Phân tích luận điểm của Hồ Chi Minh: Nước độc lập mà không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí làm gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phân tích luận điểm của Hồ Chi Minh: Nước độc lập mà không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí làm gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN --------***--------
BÀI TẬP LỚN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chi Minh: Nước độc lập mà không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí làm gì. Làm rõ ý
nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay…
Họ và tên SV: Nguyễn Văn Lợi
Lớp tín chỉ:Tư Tưởng Hồ Chí Minh _ 02 Mã SV: 11202344
GVHD: GS.TS Nguyễn Hồng Sơn lOMoAR cPSD| 23022540 HÀ NỘI, NĂM 2022 A. M Đ ẦẦU
........................................................................................................3 B. NI DUNG
.....................................................................................................4
I. Khái quát chung.............................................................................................4
II. Quan đim ca C.Mác và Lênin vêề đc lp dân tc
.....................................5 III. T t ng
Hồề Chí Minh vêề đc lp dân tc: ..............................................6 IV. Ý nghĩa ca t t ng
Hồề Chí Minh vêề đc lp dân tc vi Vit Nam ta
ngày nay............................................................
.............................................11
V. Liên h vi thc têễn Vit Nam
..............................................................13
C. KẾẾT THÚC.....................................................................................................18 lOMoAR cPSD| 23022540 A. MỞ ĐẦU
Từ trước tới nay, độc lập dân tộc luôn là một mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia,
dân tộc, đặc biệt là các dân tộc nhỏ hay chịu xâm lược áp bức bóc lột. kinh nghiệm lịch sử
cho thấy, sự tồn vong và phát triển của mỗi dân tộc đều gắn liền với việc giành và giữ gìn
nền độc lập của mình. Sống trong độc lập luôn là nguyện vọng thiết tha, chính đáng của
các dân tộc trên thế giới.
Chúng ta – lớp thế hệ trẻ hôm nay may mắn được sinh ra khi Đất nước không còn
chiến tranh, lớn lên khi đã bình yên tiếng súng và cũng chỉ hiểu được phần nào lịch sử dân
tộc qua những thước phim, trang báo. Song, mỗi người dân Việt Nam hôm nay đã thấu hiểu
giá trị to lớn của nền độc lập dân tộc qua những tác phẩm văn học như 3 bản tuyên ngôn
nghệ thuật hay những lớp người đi trước đã ra đi, đã hoá thành những hàng bia trắng, những
bài ca đi cùng năm tháng và hơn thế nữa đã hoá thành quê hương đất nước. Và để rồi khi
nghe Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được vang lên chúng ta như
được tái sinh một lần nữa. Xong, liệu rằng độc lập đối với một đất nước đã đủ hay chưa và
liệu có phải là mục đích duy nhất, cuối cùng mà chúng ta muốn hướng đến. Độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội là những vấn đề quan trọng được thể hiện rõ ràng và xuyên suốt
quá trình hoạt động Cách mạng của Chủ tịch, Người khẳng định: “Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.”
Em xin được phân tích luận điểm trên dựa vào cơ sở mối quan hệ giữa độc lập dân
tộc phải gắn với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng
thời làm rõ ý nghĩa luận điểm đối với nước ta hiện nay B.NỘI DUNG I. Khái quát chung
Dân tộc Việt Nam có lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm. Các thế hệ người
Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để bảo vệ nền độc lập của mình mỗi khi tổ quốc bị
xâm lăng. Đặc biệt cuộc đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng ta trong những
năm cuối của nửa đầu thế kỉ XX mà đỉnh cao là cách mạng tháng 8 năm 1945 đx đưa Việt lOMoAR cPSD| 23022540
Nam trở thành tiên phong trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc
địa. Chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” không những thể hiện một cách sinh
động nhân sinh quan của dân tộc Việt Nam, mà còn góp phân thức tỉnh nhân dân lao động
ở một loạt các nước thuộc địa ở các châu Á, châu Phi, châu Mỹ La Tinh đứng lên tự giải
phóng mình. Quyền hưởng độc lập và quyết tâm bảo vệ quyền thiêng liêng đó của dân tộc
Việt Nam được cha ông ta khẳng định qua bài thơ của Lý Thường Kiệt – bản tuyên ngôn
độc lập đầu tiên của đất nước, qua khúc khải hoàn Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
Một lần nữa quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm đó được Hồ Chí Minh khẳng định một
cách đanh thép: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam đã quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng, đánh đổi cả mấy xương để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Không chỉ có vậy, đối với dân tộc ta ngày nay, độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân dân ta
giương cao trong suốt tiến trình cách mạng. Tại Đại hội lần thứ Ĩ, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã nhấn mạnh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Lựa chọn con đường đi theo chủ nghĩa xã hội sau khi đã giành được độc lập là sự lựa chọn
đúng đắn của dân tộc trong thời đại ngày nay, phù hợp với quy luật khách quan và xu thế
phát triển của lịch sử xã hội. Bởi vì, chỉ có CNXH mới hoàn toàn giải phóng giai cấp , giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới xóa
bỏ căn nguyên sâu xa của tình trạng bóc lột người và đưa dân tộc tới sự phồn vinh về kinh
tế, sự phát triển phong phú về văn hóa mới thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân.
II. Quan điểm của C.Mác và Lênin về độc lập dân tộc
1. Quan điểm của C.Mác:
C.Mác đã xây dựng học thuyết cách mạng, khoa học và nhân đạo để giải phóng giai
cấp, xã hội và con người. Đó là chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.
Mục tiêu cao nhất là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tiến tới giải phóng con
người một cách triệt để nhất. Chủ nghĩa xã hội từng bước hiện thực hoá qua thực tiễn sự
nghiệp giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột giữa người và người và tiến tới
mục tiêu cao cả: “biến con người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do”, tạo nên
một liên hiệp trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người “. Giải phóng áp bức về kinh tế là một trong những cách giải phóng
con người triệt để. Có thể nói, những cuộc cách mạng trước đây vốn chỉ mang tính chất
chính trị, nhằm kết thúc bằng việc lật đổ sự thống trị của giai cấp này và thay thế bằng sự lOMoAR cPSD| 23022540
trị vì của giai cấp khác. Do vậy, giai cấp bị trị sẽ mãi mãi không được độc lập, tự do và
luôn trong vòng xiềng xích nô lệ. Hơn hết, việc thay đổi vị trí của người lao động đối với
tư liệu sản xuất là việc cần thiết trước mắt hơn cả hay rõ ràng là việc thay đổi chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản thành chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa với những phương thức thích hợp. Bên cạnh đó, Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn phát
triển lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động nhằm cải thiện đời sống
của người dân. Tóm lại, C.Mác muốn xây dựng xã hội bình đẳng về tư liệu sản xuất, con
người được giải phóng. Quan điểm của Lênin:
Có thể nói, nếu như quan điểm của C.Mác tiếp cận từ góc độ lí luận thì Lênin tiếp
cận từ thực tiễn. Cách mạng Tháng Mười Nga cùng những chính sách kinh tế mà Lênin
đưa ra từ chính sách cộng sản thời chiến đến chính sách kinh tế mới, tất cả đã thể hiện rõ
điều trên. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội mới, đầu tiên ở Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời gồm
nhiều nước và đạt nhiều thành tựu to lớn sau chiến tranh thế giới thứ hai.
2. Chủ nghĩa xã hội ở các nước phương Đông:
Theo Hồ Chí Minh, tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở phương Đông đã xuất hiện từ rất
sớm và thích ứng dễ hơn ở phương Tây là quan điểm lấy dân là gốc, quan điểm công bằng,
bình đẳng về tài sản giữa những người lao động hay tư tưởng về tình yêu thương giữa con
người với nhau và đặc biệt là những người lao khổ. Bên cạnh đó là sự liên kết, hợp nhất,
đoàn kết giữa người và người trong nền nông nghiệp lúa nước từ thời xưa. Hơn nữa, vào
thế kỉ XX hầu hết các nước Châu Á đều trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương
Tây. Chủ nghĩa tư bản đã để lại những hệ quả như: tư tưởng cách mạng tiến bộ ban đầu,
hình thành cơ cấu giai cấp xã hội mới, nhất là sự thiết lập việc thống trị dã man tàn bạo ở
các nước thuộc địa đẩy đại đa số quần chúng nhân dân vào bước đường cùng. Chính chủ
nghĩa tư bản đã tạo điều kiện tiền đề cho các nước thuộc địa một sự lựa chọn đúng đắn trên
con đường đứng lên của mình.
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: lOMoAR cPSD| 23022540
1. Độc lập – Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, quốc gia bởi chính người dân
đang sinh sống, nói cách khác là có quyền tự chủ tối cao. Độc lập thường là sự giải phóng
của một quốc gia bị thống trị, đô hộ. Hoặc có thể hiểu rằng độc lập là không bị điều khiển,
cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ nghĩa thực dân, sự bành trướng hay chủ nghĩa
đế quốc.Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc.“Tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do” ( Trích “ Tuyên ngôn độc lập “ – 1945 )Có thể nói độc lập là khát
vọng lớn nhất của dân tộc thuộc địa, độc lập trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao,
quốc phòng.. Độc lập gắn với hòa bình và độc lập gắn với toàn vẹn lãnh thổ của một quốc
gia. Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH,chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Hồ Chí Minh
xác định con đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “Tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đề tới xã hội cộng sản”. Do đó, “giành được độc
lập rồi phải tiến lên CNXH..” yêu tổ quốc yêu nhân dân phải gắn bên với yêu chủ nghĩa xã
hội". Bên cạnh đó, độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí
Minh nói : “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ Quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi
muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết
đã được các đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa nhận,
thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới hội nghị Vecxai, bản
yêu sách gồm tám điều, đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam .Đầu năm 1930,
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh giải
phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo,có tư tưởng cốt lõi là độc lập tự do cho dân tộc.Người
khẳng định, độc lập dân tộc cuối cùng phải đem lại cơm no áo ấm, hạnh phúc cho người
dân. Độc lập tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân
tộc Việt Nam trong thế kỉ XX, một tư tưởng lớn trong thời đại giải phóng dân tộc.
2. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Độc lập phải đảm bảo quyền lực tối cao về đối nội, đối ngoại và suy đến cùng là phải
đảm bảo quyền tự quyết dân tộc. Độc lập dân tộc phải được thực hiện toàn diện, triệt để
trên mọi lĩnh vực. Còn nhớ khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa kết thúc, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi đến Hội nghị quốc tế ở
Versailles, Pháp (năm 1919) Bản yêu sách 8 điểm đồi độc lập cho thuộc địa, trong đó nhấn
mạnh đến dân quyền khi nếu các điểm cụ thể: “3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. Tự
do lập hội và họp hội; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do học tập
và thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tình cho người bản xứ”. lOMoAR cPSD| 23022540
Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng bộ thuộc đại Pháp hỏi mong muốn điều gì,
Nguyễn Ái Quốc trực diện đối đáp thẳng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: ĐỒng bào tôi
được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” và năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa
Lênin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao: “ tự do cho đồng bào tôi,
độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Quan điểm của Hồ Chí Minh là xây dựng Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
là Nhà nước do dân lao động làm chủ; dân có địa vị cao nhất, dân có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng nhất của đất nước. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ; bao nhiêu quyền hạn cao nhất là của
dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người ý thức rất rõ vị trí của mình trong bộ
máy nhà nước, Bác nhiều lần nhắc nhở: ở nước ta từ Hồ Chủ Tịch trở xuống là đầy tớ của
dân, dân đặt đâu thì làm đó, người Chủ Tịch là nhận sự trao quyền ủy thác của dân. Theo
HCM nhà nước do dân là dân làm chủ đất nước, nhà nước do dân và vì dân dựa vào dân.
Ngoài ra, nó còn bao hàm nội dung khác: nhân dân có quyền phê bình, kiểm tra, giám sát
các hoạt động của cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Nhà nước vì dân phải
đem lợi ích của dân đặt lên hang đầu và vì dân mà phục vụ. HCM nhấn mạnh: để thực sự
phục vụ tốt nhân dân, vì dân thì nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan
liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết các “ông quan cách mạng” ra khỏi bộ
máy nhà nước. “Độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có
quân đội riêng, không có tài chính kinh tế riêng thì…, thì độc lập dân tộc chẳng có ý nghĩa gì”.
3. Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, là quy luật tồn tại, phát triển của
dân tộc. “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lý đó không bao giờ thay đổi “Độc lập” ở Việt Nam trong cách mạng tháng Tám năm
1945 “đã giải phóng đồng bào ta khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực
dân… xây dựng cho dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hòa và thống nhất độc lập”. “Độc
lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà hi sinh tất cả
chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; dù “Chiến tranh có thể kéo dài
5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí
nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! không có gì quý hơn
độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn! lOMoAR cPSD| 23022540
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh trong suốt quá trình dựng nước và
giữ nước. Tính thần yêu nước là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt Nam. Đối với người
dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Theo Chủ
Tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ; độc lập dân
tộc phải được gắn với hạnh phúc và tự do của nhân dân; đồng thời, tự do và hạnh phúc của
nhân dân cũng chính là giá trị sâu sắc của độc lập dân tộc.
4. Quan điểm của Bác về vấn đề giải phóng con người trong đấu tranh giảiphóng
dân tộc - người dân được hưởng tự do, hạnh phúc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để con người được giải phóng, có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc thì điều tiên quyết, đất nước phải được độc lập, con người phải được tự do.
Khi Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, thống trị, khi nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng
nề, thì nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là phải giành cho được độc lập. Như vậy, cách
mạng giải phóng dân tộc là điều kiện đầu tiên và quyết định sự nghiệp giải phóng con
người, đưa con người từ thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ, giải phóng con người khỏi áp
bức dân tộc. Tuy vậy, đất nước độc lập thôi chưa đủ, nếu đất nước được độc lập mà người
dân vẫn phải sống trong cảnh lầm than, vẫn bị áp bức giai cấp thì quả thực đúng như lời
Người đã nói “độc lập cũng chẳng ý nghĩa gì”. Do vậy, bước tiếp theo của giải phóng đất
nước có phần khó khăn, phức tạp và lâu đài hơn là xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa,
giải phóng con người khỏi áp bức giai cấp, khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Vậy tự do ở đây là gì?
Nếu hiểu “độc lập” theo nghĩa là “tự mình... không phụ thuộc” thì “tự do" phải được hiểu
là "tôi được làm những gì tôi muốn”. Nếu hiểu "độc lập” là "tồn tại, nương tựa, phụ thuộc
một cách có ý thức” thì “tự do" là nhận thức những hạn chế một cách có ý thức" Đứng trên
cương vị là một quốc gia, độc lập và tự do cũng được hiểu theo cách khác. Độc lập, tự do
là những phạm trò nền tảng của việc hình thành một quốc gia mà ở đó con người tìm kiếm
được đời sống thông thường của mình, đời sống phát triển của mình và hạnh phúc của
mình. Và hạnh phúc là gì? Hạnh phúc là khi con người được thỏa mãn những nhu cầu chính
đáng và căn bản của mình, hạnh phúc là được sống đầy đủ với các quyền công dân của
mình, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước. Cụm từ độc lập -tự do-hạnh phúc
gắn liền với tên nước CHXHCN Việt Nam, đó là cái Đảng ta hướng đến, dân ta theo đuổi.
Độc lập có trước là cái thiết yếu nhất, sau đó dân phải được hưởng tự do và cái sau cùng là
dân ta phải được hưởng ấm no hạnh phúc.
Chúng ta có thể nhận thấy rõ quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn
đúng đắn khi đưa ra ví dụ về đất nước Triều Tiên – một đất nước hoàn toàn độc lập và toàn
vẹn lãnh thổ. Xong việc người dân được tự do đi du lịch quốc tế đặc biệt là Hàn Quốc là
điều bất khả thi, việc dùng wifi hay mạng quốc tế cũng đều bị cấm hoặc một điều đơn giản
nhất là có một kiểu tóc sáng tạo cũng không được phép… Liệu chúng ta có thực sự cảm lOMoAR cPSD| 23022540
thấy vui, hạnh phúc khi bị cấm những điều trên, không được đi thăm người thân bạn bè
một cách tự do, không được tiếp thu văn hoá và tin tức bên ngoài thế giới? Đây cũng chính
là ví dụ tiêu biểu cho việc độc lập phải gắn liền với tự do và hạnh phúc.
Vậy tại sao Bác lại luôn theo đuổi giá trị của Độc lập – Tự do, giá trị của nó thực sự là gì?
Thành quả vĩ đại nhất lớn lao nhất mà cách mạng tháng Tám năm 1945 đem lại là
độc lập dân tộc, là nền tảng của tự do ấm no hạnh phúc cho mỗi con người. Khát vọng dân
tộc độc lập là khái vọng ngàn đời nay, không chịu nô lệ, không chịu nước mất nhà tan cho
dù hàng vạn người Việt Nam có thể hy sinh nhưng vẫn không chùn bước, vì phía trước là
độc lập của dân tộc là tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, là toàn vẹn lãnh thổ non sông, là
hạnh phúc tự do của mỗi con người “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ”.
Bác luôn cho rằng “độc lập theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh
phúc tự do”. Bác không bao giờ chấp nhận chế độ quân chủ chuyên chế cũng như chế độ
thực dân, bởi chính chế độ đó người dân vẫn phải sống trong cảnh áp bức bóc lột, nghèo
đói lầm than, vẫn bị giam hãm, đất nước không thể phát triển được. Độc lập như vậy, thì
nào có ý nghĩa gì? Cái đích đến cuối cùng của độc lập là hạnh phúc, tự do. Người nhắn
mạnh chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mỗi người mới có có hội phát triển cái riêng, cái tôi
của mình, đó là câu trả lời cuối cùng cho chặng đường dài Cách mạng giải phóng dân tộc.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi
cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người
đều được ấm no và hạnh phúc”, chủ nghĩa xã hội là “Xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là “chống lại những
gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Chỉ khi nào xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thì lúc đó sự nghiệp giải phóng con người
mới được xem là đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Khi trả lời câu hỏi: “Chủ nghĩa xã hội
là gì?”. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự
do”, “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no”, “mục đích của chủ
nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. “Vì vậy, chính sách của
Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói,
Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng
và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phú có lỗi”. Chỉ trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, người dân mới được đảm bảo việc làm, được “sung sướng, tự do”, được hưởng thụ
các giá trị vật chất do chính họ làm ra. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
cống hiến quý giá nhất của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn cách mạng Việt
Nam.Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội làm cho nhân dân lao động thoát lOMoAR cPSD| 23022540
nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội
bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng
nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm
Hồ Chí Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ
nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành “. Người dân từ chỗ
có ăn, có mặc, có chỗ ở đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc. Tiêu biểu trong đời
sống tinh thần là phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bởi vì chủ nghĩa xã hội là do quần
chúng nhân dân tự xây dựng - là công trình tập thể của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước. Trong điều kiện đó, chỉ có phát huy quyền làm chủ của nhân dân
thì mới có sáng kiến và động lực. Nhiều lần Hồ Chí Minh khẳng định “nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu
ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân”. Đảng cầm quyền
nhưng dân là chủ và để dân làm chủ. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, dân chủ là giá trị lớn
nhất mà cách mạng do Đảng lãnh đạo đem lại cho người dân. Vì vậy, dân chủ trong chế độ
dân chủ nhân dân đến chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng.
Tóm lại độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập dân
tộc thực sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do, chủ nghĩa xã hội chỉ có
thể phát triển trên một nền độc lập dân tộc thực sự thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
IV. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
với Việt Nam ta ngày nay 1.
Kiên định mục tiêu, con đường Cách mạng Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Chúng ta luôn chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối với
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước. Quá trình
hội nhập có sự tác động lẫn nhau giữa các nước lớn với nước vừa nhỏ, giữa các nước có
thể chế chính trị - xã hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung đột về lợi ích hoặc các
âm mưu chống phá từ bên ngoài. Vì vậy, việc chủ động phát hiện từ khoảng cách xa về lOMoAR cPSD| 23022540
không gian và sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy ra là yêu cầu cấp thiết để phải
làm để có thể chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa, hóa giải các nguy cơ đó là một cách kịp
thời, hiệu quả. Phòng, chống một cách chủ động mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập
quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện, ngăn chặn kịp thời các đối tượng nước ngoài lợi
dụng kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém của ta để gây sức ép, trốn thuế, thao túng thị
trường trong nước. Đấu tranh với các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như rửa tiền,
buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm công
nghệ cao. Tăng cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và internet, có biện pháp ngăn
chặn các thế lực thù địch xâm nhập vào các trang mạng nội bộ gây thiệt hại kinh tế, phá
hoại tư tưởng. Ngăn chặn việc du nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để đảm bảo an ninh văn hóa. 2.
Phát huy sức mạnh nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Bước vào thời kỳ mới, trước hết yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán
triệt sâu sắc tư tưởng và học tập, làm theo tấm gương tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm
chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng
trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền mới do dân làm chủ. Xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân phải nắm vững mục tiêu là tôn trọng
bảo vệ, phát huy, quyền làm chủ của nhân dân, tất cả phải vì độc lập dân tộc, dân chủ tự
do, hạnh phúc của nhân dân. Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định rõ: Nhà nước Cộng Hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Tất
cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quan điểm trên càng có ý nghĩa quan trọng
trong xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân – do dân làm chủ, nhất là khi
các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ” và “nhân quyền” cũng như các thủ
đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Trong hoàn
cảnh đó tư tưởng “Không có gì quý hơn đôc lậ p, tự do” củạ Hồ Chí Minh vẫn là chân lí
của thời đại. Chúng ta càng cần đề cao cảnh giác, phát huy thế mạnh của đất nước để có
thể tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, phát triển kinh tếxã hôi mà vẫn giữ được độ c lậ p
chủ quyền dân tộ c, đem lại cuộ c sống ấm no, tự do, hạnḥ phúc cho nhân dân.
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực cho các thế hê đời sau noi theo. Tư tưởng củạ Hồ
Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành
đông của Đảng và nhân dân ta, tiếp tục soi sáng cho sự nghiệ
p đổi mới của nhân dâṇ lOMoAR cPSD| 23022540
ta trong thời đại ngày nay. Nghiên cứu và làm rõ tư tưởng đôc lậ p, tự do của Hồ Chí ̣ Minh
giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về môt khía cạnh trong tư tưởng chân thậ t mà vĩ ̣ đại của
Người, đồng thời có cái nhìn toàn diên hơn về hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.̣ Để từ đó
xác định mục tiêu phát triển đất nước với những chính sách xây dựng kinh tế xã hôi đúng
đắn, giữ vững độ c lậ p chủ quyền, đưa nước ta trở thành quốc gia ổn định vệ̀ chính trị, phát
triển về kinh tế, ngày càng có vị thế trên trường châu lục và quốc tế.
V. Liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam
1. Thực tiễn Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo, “dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước
Việt Nam độc lập, dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ
dân chủ cộng hòa”. Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam:
kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao động làm chủ xã hội và tạo ra
những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền cách mạng được
xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí mật, Đảng ta đã trở thành
Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, mặt trận Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín
lớn trong dân tộc, chính quyền cách mạng được toàn dân ủng hộ. Phong trào cách mạng
tinh thần yêu nước của nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa
tiếp tục phát triển với những hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ chính
quyền, giữ vững thành quả cách mạng.
Bên cạnh những thuận lợi do thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đem lại, nhân
dân ta và chính quyền cách mạng phải đương đầu với những khó khăn, thử thách nặng nề.
- Về kinh tế - tài chính: Nhân dân ta và chính quyền cách mạng còn phải vượtqua
những khó khăn lớn về kinh tế, đời sống xã hội. Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc
hậu lại bị thực dân Pháp và Phát xít Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nên lại
càng nghèo nàn hơn. Năng suất lúa rất thấp, nông dân lao động chiếm hơn 95% số hộ nhưng
chỉ được sử dụng không quá 40% ruộng đất. Hậu quả nạn đói cuối năm 1944 và đầu năm
1945 chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Công
nghiệp chỉ có không quá 200 nhà máy nhỏ bé, trang bị cũ kỹ, đang lâm vào đình đốn, hàng lOMoAR cPSD| 23022540
hóa khan hiếm. Tài chính quốc gia gần như trống rỗng, ngân hàng Đông Dương vẫn nằm
trong tay tư bản nước ngoài. Chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạc với hơn
một triệu đồng, trong đó có 586000 đồng tiền rách.
- Về văn hóa – xã hội: Hậu quả về mặt xã hội cũng rất nặng nề, trên 90% số
dânkhông biết chữ. Hầu hết số người được đi học chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn
dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành
thuốc. Số công chức có trình độ cao đẳng và đại học chỉ gồm vài trăm người. Thực tế đó
làm cho việc tổ chức, hoạt động của chính quyền mới gặp không ít khó khăn, lúng túng.
- Về chính trị - quân sự: Vào thời gian này, nhà nước ta mới được thành lập, thậtsự
còn non trẻ. Bộ máy Nhà nước chưa được hoàn chỉnh. Hơn nữa, lực lượng vũ trang lại
mỏng manh, rất cần bổ sung.
Bên cạnh đó còn rất nhiều vấn đề khó khăn mà đất nước ta phải đối mặt. Tuy nhiên,
nhờ áp dụng tài tình Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mọi
vấn đề đã được giải quyết. Những khó khăn, thử thách to lớn cả về quân sự, chính trị, kinh
tế và xã hội trên đây đã đặt chính quyền cách mạng và vận mệnh nước ta trong thế “ngàn
cân treo sợi tóc”. Tình hình trên đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng có đường lối
chiến lược và sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh của toàn dân mới có thể bảo vệ và
phát triển thành quả cách mạng.
- Về kinh tế - tài chính: Để giải quyết nạn đói, trước mắt Chính phủ kêu gọi
toàndân đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau qua các phong trào “hũ gạo cứu đói”, “ngày cứu đói”,…
Ngoài ra Chính phủ còn thực hiện các biện pháp tiết kiệm lương thực, cung cấp lương thực
để nấu rượu, làm quà bánh,…Để giải quyết tận gốc nạn đói, Chính phủ đề ra phải đẩy mạnh
sản xuất nông nghiệp, Chính phủ có biện pháp để hỗ trợ cho nông dân như quy định chỉ
giảm tô 25% cho nông dân, tạm cấp ruộng đất công, ruộng của bọn Việt gian phản động và
của thực dân Pháp cho nông dân cày cấy,…Về công nghiệp, Chính phủ chủ trương là kiên
quyết giữ vững chủ quyền nhưng vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Pháp. Một số xí nghiệp
của tư bản Pháp và nước ngoài được tiếp tục kinh doanh như các xí nghiệp điện, nước,…
nhưng phải tuân theo luật lệ và chịu sự kiểm soát của Chính phủ. Về tài chính, Chính phủ
kêu gọi sự đóng góp tự nguyện, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân, thông qua phong trào
“Quỹ độc lập”, theo sắc lệnh của Chính phủ ngày 4/9/1945, “Tuần lễ vàng” được tổ chức
ngày 19/9/1945 nhằm thu gom số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu dùng
vào việc cần gấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Ngoài ra, Chính
phủ còn vận động sự giúp đỡ của nhân dân thông qua “hũ gạo nuôi quân”, “nhận nuôi cán bộ”… lOMoAR cPSD| 23022540
- Về văn hóa – xã hội: Ngày 8/9/1945, Hồ Chí Minh ra quyết định thành lập
NhaBình dân học vụ và kêu gọi nhân dân tham gia xóa nạn mù chữ. Từ 8/9/1945 đến
8/9/1946, có 76000 lớp học và 2,5 triệu người được xóa nạn mù chữ. Trường phổ thông
các cấp và đại học khai giảng sớm và nội dung học và dạy đổi mới. Và như vậy đã đẩy lùi được giặc dốt.
- Về chính trị - quân sự: Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng và thực thi nhiều
biệnpháp để tập hợp, sử dụng nhân sĩ, trí thức, nhân tài phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến
và kiến quốc. Nhiều nhân sĩ, trí thức được mời tham gia bộ máy hành chính và cơ quan
chuyên môn ở các cấp, nhất là Trung ương. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để củng cố và tăng cường chính quyền là phải thực hiện quyền dân chủ cho quần chúng,
phải “xúc tiến việc đi đến Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu
Chính phủ chính thức”. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực
hiện quyền làm chủ, bầu những đại biểu chân chính vào các cơ quan quyền lực cao nhất
của Nhà nước. Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên ở Việt Nam đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội
đầu tiên của nước Việt Nam ra đời.
2. Thực tiễn Việt Nam những năm gần đây.
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng , Nhà nước
và nhân dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời sống mọi mặt của
nhân dân, chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong hành trình hơn 70 năm, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày
2 tháng 9 năm 1945 thì Việt Nam đã có hơn 30 năm trải qua chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vô
cùng khốc liệt. Ngày nay, cả thế giới biết đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam như một bằng
chứng về sự thành công chuyển đổi kinh tế - xã hội trong lịch sử đương đại. Tuy vẫn là một
nước đang phát triển, nhưng trên hành trình tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
- Về kinh tế - tài chính: Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệphóa,
hiện đại hóa, phát triển kinh tế đang đẩy mạnh. Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục
vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả chất lượng và số lượng, đáp ứng cơ bản
nhu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu. Công nghiệp FDI do có lợi thế về
máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường xuất khẩu khá ổn định, lại được Nhà
nước khuyến khích bằng các cơ chế chính sách ngày càng thông thoáng nên trong những
năm qua phát triển khá nhanh và ổn định hơn hẳn khu vực công nghiệp trong nước. Bên
cạnh đó, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng triệu việc làm, góp phần bổ sung và hoàn
thiện các mô hình quản lý và tổ chức mới phù hợp với cơ chế thị trường ở Việt Nam. Cơ lOMoAR cPSD| 23022540
cấu kinh tế cũng chuyển dịch khá rõ rệt, điều đó được thể hiện ở sự giảm tỷ trọng ở khu
vực I và tăng tỷ trọng ở khu vực II và III.
- Về văn hóa – xã hội: Nhờ kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục trong
nhiềunăm liền nên đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện rõ rệt.
Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc đã tăng vọt,
năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học. Giáo dục trung học chuyên nghiệp và đại học có bước mở rộng nhanh về quy
mô đào tạo. Tính tại thời điểm 31 tháng 12 năm 2019, cả nước có gần 2,7 triệu học sinh
trung học phổ thông chuyên nghiệp, và cả nước có 237 trường đại học và cao đẳng theo số
liệu năm 2018. Về sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng được quan tâm và
phát triển. Hệ thống y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại
hình dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp.
Theo số liệu cập nhật thì tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2020 là 73,7 – một
con số khá cao so với khu vực và thế giới. Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế,
Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Theo Tổng cục
Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm nhanh, từ 14,2% năm 2010 xuống còn 7% năm
2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015) và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3%
vào năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).
- Về chính trị - quân sự: Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được
củngcố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững.
Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc
gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt
đẹp. Mặc dù Việt Nam đã đạt được rất nhiều những thành tựu đáng tự hào trên hành trình
đổi mới, nhưng để có thể đi xa và phát triển hơn nữa thì cần phải nắm bắt được những cơ
hội và chấp nhận những thách thức cần phải vượt qua.
- Về những cơ hội cần phải nắm bắt: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
cùngvới quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là hai xu thế lớn, chi phối sâu sắc
đến tiến trình phát triển của nhân loại. Những đột phá công nghệ diễn ra nhanh chóng trong
nhiều lĩnh vực như: trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, cơ sở dữ liệu lớn, internet kết nối
vạn vật, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ sinh học, lưu trữ năng lượng, …
đem đến sự thay đổi vượt bậc cho chất lượng cuộc sống, việc làm và sản xuất, kinh doanh.
Sự đan xen của các quá trình hội nhập đưa thế giới đến một “cấu trúc ma trận” các hiệp
định tự do thương mại (FTA) trên nhiều tuyến và nhiều cấp độ, trong đó phải kể đến các
FTA thế hệ mới. - Về những khó khăn và thách thức cần phải vượt qua: Thế giới đang trải
qua một thời kỳ có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Các nước lớn
điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau
quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tài nhiều khu vực và nhiều nước. lOMoAR cPSD| 23022540
Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh lương thực, an ninh năng
lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh mạng, biến đổi khí hậu, thiên tai,
dịch bệnh,… đang diễn biến nghiêm trọng. Đặc biệt trong hơn một năm qua, thế giới đang
bị dịch bệnh Covid tàn phá rất nặng nề cả về con người, kinh tế, xã hội và Việt Nam cũng
là một quốc gia hứng chịu không ít những khó khăn do dịch bệnh này gây ra. Bên cạnh đó
Việt Nam còn phải đối mặt với sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường
đang ngày càng gia tăng nghiêm trọng.
3. Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do, hạnh phúcdân tộc.
Mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã là một sự may mắn, chính
vì vậy mỗi công dân cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà, giữ vững nền
độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Trước hết, là một công dân, mà nòng cốt là thế hệ
trẻ, cần không ngừng nỗ lực và rèn luyện để dựng xây Tổ quốc. Thế hệ trẻ là mầm non
tương lai của đất nước, là những người đóng vai trò quan trọng trong việc đưa đất nước
phát triển sau này, vậy nên việc học tập tốt và tu dưỡng đạo đức, tác phong là một điều vô
cùng cần thiết. Bên cạnh đó, là một công dân, cần biết yêu thương, sẻ chia với những người
xung quanh. Một đất nước, một xã hội chỉ thực sự phát triển và hạnh phúc khi những hạt
nhân trong xã hội biết yêu thương, đoàn kết, gắn bó với nhau vượt qua bất kỳ khó khăn,
thử thách nào. Giống như khi xưa, thế hệ ông cha ta đã không tiếc thân mình, đổ mồ hôi và
xương máu để đem lại nền độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc như ngày hôm nay.
Ngoài ra, là một công dân, con người ta cần biết tự hào và phát huy truyền thống của dân
tộc. Hãy tự hào về những giá trị văn hóa, tinh thần của đất nước và phát huy, giữ gìn cũng
như phát triển chúng, mang những nét cổ truyền ấy đi xa hơn trên thế giới này, để bạn bè
khắp năm châu đều biết đến Việt Nam. lOMoAR cPSD| 23022540 C. KẾT THÚC
Luận điểm “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc
lập cũng không có nghĩa lý gì” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một luận điểm vô cùng chính
xác và nó có giá trị tới tận bây giờ và mãi về sau. Độc lập đi liền với tự do. Độc lập dân tộc
đi liền với tự do của người dân. Tự do là một tài sản quý giá và vĩnh hằng của con người,
có thể coi đó cũng là một quyền tự nhiên của con người. Chính trong tuyên ngôn độc lập
của mình, Người đã tiếp thu tư tưởng của các nhà lập quốc Hoa Kỳ để từ những quyền cơ
bản của con người, trong đó có quyền tự do suy rộng ra quyền của một dân tộc. Có lẽ Người
đã mở rộng tư tưởng bác ái thành hạnh phúc. Bác ái là tình thương, lòng yêu mến con người
rộng khắp, bao trùm. Hạnh phúc là tình thương được cụ thể hóa thành “ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành”. Hạnh phúc là tình thương cho mọi người được chan hòa
bình đẳng trong một cộng đồng ấm no, hòa bình. Hạnh phúc là khi con người được thỏa
mãn những nhu cầu và yêu cầu chính đáng của mình. Hạnh phúc là khi người dân được
sống đầy đủ các quyền công dân của mình trong một đất nước độc lập, dưới một nhà nước
bảo đảm cho họ quyền tự do dân chủ, nhất là tự do tư tưởng. Trong thời đại ngày nay với
biết bao nhiêu khó khăn và thử thách thì độc lập càng đòi hỏi được bảo vệ và củng cố, tự
do càng được yêu cầu đảm bảo và hạnh phúc càng được khát khao đạt tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Bản tuyên ngôn độc lập ( lần thứ 3 ngày 2-9-1945 ) 3. Đường cách mệnh
4. Báo quân đội nhân dân: Lời bác dạy năm xưa
5. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.