Phân tích khổ 1 Đây thôn Dạ ngắn nhất - Bài mẫu 2
Hàn Mặc Tử một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong
phong trào thơ mới với sức sáng tạo dồi dào cùng phong cách sáng tác ấn
tượng. “Đây thôn Dạ” bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp ng tác
của Hàn Mặc Tử, bài thơ bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên
trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi tr tình.
Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút
đến khung cảnh thiên nhiên giản dị đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ:
“Sao anh không về chơi thôn
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
trúc che ngang mặt chữ điền”
“Đây thôn Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc
Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc bức thiệp in phong cảnh xứ Huế
mộng cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn
Vĩ”.
Mở đầu bài thơ u hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa
như trách móc, vừa n hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con
gái xứ Huế. Câu hỏi cũng chính lời tự trách của nhà thơ với bản thân khi
không thể về thăm lại vùng đất Dạ, nơi n thơ từng những kỉ niệm tốt
đẹp. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ v thăm Dạ nhưng bằng
tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Dạ thật sinh
động, độc đáo.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Dạ vùng quê nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những
hàng cau thẳng tắp xanh mướt. Hình ảnh ng cau trong thơ Hàn Mặc Tử
được gợi tả thật đẹp với u xanh ngắt của cau cùng ánh nắng vàng nhẹ
tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” được điệp lại hai lần vừa
gợi n tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác o nức, xôn xao của thi
trước khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về thôn Vĩ, tâm hồn nhà t Hàn Mặc Tử
cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn hiện lên
tươi đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng hiệu quả về thẩm mĩ, tác giả Hàn Mặc Tử đã
sử dụng cách so sánh đầy ấn tượng “xanh n ngọc”. Sắc xanh trong trẻo của
những tán dưới ánh mặt trời trở n thật lung linh, thật đặc biệt. Từ “mướt
được tác giả sử dụng rất khéo không chỉ diễn tả được cái mượt mà, tươi tốt
của vườn cây còn cho thấy sự khéo léo, chăm chỉ của bàn tay chăm sóc
khu vườn ấy.
Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình nh con
người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt:
“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền
Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người
đọc một liên tưởng, phải chăng đấy chính bóng dáng của người con gái
Hàn Mặc Tử thương. Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại
mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh người
đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.
Chỉ với bốn câu t ngắn gọn, tác giả n Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh
Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu
thương của chủ thể trữ tình.
Phân tích Đây thôn Dạ khổ 2 (3 Mẫu)
Bài làm mẫu 1
Đây thôn Dạ Bài thơ được viết ra từ hai nguồn cảm hứng: thứ nhất cảm hứng
đẹp với một ngôi làng vùng quê ven bờ sông Hương, cây cối tốt tươi, thơ mộng. Cảm
hứng thứ hai, theo n thơ Quách Tấn đó mối tình đơn phương nhiều ước với
Hoàng Cúc.
Đây thôn Dạ một bài thơ rất nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, in trong tập Thơ điên. i
thơ không chỉ làm rạng danh cho một thi tài hoa, đa cảm nhưng cuộc đời gặp nhiều
cảnh ngộ éo le, bất hạnh mà còn góp phần điểm cho một địa danh vốn đã nổi tiếng
Huế:
Đây x mơ ng, đây x thơ
Bài thơ gồm ba khổ: Khổ một vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, chứa chan sức sống của khu
vườn trong ánh nắng ban mai. Kh hai: bầu trời, sông nước Dạ trong m trạng
buồn, chia li tuyệt vọng đau đáu một nỗi khát khao gặp gỡ của Hàn Mặc Tử.
Gió theo lối gió, mây đưng y
ng nước bun thiu, hoa bp lay
Tiếp theo khổ một đặc tả vẻ đẹp trong ng, thơ mộng, tràn đầy sức sống của vườn
thôn Dạ o một buổi sớm mai, khổ hai đã m rộng ra khung cảnh bầu trời, sông
nước Dạ. Bài thơ dường như sự vận động t ngoại cảnh vào tâm cảnh. thế,
Bầu trời sông nước cũng nhuốm đầy tâm trạng thi nhân. Cảnh vật xuất hiện với bốn
hình ảnh: “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp”. Hai hình ảnh “gió”, “mây” đây trở nên
chia lìa, trái t nhiên, không hoà nhập “gió một đường, mây một nẻo” này được thể
hiện theo logic của tâm trạng buồn, đơn mối tình dạng “đơn phương”, vọng”
của nhà thơ với Hoàng Cúc. Chú ý phân tích các điệp từ, cách ngắt nhịp câu thơ đã
làm nổi bật cảm xúc trên.
Câu thơ thứ hai với hai hình ảnh “dòng nước” “hoa bắp” cũng đã tiếp tục đậm
thêm tâm trạng thi nhân: buồn lặng lẽ, hiu hắt, thể hiểu hai câu thơ kh thơ này
vừa tả cảnh, vừa tả tình trong cảnh cả nhịp điệu của cảnh: Tình buồn chia li, sầu tủi,
hiu hắt. Cảnh êm đềm phẳng lặng, nhịp điệu cảnh “trầm chẳng nơi nào được” của
Huế đẹp thơ.
Cùng với cảm giác chìa lìa, mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn thực tràn
trề ánh nắng khổ 1 sang một thế giới mộng, tắm đẫm ánh trăng kh 2:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
chở trăng về kịp tối nay?
Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy trụ,
tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong i mộng. Trăng vốn biểu tượng
cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng
ý nghĩa như một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, gi chỉ còn nỗi ước
ao, khát khao gặp gỡ nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, u thơ của
Tử cất lên n một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có ch
trăng về kịp tối nay?”.
Phân ch khổ 3 Đây thôn Dạ
Bài làm mẫu 1
Hàn Mặc Tử một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương
đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời.
Những phút giây xót xa sung sướng, những phút giây ông đã thả
hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa
từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt t.
bài thơ Đây thôn Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây
tuyệt diệu ấy. bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện
với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã trong mối tình chung hồn
thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.
Đây thôn Dạ một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc
Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn n hiện giữa
khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người, cái thực mộng, huyền
ảo c thể hoà vào nhau. khổ thơ thứ 3, tác giả thể hiện tâm nổi
lòng của mình với các câu thơ:
khách đưng xa, khách đưng xa
Áo trắng quá nhìn không ra;
đây ơng khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông
đã gửi tất cả vào những trang thơ. rồi tất cả như trôi trong những
giấc của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng màu ánh nắng của
Dạ nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự
trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữa những
giai nhân áo trắng ấy với thi nhân một khoảng cách nào đó khiến thi
nhân không khỏi không nghi ngờ:
đây ơng khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu thơ đã tả thực cảnh Huế kinh thành sương khói. Trong màn
sương khói đó con người như nhòa đi thể tình người cũng nhòa
đi? N t không tả cảnh tả tâm trạng nh, biết bao tình cảm
trong câu thơ ấy. Những gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương
khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ đậm đà chăng? Tác gi
đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói: Ai
biết tình ai đậm đà?
Lời thơ như nhc nhở, không phi bc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vng,
đó ch là s tht vọng. S thất vọng của một trái tim khao khát yêu
thương mà kng bao gi và mãi mãi không có tình u trọn vẹn. Bài
thơ ng hay ng ngậm ni, nó đã khép lại nhưng lòng người vn thn
thức. C bài thơ đưc liên kết bi từ ai m đầu: n ai mướt quá xanh
như ngc; tiếp đến Thuyn ai đậu bến sông trăng đó; kết thúc Ai
biết nh ai có đậm đà? ng làm cho “Đây thôn Vĩ D sương ki hơn,
huyền bí hơn.
“Đây thôn Dạ” một bức tranh đẹp về cảnh người người của
miền đất nước qua tâm hồn giàu ởng tượng đầy yêu thương của
nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng
người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên
nóng hổi, lay động day dứt ng người đọc.
Phân tích Chiều tối - mẫu 4
“Nht trong tù” ca H Chí Minh tập thơ ghi li cảm xúc
trong chuỗi ngày b giam hãm nhà lao Trung Quc. Đc thơ ca
H Chí Minh, người đọc nhn ra nhng dòng cảm xúc rất bình dị, đời
thường. M mt i thơ như vy, tái diễn li mt khoảnh khc
khi sp kết thúc mt ngày, chiều tối.
Bài thơ “Mộ” ghi li khonh khc mà H Chí Minh đi t nhà lao
Thiên Bo đến Long Tuyền vào năm 1942. Cảm hứng ch đo chính
bc tranh và phông nền của thiên nhn c v chiều, khi hoàng
n sp buông xung. Phi tht tinh tế, sâu sắc, H Chí Minh mới có
th din t mt ch đắc điệu nhp sống nh nhàng nơi núi rừng
như vậy.
Nguyên c của i thơ như sau:
Quyn điu quy m tm c th
Cô n mạn mn đ thiên không
Sơn thôn thiếu n ma bao túc
Bao c ma hoàn dĩ hng.
Hai câu thơ đầu như mt t v chm phá to khiến cho cnh
bầu tri v chiều hin n nét và mang mt ni bun man mác:
Chim mi về rừng tìm chốn ng
Tầng y trôi nh giữa tầng không
Nỗi bun như loang nh, lan ra cả hai câu thơ khiến cho giọng
thơ tr nên chùng xuống và m s ca tác gi dưng như đy lên
cao. Cánh chim khi chiều cũng trở nên “mỏi đi tìm chn ng.
Một cánh chim đơn lẻ, đi lạc gia rng i ca bầu trời khiến ngưi
đọc có cảm giác như H CHí Minh đang liên ng đến cuc sng
của ngưi hiện tại. Cnh đày bách, kìm m khiến Hồ Chí Minh
khát khao được mt nơi chn bình yên m áp nhất đ m v.
Hình ảnh “tầng mây trôi nhẹ” diễn tả sự vn động nh nhàng,
tinh tế ca thiên nhiên đất tri. Nhp thơ tr nên chậm, rt chm và
l lòng ngưi cũng đang chậm.
Chỉ với hai câu thơ ng đủ để cho ngưi đọc nhận ra đưc khát
khao muốn đưc như tng mây đó, cứ trôi đi, không ph thuc,
không phi chu cảnh ng .
Thiên nhn trong thơ H Chí Minh luôn hin lên nh nhàng
nhưng cht cha ni nim như vậy.
Đến hai u thơ sau dưng như bng n mt tia ng và thy
thấp thoáng bóng dáng con ngưi:
Cô em xóm núi xây ngôi tối
Xay hết than đã rực hồng
Mc dù phn dịch thơ không thc s bám t và lột tả hết đưc
m trạng cũng như con ngưi trong bức tranh mang màu sc va
cổ đin vừa hin đi này.
Chỉ bng một nét v tinh tế c gi đã v lên bc tranh bình d
của cuc sống ngưi dân i chân i. Hành động “xay ngô” ng
như vic m thưng ngày của con người đây. Tuy bình dị
nhưng m áp và tràn đầy tin yêu. Có th nói trong cnh gông cùm
như thế này, H Chí Minh rất khao khát có đưc mt nơi để tr v
nh d như thế này.
Đến câu thơ cui, ngưi đc nhn ra một s chuyn động rất nh
mt nét sáng bng n c bài thơ. Khi cô gái vùng n c xay
hết ngô thì than đã rực hng. Một s chuyển tiếp nh nhàng, đu
đặn hng ngày. Giữa vùng núi hoang lạnh, khi mt tri tt, hoàng
n loang xuống hình nh “lò than hin n dưng như làm ng
cả không gian ấm áp trái tim Ngưi. th nói vic xây dựng
nh ảnh cô em m i và than dưng như mt nỗi nim thm
n của c g. Đó là hiện thân ca mt mái m gia đình hnh
phúc, cha chan yêu thương, và đó cũng chính ng mong mi
của H Chí Minh.
i thơ “Mộ” ca H Chí Minh bài thơ vừa mang u sắc c
điển vừa mang màu sắc hiện đại đã mang đến dấu ấn rng, đặc
trưng. Bài thơ chính là m sự, ước muốn nh nhoi th thoát
khỏi chốn gông m, mang lại cuc sống nh n cho nhân dân.
Phân tích Từ ấy của Tố Hữu - Mẫu 5
Tố Hữu tên thật Nguyễn Kim Thành, ông sinh lớn lên tại Thừa Thiên Huế, là
một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào t cách mạng Việt Nam. Nhắc đến
thơ Tố Hữu nhắc đến những vần thơ mang đậm tính trữ tình cách mạnh, thể hiện
khát khao, ý chí của những người cách mạng nặng lòng với đất nước. Những tâm sự
của ông qua từng vần thơ đều mang tầm vóc thời đại, của một cái tôi cộng đồng.
thể nói, Tố Hữu chính cờ đầu của thơ ca kháng chiến với hàng loạt c tập thơ
tiêu biểu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận hay Máu hoa. Bài thơ Từ ấy được
trích trong tập thơ cùng tên một bông hoa đẹp trong ờn thơ đầy hương sắc của
ông.
Từ y trong i bừng nng hạ
Mặt tri chân chói qua tim
Hồn i một vườn hoa lá
Rất đậm hương rộn tiếng chim
Mở đầu bài thơ lời thơ mang đậm chất tự sự, nhà thơ nhắc lại một sự kiện trọng đại
trong đời mình. Trạng ngữ "Từ ấy" đặt đầu câu đã nhấn mạnh thời điểm đầy ý nghĩa khi
tác giả bước o hàng ngũ Đảng, được giác ngộ tưởng Đảng Cộng sản. Hình nh
"nắng hạ" kết hợp với động từ mạnh "bừng" cùng nghệ thuật ẩn dụ đã khẳng định
tưởng cách mạng tác động ng mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy
không phải nắng vàng ấm áp của mùa thu hay nắng xuân n man nhè nhẹ đó
nặng hạ mang vẻ rực rỡ, chói chang làm bừng tỉnh cả nhận thức tình cảm trong
con người chàng trai tuổi 18 tràn trề sức trẻ. Đó nguồn sáng được khởi phát từ ánh
mặt trời khác thường, đặc biệt duy nhất "mặt trời chân lý". Nếu mặt trời tạo hóa ban
tặng ánh sáng làm vạn vật sinh sôi thì mặt trời chân mang đến những tưởng, con
đường đúng đắn cho cách mạng, báo hiệu những điều đẹp đẽ, tươi sáng cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc phía trước.
“Hồn i mt n hoa
Rất đậm hương và rộn tiếng
Mặt trời chân rọi sáng trái tim người chiến khiến tâm hồn như rạo rực, n say mê.
Hình ảnh so sánh thật gần gũi hồn tôi-vườn hoa càng đậm sức sống mãnh liệt,
niềm vui cực độ của nhà thơ c ấy. Vườn hoa với một thế giới đủ hương sắc, thanh
âm như hòa nhập, sôi động dạt dào sức sống cũng như tâm hồn thi nhân lúc này
đây đang vỡ òa với bao cảm xúc tự hào, tin yêu, hy vọng, vui sướng khi được tưởng
Đảng sáng soi. Đó một niềm vui quá đỗi lớn lao đối với một kẻ yêu nước, khát khao
tận hiến đời mình cho cách mạng, cho nhân dân.
i buộc ng tôi với mi người
Để tình trang tri đến muôn i
Để hồn i với bao hồn kh
Gần i nhau thêm mạnh khối đời
Trong văn học giai đoạn 1932-1945, thơ ca ch yếu đề cao cái tôi nhân, họ chọn
một cái tôi thoát ly để rời xa thực tại bất công, chán chường. Riêng với Tố Hữu đó
một cái tôi riêng, cái tôi gắn với cộng động, gắn cuộc đời mình, với nhân dân. Câu thơ
đầy chủ động "Tôi buộc lòng tôi với mọi người" đã thể hiện được một trái tim giàu tình
cảm, nhân dân ý thức tự nguyện gắn với nhân dân của tác giả. Động từ "trang
trải" kết hợp với danh t "muôn nơi" cùng lối nói quá đã cho thấy được sự đồng cảm
của nhà thơ với những nỗi kh cực, lầm than của nhân dân mình trên mọi miền đất
c.
hồn tôi với bao hồn kh
Gần gũi nhau thêm mạnh khi đời"
Lời thơ vừa tha thiết lại vừa mạnh mẽ, khẳng định khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
kết lại từ lòng nhân ái, ý thức mọi người. Những hồn khổ được gắn kết, những người
cùng tưởng phải hợp sức để tạo nên sức mạnh tập thể, tiến bước trên con đường
tưởng cách mạng sáng soi.
"Tôi đã con của vạn nhà
em của vạn kiếp phôi pha
anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm bất bơ"
Bốn câu thơ cuối bài một lần nữa khẳng định tình cảm dạt dào của người chiến với
nhân dân mình. Điệp từ "là" kết hợp ng biện pháp điệp cấu trúc c từ cùng
trường từ vựng gia đình “con”, anh”, “em” đã nhấn mạnh được tình cảm thân thiết n
tình thân ruột thịt. Đó là một tình cảm ấm áp, sẻ chia, quan tâm, lo lắng của thành viên
dành cho đại gia đình lớn đang trong cơn khốn cùng, gian khổ. Đó một tấm lòng
đồng cảm, vượt lên những ích kỷ, hẹp hòi của cái tôi nhân đ sống người khác.
Thật xúc động khi nhà thơ đã dành những câu thơ cuối i để viết về những “kiếp phôi
pha” bất hạnh, mưu sinh dãi dầu mưa năng để kiếm sống, viết về những em nh “cù
bất” đói rét trong cuộc đời. Qua những hình ảnh ấy phải chăng tác giả muốn khẳng
định đến cuối cùng, tưởng cao đẹp nhất của Đảng cộng sản chính chiến đầu
nhân dân, hạnh phúc của những kiếp người, đặc biệt với những phận đời nghèo
khổ, thương đau.
Bằng thể thơ bảy chữ, kết hợp với giọng điệu vừa tự hào vừa tha thiết, sục sôi, tác giả
đã cho thấy tâm nguyện của một thanh niên u nước được giác ngộ say , tin
yêu vào tưởng cách mạng. “Từ ấy” đã trở thành một bài t bất hủ, nhắc nhở mỗi
chúng ta về ý thức trách nhiệm với cuộc đời mình, với đất nước, nhân dân.

Preview text:

Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ ngắn nhất - Bài mẫu 2
Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong
phong trào thơ mới với sức sáng tạo dồi dào cùng phong cách sáng tác ấn
tượng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác
của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên
trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình.
Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút
đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
“Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc
Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế
mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa
như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con
gái xứ Huế. Câu hỏi cũng chính là lời tự trách của nhà thơ với bản thân khi
không thể về thăm lại vùng đất Vĩ Dạ, nơi nhà thơ từng có những kỉ niệm tốt
đẹp. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng
tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ thật sinh động, độc đáo.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Vĩ Dạ là vùng quê nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những
hàng cau thẳng tắp xanh mướt. Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử
được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ
tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” được điệp lại hai lần vừa
gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi
sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về thôn Vĩ, tâm hồn nhà thơ Hàn Mặc Tử
cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.
“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn Vĩ hiện lên
tươi đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng hiệu quả về thẩm mĩ, tác giả Hàn Mặc Tử đã
sử dụng cách so sánh đầy ấn tượng “xanh như ngọc”. Sắc xanh trong trẻo của
những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt. Từ “mướt”
được tác giả sử dụng rất khéo không chỉ diễn tả được cái mượt mà, tươi tốt
của vườn cây mà còn cho thấy sự khéo léo, chăm chỉ của bàn tay chăm sóc khu vườn ấy.
Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con
người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt:
“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”
Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người
đọc một liên tưởng, phải chăng đấy chính là bóng dáng của người con gái
Hàn Mặc Tử thương. Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại
mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh và người
đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh
Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu
thương của chủ thể trữ tình.
Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2 (3 Mẫu) Bài làm mẫu 1
Đây thôn Vĩ Dạ là Bài thơ được viết ra từ hai nguồn cảm hứng: thứ nhất là cảm hứng
đẹp với một ngôi làng vùng quê ven bờ sông Hương, cây cối tốt tươi, thơ mộng. Cảm
hứng thứ hai, theo nhà thơ Quách Tấn đó là mối tình đơn phương nhiều ước mơ với Hoàng Cúc.
Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ rất nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, in trong tập Thơ điên. Bài
thơ không chỉ làm rạng danh cho một thi sĩ tài hoa, đa cảm nhưng cuộc đời gặp nhiều
cảnh ngộ éo le, bất hạnh mà còn góp phần tô điểm cho một địa danh vốn đã nổi tiếng ở Huế:
Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ
Bài thơ gồm ba khổ: Khổ một là vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, chứa chan sức sống của khu
vườn trong ánh nắng ban mai. Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ trong tâm trạng
buồn, chia li tuyệt vọng và đau đáu một nỗi khát khao gặp gỡ của Hàn Mặc Tử.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Tiếp theo khổ một đặc tả vẻ đẹp trong sáng, thơ mộng, tràn đầy sức sống của vườn
thôn Vĩ Dạ vào một buổi sớm mai, khổ hai đã mở rộng ra khung cảnh bầu trời, sông
nước Vĩ Dạ. Bài thơ dường như có sự vận động từ ngoại cảnh vào tâm cảnh. Vì thế,
Bầu trời sông nước cũng nhuốm đầy tâm trạng thi nhân. Cảnh vật xuất hiện với bốn
hình ảnh: “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp”. Hai hình ảnh “gió”, “mây” ở đây trở nên
chia lìa, trái tự nhiên, không hoà nhập “gió một đường, mây một nẻo” này được thể
hiện theo logic của tâm trạng buồn, cô đơn vì mối tình ở dạng “đơn phương”, “vô vọng”
của nhà thơ với Hoàng Cúc. Chú ý phân tích các điệp từ, cách ngắt nhịp câu thơ đã
làm nổi bật cảm xúc trên.
Câu thơ thứ hai với hai hình ảnh “dòng nước” và “hoa bắp” cũng đã tiếp tục tô đậm
thêm tâm trạng thi nhân: buồn lặng lẽ, hiu hắt, có thể hiểu hai câu thơ ở khổ thơ này
vừa tả cảnh, vừa tả tình trong cảnh và cả nhịp điệu của cảnh: Tình buồn chia li, sầu tủi,
hiu hắt. Cảnh êm đềm phẳng lặng, nhịp điệu cảnh “trầm tư chẳng nơi nào có được” của Huế đẹp và thơ.
Cùng với cảm giác chìa lìa, mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn Vĩ thực và tràn
trề ánh nắng ở khổ 1 sang một thế giới mộng, tắm đẫm ánh trăng ở khổ 2:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ,
tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tượng
cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có
ý nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước
ao, khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của
Tử cất lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở
trăng về kịp tối nay?”.
Phân tích khổ 3 Đây thôn Vĩ Dạ Bài làm mẫu 1
Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương
đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời.
Những phút giây xót xa và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả
hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa
từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút.
Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây
tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện
với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn
thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc
Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa
khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người, cái thực và mộng, huyền
ảo và cụ thể hoà vào nhau. Ở khổ thơ thứ 3, tác giả thể hiện tâm tư nổi
lòng của mình với các câu thơ:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông
đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những
giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của
Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự
trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữa những
giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi
nhân không khỏi không nghi ngờ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn
sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa
đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm
trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương
khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả
đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói: Ai
biết tình ai có đậm đà?
Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng,
đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu
thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài
thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn
thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh
như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai
biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho “Đây thôn Vĩ Dạ” sương khói hơn, huyền bí hơn.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của
miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của
nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng
người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên
nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.
Phân tích Chiều tối - mẫu 4
“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh là tập thơ ghi lại cảm xúc
trong chuỗi ngày bị giam hãm ở nhà lao Trung Quốc. Đọc thơ của
Hồ Chí Minh, người đọc nhận ra những dòng cảm xúc rất bình dị, đời
thường. “Mộ” là một bài thơ như vậy, tái diễn lại một khoảnh khắc
khi sắp kết thúc một ngày, là chiều tối.
Bài thơ “Mộ” ghi lại khoảnh khắc mà Hồ Chí Minh đi từ nhà lao
Thiên Bảo đến Long Tuyền vào năm 1942. Cảm hứng chủ đạo chính
là bức tranh và phông nền của thiên nhiên lúc về chiều, khi hoàng
hôn sắp buông xuống. Phải thật tinh tế, sâu sắc, Hồ Chí Minh mới có
thể diễn tả một cách đắc điệu nhịp sống nhẹ nhàng nơi núi rừng như vậy.
Nguyên tác của bài thơ như sau:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Hai câu thơ đầu như một nét vẽ chấm phá tạo khiến cho cảnh
bầu trời về chiều hiện lên rõ nét và mang một nỗi buồn man mác:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không
Nỗi buồn như loang nhẹ, lan ra cả hai câu thơ khiến cho giọng
thơ trở nên chùng xuống và tâm sự của tác giả dường như đẩy lên
cao. Cánh chim khi chiều tà cũng trở nên “mỏi” đi tìm chốn ngủ.
Một cánh chim đơn lẻ, đi lạc giữa rộng dài của bầu trời khiến người
đọc có cảm giác như Hồ CHí Minh đang liên tưởng đến cuộc sống
của người hiện tại. Cảnh tù đày bí bách, kìm hãm khiến Hồ Chí Minh
khát khao có được một nơi chốn bình yên và ấm áp nhất để tìm về.
Hình ảnh “tầng mây trôi nhẹ” diễn tả sự vận động nhẹ nhàng,
tinh tế của thiên nhiên đất trời. Nhịp thơ trở nên chậm, rất chậm và
có lẽ lòng người cũng đang chậm.
Chỉ với hai câu thơ cũng đủ để cho người đọc nhận ra được khát
khao muốn được như tầng mây đó, cứ trôi đi, không phụ thuộc,
không phải chịu cảnh gông tù.
Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh luôn hiện lên nhẹ nhàng
nhưng chất chứa nỗi niềm như vậy.
Đến hai câu thơ sau dường như bừng lên một tia sáng và thấy
thấp thoáng bóng dáng con người:
Cô em xóm núi xây ngôi tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Mặc dù phần dịch thơ không thực sự bám sát và lột tả hết được
tâm trạng cũng như con người trong bức tranh mang màu sắc vừa
cổ điển vừa hiện đại này.
Chỉ bằng một nét vẽ tinh tế tác giả đã vẽ lên bức tranh bình dị
của cuộc sống người dân nơi chân núi. Hành động “xay ngô” dường
như là việc làm thường ngày của con người ở đây. Tuy bình dị
nhưng ấm áp và tràn đầy tin yêu. Có thể nói trong cảnh gông cùm
như thế này, Hồ Chí Minh rất khao khát có được một nơi để trở về bình dị như thế này.
Đến câu thơ cuối, người đọc nhận ra một sự chuyển động rất nhẹ
và một nét sáng bừng lên cả bài thơ. Khi cô gái vùng sơn cước xay
hết ngô thì lò than đã rực hồng. Một sự chuyển tiếp nhẹ nhàng, đều
đặn hằng ngày. Giữa vùng núi hoang lạnh, khi mặt trời tắt, hoàng
hôn loang xuống hình ảnh “lò than” hiện lên dường như làm sáng
cả không gian và ấm áp trái tim Người. Có thể nói việc xây dựng
hình ảnh cô em xóm núi và lò than dường như là một nỗi niềm thầm
kín của tác giá. Đó là hiện thân của một mái ấm gia đình hạnh
phúc, chứa chan yêu thương, và đó cũng chính là lòng mong mỏi của Hồ Chí Minh.
Bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh là bài thơ vừa mang màu sắc cổ
điển vừa mang màu sắc hiện đại đã mang đến dấu ấn riêng, đặc
trưng. Bài thơ chính là tâm sự, là ước muốn nhỏ nhoi có thể thoát
khỏi chốn gông cùm, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
Phân tích Từ ấy của Tố Hữu - Mẫu 5
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, ông sinh và và lớn lên tại Thừa Thiên Huế, là
một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ cách mạng Việt Nam. Nhắc đến
thơ Tố Hữu là nhắc đến những vần thơ mang đậm tính trữ tình cách mạnh, thể hiện
khát khao, ý chí của những người cách mạng nặng lòng với đất nước. Những tâm sự
của ông qua từng vần thơ đều mang tầm vóc thời đại, của một cái tôi cộng đồng. Có
thể nói, Tố Hữu chính là lá cờ đầu của thơ ca kháng chiến với hàng loạt các tập thơ
tiêu biểu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận hay Máu và hoa. Bài thơ Từ ấy được
trích trong tập thơ cùng tên là một bông hoa đẹp trong vườn thơ đầy hương sắc của ông.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Mở đầu bài thơ là lời thơ mang đậm chất tự sự, nhà thơ nhắc lại một sự kiện trọng đại
trong đời mình. Trạng ngữ "Từ ấy" đặt đầu câu đã nhấn mạnh thời điểm đầy ý nghĩa khi
tác giả bước vào hàng ngũ Đảng, được giác ngộ lý tưởng Đảng Cộng sản. Hình ảnh
"nắng hạ" kết hợp với động từ mạnh "bừng" cùng nghệ thuật ẩn dụ đã khẳng định lý
tưởng cách mạng tác động vô cùng mạnh mẽ đến tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy
không phải là nắng vàng ấm áp của mùa thu hay nắng xuân mơn man nhè nhẹ mà đó
là nặng hạ mang vẻ rực rỡ, chói chang làm bừng tỉnh cả nhận thức và tình cảm trong
con người chàng trai tuổi 18 tràn trề sức trẻ. Đó là nguồn sáng được khởi phát từ ánh
mặt trời khác thường, đặc biệt và duy nhất "mặt trời chân lý". Nếu mặt trời tạo hóa ban
tặng ánh sáng làm vạn vật sinh sôi thì mặt trời chân lý mang đến những tư tưởng, con
đường đúng đắn cho cách mạng, báo hiệu những điều đẹp đẽ, tươi sáng cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc phía trước.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng”
Mặt trời chân lý rọi sáng trái tim người chiến sĩ khiến tâm hồn như rạo rực, như say mê.
Hình ảnh so sánh thật gần gũi hồn tôi-vườn hoa lá càng tô đậm sức sống mãnh liệt,
niềm vui cực độ của nhà thơ lúc ấy. Vườn hoa lá với một thế giới đủ hương sắc, thanh
âm như hòa nhập, sôi động và dạt dào sức sống cũng như tâm hồn thi nhân lúc này
đây đang vỡ òa với bao cảm xúc tự hào, tin yêu, hy vọng, vui sướng khi được lý tưởng
Đảng sáng soi. Đó là một niềm vui quá đỗi lớn lao đối với một kẻ yêu nước, khát khao
tận hiến đời mình cho cách mạng, cho nhân dân.
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải đến muôn nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Trong văn học giai đoạn 1932-1945, thơ ca chủ yếu đề cao cái tôi cá nhân, họ chọn
một cái tôi thoát ly để rời xa thực tại bất công, chán chường. Riêng với Tố Hữu đó là
một cái tôi riêng, cái tôi gắn với cộng động, gắn cuộc đời mình, với nhân dân. Câu thơ
đầy chủ động "Tôi buộc lòng tôi với mọi người" đã thể hiện được một trái tim giàu tình
cảm, vì nhân dân và ý thức tự nguyện gắn bó với nhân dân của tác giả. Động từ "trang
trải" kết hợp với danh từ "muôn nơi" cùng lối nói quá đã cho thấy được sự đồng cảm
của nhà thơ với những nỗi khổ cực, lầm than của nhân dân mình trên mọi miền đất nước.
"Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời"
Lời thơ vừa tha thiết lại vừa mạnh mẽ, khẳng định khối đại đoàn kết toàn dân tộc được
kết lại từ lòng nhân ái, ý thức vì mọi người. Những hồn khổ được gắn kết, những người
cùng lý tưởng phải hợp sức để tạo nên sức mạnh tập thể, tiến bước trên con đường có
lý tưởng cách mạng sáng soi.
"Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ"
Bốn câu thơ cuối bài một lần nữa khẳng định tình cảm dạt dào của người chiến sĩ với
nhân dân mình. Điệp từ "là" kết hợp cùng biện pháp điệp cấu trúc và các từ cùng
trường từ vựng gia đình “con”, “anh”, “em” đã nhấn mạnh được tình cảm thân thiết như
tình thân ruột thịt. Đó là một tình cảm ấm áp, sẻ chia, quan tâm, lo lắng của thành viên
dành cho đại gia đình lớn đang trong cơn khốn cùng, gian khổ. Đó là một tấm lòng
đồng cảm, vượt lên những ích kỷ, hẹp hòi của cái tôi cá nhân để sống vì người khác.
Thật xúc động khi nhà thơ đã dành những câu thơ cuối bài để viết về những “kiếp phôi
pha” bất hạnh, mưu sinh dãi dầu mưa năng để kiếm sống, viết về những em nhỏ “cù bơ
cù bất” đói rét trong cuộc đời. Qua những hình ảnh ấy phải chăng tác giả muốn khẳng
định đến cuối cùng, lý tưởng cao đẹp nhất của Đảng cộng sản chính là chiến đầu vì
nhân dân, vì hạnh phúc của những kiếp người, đặc biệt là với những phận đời nghèo khổ, thương đau.
Bằng thể thơ bảy chữ, kết hợp với giọng điệu vừa tự hào vừa tha thiết, sục sôi, tác giả
đã cho thấy tâm nguyện của một thanh niên yêu nước được giác ngộ và say mê, tin
yêu vào lý tưởng cách mạng. “Từ ấy” đã trở thành một bài thơ bất hủ, nhắc nhở mỗi
chúng ta về ý thức và trách nhiệm với cuộc đời mình, với đất nước, nhân dân.
Document Outline

  • Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2 (3 Mẫu)
  • Phân tích khổ 3 Đây thôn Vĩ Dạ