Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập, người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập, người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45469857
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TR
---------oOo---------
BÀI TẬP
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập,
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam
hiện nay.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thái Ngọc Nhi
Mã sinh viên: 11224941
Lớp học phần: LLTT1101
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hồng Sơn
Hà Nội, 22/03/2024
lOMoARcPSD| 45469857
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3
NỘI DUNG ................................................................................................................................. 5
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập và chủ nghĩa xã hội ...................5
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ................................................................... 5
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ................................................................ 8
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
14 ...................................................................................................................................... 14
II. Hạnh phúc, tự do gắn với giá trị của độc lập dân tộc1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa hạnh phúc, tự do và độc lập dân tộc 17 .................................................17
2. Hạnh phúc, tự do, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội .................................... 18
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay .....................................................20
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 24
lOMoARcPSD| 45469857
3
LỜI MỞ ĐẦU
Là một vị lãnh tụ đáng kính, một người cộng sản vĩ đại, danh nhân văn hóa kiệt
xuất trên thế giới và là một nhà lý luận, nhà tư tưởng lớn của cách mạng Việt
Nam, tư tưởng và sự nghiệp giải phóng dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh được
cả thế giới công nhận và vinh danh. Người không những soi sáng con đường
thành công cho cách mạng Việt Nam mà còn là ngọn đèn dẫn đường cho phong
trào cách mạng của những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Người cống hiến
cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc cung như hạnh phúc, ấm no của nhân
dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm tới đời sống của đồng bào nhân dân từ
trước khi Việt Nam giành được độc lập, sở dĩ vì Người cho rằng, tự do và hạnh
phúc cho nhân dân mới là mục đích sau cùng quan trọng nhất. Sau bao công
cuộc đấu tranh, nếu Tổ quốc được giải phóng, đất nước được thống nhất, dân tộc
thoát khỏi ách kìm kẹp của bè lũ ngoại xâm mà đồng bào vẫn lầm han thì những
sự độc lập đó còn ý nghĩa gì. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc
không những phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, mà độc lập dân tộc còn phải gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc
của nhân dân. Điều này đã được Người khái quát thành chân lý sâu sắc: “Nước
độc lập, người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Nền độc lập của một dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho dân tộc ấy có
hòa bình, ổn định về mặt chính trị, phát triển về kinh tế và văn hóa cũng như
thống nhất về lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Nền độc lập đó phải được “đo
bằng những khả năng và điều kiện đảm bảo cho dân tộc đó vượt qua tình trạng
lOMoARcPSD| 45469857
4
đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu so với các dân tộc khác trong thế giới ngày nay,
ngày càng vươn lên đỉnh cao của sự giàu có, văn minh, hiện đại, công bằng
bình đẳng”. Trên cơ sở này, em sẽ phân tích luận điểm: “Nước độc lập, người
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”
cũng như liên hệ làm rõ ý nghĩa của luận điểm này đối với Việt Nam hiện nay.
lOMoARcPSD| 45469857
5
NỘI DUNG
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập và chủ nghĩa
xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
a. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, tự nhiên và bất khả xâm phạm của
tất cả các dân tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay gắn
liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Xuyên suốt
chiều dài lịch sử đó, vấn đề về chủ quyền quốc gia cũng như quyền tự do, độc
lập của dân tộc đã luôn là vấn đề thiêng liêng, bất khả xâm phạm mà Hồ Chí
Minh chính là hiện thân cho tinh thần ấy, bởi đó là những lẽ tự nhiên do tạo hóa
ban tặng, là quy luật khách quan của xã hội loài người mà tất cả các dân tộc đều
phải được hưởng. Vì biết bao xương máu thiêng liêng các thế hệ dân tộc đã đánh
đổi trong công cuộc đấu trành giành, giữ và thực thi quyền độc lập, tự do của dân
tộc mà mọi sự xâm phạm đến quyền thiêng liêng này đều trái với đạo lý và lẽ
phải.
Sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, Người trở về chủ trì Hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
và quyết định đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc giành lại quyền độc lập, tự do lên trên hết: “Trong lúc này quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Khi nhận thấy thời cơ cách mạng để
giành lấy quyền độc lập, tự do của dân tộc đã chín muồi, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định:“
Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lâp”. Người cũng đã tuyên bố trong bản 
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống,
lOMoARcPSD| 45469857
6
quyền sung sướng và quyền tự do” và tiếp tục khẳng định vang dậy núi sông:
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ…” trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Tất cả
đều được đúc kết nên từ tinh thần xuyên suốt mọi thời đại “Không có gì quý hơn
độc lập, tự do”.
b. Độc lập, tự do của dân tộc gắn liền với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ
Quyền độc lập, tự do của dân tộc như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh phải
được thể hiện ở việc coi Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn về lãnh thổ. Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân ta luôn
phải đối mặt với âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù ngoại bang. Trong hoàn
cảnh hết lần này đến lần khác đất nước bị chia cắt, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, ý chí thống nhất Tổ
quốc của nhân dân cả nước không bao giờ lay chuyển” và “Đấu tranh cho thống
nhất là con đường sống của nhân dân Việt Nam”. Ngay trong Thư gửi đồng bào
Nam Bộ, Người cũng khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”.
Người quyết định sang Pháp với mục đích không gì khác ngoài việc khẳng định
sự độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam. Sau Hiệp định Giơnevơ 1954,
một lần nữa Người khẳng định: “Nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất, vì
nước ta là một khối, không ai chia cắt được... đó là nguyện vọng thiết tha của
toàn thể nhân dân ta từ Bắc đến Nam”. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta đang diễn ra khốc liệt, Chủ tích Hồ CMinh tiếp tục nhấn
mạnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng năm 1960: “Đại hội lần này sẽ soi sáng
lOMoARcPSD| 45469857
7
hơn nữa con đường đấu tranh cách mạng của nhân dân ta nhằm hoà bình thống
nhất đất nước. Dân tộc ta là một, nước Việt Nam là một. Nhân dân ta nhất định
sẽ vượt tất cả mọi khó khăn và thực hiện kỳ được “thống nhất đất nước, Nam
Bắc một nhà””. Trước lúc ra đi, Người vẫn bày tỏ một niềm tin và khát vọng
tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, vào sự thống nhất nước nhà: “Dù khó
khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc
Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng
bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Ta hoàn toàn có thể khẳng định
rằng tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ
là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
c. Độc lập, tự do của dân tộc phải thật sự, hoàn toàn và triệt để
Trong tác phẩm “Về quyền dân tộc tự quyết”, V.I. Lê-nin đã khẳng định rằng:
“Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết”, đó cũng
chính là một cách tuyên bố “Các dân tộc có quyền độc lập chính trị, có quyền
phân lập về mặt chính trị, khỏi các dân tộc áp bức họ”. Cùng với lý lẽ đầy thuyết
phục ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định khi viện dẫn bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp “Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đằng về quyền lợi” rằng dân
tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi như
các dân tộc khác. Ta có thể hiểu, một quốc gia có đầy đủ quyền tự quyết, tự chủ
đối với vận mệnh của mình cũng như quyền lựa chọn con đường phát triển mà
không bị lệ thuộc hoặc bị chi phối bởi các dân tộc khác mới được xem là một
quốc gia độc lập, tự do.
lOMoARcPSD| 45469857
8
Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rút ra những bài học kinh nghiệm đối
với cách mạng Việt Nam rằng: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm
cho đến nơi…”. Và Người cũng quan niệm, chúng ta một khi đã đấu tranh cho
quyền độc lập, tự do của n tộc thì phải đấu tranh cho quyền độc lập, tự do một
cách thực sự, hoàn toàn, triệt để trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị,
văn hóa, quốc phòng an ninh,...Vì giá trị đích thực mà quyền độc lập, tự do mang
lại chính là đảm bảo và phát huy được quyền làm chủ thật sự cho người dân. Nếu
đã đấu tranh ta phải đấu tranh cho một nền độc lập nơi mà ta không phải ph
thuộc hay bị chi phối bởi bất cứ thế lực bên ngoài nào. Bởi nền độc lập, tự do chỉ
thật sự có ý nghĩa khi ta có quyền quyết định những vấn đề của chính dân tộc
mình mà không bị can thiệp hay tác động bởi các thế lực nào khác.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a. Cơ sở hình thành tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc,
truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng truyền thống của làng xã Việt Nam.
Từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương Đông qua “thuyết đại
đồng” của Nho giáo, sau khi ra nước ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong chủ nghĩa Mác - Lênin lý tưởng về một
xã hội nhân đạo trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do
cho tất cả mọi người”.
Tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng
của Mác con đường chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
lOMoARcPSD| 45469857
9
phóng loài người. Người viết: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”.
Người còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Người cho rằng
“Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”. Từ
đó mà Người tin tưởng cổ vũ “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức
cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
giải phóng loài người”
.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ khía cạnh
truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam. Văn hóa Việt Nam trọng
nhân nghĩa, trọng dân, khoan dung, hòa mục để hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là
văn hóa trọng trí thức, hiến tài. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang
trong mình bản chất nhân văn và văn hóa; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát
triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hóa và giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội luôn luôn thể hiện tính thống nhất
biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và đạo đức. Từ
cách tiếp cận đó đối với chủ nghĩa xã hội, thông qua hoạt động lý luận và thực
tiễn phong phú của mình, Người đã rút ra những kết luận rất sâu sắc về bản chất
của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - -nin, Chủ tịch Hồ C
lOMoARcPSD| 45469857
10
Minh quan niệm rằng, chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách
mạng của giai cấp vô sản nhằm xóa bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, nhằm thực
hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người. Chủ
nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như là một
hành trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. Sự đột phá và sáng tạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn về bản chất của chủ nghĩa xã hội được thể
hiện ở việc phát hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa từ sự chung đúc tất cả những lý
tưởng về giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Đồng thời,
Người còn nhìn nhận được một điều rất quan trọng là, muốn đạt tới lý tưởng,
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, ta phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân.
Đối với Người, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài
hòa giữa các cá nhân. Điều này đánh dấu cách tiếp cận mới mà Người đã làm
phong phú thêm trong quá trình tiếp cận về chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh những
kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
- -nin đã làm sáng tỏ trong bản chất chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn nhìn nhận bản chất chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức, văn hóa. Theo
Người, chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề
phủ nhận cá nhân; trái lại, tôn trọng cá nhân, phát triển mọi năng lực cá nhân vì
sự phát triển xã hội và hạnh phúc của con người nói chung. Đây chính là chiều
sâu trong tư duy biện chứng, trong nhãn quan văn hoá, đạo đức của Hồ Chí
Minh.
lOMoARcPSD| 45469857
11
c. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Theo học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, “Sự sụp đổ của giai cấp
tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Từ xưa đến nay, các
chế độ xã hội cứ phát triển và thay thế dần cho nhau, đó là sự phát triển và tiến
bộ mà không ai ngăn cản được. Dù quá trình này không thể bị ngăn cản, nó vẫn
đi theo những con đường khác nhau tùy hoàn cảnh của các dân tộc khác nhau.
Trong khi Liên Xô đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, thì các nước Đông Âu, Trung
Quốc và Việt Nam lại kinh qua chế độ dân chủ mới, mà theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh giải thích là chế độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân
dân lao động làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên chính theo tư tưởng của ch
nghĩa Mác--nin, rồi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đặt vào bối cảnh xã hội
đương thời, tư tưởng của Người khẳng định rằng lộ trình đi lên xã hội chủ nghĩa
không như nhau và bắt buộc với tất cả các nước. Theo Người, dù tiến lên chủ
nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu, tuân theo những quy luật khách quan,
nhưng tùy vào bối cảnh cụ thể mà mỗi quá trình này ở mỗi dân tộc sẽ diễn ra với
thời gian và phương thức khác nhau.
Cụ thể là trong khi những nước đã trải qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản sẽ phát
triền thẳng lên chủ nghĩa xã hội, thì những nước dù chưa kinh qua giai đoạn này
vẫn có thể đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã hoàn thành việc đánh đổ đế quốc và
phong kiến. Đặt vào bối cảnh cụ thể ở Việt Nam, quốc gia đã trải qua hàng nghìn
năm dưới ách thống trị của chế độ phong kiến, thực dân với nhiều khuynh hướng
cứu nước cứu dân tuy đã được thực hiện nhưng đều không đem lại được kết quả
như mong đợi, thì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành nguồn gốc của
sự tự do, bình đẳng, bác ái cũng như xóa bỏ được những bức tường dài ngăn cản
lOMoARcPSD| 45469857
12
con người yêu thương, đoàn kết lẫn nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội này
với Việt Nam mà nói chính là một sự tất yếu của lịch sử sẽ đáp ứng được khát
vọng giải phóng dân tộc.
d. Một số đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội chủ nghĩa tuy có kế thừa những đặc điểm
của chế độ xã hội trước đó nhưng vẫn mang trong mình bản chất khác hẳn so với
các xã hội tồn tại trước nó trong lịch sử loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh có
quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội như là một chế
độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó con người được
phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế, mọi thiết chế, cơ cấu xã hội
đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con ngưi. Sự khác biệt của xã hội chủ nghĩa
so với những chế độ trước kia được thể hiện rõ nhất trên những lĩnh vực lớn
trong xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa – đạo đức và chủ thể xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Về chính trị, xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ. Đặc trưng chính trị cơ
bản trong xã hội chủ nghĩa được thể hiện trước hết ở việc xã hội này do nhân dân
làm chủ dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản trên nền tảng căn bản của liên minh
công – nông. Nhà nước ở đây theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải nhận thức sâu sắc
về sức mạnh, địa vị và vai trò của nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội cũng như đem lại lợi ích cho nhân dân. Trong xã hội chủ
nghĩa, nhân dân có địa vị cao nhất được thể hiện qua việc mọi quyền lợi, quyền
lOMoARcPSD| 45469857
13
lực, quyền hạn đều thuộc về nhân dân cũng như mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ
đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
Về kinh tế, xã hội trong xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện tại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vì là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ
nghĩa tư bản nên chủ nghĩa xã hội cũng phải có nền kinh tế phát triển cao hơn
nền kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ. Lực lượng sản xuất hiện đại trong xã hội
chủ nghĩa được thể hiện qua các khía cạnh như công cụ lao động, phương tiện
lao động trong quá trình sản xuất. Cùng với đó, quan hệ sản xuất trong xã hội
chủ nghĩa cũng khác so với quan hệ sản xuất trong tư bản chủ nghĩa, thay vì tư
hữu tư liệu sản xuất thì ở đây, mọi tư liệu sản xuất đều là của chung, đều thuộc
về nhân dân. Nền kinh tế của xã hội chủ nghĩa phát triển cao hơn như vậy nhằm
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động.
Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội, xã hội chủ nghĩa có trình độ phát
triển cao về văn hóa và đạo đức để đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong các quan
hệ xã hội. Sự phát triển về văn hóa và đạo đức của xã hội chủ nghĩa được thể
hiện trước hết ở các mối quan hệ xã hội giữa người với người, con người được
giải phóng khỏi áp bực, bóc lột, được đảm bảo đối xử tôn trọng và công bằng,
được tạo điều kiện để phát triển bản thân để có cuộc sống vật chất và tinh thần
phong phú cũng như các dân tộc được đối xử bình đẳng, gắn bó, đoàn kết với
nhau. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là xã hội đem lại quyền bỉnh đẳng trước
pháp luật cho mọi công dân, mọi cộng đồng được gắn bó trên cơ sở bình đẳng về
lOMoARcPSD| 45469857
14
quyền lợi và nghĩa vụ, ai cũng phải lao động và ai cũng có quyền lao động. Vậy
nên chủ nghĩa xã hội là nền tảng để tiến tới chế độ xã hội hòa bình, đoàn kết, ấm
no, hạnh phúc vì chủ nghĩa xã hội đảm bảo tính công bằng và tính hợp lý trong
các quan hệ xã hội.
Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Từ xa xưa tới nay, từ xã hội
chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, người lao động đã luôn phải đấu
tranh để giành lấy quyền lợi của mình, để thoát khỏi chế độ người bóc lột người
đầy tính bất công. Giờ đây với chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ của nhân dân,
do nhân dân làm chủ, lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của cộng đồng này,
chính những người lao động ấy, nhân dân ấy đã trở thành chủ thể, trở thành lực
lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chính chủ nghĩa xã hội.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân đoàn kết
thành một khối thống nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định
vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Và
trong sự nghiệp xây dựng này, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định
về việc cần có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một
cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước mình thì mới đưa cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công được.
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ
Chí Minh
a. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Vận dụng một cách sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa
Mác-Lênin trong điều kiện của cách mạng Việt Nam, Chủ tích Hồ Chí Minh đã
lOMoARcPSD| 45469857
15
khẳng định về phương hướng cách mạng nước nhà trong Chánh cương vắn tắt
của Đảng rằng “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”. Vậy nên, mục tiêu đầu tiên cùng như là cơ sở, tiền đề cho mục
tiêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chính là giành lại được nền độc lập,
tư do cho dân tộc.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc không những gắn liền với thống
nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mà độc lập còn gắn liền với tự do, hạnh
phúc của nhân dân.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản, hay chính
là độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, độc lập
dân tộc thay vì là mục tiêu cuối cùng của cách mạng thì lại là mục tiêu cốt yếu,
trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết
định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp
hướng đến xã hội phát triển hơn – cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó, cách
mạng dân tộc dân chủ càng sâu sắc, triệt để bao nhiêu thì tiền đề cho cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa càng thuận lợi bấy nhiêu, sức mạnh cho cuộc cách mạng
ấy càng to lớn bấy nhiêu. Độc lập dân tộc ở đây không chỉ là tiền đề mà còn đã
trở thành động lực sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Theo Người, chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân
chủ nhân dân, chính điều này làm cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc
của Hồ Chí Minh khác biệt so với những người đi trước. Ham muốn tột bậc của
Người là đất nước ta đạt được dòng tiêu ngữ đơn giản “Độc lập – Tự do – Hạnh
phúc”, mà với điều kiện của một nước thuộc địa nViệt Nam, muốn đạt được
lOMoARcPSD| 45469857
16
điều đo trước hết ta phải đấu tranh giành được độc lập dân tộc. Nhưng dân tộc
độc lập mà nhân dân không được hạnh phúc thì nền độc lập đó còn ý nghĩa chi?
Vậy nên “Tự do – Hạnh phúc” mới chính là thước đo cho giá trị của độc lập dân
tộc. Và nền tự do hạnh phúc đấy sẽ chỉ đạt được khi ta tiến lên xã hội chủ nghĩa,
nơi người dân có thể tự làm chủ, tự cải thiện cho hạnh phúc của bản thân một
cách toàn diện. Chính vì vậy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đất nước ta sẽ giành độc
lập theo con đường cách mạng vô sản, Người cũng đã khẳng định độc lập dân
tộc ta sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội.
b. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức cũng như những người lao
động trên toàn thế giới khỏi cảnh áp bức bóc lột. Để đảm bảo nền độc lập dân tộc
thật vững chắc, để không một lần nữa tổ quốc rơi vào cảnh lệ thuộc, Người có
niềm tin rằng chặng đường tiếp theo ta cần hướng đến là chặng đường đi lên ch
nghĩa xã hội. Vì chủ nghĩa xã hội không những là xu thế tất yếu của thời đại mà
còn phù hợp với lợi ích và hướng đi của Việt Nam, nên cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam muốn giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để thì phải
mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đã phản ánh được tính triệt để cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đó là tư tưởng đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người
ở mục tiêu cao nhất trong sự nghiệp cách mạng.
Xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp nơi không
còn tồn tại chế độ áp bức bóc lột. Đó là một xã hội bình đẳng, công bằng, nơi
người lao động được hưởng những gì xứng đáng với sức lao động bỏ ra, nơi
lOMoARcPSD| 45469857
17
phúc lợi xã hội cho người dân được đảm bảo, nơi mọi người đều có điều kiện để
phát triển như nhau. Đó còn là một xã hội với nền kinh tế phát triển cao, gắn liền
với sự phát triển của khoa học kĩ thuật để có thể đảm bảo nhu cầu về vật chất
cũng như tinh thần của người dân, một xã hội có sự phát triển cao kể cả về đạo
đức và văn hóa, một xã hội nơi người với người hữu nghị, hòa bình, làm bạn với
tất cả các nước dân chủ trên thế giới.
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây
dựng cơ sở cho sự phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Chế độ dân
chủ đó sẽ được thể hiện trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và được thể chế
hóa bằng pháp luật cũng như được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đó cũng chính là điều kiện quan trọng
nhất để đảm bảo nền độc lập dân tộc và tạo ra nền tảng ý thức xã hội về bảo vệ
chủ quyền dân tộc cũng như kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu đe doạn
đến nền độc lập, tự do đó. Chỉ có xây dựng một xã hội như vậy thì nền độc lập
của dân tộc mới được củng cố, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới có thể thắng lợi
một cách hoàn toàn và triệt để.
II. Hạnh phúc, tự do gắn với giá trị của độc lập dân tộc 1. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa hạnh phúc, tự do và độc lập dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về
độc lập và tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Người
từng khẳng định: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được
ăn no, mặc đủ”. Thật vậy, quyền độc lập, tự do của dân tộc chỉ thực sự có giá trị
và ý nghĩa khi nó mang lại quyền tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân, cũng
chính là thước đo cho giá trị làm người của mỗi con người sống trong dân tộc đó.
lOMoARcPSD| 45469857
18
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách của mình, Chủ tích Hồ Chí Minh luôn coi
độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc, như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”, và mục tiêu đầy tính nhân văn ấy sẽ đạt được khi
và chỉ khi đất nước được độc lập, tự do hoàn toàn. Người tin rằng bao xương
máu đổ xuống vì cách mạng là để giành lại quyền độc lập, tự do cho Tổ quốc,
chính vì vậy đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nên được đặt lên hàng đầu
sau khi đất nước giành lại được quyền độc lập, tự do. Bởi theo Người, “nước
được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì”, vì xét cho cùng “Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó”.
Người thật sự hiểu rõ giá trị thực sự của độc lập dân tộc, đồng thời liên tục
truyền tải những tư tưởng, bài học đó cho các cán bộ, chiến sĩ, để từ đó có thể
đưa ra những chính sách phù hợp nhằm cái thiện đời sống vật chất và tinh thần
cho đồng bào ta. Như vậy, quyền độc lập, tự do của dân tộc chính là vấn đề hàng
đầu, là nền tảng tạo nên giá trị sống, giá trị làm người của nhân dân các dân tộc
thuộc địa.
2. Hạnh phúc, tự do, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội
Mà cái tự do, hạnh phúc Chủ tịch Hồ Chí Minh “ham muốn tột bậc” chỉ đạt được
khi nền độc lập dân tộc ta giành được gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chính
Người cũng đã nhấn mạnh rằng, chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa mỗi cá
nhân mới có đầy đủ điều kiện để phát huy hết sở trường của bản thân, để phát
triển một cách toàn diện nhất. Hạnh phúc, tự do trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
nhân dân được hưởng đầy đủ những sự phát triển trong đời sống vật chất, tinh
lOMoARcPSD| 45469857
19
thần mà chủ nghĩa xã hội đem lại. Trong xã hội ấy, đời sống vật chất được xây
dựng dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được tiếp cận tri thức, học hành đầy đủ. Theo Người, xã hội chủ nghĩa cũng
chính là nền tảng để đáp ứng được tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ trong xã
hội mà nền kinh tế phát triển cao, xã hội công bằng, văn minh thì nhu cầu cả về
vật chất và tinh thần của người dân mới được đáp ứng đầy đủ.
Bên cạnh việc tăng trưởng nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu vật chất của người
dân với thu nhập cao, ăn ngon, mặc đẹp thì chủ nghĩa xã hội còn hướng tới việc
không ngừng nâng cao cả đời sống tinh thần của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội là
giai đoạn phát triển cao hơn của chủ nghĩa tư bản, tức là về bản chất chủ nghĩa
xã hội phải đảm bảo được việc giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột,
xiềng xích mà chủ nghĩa phong kiến hoặc tư bản đem đến. Chỉ có vậy con người
mới đạt đến được tự do, hạnh phúc đích thực. Cũng chính vì thế mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống. Vì chỉ
những con người có đạo đức, văn hóa mới có thể đạt được hạnh phúc đích thực
trong xá hội chủ nghĩa. Người hiểu được tầm quan trọng của đời sống văn hóa
tinh thần đối với nhân dân. Ngay cả trong kháng chiến ác liệt, Bác cũng nhấn
mạnh “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân
không yên”.
Nhìn chung lại, độc lập chính là nền tảng của tự do, hạnh phúc, con người phải
có được độc lập thì mới có hạnh phúc, và ngược lại cũng đúng, khi quyền mưu
cầu hạnh phúc của con người bị gắn chặt với tự do, độc lập của mỗi người, con
người một khi tự do, hạnh phúc thì mới thấu hiểu được giá trị to lớn của độc lập
mà biết để đấu tranh gìn giữ. Hạnh phúc bản chất chính là hành trình tự do khám
lOMoARcPSD| 45469857
20
phá, phát triển bản thân trong một môi trường có đầy đủ điều kiện với một tinh
thần thoải mái. Và chỉ có xã hội chủ nghĩa mới đủ khả năng kiến tạo nên một
môi trường như vậy, do đó mọi nỗ lực đấu tranh để gìn giữ nền độc lập cũng như
phát triển lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn cần thiết và xứng đáng.
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Vào thời điểm sau chiến tranh, nước ta gặp khó khăn trên mọi lĩnh vực: nền kinh
tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất bị tàn phá, đất đai bị bỏ hoang không ai khai
phá, tình hình sản xuất bị đình trệ và mất cân đối, tệ nạn xã hội hoành hành và
hàng triệu người dân thất nghiệp,…Dù khó khăn là vậy, mọi người dân Việt Nam
vẫn hăng hái tham gia sản xuất, tiến hành khôi phục, phát triển nền kinh tế đã bị
tàn phá cùng lúc đó thực hiện công cuộc đổi mới để đi lên chủ nghĩa xã hội và
mở ra một kỷ nguyên mới: “Độc lập Tự do – Hạnh phúc”. Nhờ sự chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước, nhân dân ta càng nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của nền
độc lập mà cha ông ta đã đổ biết bao xương máu để giành lại được, từ đó thấy
thêm phần trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ cũng như đóng góp công sức vào sự nghiệp
chung – xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Luận điểm "Nước độc lập, người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một
khẳng định về sự quan trọng của tự do và độc lập cho một quốc gia, mà còn là
một bài học sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu cuối cùng của
mọi cuộc cách mạng. Trong thế giới hiện đại, ý nghĩa của luận điểm này vẫn còn
đầy tính ứng dụng. Việc xây dựng và duy trì một quốc gia độc lập không chỉ là
việc giành được tự do chính trị khỏi sự chi phối của các quốc gia khác mà còn là
| 1/24

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45469857
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ---------oOo--------- BÀI TẬP
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài: Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập,
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm với Việt Nam hiện nay.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thái Ngọc Nhi
Mã sinh viên: 11224941
Lớp học phần: LLTT1101
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hồng Sơn Hà Nội, 22/03/2024 lOMoAR cPSD| 45469857 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 3
NỘI DUNG ................................................................................................................................. 5
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập và chủ nghĩa xã hội ...................5
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ................................................................... 5
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ................................................................ 8
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
14 ...................................................................................................................................... 14
II. Hạnh phúc, tự do gắn với giá trị của độc lập dân tộc1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa hạnh phúc, tự do và độc lập dân tộc 17 .................................................17
2. Hạnh phúc, tự do, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội .................................... 18
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay .....................................................20
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 24
2 lOMoAR cPSD| 45469857 LỜI MỞ ĐẦU
Là một vị lãnh tụ đáng kính, một người cộng sản vĩ đại, danh nhân văn hóa kiệt
xuất trên thế giới và là một nhà lý luận, nhà tư tưởng lớn của cách mạng Việt
Nam, tư tưởng và sự nghiệp giải phóng dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh được
cả thế giới công nhận và vinh danh. Người không những soi sáng con đường
thành công cho cách mạng Việt Nam mà còn là ngọn đèn dẫn đường cho phong
trào cách mạng của những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Người cống hiến
cả đời mình cho độc lập, tự do của dân tộc cung như hạnh phúc, ấm no của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm tới đời sống của đồng bào nhân dân từ
trước khi Việt Nam giành được độc lập, sở dĩ vì Người cho rằng, tự do và hạnh
phúc cho nhân dân mới là mục đích sau cùng quan trọng nhất. Sau bao công
cuộc đấu tranh, nếu Tổ quốc được giải phóng, đất nước được thống nhất, dân tộc
thoát khỏi ách kìm kẹp của bè lũ ngoại xâm mà đồng bào vẫn lầm han thì những
sự độc lập đó còn ý nghĩa gì. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc
không những phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, mà độc lập dân tộc còn phải gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc
của nhân dân. Điều này đã được Người khái quát thành chân lý sâu sắc: “Nước
độc lập, người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Nền độc lập của một dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho dân tộc ấy có
hòa bình, ổn định về mặt chính trị, phát triển về kinh tế và văn hóa cũng như
thống nhất về lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Nền độc lập đó phải được “đo
bằng những khả năng và điều kiện đảm bảo cho dân tộc đó vượt qua tình trạng 3 lOMoAR cPSD| 45469857
đói nghèo, lạc hậu và tụt hậu so với các dân tộc khác trong thế giới ngày nay,
ngày càng vươn lên đỉnh cao của sự giàu có, văn minh, hiện đại, công bằng và
bình đẳng”. Trên cơ sở này, em sẽ phân tích luận điểm: “Nước độc lập, người
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”
cũng như liên hệ làm rõ ý nghĩa của luận điểm này đối với Việt Nam hiện nay. 4 lOMoAR cPSD| 45469857 NỘI DUNG I.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa độc lập và chủ nghĩa xã hội
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
a. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, tự nhiên và bất khả xâm phạm của
tất cả các dân tộc
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay gắn
liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Xuyên suốt
chiều dài lịch sử đó, vấn đề về chủ quyền quốc gia cũng như quyền tự do, độc
lập của dân tộc đã luôn là vấn đề thiêng liêng, bất khả xâm phạm mà Hồ Chí
Minh chính là hiện thân cho tinh thần ấy, bởi đó là những lẽ tự nhiên do tạo hóa
ban tặng, là quy luật khách quan của xã hội loài người mà tất cả các dân tộc đều
phải được hưởng. Vì biết bao xương máu thiêng liêng các thế hệ dân tộc đã đánh
đổi trong công cuộc đấu trành giành, giữ và thực thi quyền độc lập, tự do của dân
tộc mà mọi sự xâm phạm đến quyền thiêng liêng này đều trái với đạo lý và lẽ phải.
Sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, Người trở về chủ trì Hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng và quyết định đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc giành lại quyền độc lập, tự do lên trên hết: “Trong lúc này quyền
lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Khi nhận thấy thời cơ cách mạng để
giành lấy quyền độc lập, tự do của dân tộc đã chín muồi, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định:“ Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
kiên quyết giành cho được độc lâp”. Người cũng đã tuyên bố trong bản ̣
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Tất cả các
dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, 5 lOMoAR cPSD| 45469857
quyền sung sướng và quyền tự do” và tiếp tục khẳng định vang dậy núi sông:
“Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ…” trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Tất cả
đều được đúc kết nên từ tinh thần xuyên suốt mọi thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
b. Độc lập, tự do của dân tộc gắn liền với sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Quyền độc lập, tự do của dân tộc như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh phải
được thể hiện ở việc coi Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn về lãnh thổ. Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân ta luôn
phải đối mặt với âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù ngoại bang. Trong hoàn
cảnh hết lần này đến lần khác đất nước bị chia cắt, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, ý chí thống nhất Tổ
quốc của nhân dân cả nước không bao giờ lay chuyển” và “Đấu tranh cho thống
nhất là con đường sống của nhân dân Việt Nam”. Ngay trong Thư gửi đồng bào
Nam Bộ, Người cũng khẳng định: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”.
Người quyết định sang Pháp với mục đích không gì khác ngoài việc khẳng định
sự độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam. Sau Hiệp định Giơnevơ 1954,
một lần nữa Người khẳng định: “Nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất, vì
nước ta là một khối, không ai chia cắt được... đó là nguyện vọng thiết tha của
toàn thể nhân dân ta từ Bắc đến Nam”. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta đang diễn ra khốc liệt, Chủ tích Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn
mạnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng năm 1960: “Đại hội lần này sẽ soi sáng 6 lOMoAR cPSD| 45469857
hơn nữa con đường đấu tranh cách mạng của nhân dân ta nhằm hoà bình thống
nhất đất nước. Dân tộc ta là một, nước Việt Nam là một. Nhân dân ta nhất định
sẽ vượt tất cả mọi khó khăn và thực hiện kỳ được “thống nhất đất nước, Nam
Bắc một nhà””. Trước lúc ra đi, Người vẫn bày tỏ một niềm tin và khát vọng
tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng, vào sự thống nhất nước nhà: “Dù khó
khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc
Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng
bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Ta hoàn toàn có thể khẳng định
rằng tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ
là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
c. Độc lập, tự do của dân tộc phải thật sự, hoàn toàn và triệt để
Trong tác phẩm “Về quyền dân tộc tự quyết”, V.I. Lê-nin đã khẳng định rằng:
“Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết”, đó cũng
chính là một cách tuyên bố “Các dân tộc có quyền độc lập chính trị, có quyền
phân lập về mặt chính trị, khỏi các dân tộc áp bức họ”. Cùng với lý lẽ đầy thuyết
phục ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định khi viện dẫn bản Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp “Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi, và phải luôn được tự do và bình đằng về quyền lợi” rằng dân
tộc Việt Nam đương nhiên cũng phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi như
các dân tộc khác. Ta có thể hiểu, một quốc gia có đầy đủ quyền tự quyết, tự chủ
đối với vận mệnh của mình cũng như quyền lựa chọn con đường phát triển mà
không bị lệ thuộc hoặc bị chi phối bởi các dân tộc khác mới được xem là một
quốc gia độc lập, tự do. 7 lOMoAR cPSD| 45469857
Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rút ra những bài học kinh nghiệm đối
với cách mạng Việt Nam rằng: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm
cho đến nơi…”. Và Người cũng quan niệm, chúng ta một khi đã đấu tranh cho
quyền độc lập, tự do của dân tộc thì phải đấu tranh cho quyền độc lập, tự do một
cách thực sự, hoàn toàn, triệt để trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị,
văn hóa, quốc phòng an ninh,...Vì giá trị đích thực mà quyền độc lập, tự do mang
lại chính là đảm bảo và phát huy được quyền làm chủ thật sự cho người dân. Nếu
đã đấu tranh ta phải đấu tranh cho một nền độc lập nơi mà ta không phải phụ
thuộc hay bị chi phối bởi bất cứ thế lực bên ngoài nào. Bởi nền độc lập, tự do chỉ
thật sự có ý nghĩa khi ta có quyền quyết định những vấn đề của chính dân tộc
mình mà không bị can thiệp hay tác động bởi các thế lực nào khác.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
a. Cơ sở hình thành tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc,
truyền thống nhân ái và tinh thần cộng đồng truyền thống của làng xã Việt Nam.
Từng biết đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa sơ khai ở phương Đông qua “thuyết đại
đồng” của Nho giáo, sau khi ra nước ngoài khảo sát các cuộc cách mạng thế giới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong chủ nghĩa Mác - Lênin lý tưởng về một
xã hội nhân đạo trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện tự do
cho tất cả mọi người”.
Tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải phóng dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong học thuyết khoa học và cách mạng
của Mác con đường chân chính để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải 8 lOMoAR cPSD| 45469857
phóng loài người. Người viết: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”.
Người còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức. Người cho rằng
“Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân
đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa”. Từ
đó mà Người tin tưởng cổ vũ “Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức
cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và
giải phóng loài người”.
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ khía cạnh
truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam. Văn hóa Việt Nam trọng
nhân nghĩa, trọng dân, khoan dung, hòa mục để hòa đồng. Văn hóa Việt Nam là
văn hóa trọng trí thức, hiến tài. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội mang
trong mình bản chất nhân văn và văn hóa; chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát
triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hóa và giải phóng con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội luôn luôn thể hiện tính thống nhất
biện chứng giữa các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và đạo đức. Từ
cách tiếp cận đó đối với chủ nghĩa xã hội, thông qua hoạt động lý luận và thực
tiễn phong phú của mình, Người đã rút ra những kết luận rất sâu sắc về bản chất
của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội có khả năng thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Nhất quán với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí 9 lOMoAR cPSD| 45469857
Minh quan niệm rằng, chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách
mạng của giai cấp vô sản nhằm xóa bỏ ách thống trị tư bản chủ nghĩa, nhằm thực
hiện lý tưởng giải phóng giai cấp và giải phóng toàn thể xã hội loài người. Chủ
nghĩa xã hội còn được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh
tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc xây dựng và hoàn thiện nó như là một
hành trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu. Sự đột phá và sáng tạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi bàn về bản chất của chủ nghĩa xã hội được thể
hiện ở việc phát hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa từ sự chung đúc tất cả những lý
tưởng về giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Đồng thời,
Người còn nhìn nhận được một điều rất quan trọng là, muốn đạt tới lý tưởng,
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, ta phải thường xuyên chống lại chủ nghĩa cá nhân.
Đối với Người, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội bảo đảm sự phát triển hài
hòa giữa các cá nhân. Điều này đánh dấu cách tiếp cận mới mà Người đã làm
phong phú thêm trong quá trình tiếp cận về chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh những
kiến giải về kinh tế, chính trị và xã hội mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin đã làm sáng tỏ trong bản chất chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
còn nhìn nhận bản chất chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức, văn hóa. Theo
Người, chủ nghĩa xã hội đối lập, xa lạ với chủ nghĩa cá nhân, nhưng không hề
phủ nhận cá nhân; trái lại, tôn trọng cá nhân, phát triển mọi năng lực cá nhân vì
sự phát triển xã hội và hạnh phúc của con người nói chung. Đây chính là chiều
sâu trong tư duy biện chứng, trong nhãn quan văn hoá, đạo đức của Hồ Chí Minh. 10 lOMoAR cPSD| 45469857
c. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Theo học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, “Sự sụp đổ của giai cấp
tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau”. Từ xưa đến nay, các
chế độ xã hội cứ phát triển và thay thế dần cho nhau, đó là sự phát triển và tiến
bộ mà không ai ngăn cản được. Dù quá trình này không thể bị ngăn cản, nó vẫn
đi theo những con đường khác nhau tùy hoàn cảnh của các dân tộc khác nhau.
Trong khi Liên Xô đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, thì các nước Đông Âu, Trung
Quốc và Việt Nam lại kinh qua chế độ dân chủ mới, mà theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh giải thích là chế độ dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân
dân lao động làm chủ, nhân dân dân chủ chuyên chính theo tư tưởng của chủ
nghĩa Mác-Lê-nin, rồi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đặt vào bối cảnh xã hội
đương thời, tư tưởng của Người khẳng định rằng lộ trình đi lên xã hội chủ nghĩa
không như nhau và bắt buộc với tất cả các nước. Theo Người, dù tiến lên chủ
nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu, tuân theo những quy luật khách quan,
nhưng tùy vào bối cảnh cụ thể mà mỗi quá trình này ở mỗi dân tộc sẽ diễn ra với
thời gian và phương thức khác nhau.
Cụ thể là trong khi những nước đã trải qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản sẽ phát
triền thẳng lên chủ nghĩa xã hội, thì những nước dù chưa kinh qua giai đoạn này
vẫn có thể đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi đã hoàn thành việc đánh đổ đế quốc và
phong kiến. Đặt vào bối cảnh cụ thể ở Việt Nam, quốc gia đã trải qua hàng nghìn
năm dưới ách thống trị của chế độ phong kiến, thực dân với nhiều khuynh hướng
cứu nước cứu dân tuy đã được thực hiện nhưng đều không đem lại được kết quả
như mong đợi, thì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành nguồn gốc của
sự tự do, bình đẳng, bác ái cũng như xóa bỏ được những bức tường dài ngăn cản 11 lOMoAR cPSD| 45469857
con người yêu thương, đoàn kết lẫn nhau. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội này
với Việt Nam mà nói chính là một sự tất yếu của lịch sử sẽ đáp ứng được khát
vọng giải phóng dân tộc.
d. Một số đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xã hội chủ nghĩa tuy có kế thừa những đặc điểm
của chế độ xã hội trước đó nhưng vẫn mang trong mình bản chất khác hẳn so với
các xã hội tồn tại trước nó trong lịch sử loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh có
quan niệm tổng quát khi coi chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội như là một chế
độ xã hội bao gồm các mặt rất phong phú, hoàn chỉnh, trong đó con người được
phát triển toàn diện, tự do. Trong một xã hội như thế, mọi thiết chế, cơ cấu xã hội
đều nhằm tới mục tiêu giải phóng con người. Sự khác biệt của xã hội chủ nghĩa
so với những chế độ trước kia được thể hiện rõ nhất trên những lĩnh vực lớn
trong xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa – đạo đức và chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về chính trị, xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ. Đặc trưng chính trị cơ
bản trong xã hội chủ nghĩa được thể hiện trước hết ở việc xã hội này do nhân dân
làm chủ dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản trên nền tảng căn bản của liên minh
công – nông. Nhà nước ở đây theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải nhận thức sâu sắc
về sức mạnh, địa vị và vai trò của nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội cũng như đem lại lợi ích cho nhân dân. Trong xã hội chủ
nghĩa, nhân dân có địa vị cao nhất được thể hiện qua việc mọi quyền lợi, quyền 12 lOMoAR cPSD| 45469857
lực, quyền hạn đều thuộc về nhân dân cũng như mọi hoạt động xây dựng, bảo vệ
đất nước, bảo vệ chế độ xã hội cũng thuộc về nhân dân.
Về kinh tế, xã hội trong xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện tại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vì là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ
nghĩa tư bản nên chủ nghĩa xã hội cũng phải có nền kinh tế phát triển cao hơn
nền kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ sở hữu tư liệu sản xuất tiến bộ. Lực lượng sản xuất hiện đại trong xã hội
chủ nghĩa được thể hiện qua các khía cạnh như công cụ lao động, phương tiện
lao động trong quá trình sản xuất. Cùng với đó, quan hệ sản xuất trong xã hội
chủ nghĩa cũng khác so với quan hệ sản xuất trong tư bản chủ nghĩa, thay vì tư
hữu tư liệu sản xuất thì ở đây, mọi tư liệu sản xuất đều là của chung, đều thuộc
về nhân dân. Nền kinh tế của xã hội chủ nghĩa phát triển cao hơn như vậy nhằm
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội, xã hội chủ nghĩa có trình độ phát
triển cao về văn hóa và đạo đức để đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong các quan
hệ xã hội. Sự phát triển về văn hóa và đạo đức của xã hội chủ nghĩa được thể
hiện trước hết ở các mối quan hệ xã hội giữa người với người, con người được
giải phóng khỏi áp bực, bóc lột, được đảm bảo đối xử tôn trọng và công bằng,
được tạo điều kiện để phát triển bản thân để có cuộc sống vật chất và tinh thần
phong phú cũng như các dân tộc được đối xử bình đẳng, gắn bó, đoàn kết với
nhau. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đây là xã hội đem lại quyền bỉnh đẳng trước
pháp luật cho mọi công dân, mọi cộng đồng được gắn bó trên cơ sở bình đẳng về 13 lOMoAR cPSD| 45469857
quyền lợi và nghĩa vụ, ai cũng phải lao động và ai cũng có quyền lao động. Vậy
nên chủ nghĩa xã hội là nền tảng để tiến tới chế độ xã hội hòa bình, đoàn kết, ấm
no, hạnh phúc vì chủ nghĩa xã hội đảm bảo tính công bằng và tính hợp lý trong các quan hệ xã hội.
Về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Từ xa xưa tới nay, từ xã hội
chiếm hữu nô lệ đến xã hội tư bản chủ nghĩa, người lao động đã luôn phải đấu
tranh để giành lấy quyền lợi của mình, để thoát khỏi chế độ người bóc lột người
đầy tính bất công. Giờ đây với chế độ xã hội chủ nghĩa – chế độ của nhân dân,
do nhân dân làm chủ, lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của cộng đồng này,
chính những người lao động ấy, nhân dân ấy đã trở thành chủ thể, trở thành lực
lượng quyết định tốc độ xây dựng và sự vững mạnh của chính chủ nghĩa xã hội.
Mọi quyền lực trong xã hội đều tập trung trong tay nhân dân. Nhân dân đoàn kết
thành một khối thống nhất để làm chủ nước nhà. Nhân dân là người quyết định
vận mệnh cũng như sự phát triển của đất nước dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Và
trong sự nghiệp xây dựng này, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định
về việc cần có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một
cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước mình thì mới đưa cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công được.
3. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Độc lập dân tộc là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội
Vận dụng một cách sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa
Mác-Lênin trong điều kiện của cách mạng Việt Nam, Chủ tích Hồ Chí Minh đã 14 lOMoAR cPSD| 45469857
khẳng định về phương hướng cách mạng nước nhà trong Chánh cương vắn tắt
của Đảng rằng “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”. Vậy nên, mục tiêu đầu tiên cùng như là cơ sở, tiền đề cho mục
tiêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chính là giành lại được nền độc lập, tư do cho dân tộc.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc không những gắn liền với thống
nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mà độc lập còn gắn liền với tự do, hạnh
phúc của nhân dân. Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh không bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản, hay chính
là độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, độc lập
dân tộc thay vì là mục tiêu cuối cùng của cách mạng thì lại là mục tiêu cốt yếu,
trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết
định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp
hướng đến xã hội phát triển hơn – cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó, cách
mạng dân tộc dân chủ càng sâu sắc, triệt để bao nhiêu thì tiền đề cho cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa càng thuận lợi bấy nhiêu, sức mạnh cho cuộc cách mạng
ấy càng to lớn bấy nhiêu. Độc lập dân tộc ở đây không chỉ là tiền đề mà còn đã
trở thành động lực sức mạnh to lớn cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Theo Người, chủ nghĩa xã hội là xu hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân
chủ nhân dân, chính điều này làm cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc
của Hồ Chí Minh khác biệt so với những người đi trước. Ham muốn tột bậc của
Người là đất nước ta đạt được dòng tiêu ngữ đơn giản “Độc lập – Tự do – Hạnh
phúc”, mà với điều kiện của một nước thuộc địa như Việt Nam, muốn đạt được 15 lOMoAR cPSD| 45469857
điều đo trước hết ta phải đấu tranh giành được độc lập dân tộc. Nhưng dân tộc
độc lập mà nhân dân không được hạnh phúc thì nền độc lập đó còn ý nghĩa chi?
Vậy nên “Tự do – Hạnh phúc” mới chính là thước đo cho giá trị của độc lập dân
tộc. Và nền tự do hạnh phúc đấy sẽ chỉ đạt được khi ta tiến lên xã hội chủ nghĩa,
nơi người dân có thể tự làm chủ, tự cải thiện cho hạnh phúc của bản thân một
cách toàn diện. Chính vì vậy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đất nước ta sẽ giành độc
lập theo con đường cách mạng vô sản, Người cũng đã khẳng định độc lập dân
tộc ta sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội.
b. Chủ nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo nền độc lập dân tộc vững chắc
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức cũng như những người lao
động trên toàn thế giới khỏi cảnh áp bức bóc lột. Để đảm bảo nền độc lập dân tộc
thật vững chắc, để không một lần nữa tổ quốc rơi vào cảnh lệ thuộc, Người có
niềm tin rằng chặng đường tiếp theo ta cần hướng đến là chặng đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Vì chủ nghĩa xã hội không những là xu thế tất yếu của thời đại mà
còn phù hợp với lợi ích và hướng đi của Việt Nam, nên cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam muốn giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để thì phải
mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội đã phản ánh được tính triệt để cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, đó là tư tưởng đặt vấn đề giải phóng con người, hạnh phúc của con người
ở mục tiêu cao nhất trong sự nghiệp cách mạng.
Xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp nơi không
còn tồn tại chế độ áp bức bóc lột. Đó là một xã hội bình đẳng, công bằng, nơi
người lao động được hưởng những gì xứng đáng với sức lao động bỏ ra, nơi 16 lOMoAR cPSD| 45469857
phúc lợi xã hội cho người dân được đảm bảo, nơi mọi người đều có điều kiện để
phát triển như nhau. Đó còn là một xã hội với nền kinh tế phát triển cao, gắn liền
với sự phát triển của khoa học kĩ thuật để có thể đảm bảo nhu cầu về vật chất
cũng như tinh thần của người dân, một xã hội có sự phát triển cao kể cả về đạo
đức và văn hóa, một xã hội nơi người với người hữu nghị, hòa bình, làm bạn với
tất cả các nước dân chủ trên thế giới.
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây
dựng cơ sở cho sự phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Chế độ dân
chủ đó sẽ được thể hiện trên tất cả mọi mặt của đời sống xã hội và được thể chế
hóa bằng pháp luật cũng như được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát
triển kinh tế, xã hội và nâng cao dân trí. Đó cũng chính là điều kiện quan trọng
nhất để đảm bảo nền độc lập dân tộc và tạo ra nền tảng ý thức xã hội về bảo vệ
chủ quyền dân tộc cũng như kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu đe doạn
đến nền độc lập, tự do đó. Chỉ có xây dựng một xã hội như vậy thì nền độc lập
của dân tộc mới được củng cố, sự nghiệp giải phóng dân tộc mới có thể thắng lợi
một cách hoàn toàn và triệt để.
II. Hạnh phúc, tự do gắn với giá trị của độc lập dân tộc 1. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giữa hạnh phúc, tự do và độc lập dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về
độc lập và tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Người
từng khẳng định: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được
ăn no, mặc đủ”. Thật vậy, quyền độc lập, tự do của dân tộc chỉ thực sự có giá trị
và ý nghĩa khi nó mang lại quyền tự do, ấm no và hạnh phúc cho nhân dân, cũng
chính là thước đo cho giá trị làm người của mỗi con người sống trong dân tộc đó. 17 lOMoAR cPSD| 45469857
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách của mình, Chủ tích Hồ Chí Minh luôn coi
độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc, như Người từng bộc bạch đầy tâm huyết
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”, và mục tiêu đầy tính nhân văn ấy sẽ đạt được khi
và chỉ khi đất nước được độc lập, tự do hoàn toàn. Người tin rằng bao xương
máu đổ xuống vì cách mạng là để giành lại quyền độc lập, tự do cho Tổ quốc,
chính vì vậy đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nên được đặt lên hàng đầu
sau khi đất nước giành lại được quyền độc lập, tự do. Bởi theo Người, “nước
được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì”, vì xét cho cùng “Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó”.
Người thật sự hiểu rõ giá trị thực sự của độc lập dân tộc, đồng thời liên tục
truyền tải những tư tưởng, bài học đó cho các cán bộ, chiến sĩ, để từ đó có thể
đưa ra những chính sách phù hợp nhằm cái thiện đời sống vật chất và tinh thần
cho đồng bào ta. Như vậy, quyền độc lập, tự do của dân tộc chính là vấn đề hàng
đầu, là nền tảng tạo nên giá trị sống, giá trị làm người của nhân dân các dân tộc thuộc địa.
2. Hạnh phúc, tự do, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội
Mà cái tự do, hạnh phúc Chủ tịch Hồ Chí Minh “ham muốn tột bậc” chỉ đạt được
khi nền độc lập dân tộc ta giành được gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chính
Người cũng đã nhấn mạnh rằng, chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa mỗi cá
nhân mới có đầy đủ điều kiện để phát huy hết sở trường của bản thân, để phát
triển một cách toàn diện nhất. Hạnh phúc, tự do trong tư tưởng Hồ Chí Minh là
nhân dân được hưởng đầy đủ những sự phát triển trong đời sống vật chất, tinh 18 lOMoAR cPSD| 45469857
thần mà chủ nghĩa xã hội đem lại. Trong xã hội ấy, đời sống vật chất được xây
dựng dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được tiếp cận tri thức, học hành đầy đủ. Theo Người, xã hội chủ nghĩa cũng
chính là nền tảng để đáp ứng được tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ trong xã
hội mà nền kinh tế phát triển cao, xã hội công bằng, văn minh thì nhu cầu cả về
vật chất và tinh thần của người dân mới được đáp ứng đầy đủ.
Bên cạnh việc tăng trưởng nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu vật chất của người
dân với thu nhập cao, ăn ngon, mặc đẹp thì chủ nghĩa xã hội còn hướng tới việc
không ngừng nâng cao cả đời sống tinh thần của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội là
giai đoạn phát triển cao hơn của chủ nghĩa tư bản, tức là về bản chất chủ nghĩa
xã hội phải đảm bảo được việc giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột,
xiềng xích mà chủ nghĩa phong kiến hoặc tư bản đem đến. Chỉ có vậy con người
mới đạt đến được tự do, hạnh phúc đích thực. Cũng chính vì thế mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống. Vì chỉ
những con người có đạo đức, văn hóa mới có thể đạt được hạnh phúc đích thực
trong xá hội chủ nghĩa. Người hiểu được tầm quan trọng của đời sống văn hóa
tinh thần đối với nhân dân. Ngay cả trong kháng chiến ác liệt, Bác cũng nhấn
mạnh “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”.
Nhìn chung lại, độc lập chính là nền tảng của tự do, hạnh phúc, con người phải
có được độc lập thì mới có hạnh phúc, và ngược lại cũng đúng, khi quyền mưu
cầu hạnh phúc của con người bị gắn chặt với tự do, độc lập của mỗi người, con
người một khi tự do, hạnh phúc thì mới thấu hiểu được giá trị to lớn của độc lập
mà biết để đấu tranh gìn giữ. Hạnh phúc bản chất chính là hành trình tự do khám 19 lOMoAR cPSD| 45469857
phá, phát triển bản thân trong một môi trường có đầy đủ điều kiện với một tinh
thần thoải mái. Và chỉ có xã hội chủ nghĩa mới đủ khả năng kiến tạo nên một
môi trường như vậy, do đó mọi nỗ lực đấu tranh để gìn giữ nền độc lập cũng như
phát triển lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn cần thiết và xứng đáng.
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Vào thời điểm sau chiến tranh, nước ta gặp khó khăn trên mọi lĩnh vực: nền kinh
tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất bị tàn phá, đất đai bị bỏ hoang không ai khai
phá, tình hình sản xuất bị đình trệ và mất cân đối, tệ nạn xã hội hoành hành và
hàng triệu người dân thất nghiệp,…Dù khó khăn là vậy, mọi người dân Việt Nam
vẫn hăng hái tham gia sản xuất, tiến hành khôi phục, phát triển nền kinh tế đã bị
tàn phá cùng lúc đó thực hiện công cuộc đổi mới để đi lên chủ nghĩa xã hội và
mở ra một kỷ nguyên mới: “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”. Nhờ sự chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước, nhân dân ta càng nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của nền
độc lập mà cha ông ta đã đổ biết bao xương máu để giành lại được, từ đó thấy
thêm phần trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ cũng như đóng góp công sức vào sự nghiệp
chung – xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Luận điểm "Nước độc lập, người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một
khẳng định về sự quan trọng của tự do và độc lập cho một quốc gia, mà còn là
một bài học sâu sắc về bản chất của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu cuối cùng của
mọi cuộc cách mạng. Trong thế giới hiện đại, ý nghĩa của luận điểm này vẫn còn
đầy tính ứng dụng. Việc xây dựng và duy trì một quốc gia độc lập không chỉ là
việc giành được tự do chính trị khỏi sự chi phối của các quốc gia khác mà còn là 20