Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền | Bài tập nhóm môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----- ----- BÀI TẬP NHÓM
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài : Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một đảng cầm
quyền. Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn đảng ta thật trong
sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
GV hướng dẫn: Cô Nguyễn Thùy Linh
Nhóm thực hiện: Nhóm 03
Hoàng Minh Hằng - 11205175
Phạm Thị Vân Anh - 11200346
Nguyễn Trường Giang – 11201114
Nguyễn Hồng Hưng – 11201691
Nông Đình Nam – 11202685
Đỗ Đức Sơn - 11206776 Hà Nội 9/2022 lOMoAR cPSD| 45568214 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................................2
NỘI DUNG .....................................................................................................................................3
I. Cơ sở của luận điểm ...................................................................................................................3
II. Phân tích nội dung của luận điểm ...........................................................................................4
1. Về luận điểm “Đảng ta là một đảng cầm quyền” ............................................................4
2. Về luận điểm “Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” .........................................................................4
3. Về luận điểm “Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” ........................................................6
III. Ý nghĩa của luận điểm ............................................................................................................6
1. Về luận điểm “Đảng ta là một đảng cầm quyền” ............................................................6
2. Về luận điểm “Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư” .........................................................................6
3. Về luận điểm “Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” ........................................................7
IV. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay ......................................................................................7
KẾT LUẬN...................................................................................................................................10 MỞ ĐẦU
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, nhân dân ta đã đập tan chế độ thực dân phong
kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà đỉnh cao
là chiến thắng Ðiện Biên Phủ, Ðại thắng Mùa Xuân 1975 giải phóng dân tộc, thu non sông về một mối.
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại, người thầy kính yêu của Đảng và dân
tộc Việt Nam đã ra đi mãi mãi. Người đã để lại cho thế hệ sau một kho tàng kiến thức, văn hóa vĩ
đại trong đó bao gồm Bản Di chúc lịch sử. Bản Di chúc là tài sản vô giá chứa đựng những tinh
thần, tư tưởng, lý luận khoa học, cách mạng trên nhiều lĩnh vực.
Nhận thức đúng tầm vóc, giá trị, uy tín, vị thế và sứ mệnh của một đảng cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh kính yêu đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”. Lời căn dặn sâu sắc, đầy tính nhân văn của Người đã trở thành lẽ sống, phương châm
hành động, nền tảng tư tưởng và là cơ sở để Đảng tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và chỉnh
đốn, làm trong sạch nội bộ, giữ vững niềm tin và lòng kính trọng đối với nhân dân. Đồng thời, đề
ra chủ trương, đường lối đúng đắn, nâng cao năng lực lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng để
thực hiện khát vọng phát triển, đổi mới, sáng tạo, sớm đưa nước ta trở thành nước phát triển, có
thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 45568214 NỘI DUNG
I. Cơ sở của luận điểm
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức Cách
mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động Cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức Cách mạng cho cán bộ, Đảng viên và nhân dân.
Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức.
Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp Cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người Cách mạng, coi đó
là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người Cách mạng phải có đạo đức Cách mạng làm
nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ Cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người Cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức
mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hay thất bại, đều
do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối
hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng “Có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng
có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết
hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng.
Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức Cách mạng được bắt nguồn từ truyền
thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đã được hình thành hàng ngàn năm suốt chiều
dài lịch sử dân tộc và kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân
loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức Cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, với tư
duy độc lập và sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế
thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới, phù hợp
với yêu cầu của Cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Thông qua các tác phẩm, các bút tích
gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, chúng ta có
thể nhận thấy trong lĩnh vực đạo đức Cách mạng, Người thường sử dụng nhiều khái niệm, phạm
trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước Công nguyên; hay các khái niệm tự
do, dân chủ, bình đẳng, bác ái… xuất hiện tại Tây Âu từ thời Hy-La cổ đại. Song Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã "Việt Nam hóa" thành các khái niệm đơn giản dễ hiểu, dễ thực hiện và gần gũi hơn với
cán bộ và nhân dân lao động.
Bác luôn coi trọng đạo đức Cách mạng làm gốc, làm nền tảng của người Cách mạng vì: Hồ
Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người Cách mạng cũng như gốc của cây, ngọn nguồn của
sông suối. Người Cách mạng phải có đạo đức Cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ Cách mạng.
Đạo đức là gốc là nền tảng vì nó liên quan đến Đảng cầm quyền Đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội,
nếu không tu dưỡng và rèn luyện thì mặt trái của quyền lực sẽ làm tha hóa con người. Vai trò của
đạo đức còn thể hiện là lòng cao thượng của con người, mỗi người có công việc, tài năng, vị trí
khác nhau nhưng ai giữ được đạo đức Cách mạng thì là người cao thượng. lOMoAR cPSD| 45568214
II. Phân tích nội dung của luận điểm
1. Về luận điểm “Đảng ta là một đảng cầm quyền”
Trong Di chúc bất hủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người khai sinh, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta
khẳng định và nhắc nhở: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Là lời khẳng định vì dựa trên sự thật
chân lý Đảng ta lãnh đạo toàn dân làm cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử, đưa nước ta từ
một nước thuộc địa trở thành nước độc lập có chủ quyền, đưa dân ta từ địa vị nô lệ thành người tự
do, làm chủ cuộc đời. Là lời nhắc nhở vì đó không chỉ là khẩu hiệu về vai trò, vị trí mà còn là
mệnh lệnh của trái tim, mỗi đảng viên phải làm sao để xứng đáng với Đảng, xứng đáng với niềm
tin của toàn dân tộc, của nhân dân, của cách mạng, của thời đại.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công sáng lập, dày công rèn luyện Ðảng ta. Trước khi
từ biệt thế giới này, trong bản Di chúc thiêng liêng Người căn dặn: "Ðảng ta là một Ðảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền” - là một lời khẳng định, sự nhắc nhở mà toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta phải ghi nhớ và thực hiện, bởi:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự
giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
Thứ ba, các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng được toàn dân chấp nhận (thông qua việc đại biểu của nhân
dân (là Quốc hội) đã tán thành Hiến pháp). Thực tế cho thấy, đến nay, trừ một số kẻ chống phá
Đảng ta và nhà nước ta đòi bãi bỏ Điều 4 của Hiến pháp, còn lại tất thảy đồng bào ta vẫn cho rằng
Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là lực lượng cầm quyền, lãnh đạo xã hội, đồng nghĩa với việc
hưởng ứng đi theo con đường của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, là tiến lên chủ nghĩa xã hội.
2. Về luận điểm “Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”
“Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư” - Đây là câu linh hồn, tinh túy nhất trong 43 câu di chúc của người, có tác
dụng chi phối, quyết định mọi thắng lợi của Đảng ta, của Nhân dân ta. Nó có sức mạnh bảo vệ
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trường tồn muôn năm.
Theo Người, người Đảng viên của Đảng có đạo đức cách mạng là người “đặt lợi ích của cách
mạng, của Đảng, của nhân dân trên hết”. Người nhấn mạnh: “Đó là quy tắc cao nhất của Đảng”.
Đó là “tính đảng”; tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng; “hết lòng, hết sức
phục vụ Nhân dân”; “tuyệt đối chấp hành nghị quyết và kỷ luật của Đảng”, pháp luật của Nhà
nước; giữ rất nghiêm “nguyên tắc”; “thấy khuyết điểm có gan sửa chữa” “để tiến bộ”; “gặp việc
phải có gan làm”, “cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng”; “có gan chống lại những sự vinh hoa lOMoAR cPSD| 45568214
phú quý, không chính đáng”; nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người...và đặc
biệt là “thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Đó là những đảng viên chân chính, “anh
dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau" được "dân tin, dân phục, dân yêu", dân gửi
trọn niềm tin, kỳ vọng và đó là những người làm cho kẻ thù khiếp sợ, thất bại.
Và theo Người, đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân. Đó là những đảng viên
"mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết"; không lo
“mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”; "ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô,
hủ hóa, lãng phí, xa hoa"; "tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành"; "tự cao, tự đại, coi thường
tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền"; "xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc
bệnh quan liêu, mệnh lệnh"; "không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ";
"mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng
đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân
dân"; "không phục tùng mệnh lệnh, không tuân theo kỷ luật", "làm theo ý mình"... "Chủ nghĩa cá
nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm" và do nó "mà
phạm nhiều sai lầm". Đó là những đảng viên biến chất, vô liêm sỉ, không còn xứng đáng là đảng viên.
Trong quá khứ và hiện nay, trong Đảng ta có một số đảng viên, thậm chí có đảng viên giữ trọng
trách cao trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước đã bị chủ nghĩa cá nhân mê hoặc; bị đồng tiền,
vật chất cám dỗ; bị tham vọng quyền lực cuốn hút; bị các thế lực thù địch lợi dụng, mua chuộc...
nên có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa"; vi phạm đường lối, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đã bán rẻ linh hồn của
mình cho kẻ thù. Những đảng viên đó đã bị kỷ luật hoặc bị kết án phạt tù. Biểu hiệu suy thoái, biến
chất trên của "một bộ phận không nhỏ" đảng viên đã "làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm
tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe
dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ".
Vì những lẽ và thực tế trên, lúc này hơn lúc nào hết, chúng ta cần tập trung quyết liệt hơn nữa
việc xây dựng Đảng về đạo đức theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong Di chúc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ghi rõ: "... Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng
ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân". Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, xác định: "Tập trung thực hiện
mục tiêu: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức" chính
là việc thể hiện quyết tâm chính trị thực hiện Di chúc của Bác Hồ.
Vì sao chỉ trong một câu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phải sử dụng từ "thật sự" đến hai lần? Bởi
theo Người, "Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng". "Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Và đảng
viên của Đảng "có đạo đức cách mạng thì mới hy sinh, tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được
quần chúng, đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn". Người còn nhấn mạnh thêm, "Đạo đức cách
mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư"; là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; là ham học, ham
làm, ham tiến bộ. "Đạo đức cách mạng là triệt để trung thành với cách mạng, một lòng một dạ
phục vụ nhân dân"; "quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước" lOMoAR cPSD| 45568214
3. Về luận điểm “Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
Về mặt chính trị, lãnh đạo và phục vụ là hai phạm trù có nội hàm khác nhau; người lãnh đạo
và người đầy tớ (người phục vụ) cũng có những chức trách không giống nhau. Thế nhưng, đối với
Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có thiên chức
lãnh đạo cuộc cách mạng ấy vì mục đích phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm lợi ích
cao nhất của mình, thì hoàn toàn không có một bức tường ngăn cách nào giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ phục vụ.
Ngày 3-3-1951, trong lời kết thúc buổi lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: “Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong
sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Những người mà:
Giàu sang không thể quyến rũ,
Nghèo khó không thể chuyển lay,
Uy lực không thể khuất phục.
Lãnh đạo đúng nghĩa là:
Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhât định phải so sánh kinh
nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo
của ta. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không
xong. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới
được (…) Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”
Nói chuyện với cán bộ tỉnh Hà Tây, ngày 10-2-1967, Bác chỉ rõ: “Vào Đảng là để phục vụ nhân
dân, phục vụ giai cấp, phục vụ cách mạng. Vì vậy, đã là đảng viên thì phải cố thành một đảng viên
“bốn tốt”, tức là phải hết lòng phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, làm đúng chính sách của Đảng,
nếu không thì vào làm gì? Đảng không bắt buộc ai vào Đảng cả. Vào thì có nhiệm vụ, có trách
nhiệm của đảng viên, nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào
hay khoan là hãy vào. Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu
rằng: mình vào Đảng để làm đầy tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh: làm đầy tớ nhân dân chứ không
phải là “quan” nhân dân”.
III. Ý nghĩa của luận điểm
1. Về luận điểm “Đảng ta là một đảng cầm quyền”
Mục đích của Đảng là vì quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, ngoài ra Đảng không có mục đích gì khác.
Làm cho mỗi cán bộ đảng viên có ý thức đầy đủ và đúng đắn chức năng nhiệm vụ của mình
trong hoạt động chỉ đạo của Đảng, cũng như trong suốt quá trình củng cố xây dựng đảng luôn thực
sự là một Đảng cách mạng chân chính.
Đảng đề ra đường lối, chiến lược đưa nhân dân ta đấu tranh giảnh thắng lợi trong cách mạng
giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong sạch vững mạnh chiếm vị trí đặc biệt trong toàn bộ
di sản tư tưởng của Hồ Chí Minh.
2. Về luận điểm “Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
phải cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư”
Những người đứng đầu các cấp phải là những thủ lĩnh chính trị thực thụ, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có trí tuệ, tự duy khoa học, thực sự liêm khiết. lOMoAR cPSD| 45568214
Làm cho mỗi cán bộ đảng viên hiểu đúng thực hiện tốt quan điểm chủ trương chính sách của
Đảng, giúp cho mỗi cán bộ đảng viên phát huy mặt tốt, loại bỏ mặt xấu.
Mỗi người đảng viên phải lôn giữ chọn đạo đức cách mạng, phải luôn vững vàng về mọi mặt trong mọi điều kiện
Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên có tác động mạnh mẽ tới quần chúng trong thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
3. Về luận điểm “Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
Nhân dân theo Đảng làm cách mạng trước hết là do lợi ích thiết thân của chính họ, Đảng được
nhân dân tin và một lòng theo Đảng vì trong bất cứ hoàn cảnh nào Đảng cũng toàn tâm, toàn ý
phục vụ cho nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân trên hết và trước hết.
Có ý nghĩa sâu xa đối với Đảng Cộng sản cầm quyền, đối với mỗi đảng viên cộng sản, nhất là
Đảng viên cộng sản có chức, có quyền giữ các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước.
Làm cho Đảng thực sự trong sạch vững vàng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Làm cho đội ngũ cán bộ Đảng viên không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những
yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao càng phức tạp của nhiệm vụ cách mạng.
Đối với chỉnh đốn Đảng sẽ làm cho Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư
tưởng, làm cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt Nam tiến
về phía trước vượt qua khó khan, thử thách.
IV. Liên hệ thực tiễn Việt Nam hiện nay
50 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, Di chúc của Người tiếp tục soi sáng việc nâng
cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, nhằm xây dựng “Đảng ta là một
đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Thực tiễn chỉ ra rằng, bản lĩnh, trí tuệ, niềm tin, đạo đức và năng lực cầm quyền của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trước những
khó khăn, thử thách, bước ngoặt của cách mạng, giải quyết kịp thời, hiệu quả nhiều vấn đề mới,
phức tạp nảy sinh, những lĩnh vực quan trọng, then chốt liên quan trực tiếp đến sinh mệnh của
Đảng, sự tồn vong của chế độ, lợi ích quốc gia - dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Điều đó đã
khẳng định “cái tâm, cái tầm, cái tuệ”, danh dự, uy tín và vị thế của Đảng trước toàn thể nhân dân
và dân tộc, không có đảng phái, lực lượng nào có thể thay thế.
Thời gian này, đất nước ta đang đứng trước thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề
chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, tình hình quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức
tạp; các thách thức mang tính toàn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh; những thành tựu
của tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,…
đang tác động mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc
phòng của đất nước. Trong khi đó, cán bộ, đảng viên và nhân dân đang mong muốn, đặt nhiều kỳ
vọng vào năng lực cầm quyền, lãnh đạo của Đảng cùng những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ,
quyết liệt và sáng tạo để khơi thông nguồn lực, tận dụng thời cơ, vận hội, vượt qua khó khăn, thách
thức; quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trước thực tế đó, yêu cầu nâng cao năng lực, vị thế
cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đang đặt ra những vấn đề mới, đòi hỏi phải có chủ trương, giải lOMoAR cPSD| 45568214
pháp đúng đắn, phù hợp để lãnh đạo thực hiện những nhiệm vụ to lớn, nặng nề nhưng cũng rất vẻ
vang mà nhân dân và dân tộc giao phó.
Thực hiện Di chúc của Người, nửa thế kỷ qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc biệt quan
tâm, tập trung thực hiện xây dựng và chỉnh đốn Đảng, coi đó là nhiệm vụ then chốt. Nét nổi bật
trong công tác xây dựng Đảng là Đảng chú trọng đến việc củng cố, giữ vững và phát huy sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng; nghiêm túc thực hiện và phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ; các tổ
chức cơ sở đảng được chăm lo xây dựng trong sạch, vững mạnh, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu ngày một nâng cao. Đặc biệt chăm lo xây dựng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã
chú trọng tới việc xây dựng đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tiếp đó, với thái độ nghiêm
túc và quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII
về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã nhận diện
đúng và lần đầu tiên chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội
ngũ cán bộ, đảng viên và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xem xét, đối chiếu những
biểu hiện cụ thể này hoàn toàn thuộc về tư cách, đạo đức cách mạng đã được Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc.
Từ chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên “phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, việc nhận diện và chỉ ra
những hạn chế, khuyết điểm để mau chóng sửa chữa làm cho Đảng “mạnh khỏe, chắc chắn” là hết
sức cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở chỉ ra
27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra mục tiêu, quan điểm và đặc biệt lựa chọn
4 nhóm nhiệm vụ với 29 giải pháp hết sức cụ thể để đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những khuyết
điểm, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân
đối với Đảng. Cùng với đó, Đảng còn ban hành Quy định số 08- QĐ/TW về “Trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương”.
Để nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng xây dựng và
chỉnh đốn Đảng trong Di chúc của Người, các tổ chức Đảng, trước hết là các cấp ủy, người đứng
đầu tổ chức và mỗi cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, nâng cao chuẩn mực về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên.
Đây là một trong những nội dung cơ bản, xuyên suốt, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong
xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm trọn
nhiệm vụ cách mạng được”(9). Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng cần làm tốt việc giáo dục nâng cao
nhận thức, trách nhiêm của cán bộ, đảng viên để mỗi tổ chức đảng thực sự là đạo đức,̣ là văn minh.
Bằng nhiều biện pháp linh hoạt, sáng tạo như: Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục của tổ chức với tự
giáo dục của từng cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải thường xuyên học tập, nghiên cứu
nắm vững các nghị quyết, chỉ thị, quy định của các cấp ủy đảng. Thực hiện có nền nếp, chế đô sinh
hoạt đảng, đề cao tự phê bình và phê bình. Cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiệṇ đúng các chế độ và
cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin cần thiết cho cán bộ, đảng viên, nhất là về kết quả lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ ở cơ quan, đơn vị. Chủ động phát hiện và đấu tranh với những nhận thức lệch
lạc, quan điểm sai trái; ngăn ngừa và khắc phục kịp thời những biểu hiện thiếu trách nhiệm trong lOMoAR cPSD| 45568214
thực hiên nhiệ m vụ. Đồng thời, phát huy trách nhiệ m tự bồi dưỡng, tự̣ rèn luyên nâng cao trình
độ mọi mặt của cán bộ, đảng viên bằng kết quả thực hiện nhiệm vụ.̣
Hai là, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng”(10). Do đội ngũ cán bộ, đảng viên là người trực tiếp thực hiện
nghị quyết của Đảng, cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp cần phải thường xuyên coi trọng nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, gắn xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý. Tập trung lãnh đạo, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị
quyết về công tác cán bộ và chính sách cán bộ. Thường xuyên rà soát, bổ sung quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ theo đúng quy định; tăng cường giáo dục, rèn
luyện cán bộ, đảng viên toàn diện, nhất là bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị và khả năng vận
dụng linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên trên tất cả
các mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật và các mối quan
hệ xã hội. Chú trọng rèn luyện cán bộ, đảng viên thông qua hoạt động thực tiễn. Kết hợp đánh giá,
phân loại chất lượng, khen thưởng, bố trí, sử dụng và thực hiện đúng chính sách cán bộ. Đồng thời,
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ không chỉ ở nhà trường mà còn ở ngay
từng cơ quan, đơn vị. Có như vậy mới nâng cao chất lượng hiệu quả công tác của cán bộ, đảng
viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Ba là, cán bộ, đảng viên thấm nhuần đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm chính, chí công vô
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”(11). Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục giáo dục, nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, suốt đời cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân. Đưa việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh phải trở thành công việc thường
xuyên, hàng ngày của mỗi tổ chức, cá nhân, đơn vị với nhiều nội dung phong phú và thiết thực,
gắn với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Đổi mới phong cách làm việc, nói đi đôi
với làm, thực hiện nghiêm túc quy định về những điều đảng viên không được làm. Động viên,
khuyến khích các tổ chức, cá nhân tích cực phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và hành vi tiêu cực,
tham nhũng, lãng phí để mỗi tổ chức đảng thực sự là đạo đức, là văn minh.
Bốn là, cán bộ, đảng viên tích cực, chủ động, rèn luyện mọi lúc, mọi nơi.
Trước hết, cán bộ, đảng viên tích cực, chủ động, rèn luyện về lập trường, tư tưởng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”(12); “Chi bộ tốt là do các đảng
viên đều tốt”(13). Vì vậy, muốn xây dựng chi bộ tốt nhất thiết phải bồi dưỡng lập trường vô sản
cho đảng viên, phải có ý thức giai cấp, đồng thời phải có lý luận cách mạng. Cho nên, cần phải
chỉnh đốn Đảng, trong đó, coi trọng khâu kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, theo đó “những
phần tử xấu phải xử trí đúng mức: Cần đuổi ra khỏi Đảng thì đuổi ra, cần cách chức thì phải cách
chức”(14). Cán bộ, đảng viên tích cực, chủ động, rèn luyện về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
trong tổ chức đảng. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng là nội dung cơ
bản trong công tác xây dựng đảng, nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng, hiệu quả lãnh đạo lOMoAR cPSD| 45568214
thực hiện nhiệm vụ chính trị, là cơ sở để xây dựng Đảng thực sự là đạo đức, là văn minh. Trước
hết, các cấp ủy đảng cần nâng cao năng lực cụ thể hóa và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ
thị của Đảng. Phải thường xuyên củng cố, kiện toàn cấp ủy đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Coi trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, gắn xây
dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ đầu ngành,
người đứng đầu các cấp. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, đảng viên. Đổi
mới phương pháp, tác phong công tác của cấp ủy, tổ chức đảng đối với việc bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên. KẾT LUẬN
Nửa thế kỷ qua, Di chúc của Hồ Chí Minh luôn đồng hành với Đảng, với nhân dân, soi
sáng cho cách mạng Việt Nam trên hành trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc. Trong tiến trình lịch sử ấy, dưới ánh sáng của Di chúc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
không ngừng xây dựng và chỉnh đốn Đảng; đặc biệt là chăm lo, nâng cao đạo đức cách mạng cho
đội ngũ cán bộ, đảng viên, để họ thật sự xứng đáng là “người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân”. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã luôn tiên phong, gương mẫu,
lãnh đạo nhân dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc
và hiện nay là đổi mới toàn diện đất nước, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Thành tựu của công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội hôm nay là minh chứng hùng hồn khẳng định tính chân lý về con đường độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc; đã và đang từng
bước hoàn thành ước nguyện cuối cùng trong Di chúc của Người về khát vọng xây dựng một nước
Việt Nam độc lập, giàu mạnh, sánh ngang với các cường quốc năm châu.