Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ?” Ý nghĩa và luận điểm đối với Việt Nam | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ?” Ý nghĩa và luận điểm đối với Việt Nam | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING
BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI:
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có
Họ và tên sinh viên
:
Mã sinh viên
: 1122
Lớp tín chỉ
:
LLT1101(223)_
Giảng viên
:
Nguyễn Hồng Sơn
HÀ NỘI – 2024
lOMoARcPSD| 45568214
1
MỤC LỤC
lOMoARcPSD| 45568214
2
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của toàn dân tộc Việt Nam. Người là
tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý tưởng chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
của Mác – Lênin và chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, chân chính. Tư tưởng của Người vẫn
luôn được coi là ngọn cờ soi đường cho những cuộc đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác trong quá khứ và cũng vẫn luôn là “kim chỉ nam” dẫn lối cho
sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta ở hiện tại và tương lai.
Trong toàn bộ di sản về tư tưởng mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trung tâm
và được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt qua quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng
trong nước và trên thế giới của Người. Nhiều năm trôi qua kể từ ngày giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, ta càng thấm thía giá trị của độc lập. Đó là vô giá, không có gì
có thể sánh được. Trước khi qua đời, Bác vẫn luôn đau đáu về một ngày Bắc Nam sum
họp. Nhưng có một câu hỏi khác, thành quả đích thực mà nền độc lập đem lại cho người
dân là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Để làm rõ điều này, em sẽ
phân tích luận điểm của Bác cũng như làm rõ ý nghĩa của luận điểm này đối với nước ta
hiện nay.
Quá trình tìm hiểu đề tài và làm tiểu luận không tránh khỏi những sai sót, hạn chế,
mong thầy cô phụ trách bộ môn có thể nhận xét, xây dựng góp ý để bài làm của em có thể
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: Quan điểm của Hồ CMinh về cấu nền kinh tế
nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH
I. Quan điểm của Mác - Lênin về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã hội,
chủ nghĩa Mác – Lênin để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về cơ cấu nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có giá trị định hướng phát triển đi lên
của các dân tộc theo quy luật phát triển chung của thời đại và đặc thù của các quốc gia
dân tộc. Các Mác cho rằng “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội
lOMoARcPSD| 45568214
3
cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại lại là một xã
hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa”. Ở đây, C. Mác khẳng
định chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải trải
qua một giai đoạn trung gian, chuyển hoá cách mạng từ xã hội nọ thành xã hội kia; tức là
giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ quá độ.
Kế thừa, phát huy những tư tưởng của C. Mác, Lênin chỉ ra tính quy luật chung v
kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế
nhiều thành phần trong Chính sách kinh tế mới (NEP). Đồng thời, ông cũng cụ thể hoá
việc phân ra các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Năm 1918, trong tác phẩm
“Bàn về thuế lương thực”, Lênin đã nêu ra các thực thể kinh tế trong xã hội Nga Xô Viết
lúc bấy giờ, bao gồm: kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng hoá nhỏ; chủ
nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội. Như vậy, so với tính
quy luật chung về kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành
phần kinh tế phổ biến như chủ nghĩa tư bản tư nhân, tiểu sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa xã
hội thì vẫn còn tồn tại thành phần kinh tế ở trình độ phát triển thấp hơn như kinh tế nông
dân gia trưởng. Sự tồn tại và phát triển các thành phần kinh tế khác nhau, các hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Năm
thành phần kinh tế được Lênin nêu ra và sắp xếp thứ tự theo một cách có chủ đích và hàm
chứa ý nghĩa phương pháp luận. Cụ thể, thứ tự đó phản ánh trình độ sản xuất, các hình
thức vận động của chế độ sở hữu trong tiến trình lịch sử từ thấp đến cao. Mặc khác, thứ
tự đó còn thể hiện mức độ gần gũi của các thành phần kinh tế với kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Trong một nước tiểu nông, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một quá
trình lâu dài, nhiều nấc thang trung gian, chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là nấc thang
trung gian đó. Tóm lại, từ kinh tế tiểu nông xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước lên chủ
nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán trong quan niệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin.
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế nước ta trong thời kỳ
quá độ lên CNXH
1. Sự tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam
Xuất phát từ việc xem xét những đặc điểm, điều kiện cụ thể của Việt Nam, vận
dụng sáng tạo lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đưa những quan điểm cơ bản về xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh nêu rõ “Từ cộng sản
lOMoARcPSD| 45568214
4
nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa
xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy.
Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì
đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ
dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung
Quốc, Việt Nam ta,…”. Ta có thể thấy, Bác đã nhận thức rõ, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là một giai đoạn lịch sử mà nhiện vụ quan trọng nhất của chúng ta là
phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… từ đó tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội, có nền công nông nghiệp hiện đại, văn hoá, khoa học – kỹ thuật tiên
tiến. Với xuất phát điểm là một nước kinh tế còn kém phát triển, nền nông nghiệp sản
xuất nhỏ là phổ biến, công nghiệp chỉ ở bước đầu của thời kỳ tiền tư bản, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, Người xác định sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình
thức sở hữu, nhiều loại hình kinh tế trong thời kỳ quá độ là một yếu tố khách quan, có vai
trò nhất định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, để đi lên chủ nghĩa xã hội, trước hết, Đảng Cộng sản Việt
Nam phải có những nhận thức đúng đắn về thực trạng nền kinh tế - xã hội, đưa ra đường
lối, chính sách phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Người khẳng định xây dựng
chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp cách mạng của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải
trải qua nhiều giai đoạn với các bước đi thích hợp. Ngoài ra, trong thời kỳ quá độ, các
thành phần kinh tế tồn tại khách quan gắn với các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định
trong cộng đồng dân tộc. Đi lên chủ nghĩa xã hội không thể chủ quan mà phải hướng các
thành phần kinh tế cùng phát triển, tuân theo các quy luật kinh tế trong cải tạo nền kinh tế
cũ và xây dựng nền kinh tế mới của xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Người nhận định đây là
một cuộc biến đổi lâu dài, khó khăn, và đây gian khổ, chứ không phải “một sớm một
chiều”. Chúng ta cần phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới,
dần biến nước ta trở thành nước công nghiệp với nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, do có sự đan xen giữa các yếu tố của xã hội cũ và mới trong thời kỳ quá
độ; đồng thời, trình độ lực lượng sản xuất còn hạn chế và phân bố không đồng đều nên
nhiều thành phần kinh tế tồn tại khách quan, có quan hệ tác động qua lại, đan xen, bổ
sung cho nhau, tạo nên sự đa dạng các hình thức kinh tế và sản xuất kinh doanh.
2. Cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
lOMoARcPSD| 45568214
5
Việt Nam
Năm 1953, cuối giai đoạn cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh viết tác
phẩm “Thường thức chính trị”. Trong tác phẩm này, Bác chỉ ra bản chất của chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa và sáu thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do):
- Một là, kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Đây là thành phần kinh tế
của chế độ xã hội phong kiến, là tàn dư, lỗi thời trong chế độ mới. Tuy nhiên, để thực
hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, phục vụ chiến lược giải phóng dân tộc, thu hút các
địa chủ vừa và nhỏ theo cách mạng, Hồ Chí Minh không chủ trương xoá bỏ thành phần
kinh tế này mà chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức.
- Hai là, kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội. Đây là hình thức
sở hữu toàn dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống
nhất của Chính phủ nhân dân.
- Ba là, kinh tế hợp tác xã bao gồm các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã mua
bán, cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội. Đây là hình thức sở hữu tập thể của
nhân dân lao động. Nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán
những thứ mình sản xuất mà không qua các người con buôn, không bị họ bóc lột. Các hội
đổi công ở nông thôn cũng là một loại hợp tác xã.
- Bốn là, kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự
túc ít có gì bán, và cũng ít khi mua gì.
- Năm là, kinh tế tư bản của tư nhân (tư sản công thương). Đây là thành phần
kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, góp phần vào xây
dựng kinh tế vì “về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản là một tiến
bộ to. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phù hợp với lợi ích đại
đa số nhân dân”.
- Sáu là, kinh tế tư bản quốc gia là thành phần kinh tế do Nhà nước lãnh đạo,
cùng với tư bản góp vốn kinh doanh. Trong loại này tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư
bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở nhận thức về tính quy luật chung và đặc thù nền kinh tế nước ta, Hồ
Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm cơ cấu kinh tế cơ bản
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể trong từng giai đoạn cụ
thể ở Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945, về cơ cấu kinh tế
lOMoARcPSD| 45568214
6
trong vùng tự do 1945-1954, tồn tại nhiều thành phần kinh tế, bên cạnh thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa, Việt Nam vẫn còn tàn dư của kinh tế phong kiến thành phần kinh tế
phản ánh trình độ phát triển thấp với chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đây chính
là điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành
phần kinh tế và có cơ sở đưa ra hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và
góp phần đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đồng nghĩa với việc giai cấp
địa chủ phong kiến bị đánh đố, thành phần kinh tế địa chủ bóc lột địa tô bị xoá bỏ. Thời
điểm đó, miền Bắc có xuất phát điểm rất thấp với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cơ sở
vật chất nghèo nàn, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, trình độ và năng suất lao động còn
hạn chế, đội ngũ cán bộ ít kinh nghiệm. Hơn nữa, điều kiện đất nước cũng không khả
quan khi hai miền bị chia cắt, nửa hoà bình, nửa chiến tranh và tình hình thế giới rất phức
tạp với những mâu thuẫn, bất đồng bộc lộ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn
khó khăn, Người đã phân tích, lần nữa xác định cơ cấu thành phần kinh tế cũng như các
hình thức sở hữu cơ bản đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc. Hồ Chí Minh vẫn nhất
quán với quan điểm xây dựng, phát triển và sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác
nhau: Kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công
nghệ; tư bản của tư nhân; tư bản của Nhà nước”. Trong đó, kinh tế quốc doanh là thành
phần định hướng chủ nghĩa xã hội, được tập trung phát triển.
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở miền Bắc sau
1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 có những điểm thống
nhất và thay đổi nhất định. Đầu tiên, trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sự
tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là điều tất yếu, khách quan. Hai giai đoạn đều tồn tại
những thành phần phổ biến như kinh tế quốc doanh; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ
công nghệ; tư bản của tư nhân và thành phần kinh tế quá độ như các hợp tác xã; tư bn
của Nhà nước. Tuy nhiên, so với thời kháng chiến, chế độ dân chủ mới không còn thành
phần kinh tế phong kiến bởi cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Muốn đi tới chủ nghĩa cộng sản thì dân tộc phải độc lập và dân cảy phải có
ruộng: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản” (Hồ Chí Minh). Ngoài ra, các thành phần kinh tế có những thay đổi về vị trí và vai
trò đối với nền kinh tế miền Bắc. Kinh tế quốc doanh đã có một bước phát triển mới, từ
lOMoARcPSD| 45568214
7
chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội, trở thành thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ
nghĩa xã hội, có vai trò lãnh đạo và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những nhận định của Hồ Chủ tịch về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân
chủ mới ở miền Bắc sau 1954 cho thấy sự vận dụng sáng tạo của Người khi kế thừa quan
điểm của Lênin vào thực tiễn, phù hợp với đặc thù nước ta. Tư tưởng chỉ đạo có tính
nguyên tắc này đã thể hiện tư duy kinh tế sắc bén của Người.
3.. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Bác đưa ra những chính
sách kinh tế của Đảng và Chính phủ, gồm:
- Công tư đều lợi. Kinh doanh quốc doanh là công. Theo Người, kinh tế quốc
doanh là “nền tảng và sự lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra
sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm
cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị”. là những nhà tư bản dân tộc
kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc
xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Nhà nước phải ra sức hướng dẫn, giúp đỡ họ cải tiến
làm ăn, khuyến khích đi vào con đường hợp tác vì lợi ích của đại đa số nhân dân.
- Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng vì lợi ích lâu
dài, nhà nước không những không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải của
họ mà còn khuyến khích, giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Chính phủ
cũng sẽ bảo vệ quyền lợi của công nhân.
- Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các dụng cụ
khác để cung cấp cho nông dân. Nông dân cũng miệt mài tăng gia sản xuất để cung cấp
lương thực, nguyên liệu cho công nhân. Do đó cần thắt chặt liên minh công – nông.
- Lưu thông trong ngoài. Ta cố gắng khai lâm thổ sản để có thể trao đổi hàng
hoá với nước bạn. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có ích lợi chi nền kinh
tế nước nhà.
Nêu lên bốn chính sách ấy, lần nữa Bác khẳng định đây là “mấu chốt để phát triển
kinh tế nước ta”. Chỉ bằng câu nói ngắn gọn, Người cho thấy nguyên tắc khi hướng tới
mục tiêu của nền kinh tế nhiều thành phần là: “Các thành phần phải tồn tại trong mối
quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối cho nền kinh tế
lOMoARcPSD| 45568214
8
quốc dân”. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại khách quan, lâu dài của các thành phần
kinh tế, Bác đồng thời huy động sức mạnh của toàn dân tộc có liên minh công nông trí
thức làm gốc, cùng tiến vào thời kỳ mới của dân tộc – thành công xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Chương II: Sự vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về cấu
nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng Cộng
sản Việt Nam
I. Thực tiễn vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế nước ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam 1. Thành tựu
Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp dổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Vì vậy, quán triệt vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về thành phần kinh tế vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước không ngừng nâng cao nhận thức, năng lực
thực tiễn, đề ra đường lối chính sách đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cụ thể và đã
đạt được một số thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử.
Đầu tiên, Đảng và Nhà nước ta áp dụng thành công tư tưởng của Hồ Chí Minh
trong vấn đề nhận thức, ngày càng rõ ràng hơn về chế độ sở hữu và các thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, luôn quan tâm nghiên cứu, lý giải, làm sáng
tỏ lý luận và khẳng định đặc điểm có tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Đây là đặc trưng của thời kỳ quá độ, xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần “mang ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ
sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”. Thông qua các kỳ Đại hội, Đảng ta xác định nền
kinh tế nước ta “với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (12/1986), Đảng ta xác định năm thành phần kinh tế chủ yếu bao gồm: Kinh tế
hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể, gia đình); kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ; kinh tế tự
túc, tự cấp; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản nhân dân. Đến Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII (1991), năm thành phần kinh tế được nhận định: Kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Đại hội VIII
lOMoARcPSD| 45568214
9
(1996) có năm thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể,
kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Một lần nữa, tại Đại hội IX (2001), Đảng nêu
ra sáu thành phần kinh tế cơ bản: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và
kinh tế hỗn hợp (thuộc sở hữu cổ phần). Tại Đại hội X, hai thành phần kinh tế cá thể tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân được sát nhập thành một thành phần kinh tế tư nhân vì cả
hai thành phần này có điểm chung về chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Những
năm sau đó, kể từ Đại hội XI (2011) tới nay, Đảng ta chủ yếu nhấn mạnh bốn thành phần
kinh tế sau: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
Tiếp đó, ta có thể dễ dàng thấy các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đã phát
triển đa dạng, từng bước tuân thủ theo các quy luật kinh tế thị tường và phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) chỉ rõ “Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực phát triển của nền
kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở
hữu hỗn hợp đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát
triển”. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp
luật, ngày càng phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước
từng bước nắm vững vai trò chủ đạo, hệ thống doanh nghiệp được nhà nước cơ cấu lại, cổ
phần hoá theo Luật Doanh nghiệp. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức
hợp tác kiểu mới được hình thành và phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Cơ cấu đóng góp GDP của các thành phần kinh tế tới năm 2018
lOMoARcPSD| 45568214
10
Thông qua bảng về cơ cấu đóng góp GDP trên, ta dễ dàng có thể thấy trong cùng
một giai đoạn, trong khi kinh tế nhà nước chỉ loanh quanh ở mức 28% thì đóng góp vào
GDP của khu vực kinh tế tư nhân ước tính lên đến hơn 40% và còn có dấu hiệu tăng lên.
Như vậy, kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh
doanh, giải quyết việc làm cho người lao động và đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kết
hợp với tư tưởng “Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng” của Bác, Việt Nam đã
thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài cũng được khuyến khích phát triển và đã có những đóng góp quan trọng vào
việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Sau khi xoá bỏ thành công chính sách
bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch bên ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp
tác, liên kết kinh tế quốc tế trên nhiều lĩnh vực, không ngừng mở rộng quan hệ và tiến tới
tham gia liên kết kinh tế toàn cầu.
Cuối cùng, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và ý thức làm chủ
của nhân dân trong nền kinh tế nhiều thành phần được tăng cường và ngày càng hiệu quả.
Cụ thể là, Đảng đã ban hành và lãnh đạo tổ chức nhiều nghị quyết, chủ trường về kinh tế;
kịp thời điều chỉnh những chủ trương, giải pháp phù hợp với sự thay đổi của tình hình,
đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Trong Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng,
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh, bình đẳng, minh bạch
và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định
hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển”. Nhà nước ta
quản lý, điều hành nền kinh tế ngày càng sát thực, hiệu quả hơn; ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý, điều tiết nền kinh tế có nhiều tiến bộ; huy động và phân bổ các
nguồn lực từng bước phù hợp với cơ chế thị trường. Trong suốt chặng đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, nhiều quyết định đúng đắn của Đảng ta được đề xuất, đưa ra như thành
lập các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt
của đất nước nhằm điều tiết kinh tế và định hướng các thành phần kinh tế khác đi đúng
hướng xã hội chủ nghĩa. Tính dân chủ trong lĩnh vực kinh tế và vai trò làm chủ về kinh tế
của nhân dân được quan tâm và thực hiện ngày càng tốt hơn.
Kết quả của 38 năm đổi mới về kinh tế, nước ta có tốc độ tăng trưởng bình quân
khá cao dù trong điều kiện khó khăn của Covid-19. Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế
được nâng lên, GDPm 2020 đạt 343.6 tỉ USD (đứng thứ tư Đông Nam Á); tốc độ tăng
lOMoARcPSD| 45568214
11
trưởng bình quân năm năm 2016-2020 đạt khoảng 6%/ năm; thu nhập bình quân đầu
người đạt 3.521 USD (2021). Với kết quả thực tế trên, chúng ta hoàn toàn tin tưởng
đường lối của Đảng và khẳng định vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đi lên chủ nghĩa xã
hội là đúng đắn.
2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tưu đạt được nêu trên, việc phát triển nền kinh tế cơ cấu
nhiều thành phần ở nước ta vẫn còn một số hạn chế, bất cập như sau.
Một là, các thành phần kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phát triển
không đều, hiệu quả còn thấp. Ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thể
hiện được đầy đủ vai trò là lực lượng nóng cốt của kinh tế nhà nước; hoạt động sản xuất
kinh doanh còn thấp, kém hiệu quả và để xảy ra lãng phí, thất thoát vốn, phá sản. Kinh tế
tập thể thì tăng trưởng chậm, còn nhiều mặt yếu kém kéo dài. Kinh tế tư nhân phổ biến
tồn tại là các dạng quy mô nhỏ, sức cạnh tranh kém. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
chưa đáp ứng được nhu cầu mục tiêu, yêu cầu chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ
cao và trình độ quản lý tiên tiến, phần lớn hoạt động trong các ngành sử dụng nhiều lao
động, khai thác tài nguyên…. Năm 2022, ước tính chỉ tiêu về tốc độ năng suất lao động
bình quân khoảng 4.75%, thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu 6.5% được đặt ra, tốc độ
tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng điểm bình quân đạt 5.33%, trong đó tốc độ tăng
năng suất lao động của 3 trên 5 thành phố trực thuộc Trung ương chưa đạt mục tiêu.
Hai là, mô hình kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm phát triển chiều
sâu. Tăng trưởng kinh tế được thực hiện chủ yếu bằng tăng vốn đầu tư, khai thác các
nguồn lực tự nhiên và sức lao động giản đơn. Đầu tư còn dàn trải, chưa hợp lý nên hiệu
quả đầu tư thấp, thất thoát và lãng phí lớn nhưng chưa được khác phục. Các ngành kinh tế
chưa chuyển dịch mạnh về tăng năng suất, nhất là khu vục công nghiệp và dịch vụ. Cơ
cấu kinh tế các ngành dịch vụ dịch chuyển chậm, chưa xứng với tiềm năng. Đặc biệt các
ngành sử dụng tri thức, khoa học và công nghệ còn phát triển chậm. Ngoài ra, nền kinh tế
phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nên
dễ bị tổn thương và khó phục hồi trước những biến động của kinh tế thế giới.
Ba là, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước còn chậm đổi mới, hiệu lực, hiệu
quả quán lý còn nhiều hạn chế. Nhà nước ta vẫn chưa phát huy đầy đủ những mặt tích
cực và hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, chưa tách biệt rõ chức năng
chủ sở hữu với chúc năng quản lý của Nhà nước. Hoạt động triển khai và thực thi thể chế
lOMoARcPSD| 45568214
12
kinh tế thị trường còn hạn chế khi hệ thống pháp luật, chính sách chưa thực sự hoàn
chỉnh, còn nhiều bất cập. Việc thanh tra, giảm sát cùng tính minh bạch, công khai chưa
được đánh giá có hiệu quả cao.
II. Một số giải pháp để tiếp tục phát triển kinh tế theo quan điểm Hồ Chí
Minh
Để đạt được mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam hiện nay, Đảng và nhân dân ta cần tiếp
tục nghiên cứu vận dụng sáng tạo quan điểm của Người, đồng thời thực hiện một số giải
pháp để tiếp tục xây dựng nền kinh tế quốc dân.
Đầu tiên, muốn đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các mục tiêu, chúng ta cần tập trung
hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đồng bộ để thảo gỡ các rào cản, thúc đẩy quá trình
cơ cấu lại nền kinh tế. Đặc biệt coi trọng khâu thực thi thể chế, kiểm tra, giảm sát các
hoạt động kinh doanh thực tế trong nước và đảm bảo cả về mặt pháp luật quốc tế.
Bên cạnh đó là nâng cao hiệu quả đầu tư và phát huy mạnh hơn vai trò đầu tư công
dẫn dắt, kích hoạt đầu tư tư nhân, thúc đẩy hình thức đối tác công tư. Xác định rõ trách
nghiệm, vai trò của các doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh đầu tư để kinh tế nhà nước
vươn lên thực sự giữ vai trò chủ đạo.
Các hình thức, thành phần kinh tế cần có sự hợp tác hiệu quả, tạo điều kiện thuận
lợi cho kinh tế nhận hầu hết c lĩnh vực trở thành động lực quan trọng cho nên
kinh tế. Đông thời, tăng cường thu vút vốn đầu nước ngoài, nhất các dự án công
nghệ cao.
Cuối cùng, Nhà nước ta cũng nên tập trung đổi mới sáng tạo nền kinh tế gắn với
sự phát triển công nghệ mới bằng cách liên kết vùng, chuyển đổi số,… Tăng cường tiềm
lực khoa học – công nghệ và huy động, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân,
doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa lý luận thực tiễn và phương
pháp luận sâu sắc. Tư tưởng đó của Bác được Đảng Cộng sản Việt Nam ta kế thừa, vận
dụng và phát triển qua từng giai đoạn và đã đạt được những thành tựu to lớn, đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Tới nay, trải qua hơn 30 năm đổi
lOMoARcPSD| 45568214
13
mới, nền kinh tế Việt Nam không chỉ tăng nhanh về quy mô và tiềm lực, mà còn chứng
kiến vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Cho nên, ta có
thể thấy quá trình đổi mới tư duy và vận dụng sáng tạo quan điểm của Người vào sự phát
triển của đất nước là hoàn toàn phù hợp. Phát triển kinh tế nhiều thành phần vẫn là “vấn
đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài”.
lOMoARcPSD| 45568214
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. C. Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, NXH. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
6. Trường Chính trị Châu Văn Đặng tỉnh Bạc Liêu (2020), Quan điểm Hồ Chí
Minh về thành phần kinh tế và sự vận dụng của Đảng ta.
7. Trường Chính trị Lê Duẩn tỉnh Quảng Trị (2021), Quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về những thành phần kinh tế và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta.
8. Pháp luật và tuổi trẻ (2023), Nhận diện những hạn chế của nền kinh tế Việt
Nam: https://phapluat.tuoitrethudo.com.vn/nhan-dien-nhung-han-che-cua-
nenkinh-te-viet-nam-85075.html
| 1/15

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA MARKETING BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có
ý nghĩa gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với nước ta hiện nay. Họ và tên sinh viên : Mã sinh viên : 1122 Lớp tín chỉ : LLT1101(223)_ Giảng viên : Nguyễn Hồng Sơn HÀ NỘI – 2024 lOMoAR cPSD| 45568214 MỤC LỤC 1 lOMoAR cPSD| 45568214 LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại của toàn dân tộc Việt Nam. Người là
tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý tưởng chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
của Mác – Lênin và chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, chân chính. Tư tưởng của Người vẫn
luôn được coi là ngọn cờ soi đường cho những cuộc đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác trong quá khứ và cũng vẫn luôn là “kim chỉ nam” dẫn lối cho
sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta ở hiện tại và tương lai.
Trong toàn bộ di sản về tư tưởng mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn là một trong những vấn đề trung tâm
và được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt qua quá trình hoạt động thực tiễn của cách mạng
trong nước và trên thế giới của Người. Nhiều năm trôi qua kể từ ngày giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, ta càng thấm thía giá trị của độc lập. Đó là vô giá, không có gì
có thể sánh được. Trước khi qua đời, Bác vẫn luôn đau đáu về một ngày Bắc Nam sum
họp. Nhưng có một câu hỏi khác, thành quả đích thực mà nền độc lập đem lại cho người
dân là gì? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Để làm rõ điều này, em sẽ
phân tích luận điểm của Bác cũng như làm rõ ý nghĩa của luận điểm này đối với nước ta hiện nay.
Quá trình tìm hiểu đề tài và làm tiểu luận không tránh khỏi những sai sót, hạn chế,
mong thầy cô phụ trách bộ môn có thể nhận xét, xây dựng góp ý để bài làm của em có thể hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế
nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH
I. Quan điểm của Mác - Lênin về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã hội,
chủ nghĩa Mác – Lênin để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về cơ cấu nền
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có giá trị định hướng phát triển đi lên
của các dân tộc theo quy luật phát triển chung của thời đại và đặc thù của các quốc gia –
dân tộc. Các Mác cho rằng “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội 2 lOMoAR cPSD| 45568214
cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại lại là một xã
hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa”
. Ở đây, C. Mác khẳng
định chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác phải trải
qua một giai đoạn trung gian, chuyển hoá cách mạng từ xã hội nọ thành xã hội kia; tức là
giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản là một thời kỳ quá độ.
Kế thừa, phát huy những tư tưởng của C. Mác, Lênin chỉ ra tính quy luật chung về
kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế
nhiều thành phần trong Chính sách kinh tế mới (NEP). Đồng thời, ông cũng cụ thể hoá
việc phân ra các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Năm 1918, trong tác phẩm
“Bàn về thuế lương thực”, Lênin đã nêu ra các thực thể kinh tế trong xã hội Nga Xô Viết
lúc bấy giờ, bao gồm: kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; sản xuất hàng hoá nhỏ; chủ
nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội. Như vậy, so với tính
quy luật chung về kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành
phần kinh tế phổ biến như chủ nghĩa tư bản tư nhân, tiểu sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa xã
hội thì vẫn còn tồn tại thành phần kinh tế ở trình độ phát triển thấp hơn như kinh tế nông
dân gia trưởng. Sự tồn tại và phát triển các thành phần kinh tế khác nhau, các hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Năm
thành phần kinh tế được Lênin nêu ra và sắp xếp thứ tự theo một cách có chủ đích và hàm
chứa ý nghĩa phương pháp luận. Cụ thể, thứ tự đó phản ánh trình độ sản xuất, các hình
thức vận động của chế độ sở hữu trong tiến trình lịch sử từ thấp đến cao. Mặc khác, thứ
tự đó còn thể hiện mức độ gần gũi của các thành phần kinh tế với kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Trong một nước tiểu nông, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một quá
trình lâu dài, nhiều nấc thang trung gian, chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là nấc thang
trung gian đó. Tóm lại, từ kinh tế tiểu nông xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước lên chủ
nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán trong quan niệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin.
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH
1. Sự tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Xuất phát từ việc xem xét những đặc điểm, điều kiện cụ thể của Việt Nam, vận
dụng sáng tạo lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh nước ta, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đưa những quan điểm cơ bản về xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh nêu rõ “Từ cộng sản 3 lOMoAR cPSD| 45568214
nguyên thủy đến chế độ nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa
xã hội (cộng sản) - nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy.
Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau. Có nước thì
đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xô. Có nước thì phải kinh qua chế độ
dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đông Âu, Trung
Quốc, Việt Nam ta,…”.
Ta có thể thấy, Bác đã nhận thức rõ, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta là một giai đoạn lịch sử mà nhiện vụ quan trọng nhất của chúng ta là
phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,… từ đó tiến dần lên
chủ nghĩa xã hội, có nền công nông nghiệp hiện đại, văn hoá, khoa học – kỹ thuật tiên
tiến. Với xuất phát điểm là một nước kinh tế còn kém phát triển, nền nông nghiệp sản
xuất nhỏ là phổ biến, công nghiệp chỉ ở bước đầu của thời kỳ tiền tư bản, lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề, Người xác định sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình
thức sở hữu, nhiều loại hình kinh tế trong thời kỳ quá độ là một yếu tố khách quan, có vai
trò nhất định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, để đi lên chủ nghĩa xã hội, trước hết, Đảng Cộng sản Việt
Nam phải có những nhận thức đúng đắn về thực trạng nền kinh tế - xã hội, đưa ra đường
lối, chính sách phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Người khẳng định xây dựng
chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp cách mạng của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải
trải qua nhiều giai đoạn với các bước đi thích hợp. Ngoài ra, trong thời kỳ quá độ, các
thành phần kinh tế tồn tại khách quan gắn với các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định
trong cộng đồng dân tộc. Đi lên chủ nghĩa xã hội không thể chủ quan mà phải hướng các
thành phần kinh tế cùng phát triển, tuân theo các quy luật kinh tế trong cải tạo nền kinh tế
cũ và xây dựng nền kinh tế mới của xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Người nhận định đây là
một cuộc biến đổi lâu dài, khó khăn, và đây gian khổ, chứ không phải “một sớm một
chiều”
. Chúng ta cần phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới,
dần biến nước ta trở thành nước công nghiệp với nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, do có sự đan xen giữa các yếu tố của xã hội cũ và mới trong thời kỳ quá
độ; đồng thời, trình độ lực lượng sản xuất còn hạn chế và phân bố không đồng đều nên
nhiều thành phần kinh tế tồn tại khách quan, có quan hệ tác động qua lại, đan xen, bổ
sung cho nhau, tạo nên sự đa dạng các hình thức kinh tế và sản xuất kinh doanh.
2. Cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở 4 lOMoAR cPSD| 45568214 Việt Nam
Năm 1953, cuối giai đoạn cuộc kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh viết tác
phẩm “Thường thức chính trị”. Trong tác phẩm này, Bác chỉ ra bản chất của chế độ công
hữu xã hội chủ nghĩa và sáu thành phần kinh tế ở nước ta (vùng tự do): -
Một là, kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô. Đây là thành phần kinh tế
của chế độ xã hội phong kiến, là tàn dư, lỗi thời trong chế độ mới. Tuy nhiên, để thực
hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, phục vụ chiến lược giải phóng dân tộc, thu hút các
địa chủ vừa và nhỏ theo cách mạng, Hồ Chí Minh không chủ trương xoá bỏ thành phần
kinh tế này mà chỉ thực hiện giảm tô, giảm tức. -
Hai là, kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội. Đây là hình thức
sở hữu toàn dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Việc sản xuất thì do sự lãnh đạo thống
nhất của Chính phủ nhân dân. -
Ba là, kinh tế hợp tác xã bao gồm các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã mua
bán, cung cấp, có tính chất nửa chủ nghĩa xã hội. Đây là hình thức sở hữu tập thể của
nhân dân lao động. Nhân dân góp nhau để mua những thứ mình cần dùng, hoặc để bán
những thứ mình sản xuất mà không qua các người con buôn, không bị họ bóc lột. Các hội
đổi công ở nông thôn cũng là một loại hợp tác xã. -
Bốn là, kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghệ, họ thường tự
túc ít có gì bán, và cũng ít khi mua gì. -
Năm là, kinh tế tư bản của tư nhân (tư sản công thương). Đây là thành phần
kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, góp phần vào xây
dựng kinh tế vì “về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản là một tiến
bộ to. Nhưng họ phải phục tùng sự lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phù hợp với lợi ích đại đa số nhân dân”
. -
Sáu là, kinh tế tư bản quốc gia là thành phần kinh tế do Nhà nước lãnh đạo,
cùng với tư bản góp vốn kinh doanh. Trong loại này tư bản của tư nhân là chủ nghĩa tư
bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở nhận thức về tính quy luật chung và đặc thù nền kinh tế nước ta, Hồ
Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm của V.I.Lênin về đặc điểm cơ cấu kinh tế cơ bản
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể trong từng giai đoạn cụ
thể ở Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 1945, về cơ cấu kinh tế 5 lOMoAR cPSD| 45568214
trong vùng tự do 1945-1954, tồn tại nhiều thành phần kinh tế, bên cạnh thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa, Việt Nam vẫn còn tàn dư của kinh tế phong kiến – thành phần kinh tế
phản ánh trình độ phát triển thấp với chế độ sở hữu phong kiến về ruộng đất. Đây chính
là điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nhận thức rõ vị trí, vai trò của từng thành
phần kinh tế và có cơ sở đưa ra hoạch định chính sách đảm bảo ổn định nền kinh tế và
góp phần đảm bảo kháng chiến thắng lợi.
Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đồng nghĩa với việc giai cấp
địa chủ phong kiến bị đánh đố, thành phần kinh tế địa chủ bóc lột địa tô bị xoá bỏ. Thời
điểm đó, miền Bắc có xuất phát điểm rất thấp với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cơ sở
vật chất nghèo nàn, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, trình độ và năng suất lao động còn
hạn chế, đội ngũ cán bộ ít kinh nghiệm. Hơn nữa, điều kiện đất nước cũng không khả
quan khi hai miền bị chia cắt, nửa hoà bình, nửa chiến tranh và tình hình thế giới rất phức
tạp với những mâu thuẫn, bất đồng bộc lộ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn
khó khăn, Người đã phân tích, lần nữa xác định cơ cấu thành phần kinh tế cũng như các
hình thức sở hữu cơ bản đang tồn tại và hoạt động ở miền Bắc. Hồ Chí Minh vẫn nhất
quán với quan điểm xây dựng, phát triển và sử dụng nền kinh tế nhiều thành phần trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác
nhau: Kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công
nghệ; tư bản của tư nhân; tư bản của Nhà nước”
. Trong đó, kinh tế quốc doanh là thành
phần định hướng chủ nghĩa xã hội, được tập trung phát triển.
Như vậy, cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân chủ mới ở miền Bắc sau
1954 so với cơ cấu kinh tế Việt Nam trong vùng tự do 1945-1954 có những điểm thống
nhất và thay đổi nhất định. Đầu tiên, trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì sự
tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là điều tất yếu, khách quan. Hai giai đoạn đều tồn tại
những thành phần phổ biến như kinh tế quốc doanh; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ
công nghệ; tư bản của tư nhân và thành phần kinh tế quá độ như các hợp tác xã; tư bản
của Nhà nước. Tuy nhiên, so với thời kháng chiến, chế độ dân chủ mới không còn thành
phần kinh tế phong kiến bởi cải cách ruộng đất đã triệt tiêu chế độ sở hữu phong kiến về
ruộng đất. Muốn đi tới chủ nghĩa cộng sản thì dân tộc phải độc lập và dân cảy phải có
ruộng: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản” (Hồ Chí Minh)
. Ngoài ra, các thành phần kinh tế có những thay đổi về vị trí và vai
trò đối với nền kinh tế miền Bắc. Kinh tế quốc doanh đã có một bước phát triển mới, từ 6 lOMoAR cPSD| 45568214
chỗ có tính chất chủ nghĩa xã hội, trở thành thành phần kinh tế thực sự đại diện cho chủ
nghĩa xã hội, có vai trò lãnh đạo và đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những nhận định của Hồ Chủ tịch về cơ cấu thành phần kinh tế trong chế độ dân
chủ mới ở miền Bắc sau 1954 cho thấy sự vận dụng sáng tạo của Người khi kế thừa quan
điểm của Lênin vào thực tiễn, phù hợp với đặc thù nước ta. Tư tưởng chỉ đạo có tính
nguyên tắc này đã thể hiện tư duy kinh tế sắc bén của Người.
3.. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Để xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, Bác đưa ra những chính
sách kinh tế của Đảng và Chính phủ, gồm: -
Công tư đều lợi. Kinh doanh quốc doanh là công. Theo Người, kinh tế quốc
doanh là “nền tảng và sự lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Cho nên chúng ta phải ra
sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó. Đối với những người phá hoại nó, trộm
cắp của công, khai gian lậu thuế thì phải trừng trị”
. là những nhà tư bản dân tộc và
kinh tế cá nhân của nông dân và thủ công nghệ. Đó cũng là lực lượng cần thiết cho cuộc
xây dựng kinh tế nước nhà. Cho nên Nhà nước phải ra sức hướng dẫn, giúp đỡ họ cải tiến
làm ăn, khuyến khích đi vào con đường hợp tác vì lợi ích của đại đa số nhân dân. -
Chủ thợ đều lợi. Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng vì lợi ích lâu
dài, nhà nước không những không xoá bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải của
họ mà còn khuyến khích, giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Chính phủ
cũng sẽ bảo vệ quyền lợi của công nhân. -
Công nông giúp nhau. Công nhân ra sức sản xuất nông cụ và các dụng cụ
khác để cung cấp cho nông dân. Nông dân cũng miệt mài tăng gia sản xuất để cung cấp
lương thực, nguyên liệu cho công nhân. Do đó cần thắt chặt liên minh công – nông. -
Lưu thông trong ngoài. Ta cố gắng khai lâm thổ sản để có thể trao đổi hàng
hoá với nước bạn. Đó là chính sách mậu dịch, giúp đỡ lẫn nhau rất có ích lợi chi nền kinh tế nước nhà.
Nêu lên bốn chính sách ấy, lần nữa Bác khẳng định đây là “mấu chốt để phát triển
kinh tế nước ta”. Chỉ bằng câu nói ngắn gọn, Người cho thấy nguyên tắc khi hướng tới
mục tiêu của nền kinh tế nhiều thành phần là: “Các thành phần phải tồn tại trong mối
quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, tạo nên sự phát triển cân đối cho nền kinh tế
7 lOMoAR cPSD| 45568214
quốc dân”. Bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại khách quan, lâu dài của các thành phần
kinh tế, Bác đồng thời huy động sức mạnh của toàn dân tộc có liên minh công nông trí
thức làm gốc, cùng tiến vào thời kỳ mới của dân tộc – thành công xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chương II: Sự vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu
nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam
I. Thực tiễn vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế nước ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam 1. Thành tựu
Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp dổi mới, Đảng ta đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh
thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”
. Vì vậy, quán triệt vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về thành phần kinh tế vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đến nay, Đảng và Nhà nước không ngừng nâng cao nhận thức, năng lực
thực tiễn, đề ra đường lối chính sách đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cụ thể và đã
đạt được một số thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử.
Đầu tiên, Đảng và Nhà nước ta áp dụng thành công tư tưởng của Hồ Chí Minh
trong vấn đề nhận thức, ngày càng rõ ràng hơn về chế độ sở hữu và các thành phần kinh
tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, luôn quan tâm nghiên cứu, lý giải, làm sáng
tỏ lý luận và khẳng định đặc điểm có tính quy luật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là tồn tại lâu dài nhiều thành phần kinh tế. Đây là đặc trưng của thời kỳ quá độ, xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần “mang ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ
sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”
. Thông qua các kỳ Đại hội, Đảng ta xác định nền
kinh tế nước ta “với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức
kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”
. Ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (12/1986), Đảng ta xác định năm thành phần kinh tế chủ yếu bao gồm: Kinh tế xã
hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể, gia đình); kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ; kinh tế tự
túc, tự cấp; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản nhân dân. Đến Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII (1991), năm thành phần kinh tế được nhận định: Kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Đại hội VIII 8 lOMoAR cPSD| 45568214
(1996) có năm thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể,
kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Một lần nữa, tại Đại hội IX (2001), Đảng nêu
ra sáu thành phần kinh tế cơ bản: Kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và
kinh tế hỗn hợp (thuộc sở hữu cổ phần). Tại Đại hội X, hai thành phần kinh tế cá thể tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân được sát nhập thành một thành phần kinh tế tư nhân vì cả
hai thành phần này có điểm chung về chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Những
năm sau đó, kể từ Đại hội XI (2011) tới nay, Đảng ta chủ yếu nhấn mạnh bốn thành phần
kinh tế sau: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Tiếp đó, ta có thể dễ dàng thấy các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đã phát
triển đa dạng, từng bước tuân thủ theo các quy luật kinh tế thị tường và phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011) chỉ rõ “Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển.
Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực phát triển của nền
kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở
hữu hỗn hợp đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát
triển”
. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp
luật, ngày càng phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước
từng bước nắm vững vai trò chủ đạo, hệ thống doanh nghiệp được nhà nước cơ cấu lại, cổ
phần hoá theo Luật Doanh nghiệp. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức
hợp tác kiểu mới được hình thành và phù hợp hơn với cơ chế thị trường.
Cơ cấu đóng góp GDP của các thành phần kinh tế tới năm 2018 9 lOMoAR cPSD| 45568214
Thông qua bảng về cơ cấu đóng góp GDP trên, ta dễ dàng có thể thấy trong cùng
một giai đoạn, trong khi kinh tế nhà nước chỉ loanh quanh ở mức 28% thì đóng góp vào
GDP của khu vực kinh tế tư nhân ước tính lên đến hơn 40% và còn có dấu hiệu tăng lên.
Như vậy, kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh
doanh, giải quyết việc làm cho người lao động và đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kết
hợp với tư tưởng “Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng” của Bác, Việt Nam đã
thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài cũng được khuyến khích phát triển và đã có những đóng góp quan trọng vào
việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Sau khi xoá bỏ thành công chính sách
bao vây cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch bên ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp
tác, liên kết kinh tế quốc tế trên nhiều lĩnh vực, không ngừng mở rộng quan hệ và tiến tới
tham gia liên kết kinh tế toàn cầu.
Cuối cùng, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và ý thức làm chủ
của nhân dân trong nền kinh tế nhiều thành phần được tăng cường và ngày càng hiệu quả.
Cụ thể là, Đảng đã ban hành và lãnh đạo tổ chức nhiều nghị quyết, chủ trường về kinh tế;
kịp thời điều chỉnh những chủ trương, giải pháp phù hợp với sự thay đổi của tình hình,
đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Trong Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước đóng vai trò định hướng,
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh, bình đẳng, minh bạch
và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, chính sách để định
hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển”
. Nhà nước ta
quản lý, điều hành nền kinh tế ngày càng sát thực, hiệu quả hơn; ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý, điều tiết nền kinh tế có nhiều tiến bộ; huy động và phân bổ các
nguồn lực từng bước phù hợp với cơ chế thị trường. Trong suốt chặng đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, nhiều quyết định đúng đắn của Đảng ta được đề xuất, đưa ra như thành
lập các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước, nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt
của đất nước nhằm điều tiết kinh tế và định hướng các thành phần kinh tế khác đi đúng
hướng xã hội chủ nghĩa. Tính dân chủ trong lĩnh vực kinh tế và vai trò làm chủ về kinh tế
của nhân dân được quan tâm và thực hiện ngày càng tốt hơn.
Kết quả của 38 năm đổi mới về kinh tế, nước ta có tốc độ tăng trưởng bình quân
khá cao dù trong điều kiện khó khăn của Covid-19. Tiềm lực, quy mô của nền kinh tế
được nâng lên, GDP năm 2020 đạt 343.6 tỉ USD (đứng thứ tư Đông Nam Á); tốc độ tăng 10 lOMoAR cPSD| 45568214
trưởng bình quân năm năm 2016-2020 đạt khoảng 6%/ năm; thu nhập bình quân đầu
người đạt 3.521 USD (2021). Với kết quả thực tế trên, chúng ta hoàn toàn tin tưởng
đường lối của Đảng và khẳng định vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn. 2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tưu đạt được nêu trên, việc phát triển nền kinh tế cơ cấu
nhiều thành phần ở nước ta vẫn còn một số hạn chế, bất cập như sau.
Một là, các thành phần kinh tế, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phát triển
không đều, hiệu quả còn thấp. Ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thể
hiện được đầy đủ vai trò là lực lượng nóng cốt của kinh tế nhà nước; hoạt động sản xuất
kinh doanh còn thấp, kém hiệu quả và để xảy ra lãng phí, thất thoát vốn, phá sản. Kinh tế
tập thể thì tăng trưởng chậm, còn nhiều mặt yếu kém kéo dài. Kinh tế tư nhân phổ biến
tồn tại là các dạng quy mô nhỏ, sức cạnh tranh kém. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
chưa đáp ứng được nhu cầu mục tiêu, yêu cầu chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ
cao và trình độ quản lý tiên tiến, phần lớn hoạt động trong các ngành sử dụng nhiều lao
động, khai thác tài nguyên…. Năm 2022, ước tính chỉ tiêu về tốc độ năng suất lao động
bình quân khoảng 4.75%, thấp hơn khá nhiều so với mục tiêu 6.5% được đặt ra, tốc độ
tăng trưởng của các vùng kinh tế trọng điểm bình quân đạt 5.33%, trong đó tốc độ tăng
năng suất lao động của 3 trên 5 thành phố trực thuộc Trung ương chưa đạt mục tiêu.
Hai là, mô hình kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm phát triển chiều
sâu. Tăng trưởng kinh tế được thực hiện chủ yếu bằng tăng vốn đầu tư, khai thác các
nguồn lực tự nhiên và sức lao động giản đơn. Đầu tư còn dàn trải, chưa hợp lý nên hiệu
quả đầu tư thấp, thất thoát và lãng phí lớn nhưng chưa được khác phục. Các ngành kinh tế
chưa chuyển dịch mạnh về tăng năng suất, nhất là khu vục công nghiệp và dịch vụ. Cơ
cấu kinh tế các ngành dịch vụ dịch chuyển chậm, chưa xứng với tiềm năng. Đặc biệt các
ngành sử dụng tri thức, khoa học và công nghệ còn phát triển chậm. Ngoài ra, nền kinh tế
phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nên
dễ bị tổn thương và khó phục hồi trước những biến động của kinh tế thế giới.
Ba là, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước còn chậm đổi mới, hiệu lực, hiệu
quả quán lý còn nhiều hạn chế. Nhà nước ta vẫn chưa phát huy đầy đủ những mặt tích
cực và hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, chưa tách biệt rõ chức năng
chủ sở hữu với chúc năng quản lý của Nhà nước. Hoạt động triển khai và thực thi thể chế 11 lOMoAR cPSD| 45568214
kinh tế thị trường còn hạn chế khi hệ thống pháp luật, chính sách chưa thực sự hoàn
chỉnh, còn nhiều bất cập. Việc thanh tra, giảm sát cùng tính minh bạch, công khai chưa
được đánh giá có hiệu quả cao.
II. Một số giải pháp để tiếp tục phát triển kinh tế theo quan điểm Hồ Chí Minh
Để đạt được mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam hiện nay, Đảng và nhân dân ta cần tiếp
tục nghiên cứu vận dụng sáng tạo quan điểm của Người, đồng thời thực hiện một số giải
pháp để tiếp tục xây dựng nền kinh tế quốc dân.
Đầu tiên, muốn đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các mục tiêu, chúng ta cần tập trung
hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật đồng bộ để thảo gỡ các rào cản, thúc đẩy quá trình
cơ cấu lại nền kinh tế. Đặc biệt coi trọng khâu thực thi thể chế, kiểm tra, giảm sát các
hoạt động kinh doanh thực tế trong nước và đảm bảo cả về mặt pháp luật quốc tế.
Bên cạnh đó là nâng cao hiệu quả đầu tư và phát huy mạnh hơn vai trò đầu tư công
dẫn dắt, kích hoạt đầu tư tư nhân, thúc đẩy hình thức đối tác công tư. Xác định rõ trách
nghiệm, vai trò của các doanh nghiệp nhà nước, đẩy mạnh đầu tư để kinh tế nhà nước
vươn lên thực sự giữ vai trò chủ đạo.
Các hình thức, thành phần kinh tế cần có sự hợp tác hiệu quả, tạo điều kiện thuận
lợi cho kinh tế tư nhận ở hầu hết các lĩnh vực và trở thành động lực quan trọng cho nên
kinh tế. Đông thời, tăng cường thu vút vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án công nghệ cao.
Cuối cùng, Nhà nước ta cũng nên tập trung đổi mới sáng tạo nền kinh tế gắn với
sự phát triển công nghệ mới bằng cách liên kết vùng, chuyển đổi số,… Tăng cường tiềm
lực khoa học – công nghệ và huy động, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa lý luận thực tiễn và phương
pháp luận sâu sắc. Tư tưởng đó của Bác được Đảng Cộng sản Việt Nam ta kế thừa, vận
dụng và phát triển qua từng giai đoạn và đã đạt được những thành tựu to lớn, đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Tới nay, trải qua hơn 30 năm đổi 12 lOMoAR cPSD| 45568214
mới, nền kinh tế Việt Nam không chỉ tăng nhanh về quy mô và tiềm lực, mà còn chứng
kiến vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Cho nên, ta có
thể thấy quá trình đổi mới tư duy và vận dụng sáng tạo quan điểm của Người vào sự phát
triển của đất nước là hoàn toàn phù hợp. Phát triển kinh tế nhiều thành phần vẫn là “vấn
đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài”
. 13 lOMoAR cPSD| 45568214 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. C. Mác và Ăngghen (1995), Toàn tập, NXH. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
6. Trường Chính trị Châu Văn Đặng tỉnh Bạc Liêu (2020), Quan điểm Hồ Chí
Minh về thành phần kinh tế và sự vận dụng của Đảng ta.
7. Trường Chính trị Lê Duẩn tỉnh Quảng Trị (2021), Quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về những thành phần kinh tế và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta.
8. Pháp luật và tuổi trẻ (2023), Nhận diện những hạn chế của nền kinh tế Việt
Nam: https://phapluat.tuoitrethudo.com.vn/nhan-dien-nhung-han-che-cua-
nenkinh-te-viet-nam-85075.html
14