Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----
-----
BÀI TẬP LỚN
MÔN
:
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI:
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh:
“Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Làm rõ ý nghĩa
của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Hà Nội, tháng 11 năm 2021
Sinh viên thực hiện
:
THỊ HỒNG HẠNH
Khóa
:
61
Mã số sinh viên
:
11196011
Lớp tín chỉ
:
Tư tưởng Hồ Chí Minh
(221)_16
lOMoARcPSD| 23022540
lOMoARcPSD| 23022540
2
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU 3
II. NỘI DUNG 3
1. Cơ sở lý luận 3
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – Con đường 3
tất yếu của cách mạng Việt Nam
1.2. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm 5
của tất cả các dân tộc
1.3. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của 6
nhân dân
1.4. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, hạnh phúc của nhân dân trong quá trình 7
cách mạng Việt Nam
2. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay 10
2.1. Giúp Đảng và N nước xác định định được mục tiêu và 10
con đường cách mạng trong sự nghiệp dựng xây đất nước
thời bình
2.2. Tạo tiền đề cho việc xây dựng chủ trương, đường lối của 11
Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế,
xã hội
12
2.3. Ý nghĩa của luận điểm thể hiện trong thời kỳ đất nước chịu
ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19
III. KẾT LUẬN 14
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
I. MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã dâng hiến trọn vẹn cả cuộc đời và sự nghiệp
của mình cho dân tộc Việt Nam, hiện thân của khát vọng mãnh liệt giải phóng dân
lOMoARcPSD| 23022540
3
tộc, phấn đấu đến cùng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của dân tộc.
tưởng của người không chỉ giải phóng dân tộc còn phát triển dân tộc,
đưa dân tộc ta ra khỏi tình cảnh nô lệ, nước mất ntan, bị đọa đầy áp bức dưới ách
thống trị của đế quốc, thực dân, giành lại độc lập chủ quyền và xây dựng đất nước
giàu mạnh, nhân dân trở thành người chủ, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Trong lời tuyên bố với quốc dân ngày 23-10-1946, Hồ Chí Minh i: "Một ngày mà
Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, một ngày tôi ăn không ngon,
ngủ không yên”. Chính lđó, Người đã cống hiến cả cuộc đời mình, hy sinh cả
cuộc sống riêng tư, hạnh phúc riêng tư để trọn đời tranh đấu cho hạnh phúc lớn lao
của toàn dân tộc, của cả nhân loại cần lao. Người biểu đạt ttuệ, lương tâm, khí
phách của toàn dân tộc, "hình ảnh của dân tộc". Ðối với Người, độc lập dân tộc
không tách rời với thống nhất Tổ quốc độc lập, thống nhất Tổ quốc, gắn với tự
do, hạnh phúc của nhân dân. Chính vì lẽ đó, lời nhắc của Người về tư tưởng đc lập
gắn liền với hạnh phúc của nhân dân: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" cho đến hôm nay vẫn giữ nguyên
giá trị.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý lun
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội Con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp đứng
lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ 1858 đến năm 1930, đã có hàng trăm cuộc
khởi nghĩa, phong trào yêu nước diễn ra dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân
sỹ, trí thức, nông dân, binh lính yêu nước diễn ra theo nhiều khuynh hướng chính trị
khác nhau. Dù tràn đầy lòng yêu nước, đức hy sinh, nhưng các cuộc khởi nghĩa, các
phong trào đó đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Vấn đề độc lập dân
tộc không được giải quyết, trước hết là do không có đường lối cách mạng đúng đắn
lOMoARcPSD| 23022540
4
dưới sự chỉ đạo của một hệ tưởng tiên tiến, khoa học cách mạng. Đó sự
khủng hoảng đường lối cứu nước.
Tháng 6 năm 1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước,
nhiều châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa quan sát, nghiên cứu luận kinh
nghiệm của các nước, t ra nhiều bài học qbáu bổ ích, sở cho sự lựa
chọn con đường cách mạng của mình.
Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến
Nguyễn Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người là khi được đọc
thảo lần thnhất Luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của V.I. Lênin
(1919), tác phẩm luận bàn về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc các nước
thuộc địa trong thời đại cách mạng sản. Người đã tìm thấy con đường duy nhất
đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là
con đường cách mạng sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng giải phóng dân tộc từng nước gắn
với phong trào cách mạng thế giới... Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không con đường nào khác con đường cách mạng sản". Từ
niềm tin đó, Người tổ chức truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập
rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng nhân dân ta giành được hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Toàn dân ta luôn một lòng đi theo Đảng. Vì vậy, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc
Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội slựa chọn duy nhất đúng
đắn của cách mạng Việt Nam Trong hơn 85 năm qua. Đảng nhân dân ta luôn kiên
trì và thực hiện mục tiêu này. Nhờ vậy, mà cách mạng nước ta đã giành được những
thắng lợi ý nghĩa lịch sử thời đại: Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
lOMoARcPSD| 23022540
5
Đây kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra từ cao trào
viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến cao trào giải phóng dân
tộc 1939-1945. Cách mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến
nước ta, mở ra một knguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ba là, thắng lợi to lớn và có ý
nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa hội với mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; củng cố vững chắc hơn độc lập
dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Bài học lớn, được đặt vị trí
hàng đầu qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng, bài học phải "kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng
Hồ Chí Minh".
1.2. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc
Trong lịch sử nhân loại, việc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành độc
lập không phải là đặc điểm riêng của một dân tộc nào, song thật hiếm có một dân
tộc như dân tộc Việt Nam, phải thường xuyên đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù mạnh
hơn gấp bội để giành lại quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Điều đó nói
lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là luôn mong muốn có được một nền độc lập
dân tộc, tdo cho nhân dân. Đó cũng một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ của
dân tộc Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người nói rằng, “cái mà tôi
cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, tổ quốc tôi được đc lập”.
Nhân hội các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ
nhất, tại hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh đã gửi tới hội nghị bản Yêu sách của nhân
lOMoARcPSD| 23022540
6
dân An Nam, với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp đòi
các quyền tự do, dân chủ. Mặc bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận
nhưng qua sự kiện trên đã cho thấy lần đầu tiên tưởng Hồ Chí Minh về quyền của
các dân tộc thuộc địa, quyền bình đẳng tự do đã được hình thành. tưởng ấy
càng được củng cố hơn qua câu nói: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng quyền được sống, quyền sung sướng quyền t
do…Đó những lẽ phải không ai chối cãi được.” Trong Chánh cương văn tắt của
Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp bọn phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc
lập.
Ý chí và quyết tâm trên con đường đấu tranh cho độc lập, tự do dân tộc còn
được thể hiệnnét qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong thư
gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân
chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược
nước ta lần hai, Người cũng ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho
bằng được độc lập dân tộc trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Không! Chúng
ra thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
lệ”. Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, trong
hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân thời
đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát độc lập, tự do trên thế giới:
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng này đã giúp Hồ Chí Minh dẫn dắt
dân tộc Việt Nam chiến đấu anh hùng quả cảm, làm thay đổi vận mệnh dân tộc
Việt Nam, từ thân phận nô lệ trở thành dân tộc tự do, độc lập.
1.3. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Sống là để phục vụ, để cống hiến, để dấn thân vào con đường gian lao nhằm
giành và bảo vđộc lập cho Tổ quốc, xây đắp tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là
lOMoARcPSD| 23022540
7
phương châm sống hành động trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh. Người đánh giá
cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Bằng lẽ đầy thuyết phục, khi viện dẫn bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền ca Cách mạng Pháp năm 1791
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình
đẳng vquyền lợi”. Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng
phải được tự do bình đẳng về quyền lợi. Người cũng tâm sự với nnhà báo Pháp
rằng: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi
đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”. Người
còn nói rằng, những khi “phải ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội” cũng là vì độc
lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Tháng 1-1946, trả lời các nhà báo
nước ngoài về chức vụ Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được hc
hành”. Trong Di chúc, Người viết “điều mong muốn cuối cùng” trước lúc đi xa
“toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”. Một nước Việt Nam độc lập, nhân dân Việt Nam được tự do, hạnh
phúc luôn là tâm niệm canh cánh đến tận cuối đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.4. Những điều kiện bảo đm cho độc lập dân tộc gn liền với chủ nghĩa
hội, hạnh phúc của nhân dân trong quá trình cách mạng Việt
Nam
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa hội Việt Nam một tất yếu lịch sử.
Nhưng để hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều
kiện cơ bản sau đây:
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo
sức chiến đấu của Đảng Cộng sản điều kiện bản để độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt
lOMoARcPSD| 23022540
8
Nam không thể vận động theo cách mạng sản chắc chắn sự nghiệp độc lập dân
tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng
sản đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế đhội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị
phản bội hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn Liên các nước Đông Âu, đầu
những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện
trên các mặt chủ yếu sau đây:
- Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc
pháttriển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo xã hội, trước hết lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương
lĩnhđộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội bằng cách thông qua tổ chức
đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình.
- Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng lãnh đạo
côngtác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành
độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch,
vững mạnh thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện
xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán b
bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Hai là, xây dựng, củng cố tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân,
nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá
trình thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết
lOMoARcPSD| 23022540
9
sức sáng tạo. Người xác định: công - nông gốc, chủ lực của cách mạng, các giai
tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp
trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chcũng như cách mạng
xã hội chủ nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh
công - nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân
mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi
nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn những chủ trương, đường lối bin
pháp phù hợp để tranh thủ sủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, h
bình dân chủ trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945,
trong những năm chống Pháp, chống Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó ba bài
học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Không chỉ vậy, Trong quá trình xây dựng đất nước, Người rất coi trọng các
chính sách kinh tế nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển hội, đem lại hạnh phúc
cho con người. Người khẳng định Đảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân ra, vừa
người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác lợi ích
của nhân dân.
lOMoARcPSD| 23022540
10
Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn cho cách
mạng, “chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của
quốc dân”. Trong Di chúc, Người dặn dò: “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm
mọi cách làm cho họ nơi ăn chốn yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy
nghề thích hợp với mọi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Mong muốn
của Người là ai ai cũng được đóng góp công sức vào sự nghiệp cách mạng của dân
tộc và được hưởng thành quả do cách mạng mang lại.
Ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân, hùng cường
cho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ Nhân dân
của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn động lực, tưởng soi đường cho toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc
độc lập dân tộc, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
2. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
2.1. Giúp Đảng và Nhà nước xác định định được mục tiêu và con
đường cách mạng trong sự nghiệp dựng xây đất nước thời bình
Tiến tới chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa cộng sản là quá trình hợp quy luật, phù
hợp với khát vọng của nhân dân Việt Nam, sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí
Minh sự khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với việc xác định những tư
tưởng về độc lập dân tộc và hạnh phúc tự do của người dân, tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành kim chỉ nam cho sự nghiệp quản lý, xây dựng đất nước thời kỳ mới.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn 35 năm đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một ch sinh động ý chí, khát vọng phát triển của
dân tộc ta. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi
mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự
cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân,
lOMoARcPSD| 23022540
11
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới
cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập làm theo tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường
dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấp
ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.
2.2. Tạo tiền đề cho việc xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng và
Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hi
Hiện nay, chủ trương, đường lối của Đảng trong phát triển kinh tế - hội đều
được xây dựng trên sở lấy người dân làm trung tâm, hướng về người dân phục
vụ người dân. Điều đó đã mang lại những kết quả tích cực trong việc bảo đảm quyền
con người, từ quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đến quyền dân sự, chính trị, quyền của
các nhóm dễ bị tổn thương… Những đóng góp nỗ lực đầy trách nhiệm của một
dân tộc yêu chuộng độc lập, tự do, hòa bình công trên nhiều lĩnh vực, không
chỉ trong khu vực mà còn trong cộng đồng quốc tế theo quan điểm "bảo đảm lợi ích
tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cở sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, bình đẳng và cùng lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác phát triển… bạn, đối tác tin cậy thành viên trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế"; trong cuộc đấu tranh hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ hội; trong tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng
phát triển bền vững đất nước, nhất là trong phòng chống đại dịch Covid-19;
đặc biệt, việc tham gia thực hiện hầu hết các công ước của Liên hợp quốc về
quyền con người: “Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc”
(1981); “Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ”
(1981); “Công ước về quyền trẻ em” (1990); “Công ước chống tra tấn (CAT) và
“Công ước về quyền của người khuyết tật” (2014)… trong thực thi quyền con
người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp 1980, 1992 và 2013 càng làm
lOMoARcPSD| 23022540
12
sâu sắc hơn giá trị lớn lao của Độc lập - Tự do Hạnh phúc, càng cho thấy Việt Nam
đang chuyển mình với những bước phát triển đột phá để bảo vệ vững chắc nền độc
lập và hạnh phúc của người dân!
Đến với đất nước và con người Việt Nam - đến với đất nước đã lọt vào tốp 10
“Quốc gia đáng sống” trên thế giới, tìm hiểu về hành trình đấu tranh cho các giá trị
làm người cao cả đó quá trình hiện thực hóa các quyền con người đó tại Việt
Nam, bạn bè quốc tế từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, từ các nước hội chủ
nghĩa hay tư bản, "có người theo đạo Hồi, người theo đạo Phật, đạo Tin lành, đạo
Thiên chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau, qua hai ngày hội thảo, chúng tôi
thể ngồi lại nói chuyện vui vẻ với nhau, chúng tôi cái chung tưởng Hồ
Chí Minh: “Muốn cho nhân loại được tự do, hạnh phúc”. Đó chính là minh chứng
vừa giản dị vừa sinh động nhất cho khát vọng, tinh thần, ý chí quyết tâm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam vì Độc lập
- Tự do - Hạnh phúc trong hơn 90 năm qua!
2.3. Ý nghĩa của luận điểm thể hiện trong thời kỳ đất nước chịu ảnh
hưởng của dịch bệnh Covid 19
Chúng ta đang sống trong những tháng ngày lịch sử. “Lịch sử” đây không
giống như những kỳ tích, chiến công oai hùng trong quá khứ mà ông cha ta đã anh
dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm các thế lực thù địch. Chúng ta đang sống
trong thời bình, khi độc lập dân tộc được bảo toàn. Thế nhưng hạnh phúc của
người dân đã không còn được trọn vẹn khi chứng kiến sự tàn khốc ca virut corona
quét qua hội loài người. Những lúc này mới thấm thía hơn câu nói của Hồ Chí
Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chẳng nghĩa gì”. Thế mới thấy những hành động kịp thời của Đảng
Nhà nước thời gian qua để bù đắp quyền “hạnh phúc” giản đơn của người dân là giá
trị đến nhường nào. Ngay từ những ngày đầu dịch bệnh bùng phát trên thế giới,
chúng ta đã có những chuyển bay đặc biệt đón những công dân mắc kẹt tại Vũ Hán
về nước. Tôi vẫn ấn tượng với quan điểm “để không ai bị bỏ lại phía sau đại dịch”
lOMoARcPSD| 23022540
13
của chính phủ ta trong việc thể hiện trách nhiệm, sự quan tâm đến sức khỏe, sự bình
an và hạnh phúc của người dân thời dịch bệnh.
Trong những ngày khó khăn này, sự bình an của mọi người là điều quan trọng
nhất, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đưa ra các chỉ đạo, chính sách trong việc ứng
phó với slây lan của dịch bệnh. Những quyết định phần quyết liệt, cứng nhắc
nhưng đều đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu. Đặc biệt, trong đợt dịch bùng
phát mạnh mẽ nhất ở TP Hồ Chí Minh, Covid 19 đã khiến cho hai từ “hạnh phúc”
trở nên quá xa xỉ đối với nhiều người. Sự thảm thương bao trùm lên một thành phố
sôi động nhất cả nước. Có đến hơn 2000 trẻ em mồ côi sau dịch bệnh, nhiều người
đã phải trải qua ranh giới giữa sự sống và cái chết với những ức không bun nhớ
lại. Khi sự bình an, hạnh phúc của người dân bị đe dọa, sự lên tiếng của Đảng và
Nhà nước là vô cùng cần thiết. Nhà nước đã những gói hỗ trợ những người dân
chịu ảnh hưởng do đại dịch Covid gây ra. Qua đó cũng cho thấy sự quan tâm của
chính quyền các cấp đến cuộc sống của từng nhân. Tuy rằng chẳng thế đem lại
niềm vui, niềm hạnh phúc vẹn tròn, nhưng phần nào cũng an i cho những nỗi
đau mà họ đã phải trải qua.
Cuộc chiến chống lại “giặc” COVID-19 ngày càng phức tạp, cam go. Trong lúc
này, hơn bao giờ hết, thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cùng
với Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu dân đói, Đảng Chính phủ
lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi… nếu dân m là Đảng và Chính phủ có
lỗi” như tiếp thêm sức mạnh, niềm tin để toàn Đảng, toàn quân toàn dân ta một
ý chí, chung sức, đồng lòng kết thành sức mạnh của “ý Đảng lòng dân”, quyết chiến,
quyết thắng đại dịch, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân, sớm đưa đất nước
trở về trạng thái bình thường, tiếp tục thực hiện khát vọng phồn vinh, hạnh phúc,
đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
lOMoARcPSD| 23022540
14
III. KẾT LUẬN
Với Hồ Chí Minh, quyền độc lập dân tộc thiêng liêng, nhưng phải hướng tới
quyền tự do, sung sướng, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Sợi chỉ đỏ
chủ đạo xuyên suốt hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và quan niệm của Hồ
Chí Minh về con người nói riêng đó là sự đấu tranh thực hiện quyền con người
giải phóng con người. Con người được sống với tất cả các quyền cơ bản của quyền
con người: quyền sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được
tự do sáng tạo phát triển hết khả năng của mình. Thực hiện cam kết của cả Dân
tộc trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, chúng ta thể tin rằng, sự nghiệp xây dựng đất nước với mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, hội dân chủ, công bằng, văn minh; chủ quyền quốc gia
được vững chắc; hội nhập quốc tế với vị thế quốc gia ngày càng cao sẽ thành
công.
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất bản năm 2019
2. “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc: Từ khát vọng đến hiện thực” - Báo Tuổi trẻ
Kon Tum số ra ngày 27/06/2021
3. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”
Trang thông tin tỉnh Quảng Nam
4. “Độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, phương châm sống và
hành động của Chủ tịch H Chí Minh” Tạp chí Cộng Sản, số ra ngày
25/07/2020
5. “Độc lập phải gắn liền với ấm no, hạnh phúc” – Báo Pháp luât, số ra ngày
18/06/2020
| 1/14

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----- ----- BÀI TẬP LỚN
MÔN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ BÀI:
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa
của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Sinh viên thực hiện : LÊ THỊ HỒNG HẠNH Khóa : 61 Mã số sinh viên : 11196011 Lớp tín chỉ : Tư tưởng Hồ Chí Minh (221)_16
Hà Nội, tháng 11 năm 2021 1 lOMoAR cPSD| 23022540 MỤC LỤC I. MỞ ĐẦU 3 II. NỘI DUNG 3 1. Cơ sở lý luận 3
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – Con đường 3
tất yếu của cách mạng Việt Nam
1.2. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm 5
của tất cả các dân tộc
1.3. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của 6 nhân dân
1.4. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, hạnh phúc của nhân dân trong quá trình 7
cách mạng Việt Nam
2. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay 10
2.1. Giúp Đảng và Nhà nước xác định định được mục tiêu và 10
con đường cách mạng trong sự nghiệp dựng xây đất nước thời bình
2.2. Tạo tiền đề cho việc xây dựng chủ trương, đường lối của 11
Đảng và Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội 12
2.3. Ý nghĩa của luận điểm thể hiện trong thời kỳ đất nước chịu
ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19 III. KẾT LUẬN 14
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14 I. MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã dâng hiến trọn vẹn cả cuộc đời và sự nghiệp
của mình cho dân tộc Việt Nam, là hiện thân của khát vọng mãnh liệt giải phóng dân 2 lOMoAR cPSD| 23022540
tộc, phấn đấu đến cùng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của dân tộc.
Tư tưởng của người không chỉ là giải phóng dân tộc mà còn là phát triển dân tộc,
đưa dân tộc ta ra khỏi tình cảnh nô lệ, nước mất nhà tan, bị đọa đầy áp bức dưới ách
thống trị của đế quốc, thực dân, giành lại độc lập chủ quyền và xây dựng đất nước
giàu mạnh, nhân dân trở thành người chủ, có cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Trong lời tuyên bố với quốc dân ngày 23-10-1946, Hồ Chí Minh nói: "Một ngày mà
Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon,
ngủ không yên”. Chính vì lẽ đó, Người đã cống hiến cả cuộc đời mình, hy sinh cả
cuộc sống riêng tư, hạnh phúc riêng tư để trọn đời tranh đấu cho hạnh phúc lớn lao
của toàn dân tộc, của cả nhân loại cần lao. Người biểu đạt trí tuệ, lương tâm, khí
phách của toàn dân tộc, là "hình ảnh của dân tộc". Ðối với Người, độc lập dân tộc
không tách rời với thống nhất Tổ quốc và độc lập, thống nhất Tổ quốc, gắn với tự
do, hạnh phúc của nhân dân. Chính vì lẽ đó, lời nhắc của Người về tư tưởng độc lập
gắn liền với hạnh phúc của nhân dân: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" cho đến hôm nay vẫn giữ nguyên giá trị. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận
1.1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội – Con đường tất yếu
của cách mạng Việt Nam
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp đứng
lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Từ 1858 đến năm 1930, đã có hàng trăm cuộc
khởi nghĩa, phong trào yêu nước diễn ra dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu, các nhân
sỹ, trí thức, nông dân, binh lính yêu nước diễn ra theo nhiều khuynh hướng chính trị
khác nhau. Dù tràn đầy lòng yêu nước, đức hy sinh, nhưng các cuộc khởi nghĩa, các
phong trào đó đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Vấn đề độc lập dân
tộc không được giải quyết, trước hết là do không có đường lối cách mạng đúng đắn 3 lOMoAR cPSD| 23022540
dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự
khủng hoảng đường lối cứu nước.
Tháng 6 năm 1911 người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đi qua nhiều nước,
nhiều châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm của các nước, rút ra nhiều bài học quý báu và bổ ích, là cơ sở cho sự lựa
chọn con đường cách mạng của mình.
Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra và thắng lợi đã ảnh hưởng sâu sắc đến
Nguyễn Ái Quốc. Nhưng bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Người là khi được đọc
Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Lênin
(1919), tác phẩm lý luận bàn về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản. Người đã tìm thấy con đường duy nhất
đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là
con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp; độc
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng giải phóng dân tộc từng nước gắn
với phong trào cách mạng thế giới... Người khẳng định: "Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Từ
niềm tin đó, Người tổ chức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, sáng lập
và rèn luyện Đảng ta, lãnh đạo Đảng và nhân dân ta giành được hết thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Toàn dân ta luôn một lòng đi theo Đảng. Vì vậy, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng
đắn của cách mạng Việt Nam Trong hơn 85 năm qua. Đảng và nhân dân ta luôn kiên
trì và thực hiện mục tiêu này. Nhờ vậy, mà cách mạng nước ta đã giành được những
thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại: Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 4 lOMoAR cPSD| 23022540
Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra từ cao trào
Xô viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến cao trào giải phóng dân
tộc 1939-1945. Cách mạng Tháng Tám đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến
ở nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân
tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ba là, thắng lợi to lớn và có ý
nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; củng cố vững chắc hơn độc lập
dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội. Bài học lớn, được đặt ở vị trí
hàng đầu qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng, là bài học phải "kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
1.2. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc
Trong lịch sử nhân loại, việc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành độc
lập không phải là đặc điểm riêng có của một dân tộc nào, song thật hiếm có một dân
tộc như dân tộc Việt Nam, phải thường xuyên đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù mạnh
hơn gấp bội để giành lại quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Điều đó nói
lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là luôn mong muốn có được một nền độc lập
dân tộc, tự do cho nhân dân. Đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ của
dân tộc mà Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người nói rằng, “cái mà tôi
cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, tổ quốc tôi được độc lập”.
Nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ
nhất, tại hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh đã gửi tới hội nghị bản Yêu sách của nhân 5 lOMoAR cPSD| 23022540
dân An Nam, với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi
các quyền tự do, dân chủ. Mặc dù bản yêu sách không được Hội nghị chấp nhận
nhưng qua sự kiện trên đã cho thấy lần đầu tiên tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền của
các dân tộc thuộc địa, quyền bình đẳng và tự do đã được hình thành. Tư tưởng ấy
càng được củng cố hơn qua câu nói: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự
do…Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.” Trong Chánh cương văn tắt của
Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh cũng xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập.
Ý chí và quyết tâm trên con đường đấu tranh cho độc lập, tự do dân tộc còn
được thể hiện rõ nét qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong thư
gửi Liên hợp quốc năm 1946, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân dân
chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược
nước ta lần hai, Người cũng ra lời hiệu triệu, thể hiện quyết tâm sắt đá, bảo vệ cho
bằng được độc lập dân tộc trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Không! Chúng
ra thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ”. Đặc biệt, khi đế quốc Mỹ tăng cường mở rộng chiến tranh ở Việt Nam, trong
hoàn cảnh khó khăn, chiến tranh ác liệt đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý thời
đại, một tuyên ngôn bất hủ của các dân tộc khao khát độc lập, tự do trên thế giới:
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng này đã giúp Hồ Chí Minh dẫn dắt
dân tộc Việt Nam chiến đấu anh hùng và quả cảm, làm thay đổi vận mệnh dân tộc
Việt Nam, từ thân phận nô lệ trở thành dân tộc tự do, độc lập. 1.3.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Sống là để phục vụ, để cống hiến, để dấn thân vào con đường gian lao nhằm
giành và bảo vệ độc lập cho Tổ quốc, xây đắp tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là 6 lOMoAR cPSD| 23022540
phương châm sống và hành động trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh. Người đánh giá
cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Bằng lý lẽ đầy thuyết phục, khi viện dẫn bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình
đẳng về quyền lợi”. Hồ Chí Minh khẳng định dân tộc Việt Nam đương nhiên cũng
phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Người cũng tâm sự với nữ nhà báo Pháp
rằng: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi
đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”. Người
còn nói rằng, những khi “phải ẩn nấp nơi núi non, ra vào chốn tù tội” cũng là vì độc
lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Tháng 1-1946, trả lời các nhà báo
nước ngoài về chức vụ Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tôi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”. Trong Di chúc, Người viết “điều mong muốn cuối cùng” trước lúc đi xa là
“toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”. Một nước Việt Nam độc lập, nhân dân Việt Nam được tự do, hạnh
phúc luôn là tâm niệm canh cánh đến tận cuối đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.4. Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, hạnh phúc của nhân dân trong quá trình cách mạng Việt Nam
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử.
Nhưng để hiện thực hóa tính tất yếu này, theo Hồ Chí Minh cần phải có những điều kiện cơ bản sau đây:
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, xác lập, tăng cường vai trò lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều kiện cơ bản để độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt 7 lOMoAR cPSD| 23022540
Nam không thể vận động theo cách mạng vô sản và chắc chắn sự nghiệp độc lập dân
tộc sẽ đi theo vết xe đổ của các phong trào cứu nước trước đó. Một khi Đảng Cộng
sản đánh mất vai trò lãnh đạo thì chế độ xã hội chủ nghĩa sẽ sụp đổ, cách mạng bị
phản bội và hoàn toàn chệch hướng. Thực tiễn ở Liên Xô và các nước Đông Âu, đầu
những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng tỏ điều đó.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, với tư cách là điều kiện cơ bản bảo đảm để độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được thể hiện
trên các mặt chủ yếu sau đây: -
Hoạch định cương lĩnh, đường lối, chủ trương để đưa sự nghiệp của dân tộc
pháttriển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. -
Lãnh đạo xã hội, trước hết là lãnh đạo nhà nước thực hiện thắng lợi cương
lĩnhđộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội bằng cách thông qua tổ chức và
đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình. -
Thông qua công tác kiểm tra, kể cả kiểm tra trong nội bộ Đảng và lãnh đạo
côngtác kiểm tra trong các tổ chức của hệ thống chính trị để lãnh đạo toàn dân giành
độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
mang tính khách quan. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải trong sạch,
vững mạnh và thường xuyên chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu, đủ trí tuệ, đủ bản lĩnh vượt qua những thử thách gay gắt nhất, phải thực hiện
xây dựng Đảng về mọi mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó công tác cán bộ
bao giờ cũng là vấn đề cốt tử.
Hai là, xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân,
nông dân và trí thức làm nền tảng khối đại đoàn kết dân tộc.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng Việt Nam trong quá
trình thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội là hết 8 lOMoAR cPSD| 23022540
sức sáng tạo. Người xác định: công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai
tầng, cá nhân yêu nước là bầu bạn của cách mạng. Khi đất nước bước vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội Người đòi hỏi công nông trí thức đoàn kết lại. Tất cả được tập hợp
trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như cách mạng
xã hội chủ nghĩa đều cần đến và không thể thiếu được Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận được xây dựng theo tư tưởng Hồ Chí Minh có hạt nhân cốt lõi là liên minh
công - nông và trí thức để đoàn kết toàn dân thành một khối. Hạt nhân và toàn dân
là mối quan hệ biện chứng được Hồ Chí Minh quan tâm đúng mức cả hai, không coi
nhẹ hoặc thiên lệch bên nào. Mặt trận đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, Hồ Chí Minh chỉ rõ Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới liên hệ chặt chẽ với nhau. Suốt cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn có những chủ trương, đường lối và biện
pháp phù hợp để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hoà
bình dân chủ trên thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam Tháng Tám 1945,
trong những năm chống Pháp, chống Mỹ, trong thời kỳ hoà bình, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc đều không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế.
Ba nhân tố nêu trên gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh kết luận: “Đó là ba bài
học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”.
Không chỉ vậy, Trong quá trình xây dựng đất nước, Người rất coi trọng các
chính sách kinh tế nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc
cho con người. Người khẳng định Đảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân mà ra, vừa là
người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác lợi ích của nhân dân. 9 lOMoAR cPSD| 23022540
Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn cho cách
mạng, “chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của
quốc dân”. Trong Di chúc, Người dặn dò: “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm
mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy
nghề thích hợp với mọi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Mong muốn
của Người là ai ai cũng được đóng góp công sức vào sự nghiệp cách mạng của dân
tộc và được hưởng thành quả do cách mạng mang lại.
Ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân, hùng cường
cho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ Nhân dân
của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là động lực, tư tưởng soi đường cho toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc
độc lập dân tộc, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
2. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
2.1. Giúp Đảng và Nhà nước xác định định được mục tiêu và con
đường cách mạng trong sự nghiệp dựng xây đất nước thời bình
Tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là quá trình hợp quy luật, phù
hợp với khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí
Minh và sự khẳng định của Đảng Cộng sản Việt Nam. Với việc xác định những tư
tưởng về độc lập dân tộc và hạnh phúc tự do của người dân, tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành kim chỉ nam cho sự nghiệp quản lý, xây dựng đất nước thời kỳ mới.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn 35 năm đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của
dân tộc ta. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi
mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự
cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, 10 lOMoAR cPSD| 23022540
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới
cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường
dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấp
ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.
2.2. Tạo tiền đề cho việc xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng và
Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội
Hiện nay, chủ trương, đường lối của Đảng trong phát triển kinh tế - xã hội đều
được xây dựng trên cơ sở lấy người dân làm trung tâm, hướng về người dân và phục
vụ người dân. Điều đó đã mang lại những kết quả tích cực trong việc bảo đảm quyền
con người, từ quyền kinh tế, xã hội, văn hóa đến quyền dân sự, chính trị, quyền của
các nhóm dễ bị tổn thương… Những đóng góp và nỗ lực đầy trách nhiệm của một
dân tộc yêu chuộng độc lập, tự do, hòa bình và công lý trên nhiều lĩnh vực, không
chỉ trong khu vực mà còn trong cộng đồng quốc tế theo quan điểm "bảo đảm lợi ích
tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cở sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển… là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm của cộng đồng quốc tế"; trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội; trong tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng
và phát triển bền vững đất nước, nhất là trong phòng và chống đại dịch Covid-19;
đặc biệt, việc tham gia và thực hiện hầu hết các công ước của Liên hợp quốc về
quyền con người: “Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc”
(1981); “Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ”
(1981); “Công ước về quyền trẻ em” (1990); “Công ước chống tra tấn (CAT) và
“Công ước về quyền của người khuyết tật” (2014)… và trong thực thi quyền con
người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp 1980, 1992 và 2013 càng làm 11 lOMoAR cPSD| 23022540
sâu sắc hơn giá trị lớn lao của Độc lập - Tự do Hạnh phúc, càng cho thấy Việt Nam
đang chuyển mình với những bước phát triển đột phá để bảo vệ vững chắc nền độc
lập và hạnh phúc của người dân!
Đến với đất nước và con người Việt Nam - đến với đất nước đã lọt vào tốp 10
“Quốc gia đáng sống” trên thế giới, tìm hiểu về hành trình đấu tranh cho các giá trị
làm người cao cả đó và quá trình hiện thực hóa các quyền con người đó tại Việt
Nam, bạn bè quốc tế từ nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, từ các nước xã hội chủ
nghĩa hay tư bản, "có người theo đạo Hồi, có người theo đạo Phật, đạo Tin lành, đạo
Thiên chúa, trước chúng tôi không hiểu nhau, qua hai ngày hội thảo, chúng tôi có
thể ngồi lại nói chuyện vui vẻ với nhau, vì chúng tôi có cái chung là lý tưởng Hồ
Chí Minh: “Muốn cho nhân loại được tự do, hạnh phúc”. Đó chính là minh chứng
vừa giản dị vừa sinh động nhất cho khát vọng, tinh thần, ý chí và quyết tâm của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam vì Độc lập
- Tự do - Hạnh phúc trong hơn 90 năm qua!
2.3. Ý nghĩa của luận điểm thể hiện trong thời kỳ đất nước chịu ảnh
hưởng của dịch bệnh Covid 19
Chúng ta đang sống trong những tháng ngày lịch sử. “Lịch sử” ở đây không
giống như những kỳ tích, chiến công oai hùng trong quá khứ mà ông cha ta đã anh
dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm và các thế lực thù địch. Chúng ta đang sống
trong thời bình, khi mà độc lập dân tộc được bảo toàn. Thế nhưng hạnh phúc của
người dân đã không còn được trọn vẹn khi chứng kiến sự tàn khốc của virut corona
quét qua xã hội loài người. Những lúc này mới thấm thía hơn câu nói của Hồ Chí
Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Thế mới thấy những hành động kịp thời của Đảng và
Nhà nước thời gian qua để bù đắp quyền “hạnh phúc” giản đơn của người dân là giá
trị đến nhường nào. Ngay từ những ngày đầu dịch bệnh bùng phát trên thế giới,
chúng ta đã có những chuyển bay đặc biệt đón những công dân mắc kẹt tại Vũ Hán
về nước. Tôi vẫn ấn tượng với quan điểm “để không ai bị bỏ lại phía sau vì đại dịch” 12 lOMoAR cPSD| 23022540
của chính phủ ta trong việc thể hiện trách nhiệm, sự quan tâm đến sức khỏe, sự bình
an và hạnh phúc của người dân thời dịch bệnh.
Trong những ngày khó khăn này, sự bình an của mọi người là điều quan trọng
nhất, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đưa ra các chỉ đạo, chính sách trong việc ứng
phó với sự lây lan của dịch bệnh. Những quyết định có phần quyết liệt, cứng nhắc
nhưng đều đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu. Đặc biệt, trong đợt dịch bùng
phát mạnh mẽ nhất ở TP Hồ Chí Minh, Covid 19 đã khiến cho hai từ “hạnh phúc”
trở nên quá xa xỉ đối với nhiều người. Sự thảm thương bao trùm lên một thành phố
sôi động nhất cả nước. Có đến hơn 2000 trẻ em mồ côi sau dịch bệnh, nhiều người
đã phải trải qua ranh giới giữa sự sống và cái chết với những ký ức không buồn nhớ
lại. Khi sự bình an, hạnh phúc của người dân bị đe dọa, sự lên tiếng của Đảng và
Nhà nước là vô cùng cần thiết. Nhà nước đã có những gói hỗ trợ những người dân
chịu ảnh hưởng do đại dịch Covid gây ra. Qua đó cũng cho thấy sự quan tâm của
chính quyền các cấp đến cuộc sống của từng cá nhân. Tuy rằng chẳng thế đem lại
niềm vui, niềm hạnh phúc vẹn tròn, nhưng phần nào nó cũng an ủi cho những nỗi
đau mà họ đã phải trải qua.
Cuộc chiến chống lại “giặc” COVID-19 ngày càng phức tạp, cam go. Trong lúc
này, hơn bao giờ hết, thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cùng
với Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi… nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có
lỗi” như tiếp thêm sức mạnh, niềm tin để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta một
ý chí, chung sức, đồng lòng kết thành sức mạnh của “ý Đảng lòng dân”, quyết chiến,
quyết thắng đại dịch, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân, sớm đưa đất nước
trở về trạng thái bình thường, tiếp tục thực hiện khát vọng phồn vinh, hạnh phúc,
đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. 13 lOMoAR cPSD| 23022540 III. KẾT LUẬN
Với Hồ Chí Minh, quyền độc lập dân tộc là thiêng liêng, nhưng phải hướng tới
quyền tự do, sung sướng, hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người. Sợi chỉ đỏ
chủ đạo xuyên suốt hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và quan niệm của Hồ
Chí Minh về con người nói riêng đó là sự đấu tranh thực hiện quyền con người và
giải phóng con người. Con người được sống với tất cả các quyền cơ bản của quyền
con người: quyền sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền được
tự do sáng tạo và phát triển hết khả năng của mình. Thực hiện cam kết của cả Dân
tộc trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, chúng ta có thể tin rằng, sự nghiệp xây dựng đất nước với mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; chủ quyền quốc gia
được vững chắc; và hội nhập quốc tế với vị thế quốc gia ngày càng cao sẽ thành công.
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất bản năm 2019
2. “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc: Từ khát vọng đến hiện thực” - Báo Tuổi trẻ
Kon Tum số ra ngày 27/06/2021
3. “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” –
Trang thông tin tỉnh Quảng Nam
4. “Độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, phương châm sống và
hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh” – Tạp chí Cộng Sản, số ra ngày 25/07/2020
5. “Độc lập phải gắn liền với ấm no, hạnh phúc” – Báo Pháp luât, số ra ngày 18/06/2020 14