Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ?” Ý nghĩa và luận điểm đối với Việt Nam | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ?” Ý nghĩa và luận điểm đối với Việt Nam | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không
được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ?” Ý nghĩa và
luận điểm đối với Việt Nam.
Họ và tên sinh viên: Nguyễn Diệu Diệu Ngọc Mã SV: 11219584
Lớp: LSIC63 ------------------------------Hà Nội, tháng 10 năm
2022------------------------- MỤC LỤC Lời nói
đầu .................................................................................... .................................. 1 lOMoAR cPSD| 45568214 Phần Nội
dung .................................................................................. .............................
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc ............................................................
II. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc với Việt Nam hiện nay..
III. Liên hệ bản thân và bài học thực tiễn đối với thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay..... Phần kết
luận ................................................................................... .............................. Danh mục tham
khảo ................................................................................... ............... LỜI NÓI ĐẦU
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Lịch sử của
dân tộc Việt Nam đã được viết bằng máu của nhiều thế hệ ông cha đã ngã xuống từ
bao nhiêu cuộc chiến chống ngoại xâm. Trải qua chiến tranh ác liệt, nhân dân ta càng
thêm trân trọng những giá trị của độc lập và tự do. Điều này làm ta gợi nhắc về câu
nói nổi tiếng tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh : “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Câu nói của Bác mang lại ý nghĩa và thực tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, có độc lập tự do thì sẽ
có tất cả. Đất nước không thể phồn vinh, dân tộc không thể phát triển, nhân dân
không thể có cơm ăn, áo mặc và cuộc sống hạnh phúc nếu không có độc lập tự do. Cả
cuộc đời của Bác chỉ có một mục đích, một hoài bão đó là làm thế nào để giành độc
lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Theo Người, độc lập dân tộc phải gắn với
tự do và hạnh phúc của nhân dân; đồng thời tự do và hạnh phúc là giá trị của độc lập
dân tộc, điều đó phản ánh sâu sắc mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn to lớn cùng
với vốn kiến thức của bản thân, em xin được chọn đề tài cho bài tập lớn lần này là :
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ?” Ý nghĩa và luận điểm đối với Việt Nam. 2 lOMoAR cPSD| 45568214
Bài viết được chia làm hai phần chính là: Phân tích luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Phân tích ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Bài tập lớn lần này được dựa trên cơ sở kiến thức còn eo hẹp của em về môn Tư
tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với một số tài liệu tham khảo bên ngoài nên sẽ không
tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy về bài viết trở lên hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn. PHẦN NỘI DUNG I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Để giải quyết các vấn đề dân tộc Mác - Ăngghen đã nêu ra các quan điểm có
tính chất phương pháp luận. Còn đối với Lênin lại chỉ ra hai xu hướng phát triển
khách quan của dân tộc, xây dựng cương lĩnh dân tộc tạo cơ sở cho đường lối,
chính sách dân tộc của các Đảng cộng sản trong thời đại ĐQCN. Vấn đề dân tộc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa: Thực chất của vấn đề
dân tộc thuộc địa là đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc; xây
dựng Nhà nước dân tộc.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin: Vấn đề giai cấp quyết định vấn
đề dân tộc: Dân tộc ra đời là sản phẩm của quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp;
Ở mỗi dân tộc, luôn có một giai cấp đứng ra làm đại diện. Giai cấp đại diện quyết
định lợi ích và khuynh hướng phát triển dân tộc.
Có thể nói áp bức dân tộc thực chất là áp bức giai cấp. Muốn xóa bỏ áp bức
dân tộc phải đi từ đấu tranh giai cấp, xóa bỏ giai cấp thống trị. Hồ Chí Minh đã áp
dụng và phát triển những tư tưởng để tìm ra lối đi phù hợp xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam: Vấn đề dân tộc là vấn đề trên hết và trước hết; Giải phóng dân tộc là tiền
đề giải phóng giai cấp; Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa
yêu nước gắn với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
1. Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc 3 lOMoAR cPSD| 45568214
Giữ vững độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để
chúng ta bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc của mình. Đó chính là kết tinh
của sự nghiệp đối ngoại của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng yêu nước Hồ Chí
Minh, muốn có nền độc lập hoàn toàn thì phải đứng về lập trường giai cấp vô
sản, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lenin, và đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Đó mới là nền độc lập thực sự, mang lại tự do, ấm no hạnh phúc thực sự
cho nhân dân. Trong tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh, tự do là tự do của toàn
thể dân tộc. Dân tộc chỉ có thể tự do khi đã giành được độc lập. Tự do có nghĩa
là thoát khỏi ách thống trị, áp bức bóc lột của nước ngoài. Nói tóm lại, tự do là
thoát khỏi thân phận nô lệ, của con người nô lệ mất nước. Dân tộc có quyền tự
do lưạ chọn con đường phát triển của riêng mình. Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư
tưởng bảo đảm quyền tự do của nhân dân trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày
2/9/1945. Ngay từ những câu đầu tiên, Người đã trích dẫn những "lời bất hủ"
trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ do Thomas Jefferson soạn
thảo: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã trở thành một
nước tự do và độc lập.” Độc lập, tự do, hạnh phúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Độc lập, tự do, hạnh phúc - đó là ham muốn tột bậc của Bác, đó cũng là khát
vọng lớn lao của lớp lớp các thế hệ người Việt Nam. Người dân được tự do và
hạnh phúc, đó là mục tiêu lớn lao nhất mà vì nó Hồ Chí Minh cống hiến toàn bộ
cuộc đời của mình. "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" là tư tưởng cách mạng
cốt lõi, là lẽ sống của Hồ Chí Minh và của dân tộc Việt Nam. Độc lập trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc hoàn toàn triệt để và có chủ quyền thực sự
về mọi lĩnh vực. Dân tộc Việt Nam có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Dưới sự lãnh đạo của Người, tư tưởng độc lập, tự chủ đã trở thành "sợi chỉ đỏ"
xuyên suốt và định hình các hoạt động đối ngoại từ khi lập quốc đến nay. Về
quan niệm độc lập của nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích cho
thông tin viên hãng Roi-tơ, ông V. Rao rằng: "Độc lập nghĩa là chúng tôi điều
khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào."
2. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Độc lập phải bảo đảm quyền lực tối cao về đối nội, đối ngoại và suy đến cùng là
phải đảm bảo quyền tự quyết dân tộc. Độc lập dân tộc phải được thực hiện toàn
diện, triệt để trên mọi lĩnh vực. Còn nhớ khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa
kết thúc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi đến
Hội nghị quốc tế ở Versseilles, Pháp (năm 1919) Bản yêu sách 8 điểm đòi tự do
độc lập cho thuộc địa, trong đó rất nhấn mạnh đến dân quyền khi nêu các điểm cụ 4 lOMoAR cPSD| 45568214
thể: “3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. Tự do lập hội và hội họp; 5. Tự do cư
trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”.
Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp hỏi mong muốn điều gì,
Nguyễn Ái Quốc trực diện đối đáp thẳng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng
bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” và năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đến
với Chủ nghĩa Lenin, tìm thấy con đường cách mạng vô sản cũng từ khát khao “Tự
do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn,
đấy là tất cả những điều tôi hiểu.”
Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là Nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó
dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng nhất của đất nước, dân tộc. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: nước ta là
nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ; bao nhiêu quyền hạn là của dân;
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người ý thức rất rõ vị trí của mình trong
bộ máy nhà nước, Bác nhiều lần nhắc nhở: ở nước ta từ Hồ Chủ tịch trở xuống là
đầy tớ của dân; dân đặt ở đâu thì làm đó; Người làm Chủ tịch nước cũng là nhận
sự trao quyền uỷ thác của dân. Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm chủ
nhà nước, nhà nước phải tin dân và dựa vào dân. Ngoài ra, nó còn bao hàm nội
dung khác: nhân dân có quyền tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình,
kiểm soát, kiểm tra và giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại
biểu do mình cử ra. Nhà nước vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là nhà nước phục
vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: để phục vụ
tốt nhân dân, vì dân, nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan liêu,
tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết
"các ông quan cách mạng" ra khỏi bộ máy nhà nước. “Độc lập mà người dân không
có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính
riêng…, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.”
3.Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bộc bạch rằng : “Tôi chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.” Theo Người “
Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc” mà phải gắn liền một cách hữu cơ
và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối thương.
Trong thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945), Hồ 5 lOMoAR cPSD| 45568214
Chí Minh nói rõ “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập
cũng chằng có nghĩa lý gì.” Phát biểu tại buổi họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế
hoạch kiến quốc (10/1/1946), Người lý giải: “ Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi
mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá
trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.”
“Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại,
đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm
vui, hòa bình, hạnh phúc”.
Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là nói đến người dân được hưởng đầy đủ đời sống
vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu
chính đáng. “Tự do” và “Hạnh phúc” cơ bản nhất, tối thiểu nhất theo cách nói của
Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; người
dân từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung
túc và cống hiến. Điều đó trong chế độ dân chủ cộng hòa thì mỗi người dân được
pháp luật đảm bảo điều kiện trong việc tự cải thiện đời sống riêng của mình, phát
huy tính độc lập cá nhân và phát triển toàn diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại
phúc lợi xã hội cho con người trở thành quyền công dân, mỗi người dân và toàn xã
hội đều có nghĩa vụ và trách nhiệm chung.
Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Người dân từ chỗ có ăn,
có mặc, có chỗ ở đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc. Người đủ ăn thì khá
giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Khác với các con đường cứu nước của cha ông,
gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX), hoặc chủ nghĩa tư
bản (đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Hồ Chí Minh nêu ra chân lý mang tính thời đại:"Trong thời đại ngày nay,
muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn cách nào khác con đường cách
mạng vô sản." Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, là quy luật tồn tại, phát triển
của dân tộc. “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có
thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.” “Độc lập” ở Việt Nam trong
Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân 6 lOMoAR cPSD| 45568214
chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân... xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng
Dân chủ Cộng hoà và thống nhất độc lập”. “Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi
giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5
năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành
phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không
có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt
Nam. Đối với người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự
do của nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung
dân tộc và dân chủ; độc lập dân tộc phải được gắn với hạnh phúc và tự do của nhân
dân; đồng thời, tự do và hạnh phúc của nhân dân cũng chính là giá trị sâu sắc của độc lập dân tộc. II.
Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đối với Việt Nam hiện nay.
1. Phải kiên định với mục tiêu, con đường Cách mạng mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Chúng ta luôn chủ động phát hiện, ngăn chặn “từ sớm, từ xa” các nguy cơ đối
với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của đất nước.
Quá trình hội nhập có sự tác động lẫn nhau giữa các nước lớn với nước vừa và nhỏ,
giữa các nước có thể chế chính trị - xã hội khác nhau nên sẽ xuất hiện những xung
đột về lợi ích hoặc các âm mưu chống phá từ bên ngoài. Vì vậy, việc chủ động phát
hiện từ khoảng cách xa về không gian và sớm về thời gian những nguy cơ có thể xảy
ra là yêu cầu cấp thiết phải làm để có thể chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa, hóa giải
các nguy cơ đó một cách kịp thời, hiệu quả. Phòng, chống một cách chủ động mọi
âm mưu, hoạt động lợi dụng hội nhập quốc tế để chuyển hóa nội bộ; phát hiện, ngăn
chặn kịp thời các đối tác nước ngoài lợi dụng kẽ hở về luật pháp và sơ hở, yếu kém
của ta để gây sức ép, trốn thuế, thao túng thị trường trong nước; đấu tranh với các
loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia như rửa tiền, buôn lậu, sản xuất và tiêu dùng
hàng giả, gian lận thương mại, tín dụng đen, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tăng
cường quản lý hoạt động trên mạng xã hội và internet, có biện pháp ngăn chặn các
thế lực thù địch xâm nhập vào các mạng nội bộ gây thiệt hại về kinh tế, phá hoại tư
tưởng. Ngăn chặn việc du nhập các ấn phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài để bảo đảm an ninh văn hóa. 7 lOMoAR cPSD| 45568214
2. Tiếp tục phát huy sức mạnh nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng XHCN, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải
tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng và học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng
tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền
kiểu mới do nhân dân làm chủ. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân phải nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Điều
2 của Hiến pháp 1992 khẳng định rõ: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quan điểm trên càng có ý nghĩa quan trọng
trong xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân - do nhân dân làm chủ,
nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài "dân chủ" và "nhân quyền"
cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta.
Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân". Tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền
phải quán triệt sâu sắc quan điểm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Thời
gian gần đây cả nước đang hướng về Đại hội Đảng lần thứ XIII, vấn đề là phải thống
nhất nhận thức về mối quan hệ giữa toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
với quyền lực của Nhà nước. Xét về mặt chính trị - xã hội thì nhân dân là cội nguồn
của quyền lực Nhà nước, là chủ thể quản lý đất nước. Quyền lực của Nhà nước pháp
quyền chính là quyền lực do nhân dân làm chủ trao cho Nhà nước, thay mặt cho nhân
dân quản lý xã hội. Xét về mặt quản lý, Nhà nước là một tổ chức công quyền thực
thi quyền lực. Dựa vào hệ thống pháp luật và bộ máy của mình,
3. Cố gắng củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị
Thứ nhất, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất
trong quá trình hội nhập quốc tế. Lợi ích quốc gia là hằng số, mọi vấn đề liên quan
đến quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế phải được soi chiếu từ lợi ích quốc gia,
dân tộc. Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc là giá trị cốt lõi trong quan hệ quốc tế. 8 lOMoAR cPSD| 45568214
Thứ hai, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia về chính trị - đối ngoại, kinh
tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh. Nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia là
yếu tố quyết định thành công của quá trình hội nhập quốc tế. Đó là sức mạnh được
tạo nên từ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
của khối đoàn kết toàn dân tộc, của văn hóa, con người Việt Nam; sức mạnh của nền
quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân và
thế trận an ninh nhân dân vững chắc.
Thứ ba, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa trong
quan hệ quốc tế, lấy nguyên tắc của luật pháp quốc tế để xử lý quan hệ đối ngoại.
Nước ta là một bộ phận không thể tách rời thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển
của thế giới. Xa rời sự vận động chung sẽ tự cô lập mình với thế giới bên ngoài và
ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
Là một thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam chấp nhận “luật chơi”
chung, không thể hành động đơn phương mà không tính đến lợi ích của nước khác.
Đường lối, chính sách đối ngoại và đối nội của mỗi quốc gia đều có ảnh hưởng với
những mức độ nhất định của những yếu tố tác động từ bên ngoài hoặc từ nước khác.
Trong quá trình hội nhập quốc tế vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không tránh khỏi sự va
chạm với các nước khác, khi đó sử dụng luật pháp quốc tế để xử lý, giải quyết sẽ có
sự công bằng hơn và bảo vệ độc lập, tự chủ hữu hiệu hơn.
4. Chống biểu hiện suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Ta luôn tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức chính
trị xã hội; phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh
quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế. Đảng ta đã xác
định nâng cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng và
phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của Đảng. Đảng chủ trương xây dựng
hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả; tạo chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn
chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong
Đảng, nhất là cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, cán bộ tham gia hoạt động hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực. Trên cơ sở đó, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực
hiện hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, kết hợp thành
công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 9 lOMoAR cPSD| 45568214
Chúng ta cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức trong các cơ quan quyền lực của tổ chức nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo
đức, phong cách, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn để họ thực sự là "người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân", toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân.
Đây là nhân tố "cốt lõi" bảo đảm sự thành công của nhiệm vụ xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì nhân dân. III.
Bài học thực tiễn đối với thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay
1. Quyền tự do hành động
1.1. Tổng quan quá trình hình thành “quốc gia khởi nghiệp”
Theo tờ VnEconomy số ra ngày 17/3/2021, Việt Nam đã tăng liền 13 bậc lên vị
trí thứ 59 trên thế giới, hướng tới vị thế trung tâm khởi nghiệp hàng đầu khu vực
Đông Nam Á. Tính riêng theo từng thành phố, Thủ đô Hà Nội đã lọt vào top 200
thành phố khởi nghiệp trên toàn cầu sau TP.HCM đã ấn định vị trí 225.
Tính riêng 10 tháng đầu năm 2019, hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam thu hút
29 thương vụ đầu tư với tổng số tiền được công bố lên đến 751 triệu USD. Thương
vụ lớn nhất thuộc lĩnh vực công nghệ tài chính có giá trị lên tới 300 triệu USD, đứng
thứ nhất trong số các thương vụ đầu tư vào các công ty công nghệ tài chính khu vực
Đông Nam Á. Dự báo, nếu xu hướng này tiếp tục phát triển, Việt Nam sẽ có nhiều
startup được định giá từ 500 triệu USD đến 1 tỷ USD trong thời gian tới.
Để hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đạt được những con số ấn tượng như trên,
không thể không kể đến vai trò của các nhà sáng lập (founders). Kể từ năm 2000 đến
nay, Việt Nam đã chứng kiến 3 thế hệ founders với những tư tưởng và hướng đi khác
biệt. Mặc dù có những nét khác nhau, cả 3 thế hệ này đều là những người luôn tìm
kiếm giá trị mới, thách thức những khuôn mẫu cũ và không bao giờ lùi bước trước khó khăn.
Thế hệ đầu tiên bắt đầu khởi nghiệp giai đoạn 2000-2006. Ở giai đoạn này, khởi
nghiệp công nghệ vẫn còn là một khái niệm khá xa lạ tại Việt Nam và sự cạnh tranh
đến từ các đối thủ trong nước cũng như quốc tế vẫn chưa quá khốc liệt. Thế hệ thứ
hai bắt đầu khởi nghiệp giai đoạn 2007-2014. Hầu hết công ty này đều đạt mức định
giá trên 100 triệu USD và sản phẩm của họ đã trở thành một phần quen thuộc trong
cuộc sống của nhiều người Việt Nam. Thế hệ thứ ba (bắt đầu khởi nghiệp giai đoạn
2015 - nay) là thế hệ những nhà sáng lập với nhiều nét đặc trưng so với những người tiền nhiệm.
Trải qua ba thế hệ, dù hướng đi khác nhau, các nhà sáng lập đều đã thành công
trong việc xây dựng được những công ty lớn, đem lại giá trị cho hàng triệu người 10 lOMoAR cPSD| 45568214
dùng. Đặc biệt, nhìn vào các nhà sáng lập hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể tin
tưởng vào tham vọng của họ nhằm đưa startup Việt Nam ra tầm khu vực, và xa hơn
nữa là trên toàn thế giới.
1.2. Sự ủng hộ, giúp đỡ kịp thời từ phía Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với
các doanh nghiệp trẻ
Một phần không thể thiếu trong bức tranh khởi nghiệp tại Việt Nam là sự hỗ trợ
đồng hành của chính phủ bao gồm những hoạt động như: Xây dựng hành lang pháp
lý, thiết lập cơ sở hạ tầng, tổ chức các chương trình đào tạo nhân tài và các sự kiện, cuộc thi cho startup.
Có thể thấy, chính phủ đang xem các công ty khởi nghiệp như một nguồn động
lực mới cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Một loạt các chương trình, dự án
hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp đã đem lại tác động tích cực đến tư duy của thế hệ trẻ,
góp phần thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp tại Việt Nam. Chính phủ đang xem các công
ty khởi nghiệp như một nguồn động lực mới cho sự phát triển của nền kinh tế quốc gia.
Đầu tiên, chính phủ đã có nhiều biện pháp để cải tiến hành lang pháp lý, tạo
điều kiện thuận lợi cho các startup phát triển. Trong vòng 2 năm trở lại đây, chính
phủ đã chính thức thông qua nhiều chương trình sandbox, giúp các startup được thử
nghiệm ý tưởng mới trong những ngành chưa có hệ thống pháp luật cụ thể. Một loạt
các nghị định, điều luật mới cũng được ban hành nhằm khuyến khích sự hình thành
của các startup đổi mới sáng tạo, tiêu biểu như Nghị định 13/2019/ND-CP quy định
miễn thuế trong 4 năm đầu và giảm 50% thuế trong 9 năm tiếp theo, giảm 50% lãi
suất vay cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Trong những năm gần đây, nhiều chương trình, sự kiện lớn liên quan đến khởi
nghiệp đã được chính phủ quan tâm, bảo trợ như TechFest, Startup Wheel, Vietnam
Venture Summit 2019. Các buổi đối thoại giữa chính phủ với cộng đồng doanh
nghiệp khởi nghiệp cũng thường xuyên được tổ chức để tiếp thu ý kiến, đưa ra các
đề xuất cải tiến về môi trường khởi nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng hỗ trợ khởi nghiệp đã và đang được chính
phủ đầu tư mạnh mẽ. Một loạt các khu công nghệ cao tại các thành phố lớn đã được
xây dựng như Khu Công nghệ cao TP.HCM (SHTP), Khu Công nghệ cao Đà Nẵng (Da Nang Hi-Tech Park)...
Hơn thế nữa, các chương trình đào tạo nhân tài cũng được chính phủ chú trọng,
có thể kể đến các vườn ươm như Trung tâm Hỗ trợ Thanh Niên Khởi nghiệp (BSSC), 11 lOMoAR cPSD| 45568214
các chương trình Tăng tốc khởi nghiệp như Vietnam Silicon Valley (VSV), cuộc thi Startup Wheel...
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển quan trọng nhờ vào sự hình thành của
nền kinh tế số. Với thuận lợi là một quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất
Đông Nam Á, cơ cấu dân số trẻ, đam mê công nghệ với thu nhập GDP bình quân đầu
người tăng nhanh, các startup Việt, đặc biệt là những người trẻ có thể tận dụng lợi
thế sân nhà để xây dựng nền tảng ban đầu vững chắc, từ đó tiến ra khu vực Đông
Nam Á và xa hơn là ra thị trường toàn cầu.
2. Quyền tự do ngôn luận
2.1. Tổng quan về quyền “tự do ngôn luận”
Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ
các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet nói chung và MXH nói riêng. Điều này
đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, được
cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác và được
biểu hiện sinh động trên thực tế.
Ngoài các báo điện tử, các trang tin, thông qua MXH (Facebook, YouTube,
Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể tự do chia sẻ
thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề
của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến
địa phương ở Việt Nam ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng MXH để làm việc,
giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải
quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
2.2. Sự can thiệp kịp thời của Đảng, Nhà nước và Chính phủ để tiết chế sự lạm
dụng quá đà quyền “tự do ngôn luận”
Hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ và tương thích với luật
quốc tế về quyền con người. Đặc biệt, Luật An ninh mạng (ANM), sau một năm có
hiệu lực đã dần đi vào cuộc sống, mang lại những hiệu quả rất rõ nét, thiết thực trong
đời sống xã hội. Trước, trong và sau khi luật ra đời, không ít thông tin xuyên tạc của
các thế lực thù địch, phản động cho rằng việc Việt Nam ban hành Luật ANM là "vi
phạm quyền con người, bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...". Thực tế, sau
một năm thực thi đã chứng minh Luật ANM hoàn toàn không vi phạm quyền con
người, không bóp nghẹt tự do ngôn luận, mà ngược lại đã tạo nên nền tảng pháp lý
vững chắc, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không
gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân... Mọi cá nhân 12 lOMoAR cPSD| 45568214
vẫn được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, tự do ngôn luận hoàn toàn không
bị hạn chế nếu chấp hành các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, luật đã giúp tạo
môi trường lành mạnh, an toàn. Nhiều thông tin, bài viết, video clip ảnh hưởng tiêu
cực đến chuẩn mực, đạo đức xã hội đã được ngăn chặn, xử lý; đời tư cá nhân được
bảo vệ; hoạt động kinh doanh trên môi trường mạng được bảo đảm; các đối tượng
tung tin sai lệch, nhất là về dịch Covid19 gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến
công tác phòng, chống dịch đã bị xử lý.
Môi trường tự do, dân chủ thực chất cần được tạo ra để những tài năng của đất
nước có thể phát huy năng lực trí tuệ vào việc phát minh, sáng chế, đổi mới công
nghệ. Tự do vốn là bản năng của con người cũng như của sinh vật, trong khi dân chủ
cần phải được học tập từ người dân cho đến công chức và các nhà lãnh đạo đất nước;
bởi vì việc đối xử trong các quan hệ như lãnh đạo với bị lãnh đạo, công chức với
doanh nghiệp và người dân đều phải có chuẩn mực dựa trên tinh thần lấy dân làm
gốc với tư cách là công dân và cộng đồng dân cư. Không tạo ra được môi trường tự
do, dân chủ thực chất thì khó mà phát huy được nguồn lực vô tận về trí tuệ của dân
tộc ta trong cuộc cách mạng 4.0 để đem lại hạnh phúc cho nhân dân và tạo ra sức mạnh của đất nước. 13 lOMoAR cPSD| 45568214 PHẦN KẾT LUẬN
Qua những luận điểm được nêu trên, ta có thể kết luận rằng: Độc
lập, tự chủ là ý chí sắt đá được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trở
thành giá trị cốt lõi thiêng liêng trong truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đảng ta
luôn coi độc lập, tự chủ là vấn đề có tính nguyên tắc, nhất quán, có tầm quan trọng sống
còn xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền
làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân, Đảng ta đã đúc kết thành cơ chế, chính sách quản
lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế đó
phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của các cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Bức tranh chung của thế giới hiện nay khi mà toàn cầu hóa đạt tới trình độ phát
triển chưa từng có, kéo theo tất cả các nước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế
và hội nhập quốc tế trở thành một tất yếu khách quan không thể bỏ qua hoặc cưỡng
lại. Hội nhập để phát triển, muốn phát triển phải hội nhập. Tuy nhiên, quá trình hội
nhập quốc tế luôn là sân chơi với nhiều cơ hội và không ít thách thức. Có người ví
hội nhập quốc tế như dòng sông chảy ra biển lớn, dễ bị hòa tan; hoặc như bước vào
vòng xoáy thời cuộc, bị mất phương hướng bất kể lúc nào. Lại có quan điểm cho
rằng mở cửa, hội nhập chính là đón cả gió lành và gió độc cùng vào nhà. Hội nhập
quốc tế trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt về chính trị, kinh tế, sự chi phối
của các nước lớn và những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường của thế giới, đòi
hỏi phải giữ được độc lập, tự chủ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước. Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn; chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ đất nước là một trong những
mối quan hệ quan trọng đặc biệt cần giải quyết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Việc chỉ rõ mối quan hệ này để đưa vào Cương lĩnh và Văn kiện Đại hội
của Đảng thể hiện sự sáng tạo và bước phát triển mới về tổng kết thực tiễn, nâng tầm
lý luận của Đảng trong quá trình xây dựng và bảo vệ sự nghiệp cách mạng và đi lên
xây dựng xã hội chủ nghĩa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “ Tư tưởng Hồ Chí Minh”, NXH Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019
2. Slide bài giảng của thầy Nguyễn Hồng Sơn môn “ Tư tưởng Hồ Chí Minh”,
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
3. Một số link tài liệu tham khảo từ Internet: 14 lOMoAR cPSD| 45568214
http://dukcqtw.dcs.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quyen-con-nguoiva-quyen-dan-toc-
trong-ban-tuyen-ngon-doc-lap-lich-suduk15346.aspx https://bacninh.gov.vn/news/-
/details/22344/tu-tuong-ho-chi-minhve-oc-lap-dan-toc
http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-
hoa/quyen-tu-do- ngon-luan-bao-chi-nhung-cai-gia-phai-tra-chonhan-thuc-sai-
lam/15590.html https://www.qdnd.vn/ho-so-su-kien/loi-bac-day-nam-xua/neu-
nuocdoc-lap-ma-dan-khong-huong-hanh-phuc-tu-do-thi-doc-lap-cung-changco-nghia-ly-
gi-552118 https://viettimes.vn/he-sinh-thai-khoi-nghiep-viet-nam-thang-hang-tren-
ban-do-thegioi-post132361.html https://vneconomy.vn/viet-nam-se-tro-thanh-
trung-tam-khoi-nghiep-hang-daudong-nam-a-646135.htm 15