạnh tranh, tẩy chay hàng hoá, lạm dụng sức mạnh thị trường, tập trung kinh tế v.v...
Luật cạnh tranh của Việt Nam 5 cũng đã bao gồm các quy định này. Đó là những quy
định tại chương 2 về các vấn đề thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường và vị trí độc quyền, tập trung kinh tế. Nếu so với các nước có nền kinh tế
thị trường phát triển thì những quy định trong Luật cạnh tranh của Việt Nam về kiểm
soát độc quyền chưa thể nói là đầy đủ. Tuy thế, trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện
nay, việc quy định như vậy là tương đối rõ ràng và thống nhất. Trong tương lai, khi tính
cạnh tranh của thị trường đạt ở mức độ cao hơn với nhiều hành vi cạnh tranh khác phát
sinh, sự bổ sung các quy định mới về kiểm soát độc quyền sẽ là cần thiết. Loại thứ hai
là loại hình độc quyền được coi là phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay là độc quyền là
kết quả của cơ chế hành chính trước đây và một số quy định của pháp luật cũng như các
chính sách kinh tế hiện hành. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao độ trước đây,
chúng ta chỉ thừa nhận hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân
không tồn tại trong thời gian đó. Chế độ công hữu này đã tạo ra sự độc quyền nhà nước
trong tất cả các ngành kinh tế. Nhà nước thành lập các xí nghiệp quốc doanh để sản xuất
và cung ứng sản phẩm cho người tiêu dùng. Cơ chế quản lý kinh tế bằng các mệnh lệnh
hành chính đã hình thành nên các doanh nghiệp nhà nước độc quyền mà một số vẫn còn
tồn tại cho đến ngày nay. Hơn nữa, hiện nay còn có xu hướng độc quyền nhà nước biến
thành độc quyền doanh nghiệp. Việc nắm giữ đường trục viễn thông quốc gia sẽ tạo lợi
thế cho VNPT ngăn cản các công ty khác tham gia vào thị trường viễn thông, bởi lẽ nếu
các công ty khác muốn cung cấp dịch vụ viễn thông họ buộc phải sử dụng đường trục
viễn thông quốc gia do VNPT quản lý. Với lợi thế về thị phần sẵn có từ trước cùng với
các quy định của pháp luật, VNPT đã tính giá dịch vụ viễn thông cung cấp cho người
sử dụng cao hơn 30% so với các nước ASEAN . Tình trạng này cũng tương tự như ở
Tổng công ty điện lực Việt Nam (EVN). ở nước ta đã có một số doanh nghiệp sản xuất
điện nhưng chỉ EVN đ-ợc nắm giữ hệ thống truyền tải điện. Trong thị trường điện lực,
việc sản xuất điện có liên quan mật thiết đến việc truyền tải điện. Điều này làm cho các 1 lOMoAR cPSD| 47206071
doanh nghiệp sản xuất điện phải phụ thuộc vào EVN - một đối thủ cạnh tranh trên cùng
thị trường. Chính vì vậy, độc quyền của EVN đối với việc kinh doanh điện là điều không thể tránh khỏi.
Nói tóm lại, viêc pháp luật quy định nhà nước nắm độc quyền đối với các “ phương
tiện thiết yếu” như đường trục viễn thông quốc gia, hệ thống dây tải điện hay các nhà ga
sân bay, hệ thống đường sắt nhưng không có sự tách biệt rõ ràng các yếu tố thuộc về
cạnh tranh tiềm năng và các yếu tố thuộc về độc quyền tự nhiên đã làm cho độc quyền
nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp. Qua đó cho thấy rằng: những quy định
này là không phù hợp với các quy luật của nền kinh tế thị trường và cần phải được thay
đổi trong thời gian tới. Không những thế, một số chính sách kinh tế thời gian qua cũng
là nguyên nhân tạo ra độc quyền trong nền kinh tế nước ta. Điển hình là chính sách thành
lập các tổng công ty đã tạo ra sự độc quyền của một vài doanh nghiệp nhà nước trong
các lĩnh vực như xây dựng, xi măng, lắp máy... Để thành lập các tổng công ty này, một
loạt các công ty nhỏ có cùng tính chất ngành nghề được sáp nhập theo quyết định của
Chính phủ. Hơn nữa, nhà nước cũng đầu tư một lượng vốn lớn vào các tổng công ty. Kết
quả là các công ty có một sức mạnh thị trường đáng kể trong ngành nghề mà nó kinh
doanh và nhanh chóng có vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực đó, không một doanh
nghiệp nào có thể cạnh tranh với các tổng công ty nhà nước. Hiện nay, Chính phủ chủ
trương thành lập một số tập đoàn kinh tế nhất định. Việc xây dựng các tập đoàn kinh tế
là quan trọng bởi vì xét về mức độ tập trung vốn và công nghệ, hầu hết các doanh nghiệp
của Việt Nam đều rất nhỏ bé so với các công ty nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn đa
quốc gia. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác đi cùng với cạnh tranh là
điều không thể tránh khỏi. Để có thể tham gia và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu,
Việt Nam rất cần thiết phải thành lập các tập đoàn kinh tế đủ mạnh trong những lĩnh vực
nhất định. Theo Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM), trước hết, sẽ có 4
tập đoàn kinh tế được thành lập trong các lĩnh vực điện, ga và khí đốt, viễn thông và xây
dựng. Theo chính sách này, các tập đoàn kinh tế được thành lập dựa trên việc sáp nhập
các công ty nhỏ thành công ty lớn hơn. Về mặt lý thuyết cũng như thực tế của luật cạnh
tranh, việc sáp nhập chỉ bị cấm trong trường hợp làm giảm đáng kể cạnh tranh hoặc đi
ngược lại với lợi ích công cộng, liên quan đến các vấn đề như lợi ích khách hàng, giải
quyết việc làm và tăng trưởng xuất khẩu. Ngược lại, nếu việc sáp nhập mà có nhiều khả
năng mang lại hiệu quả kinh tế vượt qua sự hạn chế cạnh tranh, nó sẽ không bị cấm. 1 lOMoAR cPSD| 47206071
Trong trường hợp các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, việc tránh xung đột giữa độc quyền
là kết quả của sáp nhập và lợi ích công cộng là rất cần thiết. Khi các tập đoàn kinh tế
được thành lập bởi Chính phủ thì sẽ rất dễ dàng cho các doanh nghiệp này có được vị
trí thống lĩnh thị trường và sức mạnh thị trường đáng kể so với các doanh nghiệp khác.
Chính vì thế, nếu không có những quy định cụ thể chính sách này có thể tạo ra vị trí độc
quyền cho các tập đoàn kinh tế. Thêm vào đó, do hình thức sở hữu mà một số chính sách
của nhà nước cũng có ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp
nhà nước được hưởng một số lợi thế khi tiến hành hoạt động kinh doanh trên thị trường
so với các thành phần kinh tế khác. Cụ thể là, trong một số trường hợp nhất định, nhà
nước trực tiếp hoặc gián tiếp bảo đảm cho các khoản nợ của doanh nghiệp, ưu đãi về
quyền sử dụng đất, miễn thuế trong một số trường hợp, được chỉ định ngân hàng cho
vay vốn hoặc được vay vốn với lãi suất ưu đãi. Vì thế, có thể nói rằng: ở một chừng mực
nhất định, chính sách kinh tế đã trở thành rào cản tạo ra độc quyền trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.4.3.2. Nguyên lí giải quyết vấn đề độc quyền
Từ sự phân tích thực trạng độc quyền ở trên, có thể thấy các rào cản thị trường ở
Việt Nam hiện nay rơi vào 3 trường hợp như sau: Thứ nhất, bằng một số hành vi kinh
doanh nhất định, các doanh nghiệp trên thị trường đã loại bỏ được các đối thủ khác và
trở thành độc quyền trên thị trường đó. Thứ hai, sự tồn tại một số quy định của pháp luật
và các chính sách kinh tế đã tạo ra độc quyền cho các doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba,
pháp luật chưa có sự phân định rõ việc sử dụng các “ phương tiện thiết yếu ” liên quan
đến độc quyền tự nhiên, vì thế đã biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh
nghiệp. Loại rào cản thứ nhất là hình thức tồn tại phổ biến ở tất cả các quốc gia và sẽ
không phải là ngoại lệ đối với Việt Nam trong tương lai. Luật Cạnh tranh đã đưa ra một
số quy định tương đối phù hợp với hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay để điều chỉnh quan hệ này.
Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải có các quy định để xử lý sự tồn tại của các loại rào
cản thứ hai và thứ ba. Đối với loại hình thứ hai, cần thấy rằng: trong những hoàn cảnh
nhất định, sự tồn tại của rào cản thị trường do pháp luật tạo ra là cần thiết. Điều này
được chứng minh ở chỗ, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận sự tồn tại của độc quyền
nhà nước trong các lĩnh vực liên quan đến lợi ích công cộng hoặc an ninh quốc phòng.
Ví dụ như Chính phủ Australia “ thừa nhận rộng rãi sự độc quyền nhà nước trong các 1 lOMoAR cPSD| 47206071
lĩnh vực cấp nước, điện lực, đường sắt, đường bộ, bưu chính, viễn thông. Việc thừa nhận
độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực này được giải thích dựa trên cơ sở là các hoạt
động nói trên là hình thức độc quyền tự nhiên” . 9 ở Việt Nam hiện nay, Nghị quyết của
Đảng đã khẳng định: Nhà nước nắm độc quyền trong các lĩnh vực dịch vụ công ích,
trong những ngành công nghiệp then chốt có liên quan mật thiết tới đời sống kinh tế -
xã hội hoặc an ninh, quốc phòng như điện lực, viễn thông, cảng biển, thuốc lá, cấp thoát
nước, sản xuất vũ khí, thuốc nổ... Thời gian tới, Chính phủ nên cụ thể hoá những quy
định này bằng cách đưa ra danh mục các lĩnh vực độc quyền nhà nước để bảo đảm tính
rõ ràng của pháp luật và tránh được việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền
doanh nghiệp. Đồng thời, Chính phủ cũng nên thông tin kế hoạch cụ thể đối với việc
xoá bỏ độc quyền trong những ngành nghề nhất định. Thực tế cho thấy rằng, những lĩnh
vực thuộc về độc quyền nhà nước không phải giống nhau cho mọi quốc gia và cũng
không tồn tại ổn định cho mọi thời kỳ, nó phụ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước. Tuy
thế, pháp luật nên quy định theo hướng nhà nước sẽ nắm giữ độc quyền trong các lĩnh
vực liên quan đến độc quyền tự nhiên và các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng.
Ngoài ra, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đặc biệt là cơ quan quản lý nhà nước về
cạnh tranh (sẽ được thành lập theo quy định của Luật Cạnh tranh) cần rà soát lại các văn
bản pháp luật để tìm ra những quy định về hạn chế cạnh tranh bất hợp lý, qua đó, đề
xuất cơ quan ban hành văn bản đó sửa đổi hoặc huỷ bỏ cho phù hợp với điều kiện kinh
tế thị trường nước ta. Chính sách về việc thành lập các tập đoàn kinh tế cũng là vấn đề
cần xem xét. Các tập đoàn kinh tế khi được thành lập sẽ có sức mạnh rất lớn và có thể
cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, cùng với việc thành lập các
tập đoàn kinh tế, nên có các quy định để khuyến khích hơn nữa các công ty nước ngoài
bao gồm cả các tập đoàn kinh tế đa quốc gia tham gia hoạt động kinh doanh trên thị
trường liên quan ở Việt Nam. Điều đó vừa bảo đảm được tính cạnh tranh của nền kinh
tế đồng thời tạo môi trường cho các tập đoàn kinh tế nước ta phát triển. Đối với loại hình
thứ ba là trường hợp mà các yếu tố độc quyền tự nhiên gắn liền với các hoạt động cạnh
tranh tiềm năng (như sản xuất điện, dịch vụ vận chuyển hành khách đường sắt hoặc dịch
vụ viễn thông). Nên có quy định tách các yếu tố độc quyền tự nhiên ra khỏi các hoạt
động cạnh tranh tiềm năng đó. Ví dụ như dịch vụ cung cấp cơ sở hạ tầng viễn thông,
hoạt động truyền tải điện, dịch vụ cung cấp nhà ga sân bay lần lượt phải được tách khỏi
dịch vụ viễn thông, sản xuất điện, và dịch vụ vận tải hàng không. Chính phủ nên thành 1 lOMoAR cPSD| 47206071
lập các doanh nghiệp nhà nước riêng rẽ để quản lý các yếu tố độc quyền tự nhiên đó.
Cùng với việc làm này, Chính phủ nên ban hành các quy định về việc sử dụng “ phương
tiện thiết yếu ” liên quan đến độc quyền tự nhiên. Trước hết, các doanh nghiệp độc quyền
tự nhiên nắm giữ các “ phương tiện thiết yếu ” nên giao cho các Bộ chuyên ngành quản
lý. Ví dụ như Bộ Giao thông vận tải sẽ kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp quản
lý nhà ga sân bay, Bộ Công nghiệp sẽ quản lý các doanh nghiệp nắm giữ hệ thống truyền
tải điện... Thêm vào đó, cũng cần thấy rằng, không nhất thiết trong mọi trường hợp các
doanh nghiệp quản lý “ phương tiện thiết yếu ” liên quan đến độc quyền tự nhiên đều
phải đáp ứng yêu cầu việc sử dụng các cơ sở đó. Vì vậy, cần có các quy định về lĩnh vực
này. Cụ thể là, nên quy định theo h-ớng các doanh nghiệp đó không phải chịu trách
nhiệm cung cấp “ phương tiện thiết yếu ” cho các doanh nghiệp khác trừ khi có nhu cầu
cần thiết để đẩy mạnh sự cạnh tranh có hiệu quả cho nền kinh tế. Ví dụ như, khi nhà ga
sân bay đã làm việc hết công suất, các doanh nghiệp độc quyền tự nhiên không có trách
nhiệm cung cấp các “ phương tiện thiết yếu ” ngay cả khi có yêu cầu của một nhà cung
cấp dịch vụ vận tải hàng không. Hơn thế nữa, nên có các quy định liên quan đến việc
xác định giá cả khi sử dụng các ” phương tiện thiết yếu ”. Trong thực tế, các doanh
nghiệp nắm giữ các “ phương tiện thiết yếu” có xu hướng tính giá độc quyền cho các
yếu tố đó. Vì vậy, để tránh giá cả độc quyền, Bộ chủ quản nên ấn định giá cho việc sử
dụng các dịch vụ thiết yếu này. Việc xác định giá cả sử dụng “ phương tiện thiết yếu”
không phải là công việc dễ dàng. Theo kinh nghiệm của một số nước, giá sử dụng các “
phương tiện thiết yếu ” phụ thuộc vào một số yếu tố như mức độ, khả năng cung cấp các
“phương tiện thiết yếu” , việc sử dụng theo kế hoạch trong tương lai của các doanh
nghiệp, mức độ thu hồi vốn chi phí xây dựng các “ phương 1 lOMoAR cPSD| 47206071
tiện thiết yếu ” đó. Đồng thời, cũng nên tính đến tác động của giá cả để thúc đẩy sản
xuất và bảo dưỡng các “ phương tiện thiết yếu” cũng như tác động quan trọng của việc
khuyến khích đổi mới công nghệ.
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VỀ CHỐNG ĐỘC QUYỀN TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN
QUỐC GIA Ở VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về lĩnh vực điện lực Việt Nam
Lưới điện là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của ngành điện tại Việt
Nam. Nó là hệ thống mạch điện, bao gồm các thiết bị, đường dây và trạm biến áp để
truyền tải và phân phối điện đến các khu vực, tòa nhà, hộ gia đình và các khách hàng khác.
Lưới điện Việt Nam hiện đang phát triển rất mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về điện của đất nước. Hiện tại, lưới điện ở Việt Nam được chia thành hai hệ
thống chính: hệ thống truyền tải và hệ thống phân phối.
Hệ thống truyền tải được sử dụng để truyền tải điện từ các nhà máy điện hoặc
trạm biến áp đến các trạm biến áp lớn khác, sau đó truyền tải điện đến hệ thống phân
phối. Hệ thống truyền tải điện tại Việt Nam được kết nối với hệ thống điện quốc tế thông
qua các đường truyền điện với các nước láng giềng như Lào, Campuchia, Trung Quốc.
Hệ thống phân phối là hệ thống chịu trách nhiệm phân phối quyền hạn từ các
trạm biến áp đến các khách hàng cuối cùng. Hệ thống phân phối điện tại Việt Nam được
phân theo các khu vực, bao gồm khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam và khu vực
đảo. Mỗi khu vực có một công ty điện lực địa phương phụ trách quản lý và vận hành hệ
thống lưới điện tại khu vực đó.
Hiện nay, lĩnh vực lưới điện tại Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển nhanh
chóng của các công nghệ mới, bao gồm hệ thống điện thông minh, năng lượng tái tạo
và lưu trữ năng lượng. Các công nghệ này đang được áp dụng để cải thiện hiệu quả hoạt 2 lOMoAR cPSD| 47206071
động của hệ thống lưới hệ thống lưới và giảm thiểu tác động đến môi trường. Tuy nhiên,
lưới điện Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức như khả năng đáp ứng nhu cầu về
điện, tình trạng mất điện và hao phí năng lượng trong quá trình truyền tải và phân phối,
thiếu hạ tầng và đầu tư, khả năng quản lý và vận tải chưa đạt yêu cầu.
Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) là một trong những đơn vị lớn nhất trong
lĩnh vực điện tại Việt Nam. Được thành lập từ năm 1994, EVN có trụ sở chính tại thành
phố Hà Nội và là đơn vị chịu trách nhiệm về sản xuất, truyền tải, phân phối và bán điện trên toàn quốc.
EVN hiện đang quản lý vận tải và điều hành hệ thống lưới điện trên khắp đất nước,
bao gồm hệ thống truyền tải và phân phối điện. EVN cũng đảm nhiệm vai trò quan trọng
trong việc đầu tư, xây dựng và vận hành các dự án điện quan trọng trong cả nước, bao
gồm các nhà máy nhiệt điện, nhà máy thủy điện, nhà máy gió, điện mặt trời, và các dự án điện khác.
Ngoài ra, EVN còn tham gia các hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ
điện, đào tạo nhân lực trong ngành điện, và phối hợp với các cơ quan, tổ chức quốc tế
trong việc phát triển ngành điện tại Việt Nam.
EVN cũng đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định và giá cả hợp lý cho người
dân và doanh nghiệp trên toàn quốc.
Tổng công ty Điện lực Việt Nam là đơn vị chịu trách nhiệm về sản xuất, truyền
tải, phân phối điện tại Việt Nam. Ngoài ra, còn có nhiều công ty điện lực địa phương
khác trên toàn quốc chịu trách nhiệm về sản xuất, truyền tải và phân phối điện trong khu vực của mình.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến độc quyền ở lĩnh vực điện lực của Việt Nam
Việt Nam hiện nay đang đối mặt với tình trạng độc quyền kinh tế trong một số
ngành và lĩnh vực, ảnh hưởng tiêu cực đến sự cạnh tranh công bằng giữa các doanh
nghiệp, mà nổi bật nhất là lĩnh vực điện lực.
Thứ nhất, nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là do chính sách ưu tiên đầu
tiên của chính phủ và hỗ trợ các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà
nước, có thể dẫn đến sự thiếu cạnh tranh và độc quyền trong lĩnh vực điện lực. Trong
nhiều năm qua, chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách hướng tới sát nhập các
doanh nghiệp sản xuất điện vào Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tạo ra sự độc 2