Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45568214
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: Nước độc lập người
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý
gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay.
Họ tên sinh viên:
sinh viên:
Lớp:
Giảng viên hướng dẫn: TS Nguyễn Hồng Sơn
Hà Nội
lOMoARcPSD| 45568214
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
I – Khái niệm ......................................................................................................... 3
II Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ......................................... 4
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập ......................................................... 4
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc ...... 4
1.2. Độc lập phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân .................................. 5
1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để ..................... 6
1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ........................... 6
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do và hạnh phúc ................................................ 7
3. Mối quan hệ giữa độc lập, tự do, hạnh phúc ..................................................... 7
III – Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay ...................................................... 8
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 10
Danh mục tài liệu tham khảo......................................................................... 11
LỜI MỞ ĐẦU
tưởng Hồ Chí Minh một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề bản của cách mạng Việt Nam. tưởng Hồ Chí Minh đã đóng góp làm
phong phú thêm phát triển luận cách mạng của thời đại. Để một đất nước
Việt Nam hoà bình, ổn định như hiện nay, nhân dân ta đã phải trải qua qtrình cách
mạng lâu dài và gian khổ dưới slãnh đạo của Đảng Nhà nước kim chỉ nam
tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó quan điểm về độc lập dân tộc: “Nước
lOMoARcPSD| 45568214
độc lập người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do tđộc lập cũng chả
nghĩa lý gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay.” có giá trị nổi bật
hơn cả. Đây tư tưởng gắn liền với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội xuyên suốt và
nhất quán trong tư duy duy lý luận và thực tiễn của chủ tịch Hồ Chí Minh, nó đã trở
thành chiến lược cách mạng của Đảng, luôn gắn với những thắng lợi vẻ vang của
dân tộc.
Để xây dựng một nước Việt Nam, thì trước hết, phải “thực hiện nền dân chủ cộng
hòa Việt Nam, mang lại tự do hạnh phúc cho dân tộc”. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
giá trị phát triển, mục tiêu, bước đi của cách mạng Việt Nam; đồng thời
nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, là triết lý phát triển Việt Nam trong thời
đại mới. Đó con đường giải phóng phát triển của dân tộc đúng quy luật, hợp
lòng dân. Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người và con người được
giải phóng hoàn toàn để vươn tới cái tất yếu của tự do chính đích đến của chủ
nghĩa hội, chủ nghĩa cộng sản. Cho nên, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ chủ
nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc
và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho
mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”
I – Khái niệm
Độc lậpquyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân
tộc bởi chính người dân sinh sống đó, nghĩa chủ quyền tối cao. Độc lập
còn có thể hiểu sự không phụ thuộc tcá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân
tộc vào cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc khác. Độc lập cũng có thể nói
theo nghĩa phủ định tình trạng không bị điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác
thông qua chủ nghĩa thực dân, sự bành trướng hay chủ nghĩa đế quốc. Độc lập th
giành được nhờ việc chống lại thực dân hoá (phi thực dân hoá) chống lại sự chia cắt.
Hạnh phúc một trạng thái cảm xúc của con người khi được thoả n một nhu cầu
nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc một cảm xúc bậc cao. con người,
mang tính nhân bản sâu sắc thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc gắn liền
với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống.
lOMoARcPSD| 45568214
4
Tự do khả năng tự quyết, hành động theo đúng ý chí nguyện vọng của bản
thân.
Vậy luận điểm “Nước độc lập người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” của Hồ Chí Minh có thể hiểu là nếu đất nước
độc lập nhưng nhà nước đó lại không quan tâm đến nhân dân, không tạo cho nhân
dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhân dân không được sự tự do trên chính đất
nước của mình thì độc lập cũng chẳng ý nghĩa gì. Vậy nên ngay sau khi giành
được độc lập, nước ta đã tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
II Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc
Độc lập tdo hạnh phúc niềm khát vọng lớn nhất của những dân tộc thuộc
địa. cũng lẽ sống, là nguồn cổ động viên to lớn đối với các dân tộc bị áp
bức trong cuộc đấu tranh giành độc lập n tộc. * Cách tiếp cận từ quyền con người
Sau khi tìm hiểu tiếp thu Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn Nhân
quyền Dân quyền của cách mạng Pháp 1791, chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát nên
chân bất diệt vquyền bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng quyền sống, quyền sung sướng và quyền
tự do.”
* Độc lập, tự do khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. vậy, khi chưa
có độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
Năm 1919, nhân hội các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới
thứ nhất họp Hội nghị Vécxây (Pháp) nơi Tổng thống Mỹ V. Wilson đã kêu gọi
trao quyền tự quyết cho các dân tộc trên thế giới, thay mặt nhóm những người yêu
nước Việt Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân
dân An Nam, với hai nội dung chính đòi quyền bình đẳng về mặt pháp đòi
các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Tuy không được Hội nghị thông
qua nhưng nó đã cho thấy lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền các dân tộc
thuộc địa mà trước tiên là quyền bình đẳng và tự do đã hình thành.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, HChí Minh đã xác định mục tiêu
chính trị của Đảng “Đánh đđế quốc Pháp bọn phong kiến” “Làm cho nước
Nam hoàn toàn độc lập”.
Năm 1945, tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai chuyển biến nhanh chóng theo
hướng có lợi cho cách mạng; trong nước nhân dân ta sống trong nỗi thống khổ, lầm
than nên vấn đề giành được độc lập dân tộc được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên quyết tâm phải đứng lên đấu tranh, giành
lOMoARcPSD| 45568214
bằng được độc lập dân tộc, Người nói: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
* Khi đã giành độc lập, tự do phải kiên quyết giữ vững nền độc lập tự do ấy
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Tuyên ngôn độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước đồng bào và cả thế giới rằng: “Nước Việt Nam
quyền hưởng tự do độc lập, sự thực đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần lực lượng, tính mạng của cải
để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý chí đó còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ. Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, Người một lần nữa khẳng định: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai,
trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19 12 1946, Người ra lời hiệu
triệu, thể hiện quyết tâm bằng được nền độc lập dân tộc giá trị thiêng liêng
nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Năm 1965, khi quân viễn chinh Mỹ chư hầu ạt vào miền Nam gây
chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hồ Chí Minh tiếp tục kêu gọi toàn dân Việt Nam
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong đó đã nêu lên một chân thời đại, một tuyên
ngôn bất hủ của các dân tộc khát khao nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không
quý hơn độc lập, tự do”.Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã
anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải kết Hiệp
định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút
quân Mỹ về nước.
1.2. Độc lập phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tdo, hạnh phúc của nhân
dân. Người đánh giá cao học thuyết “tam dân" của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập, Hồ Chí
Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng ý nghĩa gì”. Dân chúng
chỉ cảm nhận được những giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc
ấm, được học hành để phát triển, có hiểu biết để thực hành dân chủ, quyền và nghĩa
vụ của người công dân.
Tóm lại, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người đã từng
lOMoARcPSD| 45568214
6
bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, làm
sao nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó một sự ham muốn đầy tính nhân văn
và thấm đượm tình thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu tối thượng trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt
để trên mọi các lĩnh vực từ chính trị đến đời sống xã hội. Người nhấn mạnh: độc lập
người dân không quyền tự quyết về ngoại giao, không quân đội riêng,
không có nền tài chính riêng..., thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó
trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn,
nhất nạn thù trong giặc ngoài bao vây, để bảo vnền độc lập thực smới giành
được, Người đã thay mặt Chính phủ với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định
bộ ngày 6 3 1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân
đội của mình, tài chính của mình”. Đây thắng lợi bước đầu của một sách lược
ngoại giao hết sức khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt nhưng nguyên tắc, một phương
pháp biết thắng từng bước của Hồ Chí Minh một minh chứng cho tính đúng
đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu
chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia nước ta
thành ba kỳ, mỗi kỳ chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám, miền Bắc
nước ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực n Pháp xâm
lược, một lần thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam kỳ tự trị” hòng chia cắt nước
ta một lần nữa. Trong hoàn cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946),
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ dân nước Việt Nam. Sông thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm
thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm
mưu chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá, không
lay chuyển: “Kiên quyết bảo vnền độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam một, dân tộc Việt Nam một, không
ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”.
Đến cuối đời, trong Di chúc, Người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vào sự thắng
lợi của cách mạng, sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân
dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước
lOMoARcPSD| 45568214
ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng o Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một
nhà”. Thực hiện tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tiến hành
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975 độc lập dân tộc từ đó gắn
liền với toàn vẹn lãnh thổ.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do và hạnh phúc
Trong tư tưởng yêu nước của Bác, tự do là của toàn thể dân tộc Việt Nam, một dân
tộc chỉ có thể dành được sự tự do khi dân tộc đó có đươc độc lập.
Hạnh phúc tự do theo quan điểm của Người người dân phải được hưởng đầy
đủ đời sống vật chất tinh thần do chủ nghĩa hội đem lại. Đời sống vật chất là
trên cơ sở một nền kinh tế cao, dựa trên một lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có
cơm ăn áo mặc, được học hành tử tế đầy đủ. Người dân từ có ăn có mặc ở đến ăn
ngon mặc đẹp đời sống sung túc.
3. Mối quan hệ giữa độc lập, tự do, hạnh phúc
Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do một mối quan hệ mật thiết, cùng gắn bó.
Người khẳng định độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc bị áp bức trên thế giới đồng thời khá vọng lớn nhất của dân tộc Việt
Nam. Chính tự do, hạnh phúc của nhân dân Chủ tịch Hồ Chí Minh không
ngừng đấu tranh cho độc lập dân tộc chủ nghĩa hội. Người, lòng yêu nước
luôn luôn gắn cùng lòng thương dân sâu sắc. Như vậy có thể thấy độc lập tự
do là hai vấn đề luôn song hành tồn tại cùng nhau không thể tách rời.
Hồ Chí Minh xác định: Có độc lập mới có tự do, giành được độc lập mới điều
kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và mang lại tự do, hạnh phúc thật sự cho nhân dân.
Trong tuyên ngôn độc lập, quan điểm ấy đã thể hiện sự gắn bó các quyền dân tộc
bản với các quyền cơ bản của con người. Người đã hoàn toàn bỏ được các hệ
tưởng cũ, đã khẳng định một ch hùng hồn rằng ngọn cđộc lập dân tộc thống nhất
với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ bảo vệ nhân quyền và các quyền lợi chân chính của
con người.
Theo Người, xbỏ áp bức dân tộc không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ khi thiết lập được chế
độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xoá bỏ được tận gốc tình trạng này.
tưởng Hồ CMinh vừa phản ánh quy luật khách quan của snghiệp giải phóng n
tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa mục
tiêu giải phóng giai cấp và con người. Chỉ khi xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc
lột thiết lập một nhà nước thật sự của n, do dân, vì dân mới bảo đảm cho nhân dân
có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội,
lOMoARcPSD| 45568214
8
giữa độc lập dân tộc tự do hạnh phúc của con người. Người nói: “Nước độc lập
mà người dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
gì”. thế, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa hội, làm
cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do.
III – Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chủ trương bảo đảm lợi ích quốc
gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chnghĩa hội. Tinh thần
này vừa sợi chỉ đỏ xuyên suốt hơn 90 năm lãnh đạo của Đảng vừa nguyên tắc
quan trọng trọng sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục
tinh thần các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII xác định một trong những tư tưởng chỉ
đạo “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên sở các nguyên tắc bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng lợi để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam hội chủ nghĩa”. Đó chính bảo đảm lợi ích quốc gia -
dân tộc chân chính, đúng đắn theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bối cảnh quốc tế hiện nay được Đại hội XIII của Đảng nhận định, dbáo
“tình hình thế giới khu vực tiếp tục nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó
lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều
trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển,
nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh
tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt. Do tác
động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều
lĩnh vực, mang đến cả thời và thách thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều
chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu
vực Châu ÁThái Bình Dương tiếp tụcvị trí chiến lược ngày càng quan trọng.
Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên biển Đông còn
diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi
truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt,
đe dọa nghiêm trọng đến sphát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực
đất nước ta”. Trong bối cảnh ấy tviệc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân
chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa hội lại càng quan trọng và cấp
thiết. thể nói đường lối tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam hội chủ nghĩa một chủ trương trực tiếp bảo đảm lợi ích quốc
gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra Đảng Nhà nước còn cố gắng hoàn thiện bộ máy nhà nước của dân,
do dân, dân. Quán triệt tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước
hội của nhân dân, Đảng ta đã đúc kết thành chế, chính sách quản lý, điều hành đất
lOMoARcPSD| 45568214
nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. chế đó đã thành công
phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng được yêu cầu của các cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
hội chủ nghĩa.
Xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân phải
nắm vững mục tiêu tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất
cả độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đại hội IX của Đảng khẳng
định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.”Tổ chức và hoạt động của Nhà nước
pháp quyền phải quán triệt sâu sắc quan điểm tất cả quyền lực nnước thuộc về
nhân dân. Vấn đề là phải thống nhất nhận thức về mối liên hệ về toàn bộ quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân với quyền lực của nhà nước. Dựa vào hệ thống pháp
luật bộ máy của mình, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh các quá trình hội
theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vậy việc xây dựng nớc pháp quyền Việt
Nam hội chủ nghĩa thực hiện công việc quản đất nước bằng pháp luật, đảm bảo
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, yêu cầu nhà nước phải tđặt mình dưới pháp
luật, tổ chức hoạt động theo pháp luật. Đồng thời phải nâng cao dân trí, động viên,
giáo dục tạo điều kiện thuân lợi để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền tham
gia vào quản lý nhà nước và xã hội.
Cần nâng cao hơn nữa chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức trong các quan quyền lực của tổ chức nnước. Về phẩm chất chính
trị, đạo đức, phong cách, năng lực chuyên môn quản để họ thực sự những người
có trách nhiệm, toàn tâm toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là nhân tố cốt i
đảm bảo sthành công của vụ xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
dân và cũng là chìa khoá cho sự tự do, hạnh phúc của nhân dân khi được sống trong
một đất nước do mình làm chủ.
Đồng thời tăng cường vai trò và đổi mới phương thức lãnh đoạ của Đảng đối
với nhà nước pháp quyền của dân, do dân dân, đáp ứng được sựu đòi hỏi của
sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa. Dưới sựnh đạo của
Đảng Nhà nước, sau 36 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn và toàn diện trong mọi lĩnh vực đời sống hội. Cùng với phát triển
kinh tế, sự ổn định của tăng trưởng kinh tế được duy trì (giữ mức tăng trưởng dương
trong các năm dịch), các mặt an ninh chính trị - quốc phòng được đảm bảo.
Thành tựu đó lời khẳng định cho sự thành công của nước ta trên con đường phát
triển đất nước độc lập – tự do – hạnh phúc.
Tuy đã nhiều thập kỉ trôi qua nhưng lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn
nguyên giá trị không chỉ cho hiện tại còn cả tương lai sau này. Dân tộc độc lập
thì phải đi đôi với tự do, hạnh phúc của nhân dân, Muốn vậy cần phải giữ vững nền
lOMoARcPSD| 45568214
10
độc lập của Tổ quốc, cùng với đó là phấn đấu xây dựng một nhà nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
KẾT LUẬN
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền dân tộc quyền con người thống nhất trong
cả nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà
Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không th
thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền bản,
thiết thực của con người. Điều đó được thể hiện nét qua luận điểm của Người:
“Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chả nghĩa gì. Làm ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay.” Giữ vững
độc lập, tự chủ vừa đường lối, vừa nguyên tắc bất biến để chúng ta bảo vệ tốt
nhất lợi ích quốc gia, dân tộc mình, Đó chính kết tinh sự nghiêpj đối ngoại của H
Chí Minh. Trong ởng Hồ Chí Minh, muốn có được độc lập triệt để thì phải đứng
về lập trường giai cấp sản, dưới sự soi sáng của chủ nghĩa Mác Lênin, đi
theo con đường hội chủ nghĩa. Đó mới nền độc lập thực sự, mang lại ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân.
Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước pháp quyền hội chủ nghĩa
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm
lOMoARcPSD| 45568214
lo nâng cao đời sống về mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó sự thống
nhất giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của
công dân, như tâm nguyện của Bác Hồ kính yêu.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho bậc đại học không chuyên ngành
lý luận chính trị), Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, 2021
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, 2001
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd
6. Các nguồn tài liệu khác
| 1/11

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45568214
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý
gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay. Họ tên sinh viên: Mã sinh viên: Lớp:
Giảng viên hướng dẫn: TS Nguyễn Hồng Sơn Hà Nội lOMoAR cPSD| 45568214 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
I – Khái niệm ......................................................................................................... 3
II – Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ......................................... 4
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập ......................................................... 4
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc ...... 4
1.2. Độc lập phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân .................................. 5
1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để ..................... 6
1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ ........................... 6
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do và hạnh phúc ................................................ 7
3. Mối quan hệ giữa độc lập, tự do, hạnh phúc ..................................................... 7
III – Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay ...................................................... 8
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 10
Danh mục tài liệu tham khảo......................................................................... 11 LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đóng góp làm
phong phú thêm và phát triển lý luận cách mạng của thời đại. Để có một đất nước
Việt Nam hoà bình, ổn định như hiện nay, nhân dân ta đã phải trải qua quá trình cách
mạng lâu dài và gian khổ dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và kim chỉ nam
tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó quan điểm về độc lập dân tộc: “Nước 2 lOMoAR cPSD| 45568214
độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chả có
nghĩa lý gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay.” có giá trị nổi bật
hơn cả. Đây là tư tưởng gắn liền với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội xuyên suốt và
nhất quán trong tư duy duy lý luận và thực tiễn của chủ tịch Hồ Chí Minh, nó đã trở
thành chiến lược cách mạng của Đảng, luôn gắn với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Để xây dựng một nước Việt Nam, thì trước hết, phải “thực hiện nền dân chủ cộng
hòa Việt Nam, mang lại tự do hạnh phúc cho dân tộc”. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
là giá trị phát triển, là mục tiêu, là bước đi của cách mạng Việt Nam; đồng thời là
nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, là triết lý phát triển Việt Nam trong thời
đại mới. Đó là con đường giải phóng và phát triển của dân tộc đúng quy luật, hợp
lòng dân. Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người và con người được
giải phóng hoàn toàn để vươn tới cái tất yếu của tự do chính là đích đến của chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Cho nên, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ
nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc
và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho
mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc” I – Khái niệm
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân
tộc bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. Độc lập
còn có thể hiểu là sự không phụ thuộc từ cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân
tộc vào cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc khác. Độc lập cũng có thể nói
theo nghĩa phủ định là tình trạng không bị điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác
thông qua chủ nghĩa thực dân, sự bành trướng hay chủ nghĩa đế quốc. Độc lập có thể
giành được nhờ việc chống lại thực dân hoá (phi thực dân hoá) chống lại sự chia cắt.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thoả mãn một nhu cầu
nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở con người, nó
mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc gắn liền
với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống. lOMoAR cPSD| 45568214
Tự do là khả năng tự quyết, hành động theo đúng ý chí và nguyện vọng của bản thân.
Vậy luận điểm “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” của Hồ Chí Minh có thể hiểu là nếu đất nước
độc lập nhưng nhà nước đó lại không quan tâm đến nhân dân, không tạo cho nhân
dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc, nhân dân không có được sự tự do trên chính đất
nước của mình thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vậy nên ngay sau khi giành
được độc lập, nước ta đã tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
II – Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề độc lập
1.1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả dân tộc
Độc lập – tự do – hạnh phúc là niềm khát vọng lớn nhất của những dân tộc thuộc
địa. Nó cũng là lẽ sống, là nguồn cổ vũ động viên to lớn đối với các dân tộc bị áp
bức trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. * Cách tiếp cận từ quyền con người
Sau khi tìm hiểu và tiếp thu Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp 1791, chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát nên
chân lý bất diệt về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.”
* Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi chưa
có độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
Năm 1919, nhân cơ hội các nước đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới
thứ nhất họp ở Hội nghị Vécxây (Pháp) nơi Tổng thống Mỹ V. Wilson đã kêu gọi
trao quyền tự quyết cho các dân tộc trên thế giới, thay mặt nhóm những người yêu
nước Việt Nam tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân
dân An Nam, với hai nội dung chính là đòi quyền bình đẳng về mặt pháp lý và đòi
các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Tuy không được Hội nghị thông
qua nhưng nó đã cho thấy lần đầu tiên, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền các dân tộc
thuộc địa mà trước tiên là quyền bình đẳng và tự do đã hình thành.
Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu
chính trị của Đảng là “Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến” và “Làm cho nước
Nam hoàn toàn độc lập”.
Năm 1945, tình hình Chiến tranh thế giới thứ hai chuyển biến nhanh chóng theo
hướng có lợi cho cách mạng; trong nước nhân dân ta sống trong nỗi thống khổ, lầm
than nên vấn đề giành được độc lập dân tộc được đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh đã nêu lên quyết tâm phải đứng lên đấu tranh, giành 4 lOMoAR cPSD| 45568214
bằng được độc lập dân tộc, Người nói: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
* Khi đã giành độc lập, tự do phải kiên quyết giữ vững nền độc lập tự do ấy
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Tuyên ngôn độc lập,
Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước đồng bào và cả thế giới rằng: “Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập.
Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải
để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Ý chí đó còn được thể hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ. Trong thư gửi Liên hợp quốc năm 1946, Người một lần nữa khẳng định: “Nhân
dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên
quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh
thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Khi thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai,
trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19 – 12 – 1946, Người ra lời hiệu
triệu, thể hiện quyết tâm bằng được nền độc lập dân tộc – giá trị thiêng liêng mà
nhân dân Việt Nam mới giành được: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Năm 1965, khi quân viễn chinh Mỹ và chư hầu ồ ạt vào miền Nam và gây
chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, Hồ Chí Minh tiếp tục kêu gọi toàn dân Việt Nam
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong đó đã nêu lên một chân lý thời đại, một tuyên
ngôn bất hủ của các dân tộc khát khao nền độc lập, tự do trên thế giới: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”.Với tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã
anh dũng chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, buộc chúng phải ký kết Hiệp
định Paris, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, rút quân Mỹ về nước.
1.2. Độc lập phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân
dân. Người đánh giá cao học thuyết “tam dân" của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập, Hồ Chí
Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Người nói: “Nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Dân chúng
chỉ cảm nhận được những giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc
ấm, được học hành để phát triển, có hiểu biết để thực hành dân chủ, quyền và nghĩa
vụ của người công dân.
Tóm lại, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
luôn coi độc lập gắn liền với tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân, như Người đã từng lOMoAR cPSD| 45568214
bộc bạch đầy tâm huyết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó là một sự ham muốn đầy tính nhân văn
và thấm đượm tình thương yêu dân tộc và đó cũng là mục tiêu tối thượng trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
1.3. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt
để trên mọi các lĩnh vực từ chính trị đến đời sống xã hội. Người nhấn mạnh: độc lập
mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng,
không có nền tài chính riêng..., thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Trên tinh thần đó và
trong hoàn cảnh đất nước ta sau Cách mạng Tháng Tám còn gặp nhiều khó khăn,
nhất là nạn thù trong giặc ngoài bao vây, để bảo vệ nền độc lập thực sự mới giành
được, Người đã thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ
bộ ngày 6 – 3 – 1946, theo đó: “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân
đội của mình, tài chính của mình”. Đây là thắng lợi bước đầu của một sách lược
ngoại giao hết sức khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt nhưng có nguyên tắc, một phương
pháp biết thắng từng bước của Hồ Chí Minh và là một minh chứng cho tính đúng
đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.4. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân tộc ta luôn đứng trước âm mưu
chia cắt đất nước của kẻ thù. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã chia nước ta
thành ba kỳ, mỗi kỳ có chế độ cai trị riêng. Sau cách mạng Tháng Tám, miền Bắc
nước ta thì bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, miền Nam bị thực dân Pháp xâm
lược, một lần thực dân Pháp lại bày ra cái gọi là “Nam kỳ tự trị” hòng chia cắt nước
ta một lần nữa. Trong hoàn cảnh đó, trong bức Thư gửi đồng bào Nam Bộ (1946),
Hồ Chí Minh khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”
Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đất nước Việt Nam tạm
thời bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh tiếp tục kiên trì đấu tranh chống lại âm
mưu chia cắt đất nước để thống nhất Tổ quốc với một quyết tâm, ý chí sắt đá, không
gì lay chuyển: “Kiên quyết bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của nước Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không
ai được xâm phạm đến quyền thiêng liêng ấy của nhân dân ta”.
Đến cuối đời, trong Di chúc, Người vẫn đặt niềm tin tuyệt đối vào sự thắng
lợi của cách mạng, sự thống nhất nước nhà: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân
dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước 6 lOMoAR cPSD| 45568214
ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một
nhà”. Thực hiện tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tiến hành
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975 và độc lập dân tộc từ đó gắn
liền với toàn vẹn lãnh thổ.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự do và hạnh phúc
Trong tư tưởng yêu nước của Bác, tự do là của toàn thể dân tộc Việt Nam, một dân
tộc chỉ có thể dành được sự tự do khi dân tộc đó có đươc độc lập.
Hạnh phúc và tự do theo quan điểm của Người là người dân phải được hưởng đầy
đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là
trên cơ sở một nền kinh tế cao, dựa trên một lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có
cơm ăn áo mặc, được học hành tử tế đầy đủ. Người dân từ có ăn có mặc có ở đến ăn
ngon mặc đẹp đời sống sung túc.
3. Mối quan hệ giữa độc lập, tự do, hạnh phúc
Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do có một mối quan hệ mật thiết, vô cùng gắn bó.
Người khẳng định độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
các dân tộc bị áp bức trên thế giới và đồng thời là khá vọng lớn nhất của dân tộc Việt
Nam. Chính vì tự do, hạnh phúc của nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh không
ngừng đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ở Người, lòng yêu nước
luôn luôn gắn bó cùng lòng thương dân sâu sắc. Như vậy có thể thấy độc lập và tự
do là hai vấn đề luôn song hành tồn tại cùng nhau không thể tách rời.
Hồ Chí Minh xác định: Có độc lập mới có tự do, có giành được độc lập mới có điều
kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và mang lại tự do, hạnh phúc thật sự cho nhân dân.
Trong tuyên ngôn độc lập, quan điểm ấy đã thể hiện sự gắn bó các quyền dân tộc cơ
bản với các quyền cơ bản của con người. Người đã hoàn toàn rũ bỏ được các hệ tư
tưởng cũ, đã khẳng định một cách hùng hồn rằng ngọn cờ độc lập dân tộc thống nhất
với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ bảo vệ nhân quyền và các quyền lợi chân chính của con người.
Theo Người, xoá bỏ áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức
giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ khi thiết lập được chế
độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xoá bỏ được tận gốc tình trạng này. Tư
tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân
tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa mục
tiêu giải phóng giai cấp và con người. Chỉ khi xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc
lột thiết lập một nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho nhân dân
có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, lOMoAR cPSD| 45568214
giữa độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc của con người. Người nói: “Nước độc lập
mà người dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì”. Vì thế, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm
cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do.
III – Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chủ trương bảo đảm lợi ích quốc
gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tinh thần
này vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hơn 90 năm lãnh đạo của Đảng vừa là nguyên tắc
quan trọng trọng sự nghiệp đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục
tinh thần các kỳ đại hội trước, Đại hội XIII xác định một trong những tư tưởng chỉ
đạo là “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đó chính là bảo đảm lợi ích quốc gia -
dân tộc chân chính, đúng đắn theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bối cảnh quốc tế hiện nay được Đại hội XIII của Đảng nhận định, dự báo là
“tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó
lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều
trở ngại, khó khăn, thách thức. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển,
nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, cạnh
tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại diễn ra gay gắt. Do tác
động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều
lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Các nước điều
chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới. Khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng.
Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên biển Đông còn
diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi
truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh mẽ, nhiều mặt,
đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và
đất nước ta”. Trong bối cảnh ấy thì việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc chân
chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội lại càng quan trọng và cấp
thiết. Có thể nói đường lối tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là một chủ trương trực tiếp bảo đảm lợi ích quốc
gia - dân tộc chân chính theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ngoài ra Đảng và Nhà nước còn cố gắng hoàn thiện bộ máy nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã
hội của nhân dân, Đảng ta đã đúc kết thành cơ chế, chính sách quản lý, điều hành đất 8 lOMoAR cPSD| 45568214
nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế đó đã thành công
phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng được yêu cầu của các cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân phải
nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất
cả vì độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đại hội IX của Đảng khẳng
định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.”Tổ chức và hoạt động của Nhà nước
pháp quyền phải quán triệt sâu sắc quan điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Vấn đề là phải thống nhất nhận thức về mối liên hệ về toàn bộ quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân với quyền lực của nhà nước. Dựa vào hệ thống pháp
luật và bộ máy của mình, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh các quá trình xã hội
theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vậy việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa thực hiện công việc quản lý đất nước bằng pháp luật, đảm bảo
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, yêu cầu nhà nước phải tự đặt mình dưới pháp
luật, tổ chức và hoạt động theo pháp luật. Đồng thời phải nâng cao dân trí, động viên,
giáo dục và tạo điều kiện thuân lợi để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền tham
gia vào quản lý nhà nước và xã hội.
Cần nâng cao hơn nữa chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức trong các cơ quan quyền lực của tổ chức nhà nước. Về phẩm chất chính
trị, đạo đức, phong cách, năng lực chuyên môn quản lý để họ thực sự là những người
có trách nhiệm, toàn tâm toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là nhân tố cốt lõi
đảm bảo sự thành công của vụ xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân và cũng là chìa khoá cho sự tự do, hạnh phúc của nhân dân khi được sống trong
một đất nước do mình làm chủ.
Đồng thời tăng cường vai trò và đổi mới phương thức lãnh đoạ của Đảng đối
với nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng được sựu đòi hỏi của
sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước, sau 36 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn và toàn diện trong mọi lĩnh vực đời sống – xã hội. Cùng với phát triển
kinh tế, sự ổn định của tăng trưởng kinh tế được duy trì (giữ mức tăng trưởng dương
trong các năm có dịch), các mặt an ninh – chính trị - quốc phòng được đảm bảo.
Thành tựu đó là lời khẳng định cho sự thành công của nước ta trên con đường phát
triển đất nước độc lập – tự do – hạnh phúc.
Tuy đã nhiều thập kỉ trôi qua nhưng lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn
nguyên giá trị không chỉ cho hiện tại mà còn cả tương lai sau này. Dân tộc độc lập
thì phải đi đôi với tự do, hạnh phúc của nhân dân, Muốn vậy cần phải giữ vững nền lOMoAR cPSD| 45568214
độc lập của Tổ quốc, cùng với đó là phấn đấu xây dựng một nhà nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. KẾT LUẬN
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong
cả nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà
Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không thể
thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản,
thiết thực của con người. Điều đó được thể hiện rõ nét qua luận điểm của Người:
“Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
chả có nghĩa lý gì. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay.” Giữ vững
độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta bảo vệ tốt
nhất lợi ích quốc gia, dân tộc mình, Đó chính là kết tinh sự nghiêpj đối ngoại của Hồ
Chí Minh. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn có được độc lập triệt để thì phải đứng
về lập trường giai cấp vô sản, dưới sự soi sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, và đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó mới là nền độc lập thực sự, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Quán triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đẩy mạnh toàn
diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm 10 lOMoAR cPSD| 45568214
lo nâng cao đời sống về mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống
nhất giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của
công dân, như tâm nguyện của Bác Hồ kính yêu.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (dành cho bậc đại học – không chuyên ngành
lý luận chính trị), Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, 2021
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, 2001
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd
6. Các nguồn tài liệu khác