Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45469857
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI TẬP LỚN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Họ và tên SV: Phan Khánh Vy
Lớp tín chỉ: Tư tưởng Hồ Chí Minh (122) _24 Mã SV: 11207502
GV: TS NGUYỄN HỒNG SƠN Hà Nội, 2022 lOMoAR cPSD| 45469857 MỤC LỤC
I. LỜI MỞ ĐẦU: ...................................................................................................... 3
II.NỘI DUNG: .......................................................................................................... 3
1. Khái niệm:.......................................................................................................... 3
2. Ý nghĩa của “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” ................................................. 4
3. Sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam hiện nay .................................................. 13
III. KẾT LUẬN ...................................................................................................... 18 2 lOMoAR cPSD| 45469857 I. LỜI MỞ ĐẦU:
Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đã xuất hiện một bộ phận nhỏ cán bộ có tư tưởng
công thần, hách dịch, vun vén lợi ích cá nhân, thiếu sâu sát, quan tâm đến đời sống
của quần chúng nhân dân, gây bức xúc dư luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm phát
hiện, Người viết bài đấu tranh, lên án gay gắt và nghiêm khắc chấn chỉnh.
Để giữ vững được độc lập dân tộc là hết sức khó khăn bởi thù trong giặc ngoài
tìm mọi cách phá hoại. Một bộ phận nhỏ cán bộ có tư tưởng chống phá, vun vén cho
lợi ích cá nhân, thiếu quan tâm đến đời sống quần chúng nhân dân gây bức xúc dư luận.
Chủ tích Hồ Chí Minh sớm phát hiện, lên án gay gắt, đồng thời cũng nghiêm
khắc chân chỉnh rằng: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự
do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Chính câu nói ấy đã trở thành cẩm nang quý báu cho Cách mạng Việt Nam trong
thời kỳ kháng chiến cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay của Đảng nhà nước
ta. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn với con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy làm rõ luận điểm
trên cũng như liên hệ với sự nghiệp Cách mạng của nước ta hiện nay. II.NỘI DUNG: 1. Khái niệm:
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân
tộc bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là chủ quyền tối cao.
+ Độc lập dân tộc là quyền tự chủ, tự quyết của một dân tộc, quốc gia trong việc
tổ chức các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại… trong phạm vi lãnh thổ của mình, không chịu sự tác động, ép buộc, chi phối,
thao túng của nước ngoài. 3 lOMoAR cPSD| 45469857
Tự do là khái niệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi cá nhân
không chịu sự ép buộc, có cơ hội để lựa chọn và hành động theo đúng với ý chí
nguyện vọng của chính mình. Nó là tiền đề sinh ra chủ nghĩa tự do theo hướng ý thức hệ
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một
nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở con
người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí. Hạnh phúc
gắn liền với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống
2. Ý nghĩa của “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”
“Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” là những quyền làm người cao cả nhất theo
hiến chương của Liên hợp quốc và Công ước Quốc tế về quyền con người. Tiêu ngữ
"Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" ghi dưới Quốc hiệu Việt Nam từ 1945 đến nay (từ
Việt Nam dân chủ cộng hòa sang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vẫn không
thay đổi nội dung và hình thức trình bày; chỉ càng ngày càng được nhận thức đầy đủ
bản chất và ý nghĩa lịch sử thiêng liêng, trọng đại. Tuy nhiên, những quyền đó lại chỉ
được thực thi trong một quốc gia có nền độc lập. Nhân dân Việt Nam đã không quản
khó khăn, hi sinh tính mạng để giành lại nền độc lập nước nhà. Người nguyện cùng
Đảng ta, nhân dân ta kiên trì thực hiện vì mục tiêu chung là: một nước Việt Nam độc
lập, tự do, hạnh phúc, quyết không chịu mất nước, không cam chịu làm nô lệ của bọn
thực dân, không để quyền sống của người dân Việt Nam lại bị tước đoạt: “thà hy sinh
tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ…”
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tuyên bố với nhà báo nước ngoài rằng “Chính
sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.
Trong Lời kêu gọi Thi đua ái quốc, Người nói đến việc thực hiện “Dân tộc độc lập,
Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc. Ba chủ nghĩa mà nhà đại cách mạng Tôn Văn
đã nêu ra”. Người luôn đặt hai chữ “Độc lập” như điều kiện thiết yếu để đảm bảo sự
tự do, hạnh phúc thực sự cho bất cứ dân tộc nào. Trả lời một nhà báo nước ngoài
(16.7.1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chính sách đối nội của Việt Nam là 4 lOMoAR cPSD| 45469857
dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Trong Lời kêu gọi thi đua ái
quốc (11.6.1948), Người đưa ra việc thực hiện “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc”.
Độc lập dân tộc là tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
Hồ Chí Minh. “Độc lập” ở Việt Nam trong Cách Mạng tháng Tám năm 1945 đã giải
phóng đồng bào ta khỏi áp bức thực dân, đưa dân ta tiếp cận với nền dân Dân chủ
Cộng hòa và thống nhất độc lập. “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; cho dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm,
10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp
có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn
độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn!”
Tuy nhiên, “độc lập” phải gắn liền với “tự do”, “hạnh phúc” như những điều
kiện và mục tiêu tối thượng. Nói đến “tự do”, “hạnh phúc”, ta nghĩ ngay đến việc
người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất lẫn tinh thần, được Chính phủ quan tâm và chăm sóc.
“Tự do” trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ảnh hưởng từ chữ “tự do” trong khẩu
hiệu “Tự do, bình đẳng, bác ái” của Cách mạng Pháp và quyền mưu cầu tự do của
hợp chủng quốc Hoa Kỳ. “Tự do” mà Người đề cập ở đây không chỉ là quốc gia có
nền độc lập, nhà nước có chủ quyền và có quyền tự do ngôn luận, hoạt động trên
trường quốc tế mà còn là tự do được người dân ca ngợi, mỗi cá nhân được góp công
sức của mình xây dựng đất nước và có tinh thần trách nhiệm cao.
“Hạnh phúc” là từ có tính đa nghĩa nhưng mang ý nghĩa từng cá nhân có quyền
mưu cầu hạnh phúc là điều mới mẻ ở thời kỳ cận đại và thông điệp về hạnh phúc mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền tải đã được đông đảo người dân Việt Nam ủng hộ và
đón nhận: “mỗi người đều có quyền mưu cầu hạnh phúc, phải chủ động, tích cực đấu
tranh giành được hạnh phúc đó”.
Trong niềm vui, tự hào khôn xiết, vừa tuyên bố với toàn thế giới, Việt Nam đã
trở thành một nước tự do độc lập, thì ngay hôm sau, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí 5 lOMoAR cPSD| 45469857
Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước, trong đó nhiệm vụ hàng đầu là
chống giặc đói. Thật đau xót, năm 1945, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói vì chính
sách hà khắc của chế độ thực dân. Không thể để nạn đói lặp lại, không thể để thêm
người dân nào chết đói, Người đề nghị Chính phủ phát động chiến dịch tăng gia sản
xuất và trong khi chờ ba, bốn tháng mới có ngô, khoai để ăn thì phải mở ngay một
cuộc lạc quyên, lấy gạo phát cho người nghèo. Cùng với chống giặc đói là xóa nạn
mù chữ; Tổng tuyển cử; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; xóa bỏ một số thuế; thực
hiện tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết,… Công việc nào cũng cần kiếp và
Chính phủ phải làm thật tốt để bảo đảm cuộc sống mới hạnh phúc, tự do cho đồng
bào. Độc lập rồi mà đất nước chưa trọn niềm vui, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đau
đáu với những việc làm cấp bách mới đề ra. Ngày 28/9/1945, Người lại viết bài Sẻ
cơm nhường áo, tiếp tục kêu gọi đồng bào và chính Người xin làm trước, mỗi tháng
nhịn ăn ba bữa, mỗi bữa một bơ để lấy gạo đó cứu dân nghèo. Ngày 4/10/1945, viết
bài Chống nạn thất học, Người cho rằng 95% người Việt ta mù chữ, như thế thì tiến
bộ làm sao được và nêu rõ: “Muốn giữ nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước
giàu, mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước
hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
“Tự do” và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, bởi vì “Chỉ có Chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa
bình, hạnh phúc”. Đó chính là câu trả lời cho những ai có tư tưởng dao động, hoài
nghi mà tự hỏi: “Tại sao Việt Nam đi theo CNXH?” Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là
nói đến người dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ
chăm lo và bản thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng. “Tự do” và “Hạnh
phúc” cơ bản nhất, tối thiểu nhất theo Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành”; người dân từ chỗ có ăn, có mặc, được học hành đến
chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và cống hiến; “vật chất ngày càng tăng, tinh 6 lOMoAR cPSD| 45469857
thần ngày càng tiến, đó là CNXH”. Bởi vậy, trong thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện
và làng (17/10/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng
nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Càng tiến xa hơn trong dòng chảy lịch sử, chúng ta càng thấy rõ tầm chiến lược
nhưng rất thiết thực của mục tiêu-đích đến-khát vọng của dân tộc, dân quyền và dân
sinh; càng hiểu thêm bản Tuyên ngôn Độc lập được mở đầu bằng "Lời bất hủ": "Tất
cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc". Có thể nói, nêu cao tiêu chí “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” là
nêu cao giá trị tinh thần, văn minh, chân lý Việt, là thực hiện những giá trị văn hóa
Hồ Chí Minh, là xác định hướng đi đúng đắn theo chỉ dẫn của Người trong sự nghiệp
đổi mới xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội của Tổ quốc trong hiện tại và tương lai.
Nhìn vào tiêu chí đó, chúng ta thấy nhiệm vụ phải thực hiện hàng ngày, đó chính là
sự phục tùng và thực hành chân lý của mỗi người Việt Nam.
Vì Hạnh phúc phải đấu tranh cho Tự do. Để có Tự do phải chiến đấu giành lấy
Độc lập và xây dựng xã hội mới ngày càng đảm bảo cho sự hoàn thiện của tiêu chí
“Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Cho dù thế giới có những biến đổi, nhưng tiêu chí
đó vẫn là mục tiêu mà các dân tộc hướng đến. Trên ý nghĩa đó, “Độc lập - Tự do
Hạnh phúc” là tầm nhìn thời đại, biểu thị những giá trị và kết tinh những nội dung
cơ bản nhất của văn hóa Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng
vô sản là tiền đề của hạnh phúc, tự do.
Năm 1911, khi Việt nam đã hoàn toàn trở thành thuộc địa của thực dân Pháp,
nước mất độc lập, dân nô lệ, Hồ Chí Minh không hoàn toàn tán thành con đường cứu
nước của các bậc tiền bối, quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới. Suy nghĩ
lớn nhất, duy nhất của Người lúc đó là giải phóng đồng bào, tức là lật đổ, xóa bỏ ách
áp bức, bóc lột của bọn thực dân phong kiến, giành độc lập cho dân tộc.
Trong khoảng bảy năm từ 1911 đến trước Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu về các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, 7 lOMoAR cPSD| 45469857
tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân các dân
tộc bị áp bức. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, tuy chưa có
được nhận thức lý tính, nhưng Người nhận thấy rằng chỉ có theo con đường Cách
mạng Tháng Mười Nga thì mới giành được độc lập dân tộc. Người nhiệt thành ủng
hộ và tuyên truyền cho cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga.
Được ánh sáng của quốc tế Cộng sản soi rọi, đặc biệt là Luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin, đã giải đáp trăn trở của Người về vấn đề giải phóng
dân tộc thuộc địa, giành độc lập cho dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với Luận cương, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trên diễn đàn Đại hội
toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp (12-1920), Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng
phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa. Năm 1923, Hồ
Chí Minh viết: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân loại đem lại cho mọi
người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết,
ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình,
hạnh phúc, quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình
hạnh phúc nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới
tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người
lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”. Hồ Chí Minh không bao giờ
chấp nhận độc lập dân tộc dưới chế độ quân chủ chuyên chế, càng không chấp nhận
chế độ thực dân. Bởi vì, đó là chế độ mà người dân bị đầu độc về cả thể xác lẫn tinh
thần, bị bịt mồm và bị giam hãm. Phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh rằng “thực dân Pháp đã dùng lưới lê để chinh phục đất
nước chúng tôi. Từ đó chúng tôi không những bị áp bức bóc lột một ách nhục nhã,
mà còn bị hành hạ và đầu độcbằng thuốc phiện và rượu một cách thê thảm. Đó là
một chế độ tàn bạo mà bọn ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương. Nhà tù nhiều hơn
trường học và lúc nào cũng chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã
hội chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử…Với một nền
“công lý” ở Đông Dương như vậy, một sự phân biệt đối xử không có những bảo đảm 8 lOMoAR cPSD| 45469857
về quyền con người như vậy, một kiểu sống nô lệ như vậy, thì sẽ không có gì hết”.
Hơn ai hết người có ý thức rất rõ không có độc lập là sống kiếp ngựa trâu, thì “chết
tự do còn hơn sống nô lệ”. Vì vậy, Người nung nấu và truyền quyết tâm cho toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành
kỳ được độc lập cho dân tộc”. Độc lập dân tộc không phải là điều mới mẻ gì trong
lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
lại hoàn toàn mới, vì đó là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên ở một trình độ
mới, một chất mới. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất là độc lập của Tổ
Quốc, tự do của nhân dân. Trên con đường tiếp cận chân lý cứu nước, Người đã chọn
kiểu độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân tộc
làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do.
“Độc lập-tự do-hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ của nước ta suốt 76 năm qua, tuy
đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột cùng đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành”. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì
trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc, tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng
có nghĩa lý gì. Với Hồ Chí Minh, Nước có độc lập rồi thì dân phải được hưởng hạnh
phúc, tự do, vì hạnh phúc tự do là thước đo giá trị của độc lập dân tộc. Muốn có hạnh
phúc, tự do thì độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh
chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều jieejn để cải thiện đời
sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình, chăm lo
cho con người và con người có điều kiện phát triển toàn diện. Khi Hồ Chí Minh xác
định giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc lập
dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Trong nền độc lập đó mọi người đều phải được hưởng
ấm no, hạnh phúc nếu không độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Bác đã nói: “Chúng ta đã
hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no mặc đủ ấm”. 9 lOMoAR cPSD| 45469857
Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và tính cách mạng triệt để của người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cống hiên quý giá nhất của Hồ Chí
Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí
Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,
làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.
Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa
xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng,
nghĩa là ai cũng phải lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít,
không làm không hưởng. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người
dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại.
Thực tiễn trên thế giới, nhiều nước sau khi giành được độc lập đưa đất nước đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến
tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái. Sự nghèo đói, chậm phát triển làm cho
quốc gia đó không thể có độc lập thật sự. Nhiều nước trước đây là chủ nghĩa xã hội,
trong công cuộc cải tổ, cải cách đã mắc sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm
chí phản bội lại chủ nghĩa xã hội, muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa hay “xã hội dân chủ” với ảo tưởng mong chờ vào sự giúp đỡ của thế giới tư
bản nhưng hiện nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã
hội, về con đường phát triển của đất nước; nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo
lộn; xung đột sắc tộc, tôn giáo, phe phái gia tăng; đời sống của người lao động ngày
càng khó khăn, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng; đặc biệt tác động
của đại dịch COVID-19 đến kinh tế, đời sống của người dân và cách giải quyết của
các nước làm cho vị thế của các nước đó trên trường quốc tế ngày càng giảm sút;
đồng thời, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết định vai
trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên phong của
nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc 10 lOMoAR cPSD| 45469857
là toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh công - nông - trí thức.
Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến phương hướng phát triển lên
chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc. Rõ ràng định hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam được chi phối và
chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó.
Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng
dân tộc một cách hoàn toàn triệt để. Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa
xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan
hệ giữa hai giai đoạn của một quá trình cách mạng. Cách mạng dân tộc dân chủ xác
lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng
định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm no,
hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của
cách mạng dân tộc dân chủ. Để bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc, để không rơi vào
lệ thuộc, đói nghèo, lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã
hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ củng cố những thành
quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều kiện để bảo đảm cho
độc lập và phát triển dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ; chỉ có
cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính.
Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với xu thế toàn cầu hoá,
với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thắng
lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Tự do, hạnh phúc là giá trị của độc lập dân tộc. 11 lOMoAR cPSD| 45469857
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước hết
phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc, tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả lời
cho mong muốn chủ quan của người theo quan điểm duy tâm, không tưởng, mà là
câu trả lời cho một sự vận động lịc sử hiện thực theo khái niệm duy vật phê phán.
Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ hiện
thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một nước vốn là thuộc địa, nông
nghiệp lạc hậu, khoa học kyc thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm của
Hồ Chí Minh không thể suy nghĩ chủ quan, giáo điều, nóng vội, duy ý chí mà phải
dựa trên cơ sở thực tiễn nước ta, đặc điểm thế giới và xu thế của thời đại.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi
nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột
người, một xã hội bình đẳng nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai
làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng.
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh phúc,
tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không ai khác chính cụ Hồ đã chỉ ra.
Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm sâu nhất của
mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “độc lập, tự do cho dân
tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc,
không lao động được thì nghỉ ngơi, …Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã hội”. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. 12 lOMoAR cPSD| 45469857
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một cách
thiết thực, cụ thể, dễ hiểu: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc”. “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì
độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”, “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. “Chủ nghĩa
xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”.
Việt Nam, một dân tộc dù nhỏ bé nhưng đã kiên cường đứng vững qua hàng
trăm năm bị đô hộ, đã kinh qua hai cuộc chiến tranh ác liệt đầy hy sinh, gian khổ với
biết bao mồ hôi xương máu và ai cũng thấm thía nỗi đau không gì sánh nổi khi một
người phải ngã xuống. Nhờ công cuộc đổi mới, đất nước ta mới có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đó là công sức của toàn dân dưới sự lãnh
đạo, dìu dắt sáng suốt và tài tình của Đảng và nhân dân là người được hưởng cuộc
sống hạnh phúc, ấm no do chính mình tạo dựng nên.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội, chế độ
xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh không chỉ là thước đo giá trị của độc
lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và tự bảo
vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có một nền độc lập dân tộc
thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc tự do; chủ nghĩa xã hội chỉ
có phát triển trên một nền độc lập dân tộc thật sự thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
3. Sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam hiện nay
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
lãnh đạo, “dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng
nên nước Việt Nam độc lập, dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà
lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Thắng lợi đó đã mở ra kỷ nguyên mới trong lịch
sử dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân lao 13 lOMoAR cPSD| 45469857
động làm chủ xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát
triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Miền Bắc phát động phong trào thi đua lao động sản xuất, tạo sức người, sức
của phục vụ miền Nam đánh Mỹ. Hơn 20 năm trường kỳ khách chiến, ngày
30/04/1975, đất nước ta hoàn toàn giải phóng. Bắc Nam sum họp một nhà, người dân
được hưởng độc lập tự do thái bình. Cách mạng Việt Nam chuyển sang 1 giai đoạn
mới, thời kỳ quá độ lên CHủ nghĩa xã hội, bỏ qua CHủ nghĩa tư bản. Phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Trong thời kỳ này, đất nước gặp muôn vàn
khó khăn: nền kinh tế nhỏ lẻ, chủ yếu là nông lâm ngư nghiệp, hậu quả của chiến
tranh để lại phải khắc phục. Kẻ thù tìm mọi cách để chống phá Đảng, nhà nước.
Trong giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1986, nền kinh tế của nước ta đi vào bế
tắc: làm không đủ ăn, phải dựa vào lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác
được viện trợ từ ngước ngoài, Bộ máy của nhà nước cồng kềnh, làm việc kém hiệu
quả, lạm phát tặng cao, người dân đói nghèo, tệ nạn xã hội gia tăng.
Đất nước độc lập, người dân được tự do nhưng chưa phát huy hết khả năng, tính
sáng tạo của mình. Tuy nhiên, người dân cũng chưa được hạnh phúc vì chưa đáp ứng
được nhu cầu thiết yếu của họ.
Xuất phát từ yếu kém trên, Đảng ta đã nhìn nhận xã hội theo nhiều hướng để
tìm cách tháo gỡ. Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã quyết định
đổi mới đất nước thông qua loạt bài báo của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: Phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó có nền kinh tế nhà nước là chủ đạo; phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy dân làm gốc. Đây là tiền đề tạo nền tảng vững
chắc, là cơ sở đặc biệt quan trọng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta trong thời
kỳ đổi mới để người dân được hưởng tự do hạnh phúc.
Trải qua 36 năm đổi mới, đến nay, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa … Đặc biệt, quyền làm chủ của người dân cũng
được nâng cao. Về khoa học kỹ thuật, phát triển về kinh tế, văn hóa, đời sống tinh
thần được cải thiện vượt bậc. Ngày nay trong xu thế mở rộng đa phương hóa, đa dạng 14 lOMoAR cPSD| 45469857
hóa, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, hội nhập và phát triển
kinh tế để đôi bên cùng có lợi. Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta giai đoạn hiện nay, trước sự vận động vô cùng nhanh chóng và phức tạp của quan
hệ quốc tế, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với các giá trị trên đây, sự
kiện lịch sử Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và con
đường cách mạng mà người đem lại cho dân tộc càng có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Trên thực tế, với đường lối đổi mới của Đảng, sự hội nhập quốc tế của Việt Nam
cũng là tiếp tục quá trình dân tộc ta đi ra thế giới trong điều kiện lịch sử mới để thâu
nhận các giá trị văn hóa - văn minh nhân loại và nắm bắt xu thế phát triển của thời
đại để tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo ra
các điều kiện để thực hiện ngày một hoàn chỉnh các nội dung của tiêu chí Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc cho con người Việt Nam. Đảng ta, nhà nước ta, nhân dân ta cũng
luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện những
căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra những mục tiêu tổng quát như sau: Nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước, chế dộ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc,
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn dấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng cần lấy dân thụ hưởng ra làm mục tiêu chính phấn đấu hơn nữa, bởivì dân
thụ hưởng chính là thể hiện mục đích cuối cùng của Đảng. Đó là được phục vụ
nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Từ đó, khích lệ 15 lOMoAR cPSD| 45469857
tinh thần tích cực của Nhân dân, phát huy vai trò, vị trí của người dân trong khát
vọng xây dựng đất nước thịnh vượng, hùng cường của dân tộc.
Đảng phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn lại đội hình lãnh đạo, đẩy
mạnh xóa bỏ tệ nạn tham nhũng. Mỗi cán bộ, đảng viên đều cần mang trong mình
trách nhiệm chống tham. Cũng như trong văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã từng nêu
ra quan điểm quán triệt xây dựng Đảng về đạo đức: “Nêu cao tinh thần tự giác tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việcthực hiện các nhiệm vụ chính trị”
Đặc biệt, đứng trước đại dịch Covid-19 đang bùng phát mạnh mẽ tại Việt Nam
cũng như trên thế giới. Đảng và nhà nước cùng nhân dân phải tập trung kiểm soát tốt
đại dịch, tiêm chủng vắc-xin cho cộng đồng và cần phát huy được tinh thần đoàn kết
dân tộc cũng như sự tương thân tương ái giữa Đảng, nhà nước với nhân dân. Cùng
nhân dân chiến đấu, ngăn chặn dịch bệnh để người dân lấy lại cuộc sống hạnh phúc,
bình yên. Thực tế, Chiến đấu với dịch bệnh cũng không khác gì chiến đấu với kẻ thù
xâm lược, dịch bệnh đã mang đi sinh mạng của rất nhiều người do một số bộ phận
người dân đã không có ý thức mà vô tình gây bùng phát dịch bệnh mạnh mẽ đặc biệt
vào đợt bùng dịch thứ 4 này. Các y bác sĩ và các chiến sĩ bộ đội là những người trực
tiếp đương đầu với bệnh dịch. Họ phải rời xa gia đình, từ bỏ ước muốn cá nhân để
lên đường thực hiện công cuộc ngăn chặn, chiến đấu với dịch bệnh không quản ngày
đêm để cho người dân có thể được yên tâm sống khỏe mạnh và hạnh phúc và tự do.
Các chỉ thị được đưa ra để cho người dân không được ra khỏi nhà, khu vực không
đồng nghĩa với việc mất tự do cho nhân dân, mà Đảng, Nhà nước làm như vậy là vì
mục tiêu sức khỏe chung của cộng đồng, dân tộc và vì mục tiêu trước mặt là hết đại
dịch chúng ta sẽ được tự do đi lại, tự do với các mối quan hệ xung quanh. Nhiều quỹ
hỗ trợ đã được thành lập để ủng hộ, giúp đỡ những người gặp khó khăn trong hoàn
cảnh đại dịch vì mục tiêu không ai bị bỏ lại phía sau… Với diễn biến phức tạp của
đại dịch, Đảng và Chính Phủ đã luôn kiên định với mục tiêu “đặt sức khỏe, tính mạng
của nhân dân lên trên hết, trước hết,”. Với phương châm phòng, chống dịch chuyển 16 lOMoAR cPSD| 45469857
từ “zero Covid” sang “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch Covid-
19,” vừa phòng, chống dịch, vừa khôi phục, phát triển kinh tế-xã hội.
Trách nhiệm của công dân Việt Nam để duy trì nền độc lập, tự do, hạnh phúc
dân tộc. Đảng, Nhà nước luôn cố gắng chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân. Đồng thời, cũng luôn đòi hỏi ở nhân dân sự chung sức, đồng lòng,
thi đua phấn đấu, cống hiến, đóng góp cùng với Đảng, Nhà nước, tháo gỡ khó khăn,
vượt qua thách thức, luôn vững tin vào tương lai tươi sáng vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để có độc lập, tự do, cuộc sống thanh
bình hôm nay, biết bao thế hệ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đã chiến đấu, hy sinh, cống
hiến xương máu. Vì vậy mỗi chúng ta khi sinh ra được sống trong nền hòa bình đã
là một sự may mắn, chính vì vậy mỗi công dân cần phải cống hiến nhiều hơn để phát
triển nước nhà, giữ vững nền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc. Chúng ta chỉ có
thể hiểu đúng giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc, khi biết trân trọng quá khứ, nhớ
ơn các bậc tiền bối, tin tưởng vào tương lai để ra sức thi đua phấn đấu, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN; một lòng đi theo Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái,
thù địch xuyên tạc, chống phá; bảo vệ thành tựu cách mạng Việt Nam. Độc lập, tự
do, hạnh phúc luôn gắn với trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc, giống
nòi Việt Nam; bảo vệ vùng trời, vùng biển đảo, đường biên giới thiêng liêng được
xác định bởi công sức, máu xương của tiền nhân.
Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh, tổ chức tại Hà Nội tháng 3 năm 1990, một đại biểu quốc tế đã
khẳng định: “Cái chung lý tưởng Hồ Chí Minh là muốn cho nhân loại được tự do,
hạnh phúc”. Còn Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới Romesh Chandra thì đánh giá:
“Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ
Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình công lý, ở đó có Hồ Chí
Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một 17 lOMoAR cPSD| 45469857
thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”. III. KẾT LUẬN
Vấn đề Luận điểm “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc,
tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một luận
điểm vô cùng chính xác và nó có giá trị tới tận bây giờ và mãi về sau. Độc lập đi liền
với tự do. Độc lập dân tộc đi liền với tự do của người dân. Tự do là một tài sản quý
giá và vĩnh hằng của con người, có thể coi đó cũng là một quyền tự nhiên của con người.
Chính trong tuyên ngôn độc lập của mình, Người đã tiếp thu tư tưởng của các
nhà lập quốc Hoa Kỳ để từ những quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự
do suy rộng ra quyền của một dân tộc. Khát vọng Ðộc lập - Tự do - Hạnh phúc cho
dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh còn đồng thời là khát vọng thống nhất Tổ quốc.
Trong lời tuyên bố với quốc dân ngày 23-10-1946, Hồ Chí Minh nói: "Một ngày mà
Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày tôi ăn không ngon,
ngủ không yên. Tôi trân trọng hứa với đồng bào rằng; Với quyết tâm của đồng bào,
với quyết tâm của toàn thể nhân dân, Nam Bộ nhất định trở lại cùng thân ái chung
trong lòng Tổ quốc" . Người cũng nêu lên những việc phải làm ngay để tạo không
khí hòa bình, và xây đắp con đường dân chủ để đi tới sự nghiệp Việt Nam thống nhất
của chúng ta. Hạnh phúc là tình thương cho mọi người được chan hòa bình đẳng
trong một cộng đồng ấm no, hòa bình. Hạnh phúc là khi con người được thỏa mãn
những nhu cầu và yêu cầu chính đáng của mình. Hạnh phúc là khi người dân được
sống đầy đủ các quyền công dân của mình trong một đất nước đọc lập, dưới một nhà
nước bảo đảm cho họ quyền tự do dân chủ, nhất là tự do tư tưởng. Trong thời đại
ngày nay với biết bao nhiêu khó khăn và thử thách thì độc lập càng đòi hỏi được bảo
vệ và củng cố, tự do càng được yêu cầu đảm bảo và hạnh phúc càng được khát khao đạt tới. 18