Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh : ‘ Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ’. Làm rõ Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay? | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh : ‘ Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì ’. Làm rõ Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay? | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ --- --- BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI :
Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “ Nước độc lập mà người dân không ý thức
được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” . Làm rõ ý
nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
GVHD : TS. Nguyễn Hồng Sơn
Họ tên : Bùi Thị Xuân Thúy MSV : 11216611
Lớp tín chỉ : Tư tưởng Hồ Chí Minh 33 Hà Nội- 09/2023 lOMoAR cPSD| 45568214 MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề ............................................................................................................ 1
2. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 2
B. NỘI DUNG ................................................................................................................ 2
I. Khái quát chung ..................................................................................................... 2
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội....................... 3
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc .................................................................... 3
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ............................................. 5
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội .......................................... 6
4. Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa ................................. 7
III. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân .............. 10
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng: ..................................................................................................................... 11
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng ...... 12
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ........................... 12
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã .. 12
hội dễ bị tổn thương nhất ..................................................................................... 12
IV. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay .......................................... 13
V. Bài học thực tiễn đối với thế hệ trẻ Việt Nam ................................................... 15
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................. 16
D. DANH MỤC THAM KHẢO ................................................................................. 17 lOMoAR cPSD| 45568214 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề
Việt Nam là đất nước được hình thành từ rất sớm và có lịch sử phát triển lâu dài,
có vị trí địa chính trị chiến lược quan trọng, là nơi giao lưu, hội tụ của nhiều nền văn
hóa nên thường bị người nước ngoài bỏ qua. sống dưới ách nô lệ khốn khổ. Và quả
thật, trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của tổ tiên ta, trải qua biết bao
hy sinh, mất mát, mỗi người Việt Nam đều phải hiểu được giá trị to lớn của độc lập
dân tộc. Chính vì lẽ đó mà phương châm “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” từ năm 1945
đến nay không hề thay đổi về nội dung hay hình thức trình bày mà ngày càng nhận
thức rõ hơn về bản chất cũng như ý nghĩa lịch sử, thiêng liêng và quan trọng của nó.
Dân tộc nào cũng mong muốn độc lập, không ai không hướng tới tự do - hạnh phúc,
chính vì vậy tiêu chí của nhà nước ta cũng là mẫu số chung của đoàn kết quốc tế, kết
hợp sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của dân tộc ta. Sức mạnh của nhân loại
tiến bộ, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại.
Cho đến nay, độc lập dân tộc luôn là mục tiêu hàng đầu của mọi quốc gia, dân
tộc, nhất là các nước nhỏ, yếu. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy sự mất mát và phát triển
của mỗi dân tộc đều gắn liền với việc chinh phục và giữ vững khu vực độc lập của
mình. Sống độc lập vẫn là khát vọng chân thành và chính đáng của nhân dân các nước trên thế giới.
Độc lập dân tộc vừa có giá trị tinh thần vừa có giá trị vật chất. Một quốc gia có
vị thế bình đẳng trên trường quốc tế hay không, mọi công dân của một quốc gia có
thể sống một cuộc sống hạnh phúc, bình yên hay không phụ thuộc rất lớn vào nền
độc lập của dân tộc. Nhưng đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta. Người
có công chức bao giờ cũng có nghĩa là đất nước độc lập nhưng người dân không được
hưởng tự do thì độc lập là vô nghĩa.
Độc lập của một dân tộc là điều kiện để dân tộc đó có được hòa bình, ổn định
chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, thống nhất lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Nó
phải “được đo bằng năng lực, điều kiện bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi tình trạng
nô lệ, lệ thuộc, áp bức, bóc lột, nô dịch; bảo đảm cho dân tộc này thoát khỏi đói
nghèo, lạc hậu, tụt hậu so với các dân tộc trên thế giới hiện nay, đạt tới đỉnh cao giàu
có, văn minh, hiện đại, công bằng và bình đẳng. 1 lOMoAR cPSD| 45568214 2.
Tính cấp thiết của đề tài
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đi làm rõ luận
điểm trên và xem rằng ý nghĩa của nó có còn giá trị với Việt Nam hiện nay không.
Thông qua những tìm hiểu của bản thân thì em đã phân tích luận điểm của chủ tịch Hồ
Chí Minh: “ Nước độc lập mà người dân không ý thức được hưởng hạnh phúc tự
do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, từ đí thấy được giá trị và ý nghĩa của
quan điểm trên đối với Việt Nam hiện nay.
Phần nội dung chính bao gồm các phần chính sau đây: I. Khái quát chung II.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
III. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do,hạnh phúc của nhân dân
IV. Ý nghãi của luận điểm đối với thực tiễn Việt Nam hiện nay V.
Bài học thực tiễn đối với thế hệ trẻ Viêt Nam
Bài làm sau đây của em là sự cố gắng tìm tòi, nghiên cứu tuy nhiên vẫn
không thể tránh khỏi những sai sót còn tồn tạ, vì vậy em mong thầy cô sẽ theo
dõi, thông cảm và đưa ra những lời góp ý chân thành để chúng em hoàn thiện bài làm của mình.
Em xin chân thành cảm ơn! B. NỘI DUNG I. Khái quát chung
Từ xa xưa dân tộc ta có lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm. Các thế
hệ người Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để bảo vệ nền độc lập của mình mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng. Đặc biệt, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng ta trong những năm cuối của nửa đầu thế kỷ XX mà đỉnh cao là Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đã đưa Việt Nam trở thành một dân tộc tiên phong trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Chân lý “Không có 2 lOMoAR cPSD| 45568214
gì quý hơn độc lập, tự do” không những là sự thể hiện một cách sinh động nhân sinh
quan của dân tộc Việt Nam, mà còn góp phần thức tinh nhân dân lao động ở một loạt
nước thuộc địa các châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh đứng lên tự giải phóng mình.
Quyền được hưởng độc lập và quyết tâm bảo vệ quyền thiêng liêng đó của dân tộc
Việt Nam được ông cha ta khẳng định qua bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt - bản
tuyên ngôn đầu tiên của đất nước, qua khúc khải hoàn ca Bình Ngô Đại cáo của
Nguyễn Trãi. Một lần nữa, quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm đó được Hồ Chí
Minh khẳng định một cách đanh thép: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Không chỉ có vậy, đối với dân tộc ta ngày nay, độc lập dân tộc luôn gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân
dân ta giương cao trong suốt tiến trình cách mạng. Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh". Lựa chọn con đường phát triển lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã giành
được độc lập là sự lựa chọn đúng dẫn của các dân tộc trong thời đại ngày nay, phù
hợp với quy luật khách quan và xu thế phát triển của lịch sử xã hội. Bởi vì, chỉ có chủ
nghĩa xã hội mới hoàn toàn giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới xoá bỏ căn nguyên sâu xa của
tình trạng người bóc lột người và đưa dân tộc tới sự phồn vinh về kinh tế, sự phát
triển phong phú về văn hoá, mới thực hiện đầy đủ nhất quyền lực của nhân dân. II.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội 1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc -
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về dân tộc:
Mác và Ăngghen nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để giải
quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu hướng của
vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra "Cương lĩnh dân tộc" tao cơ sở cho đường lối,
chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa với ba 3 lOMoAR cPSD| 45568214
nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết;
liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với liên kết dân tộc. Cương lĩnh dân
tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể tách rời trong cương lĩnh
cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên ngôn về vấn đề dân tộc của đảng cộng
sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở thành cơ sở lý luận cho chủ
trương, đường lối và chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa. -
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc
thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng liêng,
bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần nhuyễn lập
trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng thể. Nhưng
trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích
dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và
do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ
giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về
dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân.
Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về
nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và
kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản,
phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết
toàn dân trên nền tảng của liên minh công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng
tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng. 4 lOMoAR cPSD| 45568214 2.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Tinh
thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống Việt
Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc,
tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: “ Cái mà tôi cần nhất trên đời là:
Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người đã sớm nhận thức được
đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích cực đấu tranh giành lại quyền thiêng liêng đó: •
Người đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản thông qua
nội dung của hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có giá
trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Từ đó Người đã khái quát nên những
chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc trong bản Tuyên ngôn
độc lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải
không ai chối cãi được”. •
Xác định rõ mục tiêu đấu tranh là đầu tiên là giành lại độc lập cho dân tộc: a.
Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b.
Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập •
Khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng bất khả xâm phạm: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước tự do và độc
lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” •
Quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh phúc của
nhân dân. Trong thư gửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “
Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi
cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn
vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. 5 lOMoAR cPSD| 45568214 -
Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân: Nếu nước
độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có ý nghĩa
gì. Người đánh giá rất cao học thuyết “ Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập tự
do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Dân chỉ biết rõ ý nghĩa
của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi vậy khi đất nước giành
được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi chính phủ cách mạng
phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân, làm cho dân có ăn có mặc, có
chỗ ở, được học hành. Người cho rằng phải thực hiện thành công 4 điều đó để dân
ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức cho tự do độc lập. -
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để: Hồ Chí
Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập dân tộc –chủ
quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật sự tức là các
quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo, dân tộc đó có quyền tự quyết trên tất cả
các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là nước độc lập phải thực
sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt Nam. -
Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:độc lập dân
tộc và thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát triển đất nước. Người
khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. Có thể khẳng định
tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. 3.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: với tư cách là một
chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng
và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. -
Dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không
còn áp bức, bóc lột, người dân được làm chủ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải 6 lOMoAR cPSD| 45568214
chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo đảm cho
mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài hoà giữa cá nhân
và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh đưa ra quan niệm,
chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi người, mọi người vì mình. -
Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng mà Người đặc
biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chế
độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân; dân chủ
là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển. Quan niệm này đã đặt nền tảng và giữ vai
trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta. 4.
Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa
a. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là cơ sở để tiến lên xã hội chủ nghĩa
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng
dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng dân tộc là
nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước và phục tùng
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc
lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận này được Hồ Chí
Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu thuẫn khách quan tồn tại
của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến. Lịch sử phát triển loài người chứng
tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang tính phổ biến. Với dân tộc Việt Nam, đó còn
là một giá trị thiêng liêng, được bảo vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết
bao thế hệ người Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và
dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc lập
giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập
dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân 7 lOMoAR cPSD| 45568214
lao động. Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân
chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản
lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách
mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội
càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc dân chủ được thể hiện: -
Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do giai cấp công nhân lãnh đạo. -
Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã hội
chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân. -
Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần:
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, khối quần chúng công - nông - trí thức và
các giai tầng xã hội khác đã có ý thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc
thống nhất; những nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tóm lại, độc lập dân tộc
tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa
xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời
đại mới chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân. Điều này làm cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh khác biệt về chất với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ ở nước ta và
nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai
trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc là
toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức.
Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên chủ
nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa 8 lOMoAR cPSD| 45568214
xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam được chi phối và chế
định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó. b, Chủ nghĩa xã hội củng cố
vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách triệt để Về lý luận, độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và
mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách mạng.
Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục tiêu trước mắt là điều kiện tiên
quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng thì mục
tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn
cách mạng không có bức tường ngăn cách, cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở,
tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no,
hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của
cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào
lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã
hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành
quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho
độc lập và phát triển dân tộc. Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một
nội dung sâu sắc, triệt để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không
chỉ củng cố những giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác
lập các điều kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức
khỏi ách nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập
thật sự, chân chính. Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt
đẹp, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một
xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và
không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một
xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí,
anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị, làm
bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 9 lOMoAR cPSD| 45568214
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực phát
triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với các
thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động
liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân. Trên phạm vi
quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các dân tộc, đặc biệt
các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội; mặt khác chủ nghĩa
xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn chặn các cuộc chiến tranh
đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín muồi thì
các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh, đất nước càng
có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng phòng thủ. Không có
một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc bằng chủ nghĩa xã
hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự
bảo vệ và biết cách bảo vệ Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân
dân lao động là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội
với các chế độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân
chủ là vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải được phát huy trên tất cả các
lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá
trình phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết
định vận mệnh của dân tộc, tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có
khả năng chống trả bất kỳ một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực
hiện được một xã hội như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp
giải phóng dân tộc mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để
III. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành được độc lập dân tộc và đem lại cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho người dân là hai mục tiêu cốt lõi của cách mạng Việt Nam; độc
lập dân tộc và ấm no, hạnh phúc là hai nội dung xuyên suốt, bao trùm có quan hệ
khăng khít và biện chứng. Người đã chỉ rõ: “Nước độc lập mà người dân không được 10 lOMoAR cPSD| 45568214
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”. Quan điểm này của
Người được thể hiện ở một số luận điểm sau:
1. Chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng:
Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, đất nước giành được độc lập nhưng hậu
quả của chiến tranh để lại hết sức nặng nề khiến nhân dân phải sống trong cảnh khốn
cùng, nạn đói đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đề cập đến một nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ mới là phải chăm lo cho
đời sống của nhân dân. Vì vậy ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam mới, Người đã đề ra sáu nhiệm cụ cấp bách cần giải quyết nhằm đáp
ứng những đòi hỏi trước mắt của nhân dân là chống nạn đói, chống nạn dốt và các tệ
nạn xã hội khác; xóa bỏ thuế thân, thuế chơ, thuế đò,… Để thực hiện các nhiệm vụ
trên, Người đã viết tâm thư kêu gọi toàn quốc ra sức cứu đói và những lời khẩn thiết
kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!... Đó là
cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập” hay lời kêu gọi “một
miếng khi đói bằng một gói khi no” mà Người đã gương mẫu thực hiện.
Cùng với đó, chiến dịch diệt giặc dốt cũng được phát động, phong trào thanh
toán nạn mù chữ được dâng cao trên cả nước. Công tác văn hóa, giáo dục cũng được
chính quyền mới quan tâm đẩy mạnh. Để thiết lập cơ sở pháp lý cho nhà nước kiểu
mới của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra
Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp, khẳng định quyền làm chủ đất nước và các
quyền tự do, dân chủ khác của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc chăm
lo cho hạnh phúc của nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng của đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Điều đó được thể hiện ngay trong quan điểm
của Người về chủ nghĩa xã hội. Người nói “ Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già
không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt thì dần được xóa
bỏ. Tóm lại, xã họi ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt,
đó là chủ nghĩa xã hội” 11 lOMoAR cPSD| 45568214
2. Mọi chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng tới mục tiêu từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhiệm vụ
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngay từ những ngày đầu sau Cách
mạng Tháng tám thành công, Người đã chỉ rõ “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức
làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Người cũng khẳng định Đảng ta, Nhà
nước ta là từ nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân
dân, không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân. Vì thế, cán bộ Đảng viên
và chính quyền từ trên xuống dưới phải hết sức quan tâm đến đời sống nhân dân để
tăng tính đoàn kết dân tộc, ổn định xã hội và phát huy được tiềm lực của toàn dân.
3. Đảng và Nhà nước phải có chính sách nhằm giúp đỡ những tầng lớp xã
hội dễ bị tổn thương nhất
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm chăm lo hạnh phúc của các tầng lớp
nhân dân mà Người còn dành sự quan tâm đặc biệt cho “những người đã dũng cảm
hy sinh một phần xương máu của mình”, những liệt sĩ anh hùng đã anh dũng hy sinh
cho Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến các lực lượng trẻ đi đầu
trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ coi “đó là đội quân
chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Người cũng
đề cao đóng góp của phụ nữ trong kháng chiến và luôn quan tâm đến quyền bình đẳng thật sự của phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cảm thông và hiểu sâu sắc nhất sự hy sinh, chịu
đựng gian khổ của nông dân qua hàng trăm năm bị phong kiến thực dân đàn áp, bóc
lột nên Người luôn chăm lo cho đời sống của nhân dân, Người quan niệm “chỉ khi
nhân dân được sống ấm no, hạnh phúc thì đất nước mới phát triển, nền đôc lâp mới bền vững”. 12 lOMoAR cPSD| 45568214 IV.
Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động
là người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế
độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ mà nhân dân làm chủ, dân chủ là vấn
đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải
được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế bằng pháp luật, nâng cao
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và nâng cao dân trí. Thực hiện được như thế
thì độc lập mới thật sự có ý nghĩa, thật sự vững chắc. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng, cụ thể
hóa trong Hiến pháp, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng chế độ, chính sách phát
triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì một nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tế cho thấy, các chủ trương,
chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong gần 35 năm đổi
mới đã luôn hướng tới mục tiêu không ngừng “nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân” như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định. Theo đó, đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội đạt được những kết quả tích cực; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân
được chú trọng... Chính phủ đề ra Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững (giai đoạn 2016 - 2020) với số vốn từ ngân sách trung ương là 41.449 tỷ đồng.
Ngoài ra, Nhà nước còn bố trí 44.214 tỷ đồng để thực hiện chính sách giảm nghèo
thường xuyên, hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở, tín dụng…; 70% người
dân Việt Nam đã được bảo đảm về mặt kinh tế, trong đó, 13% thuộc tầng lớp khá giả
theo chuẩn thế giới,... chính là những con số “biết nói”, góp phần từng bước đặt nền
móng cho sự phát triển bền vững của Việt
Nam trong tương lai. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19, vừa qua, Đảng,
Chính phủ đã quyết định nhiều chính sách hỗ trợ dành cho đối tượng người nghèo,
các hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội là những người có thu nhập
thấp 1 triệu đồng/tháng trong vòng 3 tháng, từ tháng 4 đến tháng 6-2020, với tổng số
tiền hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là 62 nghìn tỷ đồng, tổng số hộ được hỗ trợ là
2.244.000 hộ. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức Lễ phát động 13 lOMoAR cPSD| 45568214
toàn dân tham gia ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19 kêu gọi các cơ quan, đơn vị,
tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, đồng bào ta ở nước ngoài với
tình cảm, trách nhiệm tích cực tham gia ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19. Tổng
số tiền, hiện vật đã ủng hộ là gần 1.600 tỷ đồng... Qua đó không những bảo đảm cuộc
sống của người dân, giúp họ khắc phục những khó khăn do đại dịch COVID-19 gây
ra mà còn thể hiện chính sách đầy nhân văn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự chăm
lo kịp thời đối với người nghèo, người lao động mất việc, thể hiện được bản chất tốt đẹp của xã hội.
Để ổn định xã hội, phát huy nguồn lực, khả năng sáng tạo của nhân dân, để nhân
dân không còn đói nghèo, được bảo đảm về an sinh xã hội, các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước và Chính phủ về kinh tế phải luôn hướng tới sự
ổn định và phát triển xã hội, thực thi hiệu quả, trở thành một động lực to lớn để củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Khi nào cuộc
sống của nhân dân còn đói nghèo, chưa được no ấm, hạnh phúc, thì chừng đó, các cấp
ủy đảng, chính quyền nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng chưa hoàn thành
tốt chức trách và nhiệm vụ của mình trước nhân dân. Chăm lo đời sống nhân dân là
nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân. Vì vậy, để tiếp tục học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về “Xây dựng ý thức tôn
trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh”, cần tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, nâng cao nhận thức, cụ thể hóa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, về chăm lo đời sống nhân dân nói riêng gắn
với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân. Đưa nội dung này
vào chương trình, kế hoạch cụ thể của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân hằng
năm, hằng quý, nhất là thành chuyên đề sinh hoạt tại chi bộ gắn với nhiệm vụ chuyên
môn, bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức và hành động của mỗi cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên.
Hai là, gắn thực hiện nội dung chăm lo đời sống nhân dân với việc tập trung
giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; với
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu 14 lOMoAR cPSD| 45568214
nước nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị năm 2020 và những năm tiếp
theo, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Ba là, chú trọng việc lựa chọn, xây dựng và tuyên truyền sâu rộng những cá
nhân, tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập, làm theo Bác về sự tận
tâm, tận lực phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân để tạo sự lan tỏa trong
cộng đồng; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ luật nghiêm
những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ chăm lo đời
sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu, làm suy giảm lòng tin của nhân
dân vào Đảng và chế độ.
Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp
nhân dân ta đang thực hiện, diễn ra trên mọi mặt của đời sống và sản xuất. Sự nghiệp
này được thực hiện bằng chính nguồn lực con người. Đó là những con người có tri
thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ, về quản lý và dịch vụ. Để phát triển, con người
phải được trang bị vững chắc về học vấn nền tảng, đào tạo con người có trình độ tay
nghề, nắm vững công nghệ, khoa học, kĩ thuật trong sản xuất, hình thành phong cách
lao động công nghiệp, lao động sáng tạo. V.
Bài học thực tiễn đối với thế hệ trẻ Việt Nam
Với triết lý : “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”, chủ tịch Hồ Chí Minh lại lập tức lãnh đọa thực hiện những
nhiệm vụ làm cho nhân dân ta hạnh phúc, xứng đáng là công dân tự do của nước độc lập.
Cái mục đích cuối cùng ta muốn hướng đến đó là ;àm cho dân nước ta xứng đấn
với tự do đọc lập và giúp sức được cho sự độc lập. Để thựuc hiện được những mục
tiêu đó, Việt nam hiên nay càng ngày phải thay đổi trong cách truyền đạt, đẩy mạnh 15 lOMoAR cPSD| 45568214
tinh thần cầu thị do do hạnh phúc cho giới trẻ. Giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức
dân tộc cho tuổi trẻ Việt Nam để thế hệ trẻ thực sự trở thành lực lượng tiên phong
trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, trở thành những người chủ tương lai
của đất nước là công việc có ý nghĩa cấp thiết hiện nay.
Ý thức dân tộc là một thành tố của chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc là một
hệ thống tư tưởng khẳng định sự tôn nghiêm, lợi ích và giá trị của quốc gia trong quan
hệ so sánh với các quốc gia khác. Nó được thể hiện ở tính tự tôn, giá trị văn hóa dân
tộc, ý thức dân tộc và bản sắc dân tộc mạnh mẽ. Khái niệm chủ nghĩa dân tộc chỉ bắt
đầu xuất hiện ở phương Tây từ thời cận đại với nội dung đề cao bản sắc dân tộc, độc
lập dân tộc và quyền tự quyết của dân tộc. Nếu hiểu ý thức dân tộc là ý thức của một
dân tộc, thì chủ nghĩa yêu nước là sự thể hiện cao nhất của ý thức quốc gia, còn chủ
nghĩa dân tộc là sự thể hiện cao nhất của ý thức dân tộc. Hiện nay, chủ nghĩa yêu nước
ngày càng thay thế chủ nghĩa dân tộc và ý thức dân tộc cũng ngày càng hòa quyện
với chủ nghĩa yêu nước.
Ý thức dân tộc không thể hình thành từ vũ lực hay từ sức ép bên ngoài, mà được
hình thành một cách tự nhiên từ bên trong một tộc người hoặc trong một dân tộc có
nhiều tộc người, với các nhân tố ngôn ngữ chung, lãnh thổ, tín ngưỡng, lối sống,
phong tục, ý thức tự giác tộc người,... và các yếu tố tự nhiên khác.
Sự cố kết dân tộc và sức mạnh của văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng, không
chỉ ở phương Đông, mà còn ở các quốc gia phương Tây. Trong thế kỷ XIX, khi chủ
nghĩa dân tộc trỗi dậy ở phương Tây, nhiều quốc gia đã đặc biệt chú ý đến mối quan
hệ giữa giáo dục và ý thức dân tộc, tầm quan trọng của giáo dục ý thức dân tộc. C. KẾT LUẬN
Như vậy, có thể khẳng định rằng, đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội không nằm ngoài mong muốn của Hồ Chí Minh là làm cho người
dân được tự do, có đời sống vật chất đầy đủ, đời sống tinh thần phong phú. Mục tiêu
đó của Người phản ánh nguyện vọng của nhân dân và được Đảng ta thể hiện trong
đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vì con người. Là lãnh tụ của Đảng
Cộng sản Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, hơn ai hết, Hồ Chí Minh đã cảm nhận một 16 lOMoAR cPSD| 45568214
cách rõ ràng, sâu sắc về vai trò của quần chúng nhân dân đối với cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước.
Giáo dục ý thức dân tộc có vai trò vô cùng quan trọng và gắn liền với việc xây
dựng ý thức cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Ý thức cộng đồng, quốc gia, dân tộc là
điều kiện tiên quyết để đoàn kết dân tộc, là chìa khóa để hội tụ bản sắc dân tộc, là cội
nguồn của tự tôn dân tộc, là sức mạnh của tinh thần dân tộc. Văn hóa Việt Nam, văn
hiến Việt Nam với sự đa dạng sắc màu của các dân tộc đã trở thành một thể thống
nhất. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi - luận điểm bất hủ ấy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh thật giản dị, nhưng lại hết sức sâu sắc, thấm đậm tính triết lý và thể hiện
trọn vẹn niềm tự hào, tự cường dân tộc của mọi người dân đất Việt. Thực vậy, đất
nước Việt Nam là của người Việt Nam thuộc cộng đồng 54 dân tộc anh em luôn hòa
thuận, kết thành một khối thống nhất và bền vững để cùng sáng tạo nên lịch sử của mình
Bài làm của em được tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau nhưng đều trên cơ
sở dựa vào bài giảng của thầy cũng như nội dung trong giáo trình. Tuy nhiên vẫn sẽ
có nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được những lời góp ý, nhận xét của thầy để em
dần hoàn thiện kỹ năng, kiến thức của mình hơn. Em cảm ơn thầy nhiều ạ! D. DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
2. https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Ve-nhung-
cotloitrong-tu-tuong-Ho-Chi-Minh-156
3. https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-chu- nghiaxahoi.htm 17 lOMoAR cPSD| 45568214
4. http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/2389-
quandiemho-chi-minh-ve-nhiem-vu-cham-lo-doi-song-am-no-hanh-phuc- chonhan-dan.html
5. http://www.lyluanchinhtri.vn/home/index.php/bai-noi-bat/item/2389-
quandiemho-chi-minh-ve-nhiem-vu-cham-lo-doi-song-am-no-hanh-phuc- chonhan-dan.html
6. https://tapchicongsan.org.vn/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/819653/chamlodoi-
song-nhan-dan-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-trong-giai-doan-hiennay.aspx 18