Phân tích luận điểm của Ăng ghen:“Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học, phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực” Ý nghĩa của luận điểm đối với VN hiện nay | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin

Phân tích luận điểm của Ăng ghen:“Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học, phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực” Ý nghĩa của luận điểm đối với VN hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
11 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích luận điểm của Ăng ghen:“Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học, phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực” Ý nghĩa của luận điểm đối với VN hiện nay | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin

Phân tích luận điểm của Ăng ghen:“Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học, phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực” Ý nghĩa của luận điểm đối với VN hiện nay | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

118 59 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
Phân tích luận điểm của Ăngghen:“Chủ nghĩa xã hội muốn
của luận điểm đối với VN hiện nay.
Họ và tên SV: Trương Thị Thảo Nguyên
Lớp tín chỉ: Chủ nghĩa xã hội khoa học (121)_01
Mã SV: 11202917
GVHD: TS NGUYỄN HỒNG SƠN
HÀ NỘI, NĂM 2021
lOMoARcPSD| 23022540
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG..................................................................................................................3
I. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa
học...................................................3
1. Khái niệm chủ nghĩa hội khoa học................................................................3
2. Những điều kiện tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa hội
khoa
học.........................................................................................................................3
II. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa
học.................................4
1. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học (1848
1895)......................................................................................................................4
2. V. I. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học trong
hoàn cảnh lịch sử mới............................................................................................5
III. So sánh chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học..........6
1. Chủ nghĩa xã hội không tưởng...........................................................................6
2. Chủ nghĩa xã hội khoa học.................................................................................7
IV. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt
Nam.........................................................8KẾT
LUẬN................................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................12
LỜI MỞ ĐẦU
Nửa đầu thế kỷ XIX, trong đời sống của nhân loại đã xuất hiện một học thuyết
khoa học cách mạng, đó chủ nghĩa Mác với ba bộ phận bản cấu thành triết
học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Nói đến học thuyết Mác Lênin,
ngọn cờ tưởng của giai cấp công nhân nhân dân lao động trên toàn thế giới trong
cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất công để thiết lập một chế độ hội tốt đẹp
hơn, không thể không ghi công của Ph.Ăngghen, một người đồng chí cùng ởng,
người bạn thân thiết của C.Mác. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, cùng với C.Mác,
Ph.Ăngghen đã tham gia sáng lập chủ nghĩa Mác những đóng góp đặc biệt xuất
lOMoARcPSD| 23022540
2
sắc về chủ nghĩa hội khoa học trong đó có những luận điểm đúng đắn về giai cấp
công nhân, về chính đảng vô sản, về con đường, biện pháp để xây dựng chủ nghĩa cộng
sản... đã và đang được các chính đảng cách mạng nghiên cứu và vận dụng để hiện thực
hóa.
Luận điểm: “Chủ nghĩa hội muốn trở thành khoa học, phải đặt nó trên mảnh
đất hiện thực” là một trong những luận điểm đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây
dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa xã hội
khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) chủ nghĩa Mác Lênin nói chung với
tính cách là sự luận toàn diện (triết học, kinh tế chính trị và xã hội – chính trị) về sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu
hiện khoa học những lợi ích cơ bản những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công
nhân. Điều ấy nói lên sự thống nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác
Lênin. Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực bản chủ nghĩa trên quan điểm chủ nghĩa
duy vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã đưa ra hai phát kiến
đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử học thuyết giá trị thặng dư. Nhờ hai phát kiến
ấy, chủ nghĩa hội đã trở thành khoa học”. Có thể nói, chủ nghĩa hội khoa học không
thể có sở vững chắc nếu không dựa trên chủ nghĩa duy vật lịch sử học thuyết giá
trị thặng cùng những thành tựu khoa học của nhân loại. Chủ nghĩa hội khoa học
ra đời không phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
NỘI DUNG
I. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa hội khoa học khoa học về các quy luật xã hội chính trị, học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân nhân dân lao
động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã viết ba phần:
“triết học”, “kinh tế chính trị” “chủ nghĩa hội khoa học”. V.I.Lênin, khi viết tác
phẩm “Ba nguồn gốc ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác”, đã khẳng định: “Nó
người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất con người đã tạo ra hồi
thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội
Pháp”.
2. Những điều kiện tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học
a. Điều kiện kinh tế xã hội
lOMoARcPSD| 23022540
3
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa bản châu Âu đã đạt được những
bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Đó nền đại công nghiệp phát triển m
cho phương thức sản xuất bản chủ nghĩa bước phát triển vượt bậc. Cuộc ch mạng
khoa học kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó m cho phương thức sản xuất bản chủ nghĩa
bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày
càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu nhân bản chủ nghĩa.
Chính vì vậy mà chủ nghĩa bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà dân
chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa bản, để đra
luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng
thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách một lực lượng chính
trị độc lập với những yêu sách kinh tế, chính trị riêng của mình. Phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu tổ chức trên quy rộng
khắp. Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân
thành phố Liông (Pháp) 1831 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844;
phong trào Hiến chương (Anh) 1838 1848. Những phong trào đó có tính quần chúng
và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức
thiết phải y dựng một hệ thống luận khoa học và cách mạng. ó là những điều kiện
kinh tế - hội khách quan cho chủ nghĩa hội khoa học ra đời để thay thế các trào
lưu xã hội chủ nghĩa cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, không n có khả năng đáp
ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp sản, đồng thời chủ
nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
b. Những tiền đề khoa học tự nhiên – tư tưởng lý luận
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen
T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); định luật bảo toàn chuyển
hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức
(Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít,
Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa hội không tưởng phê phán (H. Xanhximông, S. Phuriê,
R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, ởng đã tạo ra những tiền đề
tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung chủ nghĩa xã hội khoa học
nói riêng. Tuy vẫn còn một số hạn chế trong tưỡng hội như: không phát hiện ra
được quy luật vận động phát triển của hội loài người nói chung chủ nghĩa
bản nói riêng, không chỉ ra được những biện pháp hiện thực cải tạo hội áp bức bất
công, không tìm được lực lượng hội khả năng trở thành người sáng tạo ra hội
lOMoARcPSD| 23022540
4
mới… song những giá trị khoa học công hiến của các nhà tưởng đã tạo ra đã góp phần
lớn giúp C.Mác và Ph.Ănghen kế thừa những hạt nhân hợp lý, lộc bỏ những bất hợp
xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học.
II. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học
1. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học (1848 1895)
Sau “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục bổ sung,
phát triển thêm nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Thông qua thực tiễn đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân phong trào cộng sản, đặc biệt cuộc đấu
tranh giai cấp Pháp Đức trong thời kỳ 1848 1851, qua theo dõi, chỉ đạo tổng
kết kinh nghiệm của Công xã Pari (1871), hai ông đã viết nhiều tác phẩm và thông qua
các tác phẩm, hai ông đã nêu lên những luận điểm hết sức quan trọng, làm phong phú
thêm chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là những luận điểm sau:
+ Giai cấp công nhân chỉ thể chiến thắng giai cấp sản trên sở đập tan bộ máy
nhà nước tư sản và kịp thời trấn áp những hành động phục hồi của chúng.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản và bản thân nền chuyên
chính đó cũng chỉ là bước quá độ để tiến lên xây dựng một xã hội không có giai cấp +
Giai cấp công nhân chỉ có thể giành được thắng lợi khi có được sự lãnh đạo của một
chính đảng được vũ trang bằng lý luận khoa học.
+ Liên minh công ng điều kiện cần phải để đưa cách mạng đến thắng lợi. +
Trình bày về tư tưởng cách mạng không ngừng: về chiến lược, sách lược đấu tranh giai
cấp của giai cấp công nhân; về sự lựa chọn các phương pháp nh thức đấu tranh
trong từng thời kỳ phát triển cách mạng; về các vấn đề xã hội – chính trị mà cách mạng
xã hội chủ nghĩa phải giải quyết;…
2. V. I. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học trong hoàn cảnh
lịch sử mới
Vlađimia Ilich Lênin (1870 – 1924) là người kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp
đại của C. Mác Ph. Ăngghen. Ông vừa bảo vệ sự trong sáng, vừa phát triển toàn
diện và làm giàu thêm luận chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, chủ nghĩa
bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ông người cxít đầu tiên vận dụng
một cách sáng tạo những nguyên của chủ nghĩa hội khoa học vào thực tiễn đấu
tranh xây dựng chính quyền cách mạng của giai cấp công nhân nhân dân lao động,
cải tạo hội bắt đầu xây dựng một hội mới hội hội chủ nghĩa hiện
thực. Ông là lãnh tụ của giai cấp công nhân Nga và quốc tế, người sáng lập Đảng Cộng
sản Liên Xô và Nhà nước Xôviết.
Những đóng góp to lớn của V.I.Lênin trong sự bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát
triển Chủ nghĩa xã hội khoa học có thể khái quát qua hai thời kỳ cơ bản:
lOMoARcPSD| 23022540
5
Trước Cách mạng Tháng Mười Nga
Trên cơ sở những di sản luận của C. Mác và Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đã xây
dựng một hệ thống lý luận mang tính nguyên tắc cho các đảng mácxít kiểu mới của giai
cấp công nhân. Đó là những lý luận về chuyên chính vô sản; về chính đảng kiểu mới, về
liên minh công nông, về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga
Với yêu cầu của cộng cuộc xây dựng chế độ mới, V. I. Lênin phân tích và làm rõ
nội dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về mối quan hệ giữa phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc vơi phong trào đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân; về những vấn đề mang tính quy luật của sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội; về vai trò của quần chúng,…
III. So sánh chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Chủ nghĩa xã hội không tưởng
thể thấy sự hình thành phát triển tưởng hội chủ nghĩa một dòng
chảy liên tục của lịch sử nhân loại. Tư tưởng xã hội xuất phát từ những ước lâu đời
trong quá trình đấu tranh giai cấp của đông đảo người lao khổ, nạn nhân của chế độ
người áp bức về một xã hội công bằng bình đẳng và con niệm về những con đường giải
pháp và những điều kiện tiến tới xã hội tương lai tốt đẹp.
Chủ nghĩa hội không tưởng một hệ thống các ởng, các hoạt các học
thuyết phản ánh ước mơ, khát vọng của con người về xã hội tương lai tốt đẹp, nhưng có
tính chất không ởng thể hiện chỗ không chỉ ra được con đường lực lượng
hội cũng như điều kiện phương thức để thực hiện ước khát vọng đó. Tuy nhiên
chủ nghĩa xã hội không tưởng lại có một giá trị vô cùng to lớn, làm nền tảng để các nhà
triết học phát triển thành khoa học, thành chủ nghĩa hội khoa học. Những tưởng
về chủ nghĩa xã hội không tưởng được xuất hiện từ thời kỳ cổ đại được phát hiện và trở
thành một học thuyết vào thời kỳ hình thành chủ nghĩa tư bản và phát triển tới đỉnh cao
chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán đầu thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng tiêu biểu
Cơlôđơ Hăngri Đơ Xanh Xi-mông (1796 1825) Sac-lơ Phu-riPháp (1772
1873), Rô-bơ O-oen ở Anh (1771 1858). Chủ nghĩa hội không tưởng đã đánh dấu
một bước tiến quan trọng trong lịch sử loài người chính nó đã để lại cho chủ nghĩa mác
một di sản tưởng giá trị, những điều tiên đoán quan trọng về đời sống hội sự
phát triển của xã hội. Vì vậy chủ nghĩa xã hội không tưởng được các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin thừa nhận một trong ba nguồn gốc luận của chủ nghĩa mác
là tiền đề tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học.
lOMoARcPSD| 23022540
6
Tuy nhiên, chủ nghĩa hội không tưởng không tránh khỏi những hạn chế tiêu
cực. Với những mức độ khác nhau, các trào lưu không tưởng chỉ mới pphán chủ nghĩa
tư bản, lên án tình trạng bất công và những thảm hoạ do nó gây ra, mà không giải thích
được nguồn góc kinh tế sâu sa của tình trạng ấy. Những nhà không tưởng ý thức bênh
vực lợi ích của những người lao động, nhưng chưa thấy vai trò lịch sử của giai cấp
sản. Họ muốn đứng trên các giai cấp, nhân danh toàn xã hội để mưu giải phóng toàn xã
hội. Nhiều người cho rằng hội đầy rẫy xấu xa chưa phát hiện chân tuyệt đối
vĩnh cửu để có thể thuyết phục và cảm hoá mọi người, không phân biệt giai cấp và giàu
nghèo. Phần đông những nhà không tưởng tách rời học thuyết của họ với phong trào
quần chúng. Họ không nhận thức rõ lực lượng của quần chúng. Trái lại, họ muốn đi tìm
một sức mạnh tinh thần làm chỗ dựa cho công cuộc cải tạo hội. Nhiều người mong
muốn cải tạo xã hội bằng những cải cách dần dần, bằng giáo dục, chứ không phải bằng
đấu tranh cách mạng. Về cơ bản họ vẫn đứng trên lập trường duy tâm về lịch sử.
Tính chất không tưởng của chủ nghĩa hội trước chủ nghĩa Mác chyếu là do
những điều kiện lịch sử quy định. Trong hoàn cảnh phương thức sản xuất bản chủ
nghĩa chưa phát triển đầy đủ , mâu thuẫn giữa giai cấp sản giai cấp sản chưa
chín muồi thì mọi thuyết về chủ nghĩa hội cũng chưa thể chín muội. Đến những
năm 40 của thế kỉ XIX , mọi trào lưu hội chủ nghĩa không ởng đều trở thành lạc
hậu , bảo thhoặc phản động, cuộc đấu tranh của giai cấp sản chống giai cấp
sản đã diễn ra với quy mô rộng lớnvà đã có những hình thức rõ rệt , đòi hỏi phải có một
luận cách mạng khoa học soi đường . Chính Các-Mác Ph. Ăng-ghen những người
đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách đó của phong trào giai cấp vô sản.
2. Chủ nghĩa xã hội khoa học
Sự phát triển của chủ nghĩa bản ngày càng mang lại cho giai cấp công nhân
nhiều đau khổ. Cho nên, từ đầu thế kỉ XIX, một số người tiến bộ đương thời như Xanh
Xi-mông và Sac-lơ Phu-ri-ê ở Pháp , Rô-bơ O-oen ở Anh, mơ ước xây dựng một xã hội
công bằng, không có áp bức bóc lột, không có cạnh tranh và đem lại hạnh phúc cho mọi
người . Cách làm của họ không phải bằng hành động chính trị, bằng hoạt động cách
mạng bằng cách tuyên truyền thực hiện những tổ chức hội do họ nghĩ ra. Những
thí nghiệm của những nhà cải cách hội ấy đều đi đến thất bại. Người ta gọi đó
những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng.
Trong thực tế hội hồi đó, công nhân vẫn không ngừng đấu tranh chống lại sự
áp bức bóc lột của chủ nghĩa bản, từ hình thức thô nhất đập phá máy móc đến
những hình thức đấu tranh tính chất quần chúng rộng rãi, như cuộc khởi nghĩa của
công nhân Ly -ông Pháp năm 1831 1834, phong trào Hiến chương” Anh ( 1836-
1847 )... Nhưng cho đến giữa thế kỉ XIX , họ còn thiếu ý thức giác ngộ giai cấp rệt,
lOMoARcPSD| 23022540
7
cuộc đấu tranh của họ còn thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo thiếu một đường lối chính trị
ràng, chính xác. Nói cách khác là giai cấp công nhân còn thiếu một lý luận tiền phong
và một chính đảng để hướng dẫn họ đấu tranh một ch ý thức, có tổ chức để giành
thắng lợi. Chính Mác Ăng-ghen những người thầy đại của giai cấp sản, những
người đầu tiên sáng tạo lí luận tiền phong và chính đảng tiền phong của giai cấp vô sản
trên thế giới. Mác và Ăng-ghen đã dựa vào những kiến thức khoa học của nhân loại tích
luỹ từ hàng nghìn năm, đã đúc kết những kinh nghiệm của phong trảo công nhân quốc
tế, đã nghiên cứu một cách chính xác những quy luật phát triển của xã hội loài người và
chỉ cho giai cấp công nhân con đường đấu tranh.
Chủ nghĩa khoa học không tưởng chủ nghĩa khoa học hội đều giống nhau
về mặt tưởng xã hội chủ nghĩa là những ước mơ lâu đời trong quá trình đấu tranh giai
cấp của đông đảo người lao khổ, nạn nhân của chế độ người áp bức về một xã hội công
bằng bình đẳng và con niệm về những con đường giải pháp và những điều kiện tiến tới
hội tương lai tốt đẹp không áp bức bất công, mọi người đều được sống ấm no hạnh
phúc. Họ nhận thức được áp bức bóc lột nguồn gốc của nghèo khổ bóc lột không
công bằng, thế họ phê phán chế độ hữu, bày tỏ sự cảm thông sâu sắc bênh vực
người nghèo khổ. Tuy nhiên trong khi chủ nghĩa hội không tưởng không nhận thức
được sự cần thiết của việc cải tạo hội triệt để bằng cách mạng xóa bỏ bóc lột thống
trị của chủ nghĩa tư bản cũng như vai trò và sứ mệnh của lịch sử của giai cấp công nhân,
chủ nghĩa khoa học hội đã vạch ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường
cách mạng, giải phóng lực lượng xã hội là giai cấp vô sản, và vạch trần bản chất bóc lột
của chủ nghĩa tư bản là chiếm đoạt giá trị thặng dư của người công dân.
IV. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng ta chủ trương tăng cường bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, thì việc nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung
bản giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa
Mác-Lênin, tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng
tưởng của Đảng, nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống hội, xây dựng văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là một tất yếu.
Việt Nam do những đặc điểm lịch sử quy định, giai cấp công nhân ra đời
phát triển gắn mật thiết với nông dân các tầng lớp lao động khác cho nên trong
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo phát
triển phù hợp với xu thế của thời đại nhu cầu, khát vọng của dân tộc: Đảng chủ trương
tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo,
lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu sản, tthức,... đi vào phe
lOMoARcPSD| 23022540
8
sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản chưa rõ mặt phản cách
mạng tphải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
xã hội khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta có thể tóm tắt trên một số vấn đề
cơ bản sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tính quy luật của cách mạng
Việt Nam, trong điều kiện thời đại hiện nay;
+ Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế vói đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trung tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, đảm bảo givững sự ổn định
chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội;
+ Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa tăng cường
vai trò quản của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát
triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Đây được xem như một nội dung
cơ bản, thể hiện sự ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa. Xây dựng phát triển kinh tế phải
đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh
thái;
+ Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của mọi giai
cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc tôn giáo, mọi công dân Việt Nam
trong nước hay nước ngoài, tạo sở hội rộng lớn thống nhất cho sự nghiệp
xây dựng chế độ xã hội mới;
+ Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, khai thác mọi
khả năng thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
+ Giữ vững tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhân tố quan
trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu then chốt để đảm bảo tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện từ xưa
đến nay đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Nước ta
từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ, bị bóc lột, áp bức đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ hội. Hơn nữa, đất nước ta đã ra khỏi tình
trạng nước nghèo, m phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
lOMoARcPSD| 23022540
9
quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Thành quả to lớn ấy, chính nhờ vào sự vận dụng một cách sáng tạo phát triển những
ởng đại đặc biệt luận điểm của Ăngghen: “Chủ nghĩa hội muốn trở thành
khoa học, phải đặt trên mảnh đất hiện thực” trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
phù hợp với xu thế vận động, biến đổi của thời đại và khát vọng cũng như nhu cầu của
dân tộc.
lOMoARcPSD| 23022540
10
KẾT LUẬN
Sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử với duy vật biện chứng, giữa kinh tế
với chính trị trong nhận thức bản chất của xã hội tư bản, cùng với bộ óc thiên tài, ta thấy
hội đang phát triển đúng như luận điểm của Ăngghen: “Chủ nghĩa hội muốn tr
thành khoa học, phải đặt trên mảnh đất hiện thực”. “Mảnh đất hiện thực” đây
thể hiểu như sở thực tiễn. Ăngghen đã chỉ rõ: muốn cho chủ nghĩa hội trở thành
khoa học thì phải đặt đứng vững trên mảnh đất hiện thực, từ khi trở thành khoa
học thì phải đối xử với như mọi khoa học nghĩa phải nghiên cứu nói trên mọi chi
tiết. Bên cạnh đó con nhìn nhận chủ nghĩa hội như một thể sống, tất yếu phải
thường xuyên biến đổi, phải đổi mới phát triển. Người lao động khổ luôn mong muốn
thoát khỏi sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa bản để sống một cuộc sống công bằng.
Việc C.Mác Ăngghen dùng kinh nghiệm của mình vận dụng tốt những thành tựu
khoa học của loài người hàng nghìn năm qua vào “mảnh đất hiện thực”, đã đưa hội
loài người lên một bước phát triển mới, giúp người dân thoát khỏi giai cấp bóc lột bất
công bất lâu nay và mở ra con đường đấu tranh cho giai cấp công nhân. Vì thế không ai
thể phủ nhận rằng sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác Lênin nguồn động lực
cho nhiều quốc gia trên thế giới và nhân loại chính thức có một hệ thống các quan điểm
khoa học thực tiễn. Quan điểm trên được xem như một ch nhìn động chứ không
tính, mở chứ không khác chủ nghĩa hội do mác ăn ghen nêu ra phù hợp trong
giai đoạn hiện nay. Các nguyên lý đó đòi hỏi phải được vận dụng một cách sáng tạo vào
điều kiện lịch sử cụ thể ở từng nơi từng lúc. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia
tiếp thu và truyền bá tư tưởng cách mạng giúp phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động nhận thức và hành động, chuyển từ trạng thái mộng tưởng sang
bừng tỉnh để bước lên vũ đài chính trị với vai trò là một giai cấp cấp tiến nhất của xã hội
loài người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995
Hồ Chí Minh, Toàn tập: t. 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
(2) Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hôi Khoa Học bậ c Đại học cho sinh viên các trường Đạị
học (chuyên và không chuyên)
(3) Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ XI, NxbChính
trị quốc gia, Hà Nội, 2011
| 1/11

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***-------
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI: Phân tích luận điểm của Ăngghen:“Chủ nghĩa xã hội muốn
trở thành khoa học, phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực” Ý nghĩa
của luận điểm đối với VN hiện nay.
Họ và tên SV: Trương Thị Thảo Nguyên
Lớp tín chỉ: Chủ nghĩa xã hội khoa học (121)_01 Mã SV: 11202917
GVHD: TS NGUYỄN HỒNG SƠN HÀ NỘI, NĂM 2021 lOMoAR cPSD| 23022540 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG..................................................................................................................3
I. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa
học...................................................3
1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học................................................................3
2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa
học.........................................................................................................................3
II. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa
học.................................4
1. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học (1848 –
1895)......................................................................................................................4
2. V. I. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học trong
hoàn cảnh lịch sử mới............................................................................................5
III. So sánh chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học..........6
1. Chủ nghĩa xã hội không tưởng...........................................................................6
2. Chủ nghĩa xã hội khoa học.................................................................................7
IV. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt
Nam.........................................................8KẾT
LUẬN................................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................12 LỜI MỞ ĐẦU
Nửa đầu thế kỷ XIX, trong đời sống của nhân loại đã xuất hiện một học thuyết
khoa học và cách mạng, đó là chủ nghĩa Mác với ba bộ phận cơ bản cấu thành là triết
học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Nói đến học thuyết Mác Lênin,
ngọn cờ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới trong
cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, bất công để thiết lập một chế độ xã hội tốt đẹp
hơn, không thể không ghi công của Ph.Ăngghen, một người đồng chí cùng tư tưởng,
người bạn thân thiết của C.Mác. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, cùng với C.Mác,
Ph.Ăngghen đã tham gia sáng lập chủ nghĩa Mác và có những đóng góp đặc biệt xuất 1 lOMoAR cPSD| 23022540
sắc về chủ nghĩa xã hội khoa học trong đó có những luận điểm đúng đắn về giai cấp
công nhân, về chính đảng vô sản, về con đường, biện pháp để xây dựng chủ nghĩa cộng
sản... đã và đang được các chính đảng cách mạng nghiên cứu và vận dụng để hiện thực hóa.
Luận điểm: “Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học, phải đặt nó trên mảnh
đất hiện thực” là một trong những luận điểm đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây
dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Chủ nghĩa xã hội
khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) là chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung với
tính cách là sự luận toàn diện (triết học, kinh tế chính trị và xã hội – chính trị) về sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu
hiện khoa học những lợi ích cơ bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công
nhân. Điều ấy nói lên sự thống nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác
– Lênin. Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm chủ nghĩa
duy vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã đưa ra hai phát kiến vĩ
đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát kiến
ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”. Có thể nói, chủ nghĩa xã hội khoa học không
thể có cơ sở vững chắc nếu không dựa trên chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá
trị thặng dư cùng những thành tựu khoa học của nhân loại. Chủ nghĩa xã hội khoa học
ra đời không phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học. NỘI DUNG
I. Sự hình thành của chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội – chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã viết ba phần:
“triết học”, “kinh tế chính trị” và “chủ nghĩa xã hội khoa học”. V.I.Lênin, khi viết tác
phẩm “Ba nguồn gốc và ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác”, đã khẳng định: “Nó là
người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà con người đã tạo ra hồi
thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp”.
2. Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học
a. Điều kiện kinh tế xã hội 2 lOMoAR cPSD| 23022540
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được những
bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Đó là nền đại công nghiệp phát triển làm
cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có bước phát triển vượt bậc. Cuộc cách mạng
khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát
triển mạnh mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
bộc lộ mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày
càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà dân
chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để đề ra lý
luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng
thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng chính
trị độc lập với những yêu sách kinh tế, chính trị riêng của mình. Phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ chức và trên quy mô rộng
khắp. Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân
thành phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844;
phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848. Những phong trào đó có tính quần chúng
và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra yêu cầu bức
thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng. ó là những điều kiện
kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời để thay thế các trào
lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, không còn có khả năng đáp
ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đồng thời chủ
nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
b. Những tiền đề khoa học tự nhiên – tư tưởng lý luận
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen và
T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); định luật bảo toàn và chuyển
hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học cổ điển Đức
(Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít,
Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán (H. Xanhximông, S. Phuriê,
R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra những tiền đề
tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ nghĩa xã hội khoa học
nói riêng. Tuy vẫn còn một số hạn chế trong tư tưỡng xã hội như: không phát hiện ra
được quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người nói chung và chủ nghĩa tư
bản nói riêng, không chỉ ra được những biện pháp hiện thực cải tạo xã hội áp bức bất
công, không tìm được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo ra xã hội 3 lOMoAR cPSD| 23022540
mới… song những giá trị khoa học công hiến của các nhà tư tưởng đã tạo ra đã góp phần
lớn giúp C.Mác và Ph.Ănghen kế thừa những hạt nhân hợp lý, lộc bỏ những bất hợp lý
xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học.
II. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học
1. C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học (1848 – 1895)
Sau “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen tiếp tục bổ sung,
phát triển thêm nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Thông qua thực tiễn đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân và phong trào cộng sản, đặc biệt là cuộc đấu
tranh giai cấp ở Pháp và Đức trong thời kỳ 1848 – 1851, qua theo dõi, chỉ đạo và tổng
kết kinh nghiệm của Công xã Pari (1871), hai ông đã viết nhiều tác phẩm và thông qua
các tác phẩm, hai ông đã nêu lên những luận điểm hết sức quan trọng, làm phong phú
thêm chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là những luận điểm sau:
+ Giai cấp công nhân chỉ có thể chiến thắng giai cấp tư sản trên cơ sở đập tan bộ máy
nhà nước tư sản và kịp thời trấn áp những hành động phục hồi của chúng.
+ Cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản và bản thân nền chuyên
chính đó cũng chỉ là bước quá độ để tiến lên xây dựng một xã hội không có giai cấp +
Giai cấp công nhân chỉ có thể giành được thắng lợi khi có được sự lãnh đạo của một
chính đảng được vũ trang bằng lý luận khoa học.
+ Liên minh công – nông là điều kiện cần phải có để đưa cách mạng đến thắng lợi. +
Trình bày về tư tưởng cách mạng không ngừng: về chiến lược, sách lược đấu tranh giai
cấp của giai cấp công nhân; về sự lựa chọn các phương pháp và hình thức đấu tranh
trong từng thời kỳ phát triển cách mạng; về các vấn đề xã hội – chính trị mà cách mạng
xã hội chủ nghĩa phải giải quyết;…
2. V. I. Lênin phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học trong hoàn cảnh lịch sử mới
Vlađimia Ilich Lênin (1870 – 1924) là người kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp
vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăngghen. Ông vừa bảo vệ sự trong sáng, vừa phát triển toàn
diện và làm giàu thêm lý luận chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, chủ nghĩa tư
bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ông là người mácxít đầu tiên vận dụng
một cách sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học vào thực tiễn đấu
tranh xây dựng chính quyền cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
cải tạo xã hội cũ và bắt đầu xây dựng một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa hiện
thực. Ông là lãnh tụ của giai cấp công nhân Nga và quốc tế, người sáng lập Đảng Cộng
sản Liên Xô và Nhà nước Xôviết.
Những đóng góp to lớn của V.I.Lênin trong sự bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát
triển Chủ nghĩa xã hội khoa học có thể khái quát qua hai thời kỳ cơ bản: 4 lOMoAR cPSD| 23022540
Trước Cách mạng Tháng Mười Nga
Trên cơ sở những di sản lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đã xây
dựng một hệ thống lý luận mang tính nguyên tắc cho các đảng mácxít kiểu mới của giai
cấp công nhân. Đó là những lý luận về chuyên chính vô sản; về chính đảng kiểu mới, về
liên minh công – nông, về sự chuyển biến cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga
Với yêu cầu của cộng cuộc xây dựng chế độ mới, V. I. Lênin phân tích và làm rõ
nội dung, bản chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về mối quan hệ giữa phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc vơi phong trào đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân; về những vấn đề mang tính quy luật của sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội; về vai trò của quần chúng,…
III. So sánh chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học
1. Chủ nghĩa xã hội không tưởng
Có thể thấy sự hình thành và phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa là một dòng
chảy liên tục của lịch sử nhân loại. Tư tưởng xã hội xuất phát từ những ước mơ lâu đời
trong quá trình đấu tranh giai cấp của đông đảo người lao khổ, nạn nhân của chế độ
người áp bức về một xã hội công bằng bình đẳng và con niệm về những con đường giải
pháp và những điều kiện tiến tới xã hội tương lai tốt đẹp.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng là một hệ thống các tư tưởng, các hoạt các học
thuyết phản ánh ước mơ, khát vọng của con người về xã hội tương lai tốt đẹp, nhưng có
tính chất không tưởng thể hiện ở chỗ nó không chỉ ra được con đường và lực lượng xã
hội cũng như điều kiện và phương thức để thực hiện ước mơ khát vọng đó. Tuy nhiên
chủ nghĩa xã hội không tưởng lại có một giá trị vô cùng to lớn, làm nền tảng để các nhà
triết học phát triển thành khoa học, thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Những tư tưởng
về chủ nghĩa xã hội không tưởng được xuất hiện từ thời kỳ cổ đại được phát hiện và trở
thành một học thuyết vào thời kỳ hình thành chủ nghĩa tư bản và phát triển tới đỉnh cao
là chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán đầu thế kỷ XIX với các nhà tư tưởng tiêu biểu
Cơlôđơ Hăngri Đơ Xanh Xi-mông (1796 – 1825) và Sac-lơ Phu-ri-ê ở Pháp (1772 –
1873), Rô-bơ O-oen ở Anh (1771 – 1858). Chủ nghĩa xã hội không tưởng đã đánh dấu
một bước tiến quan trọng trong lịch sử loài người chính nó đã để lại cho chủ nghĩa mác
một di sản tư tưởng giá trị, những điều tiên đoán quan trọng về đời sống xã hội và sự
phát triển của xã hội. Vì vậy chủ nghĩa xã hội không tưởng được các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin thừa nhận là một trong ba nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa mác
là tiền đề tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học. 5 lOMoAR cPSD| 23022540
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội không tưởng không tránh khỏi những hạn chế và tiêu
cực. Với những mức độ khác nhau, các trào lưu không tưởng chỉ mới phê phán chủ nghĩa
tư bản, lên án tình trạng bất công và những thảm hoạ do nó gây ra, mà không giải thích
được nguồn góc kinh tế sâu sa của tình trạng ấy. Những nhà không tưởng có ý thức bênh
vực lợi ích của những người lao động, nhưng chưa thấy vai trò lịch sử của giai cấp vô
sản. Họ muốn đứng trên các giai cấp, nhân danh toàn xã hội để mưu giải phóng toàn xã
hội. Nhiều người cho rằng xã hội đầy rẫy xấu xa vì chưa phát hiện chân lí tuyệt đối và
vĩnh cửu để có thể thuyết phục và cảm hoá mọi người, không phân biệt giai cấp và giàu
nghèo. Phần đông những nhà không tưởng tách rời học thuyết của họ với phong trào
quần chúng. Họ không nhận thức rõ lực lượng của quần chúng. Trái lại, họ muốn đi tìm
một sức mạnh tinh thần làm chỗ dựa cho công cuộc cải tạo xã hội. Nhiều người mong
muốn cải tạo xã hội bằng những cải cách dần dần, bằng giáo dục, chứ không phải bằng
đấu tranh cách mạng. Về cơ bản họ vẫn đứng trên lập trường duy tâm về lịch sử.
Tính chất không tưởng của chủ nghĩa xã hội trước chủ nghĩa Mác chủ yếu là do
những điều kiện lịch sử quy định. Trong hoàn cảnh phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa chưa phát triển đầy đủ , mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản chưa
chín muồi thì mọi lí thuyết về chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể chín muội. Đến những
năm 40 của thế kỉ XIX , mọi trào lưu xã hội chủ nghĩa không tưởng đều trở thành lạc
hậu , bảo thủ hoặc phản động, vì cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư
sản đã diễn ra với quy mô rộng lớnvà đã có những hình thức rõ rệt , đòi hỏi phải có một
lí luận cách mạng khoa học soi đường . Chính Các-Mác và Ph. Ăng-ghen là những người
đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách đó của phong trào giai cấp vô sản.
2. Chủ nghĩa xã hội khoa học
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ngày càng mang lại cho giai cấp công nhân
nhiều đau khổ. Cho nên, từ đầu thế kỉ XIX, một số người tiến bộ đương thời như Xanh
Xi-mông và Sac-lơ Phu-ri-ê ở Pháp , Rô-bơ O-oen ở Anh, mơ ước xây dựng một xã hội
công bằng, không có áp bức bóc lột, không có cạnh tranh và đem lại hạnh phúc cho mọi
người . Cách làm của họ không phải bằng hành động chính trị, bằng hoạt động cách
mạng mà bằng cách tuyên truyền và thực hiện những tổ chức xã hội do họ nghĩ ra. Những
thí nghiệm của những nhà cải cách xã hội ấy đều đi đến thất bại. Người ta gọi đó là
những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng.
Trong thực tế xã hội hồi đó, công nhân vẫn không ngừng đấu tranh chống lại sự
áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, từ hình thức thô sơ nhất là đập phá máy móc đến
những hình thức đấu tranh có tính chất quần chúng rộng rãi, như cuộc khởi nghĩa của
công nhân Ly -ông ở Pháp năm 1831 và 1834, phong trào “ Hiến chương” ở Anh ( 1836-
1847 )... Nhưng cho đến giữa thế kỉ XIX , họ còn thiếu ý thức giác ngộ giai cấp rõ rệt, 6 lOMoAR cPSD| 23022540
cuộc đấu tranh của họ còn thiếu tổ chức, thiếu lãnh đạo và thiếu một đường lối chính trị
rõ ràng, chính xác. Nói cách khác là giai cấp công nhân còn thiếu một lý luận tiền phong
và một chính đảng để hướng dẫn họ đấu tranh một cách có ý thức, có tổ chức để giành
thắng lợi. Chính Mác và Ăng-ghen là những người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, những
người đầu tiên sáng tạo lí luận tiền phong và chính đảng tiền phong của giai cấp vô sản
trên thế giới. Mác và Ăng-ghen đã dựa vào những kiến thức khoa học của nhân loại tích
luỹ từ hàng nghìn năm, đã đúc kết những kinh nghiệm của phong trảo công nhân quốc
tế, đã nghiên cứu một cách chính xác những quy luật phát triển của xã hội loài người và
chỉ cho giai cấp công nhân con đường đấu tranh.
Chủ nghĩa khoa học không tưởng và chủ nghĩa khoa học xã hội đều giống nhau
về mặt tư tưởng xã hội chủ nghĩa là những ước mơ lâu đời trong quá trình đấu tranh giai
cấp của đông đảo người lao khổ, nạn nhân của chế độ người áp bức về một xã hội công
bằng bình đẳng và con niệm về những con đường giải pháp và những điều kiện tiến tới
xã hội tương lai tốt đẹp không có áp bức bất công, mọi người đều được sống ấm no hạnh
phúc. Họ nhận thức được áp bức bóc lột là nguồn gốc của nghèo khổ và bóc lột không
công bằng, vì thế họ phê phán chế độ tư hữu, bày tỏ sự cảm thông sâu sắc và bênh vực
người nghèo khổ. Tuy nhiên trong khi chủ nghĩa xã hội không tưởng không nhận thức
được sự cần thiết của việc cải tạo xã hội triệt để bằng cách mạng xóa bỏ bóc lột và thống
trị của chủ nghĩa tư bản cũng như vai trò và sứ mệnh của lịch sử của giai cấp công nhân,
chủ nghĩa khoa học xã hội đã vạch ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường
cách mạng, giải phóng lực lượng xã hội là giai cấp vô sản, và vạch trần bản chất bóc lột
của chủ nghĩa tư bản là chiếm đoạt giá trị thặng dư của người công dân.
IV. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng ta chủ trương tăng cường bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng, thì việc nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung cơ
bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tư
tưởng của Đảng, nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là một tất yếu.
Ở Việt Nam do những đặc điểm lịch sử quy định, giai cấp công nhân ra đời và
phát triển gắn bó mật thiết với nông dân và các tầng lớp lao động khác cho nên trong
quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo và phát
triển phù hợp với xu thế của thời đại và nhu cầu, khát vọng của dân tộc: Đảng chủ trương
tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo,
lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức,... đi vào phe 7 lOMoAR cPSD| 23022540
vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt
phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ.
Những đóng góp, bổ sung và phát triển cũng như sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
xã hội khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta có thể tóm tắt trên một số vấn đề cơ bản sau:
+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một tính quy luật của cách mạng
Việt Nam, trong điều kiện thời đại hiện nay;
+ Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế vói đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh
tế làm trung tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, đảm bảo giữ vững sự ổn định
chính trị, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội;
+ Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tăng cường
vai trò quản lý của Nhà nước. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng, phát
triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội. Đây được xem như một nội dung
cơ bản, thể hiện sự ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa. Xây dựng phát triển kinh tế phải
đi đôi với giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;
+ Mở rộng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của mọi giai
cấp và tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc và tôn giáo, mọi công dân Việt Nam
ở trong nước hay ở nước ngoài, tạo cơ sở xã hội rộng lớn và thống nhất cho sự nghiệp
xây dựng chế độ xã hội mới;
+ Tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, khai thác mọi
khả năng có thể hợp tác nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
+ Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố quan
trọng hàng đầu bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khâu then chốt để đảm bảo tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng là phải coi trọng công tác xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện từ xưa
đến nay đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ,
vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Nước ta
từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ, bị bóc lột, áp bức đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Hơn nữa, đất nước ta đã ra khỏi tình
trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có 8 lOMoAR cPSD| 23022540
quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Thành quả to lớn ấy, chính là nhờ vào sự vận dụng một cách sáng tạo và phát triển những
tư tưởng vĩ đại đặc biệt là luận điểm của Ăngghen: “Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành
khoa học, phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực” trong tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
phù hợp với xu thế vận động, biến đổi của thời đại và khát vọng cũng như nhu cầu của dân tộc. 9 lOMoAR cPSD| 23022540 KẾT LUẬN
Sự kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật lịch sử với duy vật biện chứng, giữa kinh tế
với chính trị trong nhận thức bản chất của xã hội tư bản, cùng với bộ óc thiên tài, ta thấy
xã hội đang phát triển đúng như luận điểm của Ăngghen: “Chủ nghĩa xã hội muốn trở
thành khoa học, phải đặt nó trên mảnh đất hiện thực”. “Mảnh đất hiện thực” ở đây có
thể hiểu như cơ sở thực tiễn. Ăngghen đã chỉ rõ: muốn cho chủ nghĩa xã hội trở thành
khoa học thì phải đặt nó đứng vững trên mảnh đất hiện thực, từ khi nó trở thành khoa
học thì phải đối xử với nó như mọi khoa học nghĩa là phải nghiên cứu nói trên mọi chi
tiết. Bên cạnh đó con nhìn nhận chủ nghĩa xã hội như một cơ thể sống, nó tất yếu phải
thường xuyên biến đổi, phải đổi mới và phát triển. Người lao động khổ luôn mong muốn
thoát khỏi sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản để sống một cuộc sống công bằng.
Việc C.Mác và Ăngghen dùng kinh nghiệm của mình và vận dụng tốt những thành tựu
khoa học của loài người hàng nghìn năm qua vào “mảnh đất hiện thực”, đã đưa xã hội
loài người lên một bước phát triển mới, giúp người dân thoát khỏi giai cấp bóc lột bất
công bất lâu nay và mở ra con đường đấu tranh cho giai cấp công nhân. Vì thế không ai
có thể phủ nhận rằng sức sống bền vững của chủ nghĩa Mác Lênin là nguồn động lực
cho nhiều quốc gia trên thế giới và nhân loại chính thức có một hệ thống các quan điểm
khoa học và thực tiễn. Quan điểm trên được xem như một cách nhìn động chứ không
tính, mở chứ không khác vì chủ nghĩa xã hội do mác ăn ghen nêu ra là phù hợp trong
giai đoạn hiện nay. Các nguyên lý đó đòi hỏi phải được vận dụng một cách sáng tạo vào
điều kiện lịch sử cụ thể ở từng nơi từng lúc. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia
tiếp thu và truyền bá tư tưởng cách mạng giúp phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động nhận thức và hành động, chuyển từ trạng thái mộng tưởng sang
bừng tỉnh để bước lên vũ đài chính trị với vai trò là một giai cấp cấp tiến nhất của xã hội loài người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995
Hồ Chí Minh, Toàn tập: t. 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011
(2) Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hôi Khoa Học bậ c Đại học cho sinh viên các trường Đạị
học (chuyên và không chuyên)
(3) Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần tứ XI, NxbChính
trị quốc gia, Hà Nội, 2011 10