Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh : ‘ Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ’. Làm rõ Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh : ‘ Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ’. Làm rõ Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay? | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------
BÀI TẬP LỚN
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh:
“Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do
thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Họ và tên:
Nguyễn Xuân Bách
Mã sinh viên:
11210905
LLTT(123)_38
Lớp tín chỉ:
GVHD:
Nguyễn Hồng Sơn
lOMoARcPSD| 45568214
Mục lục:
A.
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................3
B. NỘI DUNG......................................................................................................................4
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội........................4
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc...............................................4
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc......................................................................4
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội.....................................................5
4. Tư tưởng Hồ Chí minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội ............................................................................................................................6
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân...................................8
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay..................................................10
C. KẾT LUẬN...................................................................................................................14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................15
A. Lời mở đầu:
Lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam chung ta chứa đựng đầy khó khăn với rất
nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, thế nhưng qua đó chúng ta có thể thấy được sự
đoàn kết và quyết tâm của nhân dân Việt Nam trong việc duy trì, bảo vệ chủ quyền. Từ thời kỳ
nhà nước Văn Lang, thời kỳ bị Bắc Thuộc bởi nhà Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, … cho đến thời
kì nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Nguyễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói: “Dân ta một lòng nồng nàn yêu nước. Đó truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước cướp nước.” Đây câu nói đã thể hiện ý chí, quyết tâm đánh giặc của nhân dân
Việt Nam và đã được thể hiện xuyên suốt chiều dài lịch sử của chúng ta. Trong suốt bốn nghìn
năm, trải qua biết bao hy sinh mất mát, tổ tiên, ông cha chúng ta đã kiên trì dựng nước và giữ
nước, từ đó giúp mỗi người con Việt Nam hiểu được giá trị to lớn của độc lập dân tộc. Thế
nhưng liệu độc lập có là đủ, liệu đó có phải là mục tiêu cuối cùng mà mọi người dân Việt Nam
hướng tới? Hay chính hạnh phúc và tự do mới là mục tiêu đó?
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà lãnh đạo thiên tài, danh nhân văn hóa thế giới, nhà luận,
tưởng đại của cách mạng Việt Nam. Người kết tinh của những tốt đẹp nhất, vị
lãnh tụ đại của dân tộc, tiêu biểu cho cốt cách, bản lĩnh dân tộc, cho bản sắc văn hóa Việt
lOMoARcPSD| 45568214
Nam từ truyền thống đến hiện đại. Trong số những di sản tư tưởng Người để lại cho toàn Đảng
và nhân dân, vấn đề độc lập dân tộc gắn với xã hội chủ nghĩa luôn là một trong những vấn đề
trọng tâm, được thhiện nét, thường xuyên trong thực tiễn hoạt động cách mạng trong cả
nước cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Trên sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn với con đường xây dựng chủ
nghĩa hội theo tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi làm luận điểm trên phân tích
tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, từ đó hiểu được ý nghĩa, giá trị với câu nói trên với
Việt Nam hiện nay.
B. Nội dung:
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc:
Mác và Ăngghen đã nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để giải quyết
các vấn đề dân tộc. Từ đó kết hợp với việc phân tích hai xu hướng về vấn đề dân tộc, Lênin đã
đưa ra “Cương lĩnh dân tộc” làm sở để Đảng Cộng sản xây dựng các nguyên tắc, chính sách
dân tộc trong thời kỳ đế quốc. “Cương lĩnh dân tộc” có ba nội dung cơ bản: mọi quốc gia; các
dân tộc có quyền tự quyết; và các liên đoàn công nhân các dân tộc. Đây được coi cương lĩnh
quốc gia của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với đoàn kết dân tộc. Cương
lĩnh dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể thiếu trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp công nhân, tuyên ngôn của Đảng Cộng sản về các vấn đề dân tộc trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải quyết đúng đắn quan hệ
dân tộc. “Cương lĩnh dân tộc” đã trở thành cơ sở lý luận về đường lối, nguyên tắc, chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề dân tộc trong tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc thuộc địa. Thực chất
của vấn đề dân tộc thuộc địa là: Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc; xây
dựng Nhà nước dân tộc. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm xuất phát từ thực tiễn Việt Nam:
“Vấn đề dân tộc vấn đề trên hết trước hết; Giải phóng dân tộc tiền đề giải phóng giai
cấp. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội; chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa quốc
tế vô sản.” Nhờ giác ngộ giai cấp, Người đã hiểu sâu sắc hơn vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, đồng thời, Người cũng có sự giác ngộ dân tộc sâu sắc hơn, nhìn nhận kiên
trì tưởng phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân. Theo Người, cách mạng giải phóng dân
tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo, phải thành lập khối đoàn kết dân tộc trên sở liên minh công nông. Tất cả
những việc đó phải được thực hiện một cách chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng
con đường bạo lực cách mạng.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc: Người
đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản thông qua nội dung của hai bản
Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Cách
lOMoARcPSD| 45568214
mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Kể từ đó,
Người đã gói gọn những chân lý vượt thời gian về các quyền cơ bản của dân tộc trong Bản
Tuyên ngôn Độc lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối
cãi được. Người cũng xác định rõ mục tiêu của cuộc đấu tranh là giành lại độc lập dân tộc:
đánh đổ đế quốc, phong kiến Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập. Người cũng khẳng
định độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và thực sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” Sự quyết
tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh phúc của nhân dân đã được thể
hiện rất rõ trong thư gửi Liên hợp quốc 1946 khi chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũn kiên quyết
chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc
và độc lập cho đất nước”.
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để: Theo Người, độc lập
dân tộc phải được thực hiện toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực. Một dân tộc độc lập thật sự
tức phải bảo đảm quyền lực tối cao về đối nội, đối ngoại suy đến cùng phải đảm bảo
quyền tự quyết dân tộc. Độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không
có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng…, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.”
Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Bác đã từng nói: “Tôi
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” Người
đánh giá rất cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi dân
được ăn no, mặc đủ. Bởi vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân, làm
cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất toàn vẹn lãnh thổ: độc lập dân tộc
thống nhất đất nước chân lý, quy luật tồn tại phát triển của dân tộc. Người khẳng định:
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là
chân lý, là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc. Người từng nói: “Đồng bào Nam Bộ là dân
nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Có
thể khẳng định tưởng độc lập n tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc tưởng xuyên
suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng Hồ Chí minh về Chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: sở chủ nghĩa hội là giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản bởi chủ nghĩa hội mặc sức sản xuất đã phát triển
cao, nền tảng kinh tế liệu sản xuất đã trở thành của chung, tuy nhiên vẫn còn những tàn
dư của của hội cũ.
lOMoARcPSD| 45568214
Dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không còn áp bức,
bóc lột, người dân được làm chủ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết phải đấu tranh chống
chủ nghĩa nhân đồng thời đề cao và tôn trọng cá tính nhân. Điều quan trọng là đảm bảo
rằng nhân cách của mỗi người phát triển lành mạnh đồng thời duy trì sự hài hòa giữa cá nhân
xã hội. Người đã nhận thức được tầm quan trọng của điều này và cho rằng chủ nghĩa xã hội
là một xã hội trong đó mọi người vì nhau, mỗi người vì mọi người.
Mục đích của chủ nghĩa hội không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần
của nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, con người được sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau. Một khía cạnh
quan trọng của mục tiêu này đảm bảo rằng người dân quyền tự quyết, dân chủ chính
tài sản vô giá của nhân dân, chính phủ được tạo ra là một chính phủ dân chủ, nghĩa là người
dân nắm quyền kiểm soát họ được hưởng mọi lợi ích quyền lợi. Người dân quyền
hành động thực thi các quyền của mình. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ chìa khóa của sự
tiến bộ và phát triển. Quan điểm này chính là nền tảng và định hướng hành động của Đảng
Nhà nước ta.
Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Chỉ chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức”. Điều này đã được lịch sử chứng minh khi trong lịch
sử, đã nhiều khuynh hướng cứu nước đã được sử dụng nhưng đều không mang lại kết qu
mong muốn đạt được. Kế thừa tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác Lê-nin, vận dụng
vào bối cảnh xã hội ở Việt Nam, bác nhận thấy: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là nguồn gốc của
tự do, bình dẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản con người đoàn kết, yêu thương
nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa hội của Việt Nam một tất yếu của lịch sử, đáp ứng
được khát vọng giải phóng dân tộc của chúng ta.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Đầu tiên, độc lập dân tộc sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa hội. Hồ Chí Minh
từng khẳng định, giành được độc lập dân tộc là bước đi tất yếu, tiên quyết trên con đường tiến
tới chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng đường nối tiếp nhau của
một tiến trình cách mạng. Hay nói cách khác, độc lập dân tộc chủ nghĩa hội hai mục
tiêu cụ thể của hai cuộc cách mạng trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam.Theo Người, con đường cách mạng của Việt Nam được chia thành hai giai đoạn: Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc n chủ
bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, trong đó giải phóng dân tộc là mục tiêu hàng đầu.
Nhiệm vụ dân chủ được thực hiện từng bước và gắn liền với mục tiêu chung là giải phóng dân
tộc. Độc lập dân tộc tạo cơ sở hoàn cảnh để giai cấp công nhân xác định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. vậy, trong giai đoạn cách mạng dân
tộc dân chủ, độc lập dân tộc phải mục tiêu trực tiếp, trước mắt cấp bách. Theo Hồ Chí
Minh, giành được độc lập bước cần thiết để xây dựng hội cộng sản. Chủ nghĩa hội
phải gắn liền với độc lập dân tộc, đó mục tiêu hàng đầu của cách mạng dân tộc dân chủ.
Cuộc cách mạng này bước đi đầu tiên trong tiến trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Độc lập dân tộc cũng nhân tố hàng đầu, tính chất quyết định giúp cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên giai đoạn tiếp theo, đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa.
lOMoARcPSD| 45568214
Thứ hai, chủ nghĩa hội điều kiên để bảo đảm nền độc lập dân tộc Với Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa hội con đường củng cố vững chắc độc lập n tộc, giải phóng dân tộc
một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh
phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân
tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc
hậu, chặng đường tiếp theo chỉ thể đi lên chủ nghĩa hội. Người khẳng định "Chỉ
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô
lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính”.
Chủ nghĩa xã hội có những phẩm chất cần thiết để củng cố những tiến bộ đạt được trong cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ bằng cách tạo ra những điều kiện thuận lợi cho độc lập và tiến b
của dân tộc. hội được hình thành sau một hội ng bằng, trong đó sự áp bức và
bóc lột bị xóa bỏ; sản xuất phát triển gắn với tiến bộ khoa học công nghệ, đời sống vật chất và
tinh thần của người lao động không ngừng được nâng cao. Đó là một hội kỷ luật, đạo đức
văn minh, nơi mỗi cá nhân đều hội phát huy hết tiềm năng của mình. Hơn nữa, dân
chủ sẽ thấm sâu vào mọi mặt của đời sống hội được thể chế hóa bằng pháp luật, được
hoàn thiện hoàn thiện thông qua quá trình phát triển kinh tế, hội, nâng cao tâm của
người dân. Đây yếu tố then chốt bảo đảm độc lập dân tộc và tạo nền tảng cho việc bảo vệ
nền độc lập dân tộc, tạo ra nền tảng ý thức bảo vệ chủ quyền dân tộc, kiên quyết đấu tranh
chống lại mọi âm mưu thôn tính, đe dọa nền độc lập, tự do của dân tộc. Điều này tạo điều kiện
cho sự củng cố độc lập dân tộc và thắng lợi hoàn toàn, triệt để của phong trào giải phóng dân
tộc.
Về điều kiện bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội: Hồ Chí Minh khẳng
định việc xây dựng, củng cố khả năng lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng Cộng sản điều
kiện tiên quyết bản để giành độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội. Không sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận động theo cách mạng vô
sản, và việc mưu cầu độc lập dân tộc tất yếu sẽ đi theo quỹ đạo của các phong trào giải phóng
dân tộc trước đây. Hồ Chí Minh đã nêu rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam khách quan. Đthực hiện mục đích của mình, Đảng phải phẩm chất liêm khiết, ý
chí kiên định, không ngừng chấn chỉnh để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, trí tuệ
lòng dũng cảm để vượt qua những thử thách ghê gớm nhất. Đảng phải ưu tiên nhiệm vụ
hiện nay xây dựng Đảng về chính trị, tưởng, tổ chức, trong đó vấn đề then chốt nâng
cao công tác cán bộ. Hơn nữa, Đảng phải xác lập, củng cố và tăng cường khối liên minh giữa
giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm cơ sở đoàn kết dân tộc.
Người đã xác định công - nông gốc, chủ lực của cách mạng, các giai tầng, nhân yêu
nước là bầu bạn của cách mạng. Thứ hai, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, nhất thiết phải
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông. Điều này đòi hỏi sự đoàn
kết của công nhân, nông dân và trí thức, tất cả đều là thành viên của Mặt trận Dân tộc Thống
nhất, một liên minh được thành lập theo tưởng Hồ Chí Minh. Cốt lõi của liên minh này
sự đoàn kết của công nhân, nông dân và trí thức, nhằm đoàn kết mọi công dân. Sự lãnh đạo
của Hồ Chí Minh tận tâm như nhau đối với cả hạt nhân và dân chúng, không thiên vị bên nào.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mặt trận y. Thứ ba, điều quan trọng tăng cường đoàn
kết quốc tế. Hồ Chí Minh nhấn mạnh ch mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới.
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Người đã thực hiện nhiều chính sách, chủ trương,
lOMoARcPSD| 45568214
biện pháp nhằm thu hút sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ
trên toàn thế giới.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ở đời làm người phải thương nước,
thương dân, thương nhân loại bị áp bức đau khổ” Người không chỉ cống hiến trọn đời cho
độc lập n tộc, tự do, ấm no hạnh phúc của nhân dân Việt Nam mà còn góp sức vào sự
nghiệp giải phóng nhân loại bị áp bức, bất công trên toàn thế giới. Người để lại cho chúng ta
một di sản tinh thần giá, đó tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó,
tưởng về chăm lo đời sống nhân dân vẫn giữ nguyên giá trị, soi đường cho cách mạng Việt
Nam vững bước trên con đường đổi mới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. tưởng đó của Người đã được Đảng Nhà nước ta cụ thể hóa đầy sáng tạo thành
đường lối, chủ trương, chính sách và từng bước được hiện thực hóa thành công, thể hiện sinh
động trong thành tựu đạt được ở từng chặng đường lịch sử cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta
trong suốt chặng đường lịch sử từ năm 1930 đến nay.
Trong tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc đạt được độc lập n tộc mang lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân được xem hai mục tiêu quan trọng trong cuộc
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã thể hiện rằng "Nếu nước độc lập dân không
hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Chính vì vậy, ngay khi giành
được độc lập, Hồ Chí Minh và chính phủ đã tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể nhằm đảm bảo
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Các nhiệm vụ có thể kể đến như: chống đói nghèo,
loại bỏ chữ, giải quyết các vấn đề xã hội nghiêm trọng; thuế thân, thuế chợ thuế đò
cũng được loại bỏ đgiảm gánh nặng thuế cho người dân; thực hiện tín ngưỡng tdo, thúc
đẩy đoàn kết trong hội nỗ lực xây dựng hthống giáo dc. Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân bao gồm không chỉ về mặt vật chất
mà còn cả tinh thần. Quan điểm chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân của Người
bao hàm các nội dung như: đời sống của người dân phải đẩy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần;
nhân dân phải được tự do với một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý bảo đảm
quyền con người của người dân một cách đầy đủ người dân thực sự là chủ trong hội mới.
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp năm 1946 và năm 1959
đã cho thấy Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bảo vệ quyền con người theo pháp luật.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”.
Chăm lo đời sống nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh miêu tả, bảo đảm để người
dân làm tròn trách nhiệm và được hưởng các quyền lợi của mình trong một xã hội tiến bộ với
hành lang pháp ngày càng hoàn thiện, để người dân thực sự làm chủ hội mới được
hưởng những lợi ích ngày càng tăng về cả vật chất lẫn tinh thần. Trong kháng chiến chống thực
dân Pháp Hồ Chí Minh đã phát đông phong trào thi đua tăng gia sản xuất, xây dựng lối sống
mới, xây dựng nền văn hóa mới, phát đông giảm tô, cải cách ruộ ng đất, đem lại đời sống vât
chất và tinh thần cho người dân. Trong thư Gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi:
“Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa... Đó là cách thiết thực của
lOMoARcPSD| 45568214
chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ phát triển chủ
nghĩa hội, trở thành hậu phương của mặt trận rộng lớn phía Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chăm lo đời
sống, hạnh phúc của nhân dân một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà nước ta hướng tới. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh, Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc không chỉ khát vọng còn do của cuộc sống, tưởng phấn đấu,
hy sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam nhân dân Việt Nam đã
kiên trì theo đuổi. Niềm tin mãnh liệt vào Độc lập - Tự do - Hạnh phúc đã thúc đẩy Việt Nam
đi theo con đường của Đảng, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 hai
cuộc kháng chiến toàn dân tộc chống Pháp và Mỹ.
Đảng ta đã xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
dựa trên tưởng của HChí Minh về chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân.
Đảng đã đra đường lối đáp ứng nguyên vọng của nhân dân, với phương châm Muố cho
dân yêu, muốn được lòng dân, việc lợi cho dân phải hết sức làm, việc hại cho dân
phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề quan hệ tới đời sống của dân, dầu k
đến đâu mặc lòng. Tất cả những việc có thể nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân phải
được đặc biệt chú ý. Đồng thời, phải huy động sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp xây dựng
đất nước với phương châm “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”.
Mọi chính sách của Đảng Nhà nước đều phải ưu tiên nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân:: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu sâu sắc nhất sự hy
sinh, chịu đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực dân đàn áp, bóc
lột nên Người luôn chăm lo cho đời sống của nhân dân, Người quan niệm “chỉ khi nhân dân
được sống ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát triển, nền đôc lâp mới bền vững”. Mọi
chính sách của Đảng Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối
với nhiệm vụ chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngay từ những ngày đầu sau
Cách mạng Tháng tám thành công, Người đã chỉ “Việc lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Người cũng khẳng định Đảng ta, Nhà nước ta là từ
nhân dân mà ra, vừa người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào
khác ngoài lợi ích của nhân dân. Vì thế, cán bộ Đảng viên và chính quyền từ trên xuống dưới
phải hết sức quan tâm đến đời sống nhân dân để tăng tính đoàn kết dân tộc, ổn định xã hội và
phát huy được tiềm lực của toàn dân.
Đảng Nhà nước phải chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp hội dễ bị tổn
thương nhất: Người không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân
Người còn dành sự quan tâm đặc biệt cho “những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương
u của mình”, những liệt anh hùng đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc. Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến các lực lượng trẻ đi đầu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
đế quốc Mỹ coi “đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội
ở nước ta”. Người cũng đề cao đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến và luôn quan tâm đến
quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ.
lOMoARcPSD| 45568214
III. Thực tế áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân tại
Việt Nam:
Nắm bắt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân đang nỗ lực tăng cường
sự nghiệp tiến bhướng tới mục tiêu đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, tiến bộ. Hiến
pháp 2013 đã khẳng định quyền độc lập của đất nước ở điều 1, trong đó nêu "Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ bao gồm
đất liền, đảo, vùng biển và bầu trời". Là một nhà nước xã hội chủ nghĩa được quản lý bởi pháp
luật và vì nhân dân, Hiến pháp nêu rõ các quyền con người, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
mọi công dân trong Chương 2, từ Điều 14 đến Điều 49.
Đảng, Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho lợi ích quốc gia, dân trí, đời sống nhân dân về
mọi mặt, "bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ hội
chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá
nhân".Đại hội 12 của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm gồm "kiên quyết, nhẫn nại đấu
tranh giành độc lập, chquyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an
toàn hội; mở rộng làm sâu sắc hơn quan hệ quốc tế; tận dụng hội vượt qua thách
thức; hội nhập hiệu quả vào cộng đồng quốc tế trong điều kiện mới; tiếp tục nâng cao vị thế,
uy tín của đất nước trên trường quốc tế". Đại hội cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải "nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giải quyết các vấn đề bức c; tăng cường quản
phát triển hội; tăng phúc lợi hội; giảm nghèo một cách bền vững". kêu gọi một vai
trò lớn hơn của yếu tố con người trong tất cả các lĩnh vực của hội. Những nhiệm vụ trọng
tâm này thể hiện sự thống nhất về quyền, lợi ích quốc gia quyền, lợi ích nghĩa vụ của
nhân dân.
Đảng và Nhà nước coi việc bảo vệ lợi ích quốc gia, trí thức và hạnh phúc của nhân dân
về mọi mặt ưu tiên hàng đầu, bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyềnlợi ích hợp pháp của
quan Nhà nước, tổ chức, nhân. Đại hội Đảng lần thứ 12 đã nêu nhiệm vụ quan trọng
kiên quyết, kiên nhẫn bảo vệ độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, givững
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Các nhiệm vụ trọng tâm khác bao gồm
bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, làm sâu sắc và mở rộng quan hệ quốc
tế, nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức, hội nhập hiệu quả vào cộng đồng quốc tế trong điều
kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Trong cuộc họp,
Quốc hội đã nhấn mạnh tầm quan trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Điều này bao gồm việc giải quyết các vấn đề như tăng cường quản lý xã hội, tăng cường phúc
lợi xã hội và xóa đói giảm nghèo thành công. Hơn nữa, Quốc hội ủng hộ việc chú trọng nhiều
hơn đến yếu tố con người trong mọi lĩnh vực của hội. Những nhiệm vụ trọng tâm này thể
hiện sự thống nhất về quyền, lợi ích quốc gia và quyền, lợi ích và nghĩa vụ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, trong chủ nghĩa hội, nhân dân lao động
người chủ duy nhất. Đó sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa hội với các chế độ xã hội
trước đó. Chế độ dân chủ chế độ mà nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của
nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các
lĩnh vực, phải được thể chế bằng pháp luật, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế hội
lOMoARcPSD| 45568214
nâng cao dân trí. Thực hiện được như thế thì độc lập mới thật sự ý nghĩa, thật sự vững
chắc. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng
Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh
tế -hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát
triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tế cho thấy, các chủ trương, chính sách về
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong gần 35 năm đổi mới đã luôn hướng tới
mục tiêu không ngừng “nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân” như Văn kiện
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định. Hơn 92 năm kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam được
thành lập 77 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nay nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam, sau 37 năm kiên
trì thực hiện đổi mới hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng về kinh tế, văn hóa, hội, an ninh, quốc phòng, qua đó nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt và chúng ta cũng phát triển tốt
về văn hóa, hội. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rệt. Đảng
Nhà nước Việt Nam đã làm việc để đảm bảo rằng mọi công dân đều thể thụ hưởng đầy đủ
các quyền cơ bản của con người, quyền công dân và quyền dân chủ. Việt Nam cũng coi trọng
thúc đẩy hợp tác quốc tế về quyền con người trên sở bình đẳng, tôn trọng, hiểu biết giữa
các quốc gia thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người. Theo đó, đời sống nhân
dân tiếp tục được cải thiện; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng hội đạt được
những kết quả tích cực; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng... Chính
phủ đề ra Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững (giai đoạn 2016 - 2020) với
số vốn từ ngân sách trung ương 41.449 tỷ đồng. Ngoài ra, Nhà nước còn bố trí 44.214 tỷ
đồng để thực hiện chính sách giảm nghèo thường xuyên, hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục,
nhà ở, tín dụng…; 70% người dân Việt Nam đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó, 13%
thuộc tầng lớp khá giả theo chuẩn thế giới, ... chính là những con số “biết nói”, góp phần từng
bước đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.
Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, vừa qua, Đảng, Chính phđã quyết định
nhiều chính sách hỗ trợ dành cho đối tượng người nghèo, các hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối
tượng bảo trợ xã hội những người thu nhập thấp 1 triệu đồng/tháng trong vòng 3 tháng,
từ tháng 4 đến tháng 6-2020, với tổng số tiền hỗ trợ từ ngân sách nhà nước 62 nghìn tỷ đồng,
tổng số hộ được hỗ trợ 2.244.000 hộ. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ
chức Lễ phát động toàn dân tham gia ng hộ phòng, chống dịch COVID-19 kêu gọi các
quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, nhân trong ngoài nước, đồng bào ta nước ngoài
với tình cảm, trách nhiệm tích cực tham gia ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19. Tổng số
tiền, hiện vật đã ủng hộ gần 1.600 tỷ đồng... Qua đó không những bảo đảm cuộc sống của
người dân, giúp họ khắc phục những khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra mà còn thể hiện
chính sách đầy nhân văn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự chăm lo kịp thời đối với người
nghèo, người lao động mất việc, thể hiện được bản chất tốt đẹp của xã hội. Để ổn định xã hội,
phát huy nguồn lực, khả năng sáng tạo của nhân dân, để nhân dân không còn đói nghèo, được
bảo đảm về an sinh xã hội, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và
Chính phủ về kinh tế phải luôn hướng tới sự ổn định và phát triển hội, thực thi hiệu quả, trở
lOMoARcPSD| 45568214
thành một động lực to lớn để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo sở vững chắc để
ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản
động. Khi nào cuộc sống của nhân dân còn đói nghèo, chưa được no ấm, hạnh phúc, thì chừng
đó, các cấp ủy đảng, chính quyền nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng chưa hoàn
thành tốt chức trách và nhiệm vụ của mình trước nhân dân.
Chăm lo đời sống nhân dân nhiệm vụ chính trị trung tâm, thước đo tiêu chí đánh
giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng Nhà nước đối với nhân dân. Vì vậy, để tiếp tục học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về “Xây dựng ý thức tôn
trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức, cụ thể hóa phạm vi điều tra, làm theo triết lý, đạo
đức, phong cách, tưởng Hồ Chí Minh nói chung về chăm lo đời sống nhân dân nói riêng gắn
với nhiệm vụ chính trị của quan, địa phương, đơn vị và nhân. Lồng ghép nội dung này
vào các sáng kiến, chương trình cụ thể của quan, cộng đồng, nhân của Đảng hàng
năm, hàng quý, giúp bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và hành động của mỗi cấp ủy
mỗi cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, kết hợp thực hiện nội dung chăm sóc đời sống nhân dân với việc tập trung giải
quyết các vấn đề trọng tâm, cấp bách từng địa phương, quan, đơn vị, kết hợp với nỗ lực
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước nhằm hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2020 và những năm tiếp theo, góp phần ngăn chặn, đẩy
lùi suy thoái triết chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tchuyển
hóa” trong nội bộ.
Thứ ba, cần chú trọng việc lựa chọn, xây dựng tuyên truyền sâu rộng những nhân,
tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo Bác về sự tận tâm, tận lực phục
vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự lan tỏa trong cộng đồng; ng cường công
tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ luật nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá
nhân không hoàn thành nhiệm vụ chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng
nhiễu, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con
người, là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ.
Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc các kiến thức nền tảng, có trình độ tay
nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành phong cách lao động
công nghiệp, sáng tạo.
C. KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội là một trong những đóng góp quý báu của
Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Sự gắn kết chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa
hội là nội dung đầy đủ nhất của tiêu chí “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” Chủ tịch Hồ C
Minh đã đề ra. Từ tiêu chí “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, trong các giai đoạn khác nhau, các
lOMoARcPSD| 45568214
mục tiêu chiến lược đã được xây dựng chi tiết, phù hợp với tình hình, nhiệm vụ để xây dựng
đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phồn vinh.
Kiên trì trên con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, khát vọng độc lập, tự do,
hạnh phúc cho dân tộc và nhân dân, sau hơn 90 năm phát triển, Việt Nam luôn kiên định theo
đuổi mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... đã
góp phần tạo nên vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Kinh tế phát triển tốt, văn hóa,
hội nhiều cải thiện, đời sống vật chất, tinh thần nhân dân tiếp tục được cải thiện rệt,
diện mạo đất nước đời sống nhân dân nhiều thay đổi. Sáu chữ “Độc lập Tdo - Hạnh
phúc” là khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành tiêu ngữ của Việt Nam,
khẳng định giá trto lớn, ý nghĩa lâu dài của nó và tiếp tục được hiện thực hóa trong các văn
kiện của Đại hội Đảng.
Trên đây chỉ những nghiên cứu, tổng hợp kiến thức của em trong một thời gian ngắn,
thể hiện cái nhìn tổng quan của bản thân em về luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả nghĩa gì”. Rất
mong thầy thể nhận xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn! Em xin chân
thành cảm ơn!
D. Tài liệu tham khảo:
1. Slide, giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
2. https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/ve-nhung-cot-loi-trong-
tutuong-ho-chi-minh-156
3. https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi-
laquan-diem-nhat-quan-xuyen-suot-cua-cach-mang-viet-nam.html
4. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/819653/cham-
lodoi-song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-giai-doan-hien-nay.aspx
5. https://prtc.ninhthuan.gov.vn/portal/Pages/2017/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-nha-nuoc-
cuadan,-do-dan,-vi-dan-.aspx
| 1/12

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh:
“Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do
thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Nguyễn Xuân Bách Mã sinh viên: 11210905
Lớp tín chỉ: LLTT(123)_38 GVHD: Nguyễn Hồng Sơn lOMoAR cPSD| 45568214 Mục lục: A.
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................................3
B. NỘI DUNG......................................................................................................................4
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội........................4
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc...............................................4
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc......................................................................4
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội.....................................................5
4. Tư tưởng Hồ Chí minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội ............................................................................................................................6
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân...................................8
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay..................................................10
C. KẾT LUẬN...................................................................................................................14
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................15 A. Lời mở đầu:
Lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam chung ta chứa đựng đầy khó khăn với rất
nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, thế nhưng qua đó chúng ta có thể thấy được sự
đoàn kết và quyết tâm của nhân dân Việt Nam trong việc duy trì, bảo vệ chủ quyền. Từ thời kỳ
nhà nước Văn Lang, thời kỳ bị Bắc Thuộc bởi nhà Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, … cho đến thời
kì nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Nguyễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ
xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng
vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước.” Đây là câu nói đã thể hiện ý chí, quyết tâm đánh giặc của nhân dân
Việt Nam và đã được thể hiện xuyên suốt chiều dài lịch sử của chúng ta. Trong suốt bốn nghìn
năm, trải qua biết bao hy sinh mất mát, tổ tiên, ông cha chúng ta đã kiên trì dựng nước và giữ
nước, từ đó giúp mỗi người con Việt Nam hiểu được giá trị to lớn của độc lập dân tộc. Thế
nhưng liệu độc lập có là đủ, liệu đó có phải là mục tiêu cuối cùng mà mọi người dân Việt Nam
hướng tới? Hay chính hạnh phúc và tự do mới là mục tiêu đó?
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo thiên tài, danh nhân văn hóa thế giới, nhà lý luận,
tư tưởng vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người là kết tinh của những gì tốt đẹp nhất, là vị
lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, tiêu biểu cho cốt cách, bản lĩnh dân tộc, cho bản sắc văn hóa Việt lOMoAR cPSD| 45568214
Nam từ truyền thống đến hiện đại. Trong số những di sản tư tưởng Người để lại cho toàn Đảng
và nhân dân, vấn đề độc lập dân tộc gắn với xã hội chủ nghĩa luôn là một trong những vấn đề
trọng tâm, được thể hiện rõ nét, thường xuyên trong thực tiễn hoạt động cách mạng trong cả
nước và cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”.
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn với con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi làm rõ luận điểm trên và phân tích
tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, từ đó hiểu được ý nghĩa, giá trị với câu nói trên với Việt Nam hiện nay. B. Nội dung:
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc:
Mác và Ăngghen đã nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để giải quyết
các vấn đề dân tộc. Từ đó kết hợp với việc phân tích hai xu hướng về vấn đề dân tộc, Lênin đã
đưa ra “Cương lĩnh dân tộc” làm cơ sở để Đảng Cộng sản xây dựng các nguyên tắc, chính sách
dân tộc trong thời kỳ đế quốc. “Cương lĩnh dân tộc” có ba nội dung cơ bản: mọi quốc gia; các
dân tộc có quyền tự quyết; và các liên đoàn công nhân các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh
quốc gia của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với đoàn kết dân tộc. Cương
lĩnh dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể thiếu trong cương lĩnh cách
mạng của giai cấp công nhân, là tuyên ngôn của Đảng Cộng sản về các vấn đề dân tộc trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn quan hệ
dân tộc. “Cương lĩnh dân tộc” đã trở thành cơ sở lý luận về đường lối, nguyên tắc, chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là vấn đề dân tộc thuộc địa. Thực chất
của vấn đề dân tộc thuộc địa là: Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc; xây
dựng Nhà nước dân tộc. Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm xuất phát từ thực tiễn Việt Nam:
“Vấn đề dân tộc là vấn đề trên hết và trước hết; Giải phóng dân tộc là tiền đề giải phóng giai
cấp. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa yêu nước gắn với chủ nghĩa quốc
tế vô sản.” Nhờ giác ngộ giai cấp, Người đã hiểu sâu sắc hơn vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân, đồng thời, Người cũng có sự giác ngộ dân tộc sâu sắc hơn, nhìn nhận và kiên
trì lý tưởng phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân. Theo Người, cách mạng giải phóng dân
tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo, phải thành lập khối đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông. Tất cả
những việc đó phải được thực hiện một cách chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng
con đường bạo lực cách mạng.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc:
Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc: Người
đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản thông qua nội dung của hai bản
Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của Cách lOMoAR cPSD| 45568214
mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Kể từ đó,
Người đã gói gọn những chân lý vượt thời gian về các quyền cơ bản của dân tộc trong Bản
Tuyên ngôn Độc lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối
cãi được. Người cũng xác định rõ mục tiêu của cuộc đấu tranh là giành lại độc lập dân tộc:
đánh đổ đế quốc, phong kiến Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập. Người cũng khẳng
định độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và thực sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” Sự quyết
tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh phúc của nhân dân đã được thể
hiện rất rõ trong thư gửi Liên hợp quốc 1946 khi chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũn kiên quyết
chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc
và độc lập cho đất nước”.
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để: Theo Người, độc lập
dân tộc phải được thực hiện toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực. Một dân tộc độc lập thật sự
tức là phải bảo đảm quyền lực tối cao về đối nội, đối ngoại và suy đến cùng là phải đảm bảo
quyền tự quyết dân tộc. Độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không
có quân đội riêng, không có nền tài chính riêng…, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.”
Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Bác đã từng nói: “Tôi
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” Người
đánh giá rất cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân
được ăn no, mặc đủ. Bởi vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đòi hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân, làm
cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ: độc lập dân tộc và
thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc. Người khẳng định:
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là
chân lý, là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc. Người từng nói: “Đồng bào Nam Bộ là dân
nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Có
thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc là tư tưởng xuyên
suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng Hồ Chí minh về Chủ nghĩa xã hội:
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: sở dĩ chủ nghĩa xã hội là giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản bởi vì chủ nghĩa xã hội mặc dù sức sản xuất đã phát triển
cao, nền tảng kinh tế là tư liệu sản xuất đã trở thành của chung, tuy nhiên vẫn còn những tàn dư của của hội cũ. lOMoAR cPSD| 45568214
Dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không còn áp bức,
bóc lột, người dân được làm chủ. Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết phải đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân đồng thời đề cao và tôn trọng cá tính cá nhân. Điều quan trọng là đảm bảo
rằng nhân cách của mỗi người phát triển lành mạnh đồng thời duy trì sự hài hòa giữa cá nhân
và xã hội. Người đã nhận thức được tầm quan trọng của điều này và cho rằng chủ nghĩa xã hội
là một xã hội trong đó mọi người vì nhau, mỗi người vì mọi người.
Mục đích của chủ nghĩa xã hội không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, con người được sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
quyền lợi của cá nhân và tập thể vừa thống nhất, vừa gắn bó chặt chẽ với nhau. Một khía cạnh
quan trọng của mục tiêu này là đảm bảo rằng người dân có quyền tự quyết, dân chủ chính là
tài sản vô giá của nhân dân, chính phủ được tạo ra là một chính phủ dân chủ, có nghĩa là người
dân nắm quyền kiểm soát và họ được hưởng mọi lợi ích và quyền lợi. Người dân có quyền
hành động và thực thi các quyền của mình. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là chìa khóa của sự
tiến bộ và phát triển. Quan điểm này chính là nền tảng và định hướng hành động của Đảng và Nhà nước ta.
Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức”. Điều này đã được lịch sử chứng minh khi trong lịch
sử, đã có nhiều khuynh hướng cứu nước đã được sử dụng nhưng đều không mang lại kết quả
mong muốn đạt được. Kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác Lê-nin, vận dụng
vào bối cảnh xã hội ở Việt Nam, bác nhận thấy: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là nguồn gốc của
tự do, bình dẳng, bác ái, xóa bỏ những bức tường dài ngăn cản con người đoàn kết, yêu thương
nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là một tất yếu của lịch sử, đáp ứng
được khát vọng giải phóng dân tộc của chúng ta.
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội:
Đầu tiên, độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh
từng khẳng định, giành được độc lập dân tộc là bước đi tất yếu, tiên quyết trên con đường tiến
tới chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai chặng đường nối tiếp nhau của
một tiến trình cách mạng. Hay nói cách khác, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hai mục
tiêu cụ thể của hai cuộc cách mạng trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam.Theo Người, con đường cách mạng của Việt Nam được chia thành hai giai đoạn: Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân tộc dân chủ
bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược hàng đầu, trong đó giải phóng dân tộc là mục tiêu hàng đầu.
Nhiệm vụ dân chủ được thực hiện từng bước và gắn liền với mục tiêu chung là giải phóng dân
tộc. Độc lập dân tộc tạo cơ sở và hoàn cảnh để giai cấp công nhân xác định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Vì vậy, trong giai đoạn cách mạng dân
tộc dân chủ, độc lập dân tộc phải là mục tiêu trực tiếp, trước mắt và cấp bách. Theo Hồ Chí
Minh, giành được độc lập là bước cần thiết để xây dựng xã hội cộng sản. Chủ nghĩa xã hội
phải gắn liền với độc lập dân tộc, vì đó là mục tiêu hàng đầu của cách mạng dân tộc dân chủ.
Cuộc cách mạng này là bước đi đầu tiên trong tiến trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Độc lập dân tộc cũng là nhân tố hàng đầu, có tính chất quyết định giúp cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên giai đoạn tiếp theo, đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa. lOMoAR cPSD| 45568214
Thứ hai, chủ nghĩa xã hội là điều kiên để bảo đảm nền độc lập dân tộc Với Hồ Chí ̣
Minh, chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc
một cách hoàn toàn triệt để. Độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no, hạnh
phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách mạng dân
tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc
hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định "Chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô
lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính”.
Chủ nghĩa xã hội có những phẩm chất cần thiết để củng cố những tiến bộ đạt được trong cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ bằng cách tạo ra những điều kiện thuận lợi cho độc lập và tiến bộ
của dân tộc. Xã hội được hình thành sau nó là một xã hội công bằng, trong đó sự áp bức và
bóc lột bị xóa bỏ; sản xuất phát triển gắn với tiến bộ khoa học công nghệ, đời sống vật chất và
tinh thần của người lao động không ngừng được nâng cao. Đó là một xã hội kỷ luật, đạo đức
và văn minh, nơi mỗi cá nhân đều có cơ hội phát huy hết tiềm năng của mình. Hơn nữa, dân
chủ sẽ thấm sâu vào mọi mặt của đời sống xã hội và được thể chế hóa bằng pháp luật, được
hoàn thiện và hoàn thiện thông qua quá trình phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao tâm lý của
người dân. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm độc lập dân tộc và tạo nền tảng cho việc bảo vệ
nền độc lập dân tộc, tạo ra nền tảng ý thức bảo vệ chủ quyền dân tộc, kiên quyết đấu tranh
chống lại mọi âm mưu thôn tính, đe dọa nền độc lập, tự do của dân tộc. Điều này tạo điều kiện
cho sự củng cố độc lập dân tộc và thắng lợi hoàn toàn, triệt để của phong trào giải phóng dân tộc.
Về điều kiện bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh khẳng
định việc xây dựng, củng cố khả năng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản là điều
kiện tiên quyết cơ bản để giành độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Không có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì cách mạng Việt Nam không thể vận động theo cách mạng vô
sản, và việc mưu cầu độc lập dân tộc tất yếu sẽ đi theo quỹ đạo của các phong trào giải phóng
dân tộc trước đây. Hồ Chí Minh đã nêu rõ vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam là khách quan. Để thực hiện mục đích của mình, Đảng phải có phẩm chất liêm khiết, ý
chí kiên định, không ngừng chấn chỉnh để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, trí tuệ
và lòng dũng cảm để vượt qua những thử thách ghê gớm nhất. Đảng phải ưu tiên nhiệm vụ
hiện nay là xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trong đó vấn đề then chốt là nâng
cao công tác cán bộ. Hơn nữa, Đảng phải xác lập, củng cố và tăng cường khối liên minh giữa
giai cấp công nhân, nông dân và trí thức làm cơ sở đoàn kết dân tộc.
Người đã xác định công - nông là gốc, là chủ lực của cách mạng, các giai tầng, cá nhân yêu
nước là bầu bạn của cách mạng. Thứ hai, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, nhất thiết phải
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông. Điều này đòi hỏi sự đoàn
kết của công nhân, nông dân và trí thức, tất cả đều là thành viên của Mặt trận Dân tộc Thống
nhất, một liên minh được thành lập theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cốt lõi của liên minh này là
sự đoàn kết của công nhân, nông dân và trí thức, nhằm đoàn kết mọi công dân. Sự lãnh đạo
của Hồ Chí Minh tận tâm như nhau đối với cả hạt nhân và dân chúng, không thiên vị bên nào.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mặt trận này. Thứ ba, điều quan trọng là tăng cường đoàn
kết quốc tế. Hồ Chí Minh nhấn mạnh cách mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới.
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Người đã thực hiện nhiều chính sách, chủ trương, lOMoAR cPSD| 45568214
biện pháp nhằm thu hút sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ trên toàn thế giới.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ở đời và làm người phải thương nước,
thương dân, thương nhân loại bị áp bức đau khổ” và Người không chỉ cống hiến trọn đời cho
độc lập dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam mà còn góp sức vào sự
nghiệp giải phóng nhân loại bị áp bức, bất công trên toàn thế giới. Người để lại cho chúng ta
một di sản tinh thần vô giá, đó là tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó, tư
tưởng về chăm lo đời sống nhân dân vẫn giữ nguyên giá trị, soi đường cho cách mạng Việt
Nam vững bước trên con đường đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Tư tưởng đó của Người đã được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hóa đầy sáng tạo thành
đường lối, chủ trương, chính sách và từng bước được hiện thực hóa thành công, thể hiện sinh
động trong thành tựu đạt được ở từng chặng đường lịch sử cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta
trong suốt chặng đường lịch sử từ năm 1930 đến nay.
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc đạt được độc lập dân tộc và mang lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân được xem là hai mục tiêu quan trọng trong cuộc
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ rằng "Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Chính vì vậy, ngay khi giành
được độc lập, Hồ Chí Minh và chính phủ đã tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể nhằm đảm bảo
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Các nhiệm vụ có thể kể đến như: chống đói nghèo,
loại bỏ mù chữ, và giải quyết các vấn đề xã hội nghiêm trọng; thuế thân, thuế chợ và thuế đò
cũng được loại bỏ để giảm gánh nặng thuế cho người dân; thực hiện tín ngưỡng tự do, thúc
đẩy đoàn kết trong xã hội và nỗ lực xây dựng hệ thống giáo dục. Tầm nhìn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân bao gồm không chỉ về mặt vật chất
mà còn cả tinh thần. Quan điểm chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân của Người
bao hàm các nội dung như: đời sống của người dân phải đẩy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần;
nhân dân phải được tự do với một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý bảo đảm
quyền con người của người dân một cách đầy đủ và người dân thực sự là chủ trong xã hội mới.
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong Hiến pháp năm 1946 và năm 1959
đã cho thấy Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bảo vệ quyền con người theo pháp luật.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc,
ai cũng được học hành”.
Chăm lo đời sống nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh miêu tả, là bảo đảm để người
dân làm tròn trách nhiệm và được hưởng các quyền lợi của mình trong một xã hội tiến bộ với
hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện, để người dân thực sự làm chủ xã hội mới và được
hưởng những lợi ích ngày càng tăng về cả vật chất lẫn tinh thần. Trong kháng chiến chống thực
dân Pháp Hồ Chí Minh đã phát đông phong trào thi đua tăng gia sản xuất,̣ xây dựng lối sống
mới, xây dựng nền văn hóa mới, phát đông giảm tô, cải cách ruộ ng đất,̣ đem lại đời sống vât
chất và tinh thần cho người dân. Trong thư ̣Gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu gọi:
“Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa... Đó là cách thiết thực của lOMoAR cPSD| 45568214
chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ phát triển chủ
nghĩa xã hội, trở thành hậu phương của mặt trận rộng lớn phía Nam trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chăm lo đời
sống, hạnh phúc của nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Nhà nước ta hướng tới. Trong thời kỳ Hồ Chí Minh, Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc không chỉ là khát vọng mà còn là lý do của cuộc sống, là lý tưởng phấn đấu,
hy sinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã
kiên trì theo đuổi. Niềm tin mãnh liệt vào Độc lập - Tự do - Hạnh phúc đã thúc đẩy Việt Nam
đi theo con đường của Đảng, dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và hai
cuộc kháng chiến toàn dân tộc chống Pháp và Mỹ.
Đảng ta đã xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
dựa trên tư tưởng của Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Đảng đã đề ra đường lối đáp ứng nguyên vọng của nhân dân, với phương châm “Muốṇ cho
dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân
phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề quan hệ tới đời sống của dân, dầu khó
đến đâu mặc lòng. Tất cả những việc có thể nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân phải
được đặc biệt chú ý. Đồng thời, phải huy động sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp xây dựng
đất nước với phương châm “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”.
Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước đều phải ưu tiên nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân:: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu sâu sắc nhất sự hy
sinh, chịu đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực dân đàn áp, bóc
lột nên Người luôn chăm lo cho đời sống của nhân dân, Người quan niệm “chỉ khi nhân dân
được sống ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát triển, nền đôc lâp mới bền vững”. Mọi
chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối
với nhiệm vụ chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngay từ những ngày đầu sau
Cách mạng Tháng tám thành công, Người đã chỉ rõ “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Người cũng khẳng định Đảng ta, Nhà nước ta là từ
nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào
khác ngoài lợi ích của nhân dân. Vì thế, cán bộ Đảng viên và chính quyền từ trên xuống dưới
phải hết sức quan tâm đến đời sống nhân dân để tăng tính đoàn kết dân tộc, ổn định xã hội và
phát huy được tiềm lực của toàn dân.
Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã hội dễ bị tổn
thương nhất: Người không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc của các tầng lớp nhân dân mà
Người còn dành sự quan tâm đặc biệt cho “những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương
máu của mình”, những liệt sĩ anh hùng đã anh dũng hy sinh cho Tổ quốc. Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến các lực lượng trẻ đi đầu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ coi “đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội
ở nước ta”. Người cũng đề cao đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến và luôn quan tâm đến
quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ. lOMoAR cPSD| 45568214
III. Thực tế áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo hạnh phúc của nhân dân tại Việt Nam:
Nắm bắt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân đang nỗ lực tăng cường
sự nghiệp tiến bộ hướng tới mục tiêu đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng, tiến bộ. Hiến
pháp 2013 đã khẳng định quyền độc lập của đất nước ở điều 1, trong đó nêu rõ "Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ bao gồm
đất liền, đảo, vùng biển và bầu trời". Là một nhà nước xã hội chủ nghĩa được quản lý bởi pháp
luật và vì nhân dân, Hiến pháp nêu rõ các quyền con người, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
mọi công dân trong Chương 2, từ Điều 14 đến Điều 49.
Đảng, Nhà nước ưu tiên hàng đầu cho lợi ích quốc gia, dân trí, đời sống nhân dân về
mọi mặt, "bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá
nhân".Đại hội 12 của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm gồm "kiên quyết, nhẫn nại đấu
tranh giành độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an
toàn xã hội; mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ quốc tế; tận dụng cơ hội và vượt qua thách
thức; hội nhập hiệu quả vào cộng đồng quốc tế trong điều kiện mới; tiếp tục nâng cao vị thế,
uy tín của đất nước trên trường quốc tế". Đại hội cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải "nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giải quyết các vấn đề bức xúc; tăng cường quản lý
phát triển xã hội; tăng phúc lợi xã hội; giảm nghèo một cách bền vững". Nó kêu gọi một vai
trò lớn hơn của yếu tố con người trong tất cả các lĩnh vực của xã hội. Những nhiệm vụ trọng
tâm này thể hiện sự thống nhất về quyền, lợi ích quốc gia và quyền, lợi ích và nghĩa vụ của nhân dân.
Đảng và Nhà nước coi việc bảo vệ lợi ích quốc gia, trí thức và hạnh phúc của nhân dân
là về mọi mặt là ưu tiên hàng đầu, bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân. Đại hội Đảng lần thứ 12 đã nêu rõ nhiệm vụ quan trọng là
kiên quyết, kiên nhẫn bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Các nhiệm vụ trọng tâm khác bao gồm
bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, làm sâu sắc và mở rộng quan hệ quốc
tế, nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức, hội nhập hiệu quả vào cộng đồng quốc tế trong điều
kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Trong cuộc họp,
Quốc hội đã nhấn mạnh tầm quan trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Điều này bao gồm việc giải quyết các vấn đề như tăng cường quản lý xã hội, tăng cường phúc
lợi xã hội và xóa đói giảm nghèo thành công. Hơn nữa, Quốc hội ủng hộ việc chú trọng nhiều
hơn đến yếu tố con người trong mọi lĩnh vực của xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm này thể
hiện sự thống nhất về quyền, lợi ích quốc gia và quyền, lợi ích và nghĩa vụ của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là
người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội
trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ mà nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn đề thuộc bản chất của
nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các
lĩnh vực, phải được thể chế bằng pháp luật, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế xã hội lOMoAR cPSD| 45568214
và nâng cao dân trí. Thực hiện được như thế thì độc lập mới thật sự có ý nghĩa, thật sự vững
chắc. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng và
Nhà nước ta vận dụng, cụ thể hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát
triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tế cho thấy, các chủ trương, chính sách về
phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong gần 35 năm đổi mới đã luôn hướng tới
mục tiêu không ngừng “nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” như Văn kiện
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định. Hơn 92 năm kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam được
thành lập và 77 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập, khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và sau 37 năm kiên
trì thực hiện đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu
quan trọng về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, qua đó nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt và chúng ta cũng phát triển tốt
về văn hóa, xã hội. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã làm việc để đảm bảo rằng mọi công dân đều có thể thụ hưởng đầy đủ
các quyền cơ bản của con người, quyền công dân và quyền dân chủ. Việt Nam cũng coi trọng
thúc đẩy hợp tác quốc tế về quyền con người trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng, hiểu biết giữa
các quốc gia và thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người. Theo đó, đời sống nhân
dân tiếp tục được cải thiện; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được
những kết quả tích cực; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng... Chính
phủ đề ra Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững (giai đoạn 2016 - 2020) với
số vốn từ ngân sách trung ương là 41.449 tỷ đồng. Ngoài ra, Nhà nước còn bố trí 44.214 tỷ
đồng để thực hiện chính sách giảm nghèo thường xuyên, hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục,
nhà ở, tín dụng…; 70% người dân Việt Nam đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó, 13%
thuộc tầng lớp khá giả theo chuẩn thế giới, ... chính là những con số “biết nói”, góp phần từng
bước đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.
Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, vừa qua, Đảng, Chính phủ đã quyết định
nhiều chính sách hỗ trợ dành cho đối tượng người nghèo, các hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối
tượng bảo trợ xã hội là những người có thu nhập thấp 1 triệu đồng/tháng trong vòng 3 tháng,
từ tháng 4 đến tháng 6-2020, với tổng số tiền hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là 62 nghìn tỷ đồng,
tổng số hộ được hỗ trợ là 2.244.000 hộ. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ
chức Lễ phát động toàn dân tham gia ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19 kêu gọi các cơ
quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, đồng bào ta ở nước ngoài
với tình cảm, trách nhiệm tích cực tham gia ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19. Tổng số
tiền, hiện vật đã ủng hộ là gần 1.600 tỷ đồng... Qua đó không những bảo đảm cuộc sống của
người dân, giúp họ khắc phục những khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra mà còn thể hiện
chính sách đầy nhân văn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự chăm lo kịp thời đối với người
nghèo, người lao động mất việc, thể hiện được bản chất tốt đẹp của xã hội. Để ổn định xã hội,
phát huy nguồn lực, khả năng sáng tạo của nhân dân, để nhân dân không còn đói nghèo, được
bảo đảm về an sinh xã hội, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và
Chính phủ về kinh tế phải luôn hướng tới sự ổn định và phát triển xã hội, thực thi hiệu quả, trở lOMoAR cPSD| 45568214
thành một động lực to lớn để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo cơ sở vững chắc để
ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản
động. Khi nào cuộc sống của nhân dân còn đói nghèo, chưa được no ấm, hạnh phúc, thì chừng
đó, các cấp ủy đảng, chính quyền nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng chưa hoàn
thành tốt chức trách và nhiệm vụ của mình trước nhân dân.
Chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo và tiêu chí đánh
giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân. Vì vậy, để tiếp tục học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về “Xây dựng ý thức tôn
trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức, cụ thể hóa phạm vi điều tra, làm theo triết lý, đạo
đức, phong cách, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung về chăm lo đời sống nhân dân nói riêng gắn
với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân. Lồng ghép nội dung này
vào các sáng kiến, chương trình cụ thể của cơ quan, cộng đồng, cá nhân và của Đảng hàng
năm, hàng quý, giúp bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và hành động của mỗi cấp ủy và
mỗi cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, kết hợp thực hiện nội dung chăm sóc đời sống nhân dân với việc tập trung giải
quyết các vấn đề trọng tâm, cấp bách ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị, kết hợp với nỗ lực
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước nhằm hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2020 và những năm tiếp theo, góp phần ngăn chặn, đẩy
lùi suy thoái triết lý chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Thứ ba, cần chú trọng việc lựa chọn, xây dựng và tuyên truyền sâu rộng những cá nhân,
tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo Bác về sự tận tâm, tận lực phục
vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự lan tỏa trong cộng đồng; tăng cường công
tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ luật nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá
nhân không hoàn thành nhiệm vụ chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng
nhiễu, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ.
Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự nghiệp này được thực hiện bằng chính nguồn lực con
người, là những con người có tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ.
Để phát triển, con người phải được trang bị vững chắc các kiến thức nền tảng, có trình độ tay
nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành phong cách lao động công nghiệp, sáng tạo. C. KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một trong những đóng góp quý báu của
Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Sự gắn kết chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội là nội dung đầy đủ nhất của tiêu chí “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đề ra. Từ tiêu chí “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, trong các giai đoạn khác nhau, các lOMoAR cPSD| 45568214
mục tiêu chiến lược đã được xây dựng chi tiết, phù hợp với tình hình, nhiệm vụ để xây dựng
đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phồn vinh.
Kiên trì trên con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, khát vọng độc lập, tự do,
hạnh phúc cho dân tộc và nhân dân, sau hơn 90 năm phát triển, Việt Nam luôn kiên định theo
đuổi mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng... đã
góp phần tạo nên vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Kinh tế phát triển tốt, văn hóa,
xã hội có nhiều cải thiện, đời sống vật chất, tinh thần nhân dân tiếp tục được cải thiện rõ rệt,
diện mạo đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Sáu chữ “Độc lập Tự do - Hạnh
phúc” là khát vọng cháy bỏng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành tiêu ngữ của Việt Nam,
khẳng định giá trị to lớn, ý nghĩa lâu dài của nó và tiếp tục được hiện thực hóa trong các văn
kiện của Đại hội Đảng.
Trên đây chỉ là những nghiên cứu, tổng hợp kiến thức của em trong một thời gian ngắn,
thể hiện cái nhìn tổng quan của bản thân em về luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập
mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”. Rất
mong thầy có thể nhận xét và góp ý để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn! Em xin chân thành cảm ơn!
D. Tài liệu tham khảo:
1. Slide, giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
2. https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/ve-nhung-cot-loi-trong- tutuong-ho-chi-minh-156
3. https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/doc-lap-dan-toc-gan-lien-voi-chu-nghia-xa-hoi-
laquan-diem-nhat-quan-xuyen-suot-cua-cach-mang-viet-nam.html
4. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/819653/cham-
lodoi-song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-giai-doan-hien-nay.aspx
5. https://prtc.ninhthuan.gov.vn/portal/Pages/2017/Tu-tuong-Ho-Chi-Minh-ve-nha-nuoc- cuadan,-do-dan,-vi-dan-.aspx