Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Làm rõ ý luận điểm đối với Việt Nam hiện nay |  Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì
độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của
luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Phạm Quỳnh Trang
MSV: 11195394
Lớp học phần: LLTT1101 (123) CLC_16
Giảng viên: TS. NGUYỄN HỒNG SƠN
HÀ NỘI - 10/2023
lOMoARcPSD| 23022540
2
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
B. PHẦN NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA
HỘI
1. Khái quát luận điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
4. Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa
a. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là cơ sở để tiến lên xã hội chủ nghĩa
b. Chủ nghĩa xã hội củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân
tộcmột cách triệt để
II. ĐỘC LẬP DÂN TỘC THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN LÀ
TIỀN ĐỀ CỦA HẠNH PHÚC, TỰ DO
III. HẠNH PHÚC, TỰ DO LÀ GIÁ TRỊ CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC
IV. SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAM
V. TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM ĐỂ DUY TRÌ NỀN ĐỘC
LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC DÂN TỘC
C. PHẦN KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN MỞ ĐẦU
Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới-kỷ nguyên
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đã xuất hiện một bộ phận nh
cán bộ có tư tưởng công thần, hách dch, vun vén lợi ích cá nhân, thiếu sâu sát,
quan tâm đến đời sống của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm
phát hiện và Người viết bài đấu tranh, lên án gay gắt; đồng thời nghiêm khắc
chấn chỉnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ đáng kính, người cộng sản vĩ đại,
danh nhân văn hoá kiệt xuất trên thế giới và là một nhà lý luận, nhà tư tưởng lớn
lOMoARcPSD| 23022540
của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng và sự nghiệp giải phóng dân tộc của người
được cả thế giới công nhận và vinh danh, là ngọn đèn soi sáng con đường cho
cách mạng Việt Nam đi đến thành công và cũng là kim chỉ nam cho phong trào
cách mạng của các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Bác đã cống hiến và đấu tranh
cả cuộc đời mình cho độc lập tự do của dân tộc; hạnh phúc, ấm no của nhân dân.
Đối với Bác, giành được độc lập, tự do cho dân tộc chính là mong mỏi từng
ngày; tuy nhiên chắc chắn không phải là mục đích cuối cùng của Người.
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi
người, quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ
em được nuôi dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp
đỡ. Các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được chú trọng
và hoàn thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả
nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà
Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không
thể thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ
bản, thiết thực của con người.
Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất giữa
quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của công
dân, như tâm nguyện của Bác kính yêu.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội
luôn tập trung lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao, xây dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD. Thường xuyên quan tâm,
chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội; coi đây là trách
nhiệm, là tình cảm với bộ đội; hết lòng chăm lo xây dựng đơn vị, tôn trọng
thương yêu cấp dưới, để bộ đội yên tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ, thật sự
làm cho cấp dưới kính trọng, tin tưởng, học tập và noi theo, góp phần giữ gìn và
phát huy phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ.
Từ trước khi Việt Nam giành được độc ập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thường xuyên quan tâm tới đời sống nhân dân, đảm bảo các quyền cơ bản của
con người cho từng đồng bào. Sở dĩ vì Người cho rằng, tự do và hạnh phúc cho
nhân dân mới là mục đích cuối cùng và quan trọng nhất. Nếu Tổ quốc được giải
lOMoARcPSD| 23022540
4
phóng, đất nước được thống nhất, dân tộc thoát khỏi ách kìm kẹp của bè lũ ngoại
bang nhưng đồng bào vẫn lầm than, đói khổ thì những sự độc lập, tự do đó là vô
nghĩa. Có thể thấy, Bác Hồ đã nhiều lần kêu gọi toàn dân “đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mênh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”. Tuy nhiên,
Người vẫn nhận thức rất rõ nền độc lập ấy phải là độc lập thực chất và hoàn toàn,
độc lập gắn liền với tự do hạnh phúc cho nhân dân. Điều này đã được Hồ C
Minh khái quát thành chân lý sâu sắc: “Nước độc lập, mà người dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Theo Bác, một khi dân tộc được độc lập, tự do thì người dân mới cảm nhận
được giá trị của ba từ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” và độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, bởi độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho
sự phát triển của đất nước và sẽ chỉ được đảm bảo một cách chắc chắn khi gắn
liền với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ
giữa độc lập dân tộc với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, chúng ta sẽ làm rõ luận điểm: “Nước độc lập, mà người dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” cũng như
liên hệ làm rõ ý nghĩa của luận điểm này đối với Việt Nam hiện nay.
I. TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI 1. Khái quát luận điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do –
Hạnh phúc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đó là lời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng”, ký tên Hồ Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17-
101945.
Ta có thể khẳng định, đây chắc chắn là một luận điểm vô cùng xác đáng và
sâu sắc được Bác đúc kết và khái quát lên như một tư tưởng, kim chỉ nam nhắc
nhở Đảng và cán bộ Đảng viên về tầm quan trọng của Độc lập – Tự do – Hạnh
phúc của nhân dân. Đó đều là những vấn đề rất cấp bách và không thể tách rời
nhau.
Nói rằng hơn ai hết nhân dân ta thấu hiểu giá trị thiêng liêng của độc lập
dân tộc. Bởi lẽ, từ thời phong kiến cha ông ta lập nước, dân tộc Việt Nam đã trải
qua hơn 1000 năm sống dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc (từ năm 179
TCN đến năm 938). Sau nghìn năm của các triều đại phong kiến chống giặc
lOMoARcPSD| 23022540
ngoại xâm, ta lại bị sự xâm lược của các nước phương Tây với hơn 80 năm b
thực dân Pháp xâm lược (từ năm 1858 đến năm 19450 và hơn 30 năm bị thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm chiếm (từ 1945 đến 1975). Thế nhưng sau bao
nhiêu năm bị phương Bắc đô hộ, những năm tháng thành thuộc địa của đế quốc
phương Tây, nhân dân ta vẫn không ngừng đấu tranh vì nền độc lập tự do. Điều
đó nói lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là, luôn mong muốn có một nền
độc lập cho nhân dân, tự do cho nhân dân, do nhân dân làm chủ. Mất độc lập
cũng là mất tất cả, đây là một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự
do”.
Độc lập theo Hồ Chí Minh phải là độc lập dân tộc, tức là độc lập phải gắn
với tự do của nhân dân. “Độc lập” là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước,
một quốc gia và chính nhân dân của đất nước đó có quyền làm chủ những quyết
định của đất nước, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. “Độc lập” ở đây còn hiểu là
tình trạng không bị điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ nghĩa
thực dân, sự bành trướng hay chủ nghĩa đế quốc.
Tự do là một khái nệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi một
cá nhân có thể có khả năng hành động theo đúng với ý chí nguyện vọng của chính
mình.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thoả mãn một
nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được
cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác
động của lý trí.
Bác đã có sự lĩnh hội trọn vẹn và chọn lọc về những tư tưởng lớn của nhân
loại. Người đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và
tự do. Người cũng đã từng khẳng định: “Chính sách đối nội của Việt Nam là dân
tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.” Và những tư tưởng về vấn đề
độc lập dân tộc gắn liền tự do, hạnh phúc của nhân dân đã được Người khẳng
định rất nhiều lần. Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình, Người luôn coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
như người từng bộc bạch để tâm huyết Tôi chỉ có một Ham muốn ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập nhân dân ta được hoàn toàn tự
do đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc ai cũng được học hành.
“Độc lập” ở Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải
phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân…
lOMoARcPSD| 23022540
6
xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng dân chủ cộng hoà và thống nhất độc lập”.
“Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “T
hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”; dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng
lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”
Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc” mà phải gắn
liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối
thượng. Có được độc lập thôi là chưa đủ. Độc lập dân tộc luôn phải gắn liền tự
do, hạnh phúc của nhân dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc:
Mác và Ăngghen nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để
giải quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu
hướng của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra "Cương lĩnh dân tộc" tạo cơ sở
cho đường lối, chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa với ba nội dung cơ bản: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc
được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là
cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với
liên kết dân tộc.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể tách
rời trong cương lĩnh cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên ngôn về vấn đề
dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở
thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các
đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân
tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp
nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất
và tổng thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai
lOMoARcPSD| 23022540
cấp thống nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai
cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và
trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công
nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn
bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác
ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân
và dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh
công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện
bằng con đường bạo lực cách mạng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
- Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống
Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ
quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: “ Cái mà tôi cần nhất trên
đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người đã sớm nhận
thức được đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích cực đấu tranh
giành lại quyền thiêng liêng đó:
Thứ nhất, Người đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản
thông qua nội dung của hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có
giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Từ đó Người đã khái quát nên những
chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc
lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai
chối cãi được”.
Thứ hai, xác định rõ mục tiêu đấu tranh đầu tiên là giành lại độc lập cho dân
tộc: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam được
hoàn toàn độc lập.
lOMoARcPSD| 23022540
8
Thứ ba, khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước
tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Cuối cùng, quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh
phúc của nhân dân. Trong thư gửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “ Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân
dân chúng tôi cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng
liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân:
Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chả có ý nghĩa gì. Người đánh giá rất cao học thuyết “ Tam dân” của Tôn
Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi
vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi
hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân, làm
cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành. Người cho rằng phải thực hiện
thành công 4 điều đó để dân ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức cho tự do
độc lập.
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để:
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập
dân tộc – chủ quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật
sự tức là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo, dân tộc đó có quyền tự
quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là nước
độc lập phải thực sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt Nam.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát
triển đất nước. Người khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một”. Có thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí
Minh.
lOMoARcPSD| 23022540
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: với tư cách là
một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc
xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới
mục tiêu.
Dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không
còn áp bức, bóc lột, người dân được làm chủ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần
phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo
đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài h
giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh
đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi người, mọi
người vì mình.
Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng mà
Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển. Quan niệm này đã
đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
4. Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa a. Độc lập dân tộc
là mục tiêu, là cơ sở để tiến lên xã hội chủ nghĩa
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách
mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước
và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc
dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận
này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu
thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang
tính phổ biến. Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo
vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam.
lOMoARcPSD| 23022540
10
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và
dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc
lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc
của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với ch
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc
dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ
nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc
dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã
hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ,
khối quần chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý
thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những
nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự
quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu
hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm
cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất
với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi
tiếng trên thế giới.
lOMoARcPSD| 23022540
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết
định vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh
công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến
phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc.
Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc
cách mạng đó.
b. Chủ nghĩa xã hội củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng
dân tộc một cách triệt để
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ
giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn
của một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục
tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện
được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách
hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách,
cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập
dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm
no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng
lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để
không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi
lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ
củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều
kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt
để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những
giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều
kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách
nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật
sự, chân chính.
lOMoARcPSD| 23022540
12
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ
mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ m côi; một xã hội
có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã
hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí,
anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị,
làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực
phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với
các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội khả năng vận
động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân.
Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các
dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội;
mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn
chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân
tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín
muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh,
đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng
phòng thủ. Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập
dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ
nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là
người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế
độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là
vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng
pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội
nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc,
tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ
một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được mt xã hội
như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc
mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để.
lOMoARcPSD| 23022540
II. ĐỘC LẬP DÂN TỘC THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN LÀ
TIỀN ĐỀ CỦA HẠNH PHÚC, TỰ DO
Năm 1911, khi Việt Nam đã hoàn toàn trở thàn thuộc địa của thực dân
Pháp, nước mất độc lập, dân nô lệ, Hồ Chí Minh không hoàn toàn tán thành con
đường cứu nước của các bậc tiền bối, quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước
mới. Suy nghĩ lớn nhất, duy nhất của Người lúc đó là giải phóng đồng bào, tức là
lật đổ, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của bọn thực dân phong kiến, giành độc lập
dân tộc.
Trong khoảng bảy năm từ 1911 đến trước khi Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã: tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế
giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân
các dân tộc bị áp bức. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, tuy
chưa có được nhận thức lý tính, nhưng Người thấy rằng chỉ có đi theo con đường
Cách mạng Tháng Mười Nga thì mới giành được độc lập dân tộc. Người nhiệt
thành ủng hộ và tuyên truyền cho cuộc cách Mạng Tháng Mười Nga.
Được ánh sáng của quốc tế Cộng sản soi rọi, đặc biệt là Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, đã giải đáp trăn trở của Người về vấn đề
giải phóng các dân tộc thuộc địa, giải phóng dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với
Luận cương, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu
nước giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản. Trên diễn đàn Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp (12/1920),
Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả
các nước thuộc địa. Năm 1923, Hồ Chí Minh viết: “ Chỉ có chủ nghĩa cộng sản
mới cứu nhân loại đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, quả đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng
hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ
là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau
và yêu thương nhau”. Hồ Chí Minh không bao giờ chấp nhận độc lập dân tộc
dưới chế độ quân chủ chuyên chế, càng không chấp nhận chế độ thực dân. Bởi
vì, đó là chế độ mà người dân bị đầu độc về cả thể xác lẫn tinh thần, bị bịt mồm
và bị giam hãm. Phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh rằng “ thực dân Pháp đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng
tôi. Từ đó chúng tôi không những bị áp bức bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị
hành hạ và đầu độc bằng thuốc phiện và rượu một cách thê thảm. Đó là một chế
lOMoARcPSD| 23022540
14
độ tàn bạo mà bọn ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương. Nhà tù nhiều hơn trường
học và lúc nào cũng chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội
chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử...Với một nền
“công lý” ở Đông Dương như vậy, một sự phân biệt đối xử không có những bảo
đảm về quyền con người như vậy, một kiểu sống nô lệ như vậy, thì sẽ không có
gì hết”. Hơn ai hết, Người ý thức rất rõ không có độc lập là sống kiếp ngựa trâu,
thì “chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Vì vậy, Người nung nấu và truyền quyết tâm
cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải giành kỳ được độc lập cho dân tộc”. Độc lập dân tộc không phải là
điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới, vì đó là một kiểu độc lập dân tộc được
nâng lên một trình độ mới, một chất mới. Đối với một người dân mất nước, cái
quý nhất là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên con đường tiếp cận
chân lý cứu nước, Người đã chọn kiểu độc lập dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự
do.
“Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ của nước ta suốt 76 năm
qua, tuy đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc
địa như Việt Nam thì trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ,
và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.Với Hồ Chí Minh, nước có độc
lập rồi thì dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do, vì hạnh phúc tự do là thước đo
giá trị của độc lập dân tộc. Muốn có hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh chỉ có trong chế độ xã hội chủ
nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát
huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình, chăm lo cho con người và con
người có điều kiện phát triển toàn diện. Khi Hồ Chí Minh xác định giành độc lập
theo con đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc lập dân tộc đi tới chủ
nghĩa xã hội. Trong nền độc lập đó mọi người đều phải được hưởng ấm no, hạnh
phúc nếu không độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Bác đã nói: “ Chúng ta đã hy sinh,
đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no mặc đủ ấm”.
Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và tính cách mạng triệt để của
người. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cống hiến quý giá nhất
của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư
lOMoARcPSD| 23022540
tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người
bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền
lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không
hưởng. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người dân phải được
hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại.
III. HẠNH PHÚC, TỰ DO LÀ GIÁ TRỊ CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước
hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng
chẳng có nghĩa lý gì.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả
lời cho mong muốn chủ quan của con người theo quan niệm duy tâm, không
tưởng, mà là câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện thực theo khái niệm
duy vật phê phán. Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực
tiễn khách quan, từ hiện thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một
nước vốn là thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển,
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ
nghĩa xã hội trong quan điểm Hồ Chí Minh không thể suy nghĩ chủ quan, giáo
điều, nóng vội, duy ý chí mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn nước ta, đặc điểm thế
giới và xu thế của thời đại.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân
lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người
bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền
lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không
hưởng.
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh
phúc, tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không ai khác chính cụ H
đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm
lOMoARcPSD| 23022540
16
sâu nhất của mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “độc lập,
tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, “Chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi
học, ốm đau có thuốc, không lao động được thì nghỉ ngơi,...Tóm lại xã hội ngày
càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã
hội”. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một
cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu : “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no và sống một đời hạnh phúc”. “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do thì độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có
thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt được
dần dần được xóa bỏ”, “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội.
Chế độ xã hội chủ nghĩa theo quan điểm H Chí Minh không chỉ là thước đo giá
trị của độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập
dân tộc và tự bảo vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có
một nền độc lậpdân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc
tự do; chủ nghĩa xã hội chỉ có phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật sự
thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
IV. SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai
đoạn hiện nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất
phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình
diện: cộng đồng và cá nhân. Đó là phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng
dân tộc động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó là phát huy sức mạnh của
con người được giải phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này phải tác động
vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo
đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã
lOMoARcPSD| 23022540
hội…Đó là khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội,
bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái
mới…Đó cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình hiện nay, mặc dù chủ nghĩa xã hội đang ở vào giai đoạn
thoái trào tuy nhiên nó vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người
và sự lựa chọn đi theo con đườg xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh và nhân dân
là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách
lớn lao của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên
định con đường mục tiêu của mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại. Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó là một
quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới.
Có thể hiểu cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã
hội ta mới thoát ra mấy chục năm qua, mà cái cũ ở đây còn là những yếu tố tư
bản chủ nghĩa đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Đó là để tạo
ra sự biến đổi về chất trên tấtcả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự biến đổi về
chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự
biến đổi về lượng, sự biến đổi của từng bộ phận. Nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở
nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất
cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và quá trình đó phải diễn ra lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đó là do
xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hộita cũng chưa trải qua sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử.
Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển
khác nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội cùng phát triển hội nhập,
đan xen nhau. Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất
nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, "các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách
xóa bỏ chủ nghĩa xã hội". Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng ta vẫn lạc quan
khẳng định, "Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có
bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một
lOMoARcPSD| 23022540
18
dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn
kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được nhữngcơ sở vật chất - kỹ
thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình
thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”.
Nhận thức đúng thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục
tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt
và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công băng xã hội; Bảo đảm vững
chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trải qua gần 30 năm thực hiện
đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và
hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn,
hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới,với mô hình kinh tế tổng quát
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển
sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời
sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình ch
nghĩa xã hội Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết
sức sâu sắc, toàn diện. Đảng ta khẳng định,“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội ch
| 1/29

Preview text:

lOMoAR cPSD| 23022540
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN BÀI TẬP LỚN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI:
Phân tích luận điểm Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì
độc lập cũng chả có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của
luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.
Họ và tên: Phạm Quỳnh Trang MSV: 11195394
Lớp học phần: LLTT1101 (123) CLC_16
Giảng viên: TS. NGUYỄN HỒNG SƠN HÀ NỘI - 10/2023 lOMoAR cPSD| 23022540 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU B. PHẦN NỘI DUNG I.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Khái quát luận điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
4. Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa
a. Độc lập dân tộc là mục tiêu, là cơ sở để tiến lên xã hội chủ nghĩa
b. Chủ nghĩa xã hội củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân
tộcmột cách triệt để II.
ĐỘC LẬP DÂN TỘC THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN LÀ
TIỀN ĐỀ CỦA HẠNH PHÚC, TỰ DO
III. HẠNH PHÚC, TỰ DO LÀ GIÁ TRỊ CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC IV.
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAM V.
TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG DÂN VIỆT NAM ĐỂ DUY TRÌ NỀN ĐỘC
LẬP, TỰ DO, HẠNH PHÚC DÂN TỘC
C. PHẦN KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN MỞ ĐẦU
Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới-kỷ nguyên
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đã xuất hiện một bộ phận nhỏ
cán bộ có tư tưởng công thần, hách dịch, vun vén lợi ích cá nhân, thiếu sâu sát,
quan tâm đến đời sống của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm
phát hiện và Người viết bài đấu tranh, lên án gay gắt; đồng thời nghiêm khắc chấn chỉnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ đáng kính, người cộng sản vĩ đại,
danh nhân văn hoá kiệt xuất trên thế giới và là một nhà lý luận, nhà tư tưởng lớn 2 lOMoAR cPSD| 23022540
của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng và sự nghiệp giải phóng dân tộc của người
được cả thế giới công nhận và vinh danh, là ngọn đèn soi sáng con đường cho
cách mạng Việt Nam đi đến thành công và cũng là kim chỉ nam cho phong trào
cách mạng của các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Bác đã cống hiến và đấu tranh
cả cuộc đời mình cho độc lập tự do của dân tộc; hạnh phúc, ấm no của nhân dân.
Đối với Bác, giành được độc lập, tự do cho dân tộc chính là mong mỏi từng
ngày; tuy nhiên chắc chắn không phải là mục đích cuối cùng của Người.
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh luôn mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi
người, quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ
em được nuôi dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp
đỡ. Các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được chú trọng
và hoàn thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả
nhận thức và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà
Người mong muốn thực hiện. Không có độc lập chân chính, bền vững thì không
thể thực hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ
bản, thiết thực của con người.
Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất giữa
quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của công
dân, như tâm nguyện của Bác kính yêu.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội
luôn tập trung lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được
giao, xây dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD. Thường xuyên quan tâm,
chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội; coi đây là trách
nhiệm, là tình cảm với bộ đội; hết lòng chăm lo xây dựng đơn vị, tôn trọng và
thương yêu cấp dưới, để bộ đội yên tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ, thật sự
làm cho cấp dưới kính trọng, tin tưởng, học tập và noi theo, góp phần giữ gìn và
phát huy phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ.
Từ trước khi Việt Nam giành được độc ập, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
thường xuyên quan tâm tới đời sống nhân dân, đảm bảo các quyền cơ bản của
con người cho từng đồng bào. Sở dĩ vì Người cho rằng, tự do và hạnh phúc cho
nhân dân mới là mục đích cuối cùng và quan trọng nhất. Nếu Tổ quốc được giải lOMoAR cPSD| 23022540
phóng, đất nước được thống nhất, dân tộc thoát khỏi ách kìm kẹp của bè lũ ngoại
bang nhưng đồng bào vẫn lầm than, đói khổ thì những sự độc lập, tự do đó là vô
nghĩa. Có thể thấy, Bác Hồ đã nhiều lần kêu gọi toàn dân “đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mênh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”. Tuy nhiên,
Người vẫn nhận thức rất rõ nền độc lập ấy phải là độc lập thực chất và hoàn toàn,
độc lập gắn liền với tự do hạnh phúc cho nhân dân. Điều này đã được Hồ Chí
Minh khái quát thành chân lý sâu sắc: “Nước độc lập, mà người dân không được
hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Theo Bác, một khi dân tộc được độc lập, tự do thì người dân mới cảm nhận
được giá trị của ba từ “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” và độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, bởi độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho
sự phát triển của đất nước và sẽ chỉ được đảm bảo một cách chắc chắn khi gắn
liền với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ
giữa độc lập dân tộc với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, chúng ta sẽ làm rõ luận điểm: “Nước độc lập, mà người dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” cũng như
liên hệ làm rõ ý nghĩa của luận điểm này đối với Việt Nam hiện nay.
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI 1. Khái quát luận điểm của Hồ Chí Minh về Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Đó là lời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh,
huyện và làng”, ký tên Hồ Chí Minh; đăng trên Báo Cứu quốc, số ra ngày 17- 101945.
Ta có thể khẳng định, đây chắc chắn là một luận điểm vô cùng xác đáng và
sâu sắc được Bác đúc kết và khái quát lên như một tư tưởng, kim chỉ nam nhắc
nhở Đảng và cán bộ Đảng viên về tầm quan trọng của Độc lập – Tự do – Hạnh
phúc của nhân dân. Đó đều là những vấn đề rất cấp bách và không thể tách rời nhau.
Nói rằng hơn ai hết nhân dân ta thấu hiểu giá trị thiêng liêng của độc lập
dân tộc. Bởi lẽ, từ thời phong kiến cha ông ta lập nước, dân tộc Việt Nam đã trải
qua hơn 1000 năm sống dưới ách đô hộ của phong kiến phương Bắc (từ năm 179
TCN đến năm 938). Sau nghìn năm của các triều đại phong kiến chống giặc 4 lOMoAR cPSD| 23022540
ngoại xâm, ta lại bị sự xâm lược của các nước phương Tây với hơn 80 năm bị
thực dân Pháp xâm lược (từ năm 1858 đến năm 19450 và hơn 30 năm bị thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm chiếm (từ 1945 đến 1975). Thế nhưng sau bao
nhiêu năm bị phương Bắc đô hộ, những năm tháng thành thuộc địa của đế quốc
phương Tây, nhân dân ta vẫn không ngừng đấu tranh vì nền độc lập tự do. Điều
đó nói lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là, luôn mong muốn có một nền
độc lập cho nhân dân, tự do cho nhân dân, do nhân dân làm chủ. Mất độc lập
cũng là mất tất cả, đây là một sự thật hiển nhiên không thể chối cãi. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Độc lập theo Hồ Chí Minh phải là độc lập dân tộc, tức là độc lập phải gắn
với tự do của nhân dân. “Độc lập” là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước,
một quốc gia và chính nhân dân của đất nước đó có quyền làm chủ những quyết
định của đất nước, có nghĩa là có chủ quyền tối cao. “Độc lập” ở đây còn hiểu là
tình trạng không bị điều khiển, cai trị bởi một thế lực khác thông qua chủ nghĩa
thực dân, sự bành trướng hay chủ nghĩa đế quốc.
Tự do là một khái nệm dùng trong triết học chính trị mô tả tình trạng khi một
cá nhân có thể có khả năng hành động theo đúng với ý chí nguyện vọng của chính mình.
Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thoả mãn một
nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được
cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí.
Bác đã có sự lĩnh hội trọn vẹn và chọn lọc về những tư tưởng lớn của nhân
loại. Người đánh giá cao học thuyết “Tam dân” của Tôn Trung Sơn về độc lập và
tự do. Người cũng đã từng khẳng định: “Chính sách đối nội của Việt Nam là dân
tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.” Và những tư tưởng về vấn đề
độc lập dân tộc gắn liền tự do, hạnh phúc của nhân dân đã được Người khẳng
định rất nhiều lần. Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng
của mình, Người luôn coi độc lập gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
như người từng bộc bạch để tâm huyết Tôi chỉ có một Ham muốn ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập nhân dân ta được hoàn toàn tự
do đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc ai cũng được học hành.
“Độc lập” ở Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải
phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân… lOMoAR cPSD| 23022540
xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng dân chủ cộng hoà và thống nhất độc lập”.
“Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà
hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”; dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng
lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”
Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc” mà phải gắn
liền một cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối
thượng. Có được độc lập thôi là chưa đủ. Độc lập dân tộc luôn phải gắn liền tự
do, hạnh phúc của nhân dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc:
Mác và Ăngghen nêu ra các quan điểm có tính chất phương pháp luận để
giải quyết các vấn đề dân tộc. Trên cơ sở đó, cùng với sự phân tích hai xu
hướng của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra "Cương lĩnh dân tộc" tạo cơ sở
cho đường lối, chính sách dân tộc cho các Đảng cộng sản trong thời đại đế quốc
chủ nghĩa với ba nội dung cơ bản: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc
được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là
cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Độc lập dân tộc phải đi đôi với liên kết dân tộc.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể tách
rời trong cương lĩnh cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên ngôn về vấn đề
dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở
thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các
đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề dân tộc thuộc địa:
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân
tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp
nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất
và tổng thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai 6 lOMoAR cPSD| 23022540
cấp thống nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai
cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và
trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công
nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn
bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác
ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân
và dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi
theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh
đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh
công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện
bằng con đường bạo lực cách mạng.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
- Độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc:
Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Tinh thần yêu nước luôn đứng ở hàng đầu của bảng giá trị tinh thần truyền thống
Việt Nam. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ
quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng nói: “ Cái mà tôi cần nhất trên
đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập.” Người đã sớm nhận
thức được đầy đủ quyền dân tộc, ý thức dân tộc và chủ động, tích cực đấu tranh
giành lại quyền thiêng liêng đó:
Thứ nhất, Người đã khai thác, tiếp thu yếu tố tích cực của Cách mạng tư sản
thông qua nội dung của hai bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền 1791 của Cách mạng Pháp, tiếp nhận những yếu tố có
giá trị trong hai bản tuyên ngôn bất hủ ấy. Từ đó Người đã khái quát nên những
chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc
lập bất hủ: “Tất cả dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Thứ hai, xác định rõ mục tiêu đấu tranh đầu tiên là giành lại độc lập cho dân
tộc: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. lOMoAR cPSD| 23022540
Thứ ba, khẳng định độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực sự đã thành một nước
tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.”
Cuối cùng, quyết tâm chiến đấu hy sinh để bảo vệ độc lập dân tộc ấm no, hạnh
phúc của nhân dân. Trong thư gửi Liên hợp quốc 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “ Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân
dân chúng tôi cũn kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng
liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân:
Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chả có ý nghĩa gì. Người đánh giá rất cao học thuyết “ Tam dân” của Tôn
Trung Sơn về độc lập tự do: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Dân chỉ biết rõ ý nghĩa của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Bởi
vậy khi đất nước giành được độc lập từ tay đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi
hỏi chính phủ cách mạng phải quan tâm đến đời sống thiết thực của nhân dân, làm
cho dân có ăn có mặc, có chỗ ở, được học hành. Người cho rằng phải thực hiện
thành công 4 điều đó để dân ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức cho tự do độc lập.
- Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự , hoàn toàn và triệt để:
Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân Việt Nam quyết đấu tranh cho độc lập
dân tộc – chủ quyền – toàn vẹn lãnh thổ. Theo Người, một dân tộc độc lập thật
sự tức là các quyền dân tộc cơ bản phải được đảm bảo, dân tộc đó có quyền tự
quyết trên tất cả các lĩnh vực đối nội và đối ngoại. Nói tóm lại, Việt Nam là nước
độc lập phải thực sự trên nguyên tắc nước Việt Nam là của người Việt Nam.
- Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ:
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, quy luật tồn tại và phát
triển đất nước. Người khẳng định: “ Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một”. Có thể khẳng định tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất Tổ
quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. 8 lOMoAR cPSD| 23022540
3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản: với tư cách là
một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà việc
xây dựng và hoàn thiện nó như một quá trình lịch sử lâu dài để từng bước đạt tới mục tiêu.
Dù còn tồn đọng nhiều tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội không
còn áp bức, bóc lột, người dân được làm chủ. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần
phải chống chủ nghĩa cá nhân, thực hiện sự tôn trọng và đề cao nhân cách, bảo
đảm cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh nhân cách của mình trong sự hài hoà
giữa cá nhân và xã hội. Nhìn nhận mặt bản chất quan trọng này, Hồ Chí Minh
đưa ra quan niệm, chủ nghĩa xã hội là xã hội trong đó mình vì mọi người, mọi người vì mình.
Mục đích của chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là một trong những vấn đề quan trọng mà
Người đặc biệt quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân, chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến bộ và phát triển. Quan niệm này đã
đặt nền tảng và giữ vai trò chỉ đạo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước ta.
4. Mối quan hệ giữa độc lập với tiến lên xã hội chủ nghĩa a. Độc lập dân tộc
là mục tiêu, là cơ sở để tiến lên xã hội chủ nghĩa
Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách
mạng dân tộc dân chủ có hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản, trong đó giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ dân chủ được rải ra thực hiện từng bước
và phục tùng nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Vì thế, ở giai đoạn cách mạng dân tộc
dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách. Kết luận
này được Hồ Chí Minh rút ra từ sự phân tích tình hình thực tế và những mâu
thuẫn khách quan tồn tại của xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến.
Lịch sử phát triển loài người chứng tỏ, độc lập dân tộc là khát vọng mang
tính phổ biến. Với dân tộc Việt Nam, đó còn là một giá trị thiêng liêng, được bảo
vệ và giữ gìn bởi máu xương, sức lực của biết bao thế hệ người Việt Nam. lOMoAR cPSD| 23022540
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và
dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc
lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
đất nước, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân lao động.
Khi nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh không bao giờ coi
đó là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
giành độc lập để đi tới xã hội cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc
dân chủ, là mục tiêu trước hết của quá trình cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, đồng thời là điều kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân chuyển sang giai đoạn kế tiếp - cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt để thì những điều kiện tiến lên chủ
nghĩa xã hội càng được tạo ra đầy đủ. Tính chất tạo tiền đề của cách mạng dân tộc
dân chủ được thể hiện:
- Về chính trị: xác định và xây dựng các yếu tố của hệ thống chính trị do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Về kinh tế: bước đầu xây dựng được các cơ sở kinh tế mang tính chất xã
hội chủ nghĩa, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Về văn hoá, xã hội, đời sống tinh thần: trong cách mạng dân tộc dân chủ,
khối quần chúng công - nông - trí thức và các giai tầng xã hội khác đã có ý
thức giác ngộ, đoàn kết trong một mặt trận dân tộc thống nhất; những
nhân tố mới của văn hoá, giáo dục đã được hình thành dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại, độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự
quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thời đại mới chủ nghĩa xã hội là xu
hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Điều này làm
cho con đường cứu nước giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh khác biệt về chất
với con đường cứu nước những năm đầu thế kỷ ở nước ta và nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới. 10 lOMoAR cPSD| 23022540
Cách mạng Việt Nam thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Điều đó quyết
định vai trò lãnh đạo cách mạng tất yếu thuộc về giai cấp công nhân mà đội tiên
phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Lực lượng tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc là toàn dân Việt Nam yêu nước mà nòng cốt là khối liên minh
công - nông - trí thức. Những nhân tố này lại quy định tính tất yếu dẫn đến
phương hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng giải phóng dân tộc.
Rõ ràng định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở Việt Nam được chi phối và chế định bởi các nhân tố bên trong của cuộc cách mạng đó.
b. Chủ nghĩa xã hội củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng
dân tộc một cách triệt để
Về lý luận, độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ
giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu cuối cùng; mối quan hệ giữa hai giai đoạn
của một quá trình cách mạng. Lôgíc lịch sử khách quan cho thấy: thực hiện mục
tiêu trước mắt là điều kiện tiên quyết để đi tới mục tiêu cuối cùng và chỉ thực hiện
được mục tiêu cuối cùng thì mục tiêu trước mắt mới củng cố vững chắc một cách
hoàn toàn, triệt để. Giữa hai giai đoạn cách mạng không có bức tường ngăn cách,
cách mạng dân tộc dân chủ xác lập cơ sở, tiền đề cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa, cách mạng xã hội chủ nghĩa khẳng định và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với đời sống ấm
no, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng
lợi của cách mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc độc lập dân tộc, để
không rơi vào lệ thuộc, đói nghèo lạc hậu, chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi
lên chủ nghĩa xã hội. Do những đặc trưng nội tại của mình, chủ nghĩa xã hội sẽ
củng cố những thành quả đã giành được trong cách mạng dân tộc dân chủ, tạo điều
kiện để bảo đảm cho độc lập và phát triển dân tộc.
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh mang một nội dung sâu sắc, triệt
để: độc lập tự do, ấm no, hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội không chỉ củng cố những
giá trị nêu trên, mà còn làm phong phú thêm về mặt nội dung, xác lập các điều
kiện để hiện thực hoá các nội dung đó. Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức khỏi ách
nô lệ; chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm cho một nền độc lập thật sự, chân chính. lOMoAR cPSD| 23022540
Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ
mọi áp bức, bóc lột; công bằng hợp lý - làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng; bảo đảm phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi; một xã hội
có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Đó là một xã
hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người với người là bạn bè, đồng chí,
anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của mình; hòa bình hữu nghị,
làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là xây dựng tiềm lực
phát triển của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Với
các thiết chế đó và nền tảng tinh thần riêng có, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận
động liên tục, tự bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân.
Trên phạm vi quốc tế, chủ nghĩa xã hội lớn mạnh sẽ có sức hấp dẫn thu hút các
dân tộc, đặc biệt các dân tộc chậm phát triển đi theo con đường chủ nghĩa xã hội;
mặt khác chủ nghĩa xã hội sẽ là bệ đỡ của hoà bình thế giới, hạn chế và ngăn
chặn các cuộc chiến tranh đế quốc, chiến tranh xâm lược, xoá bỏ tình trạng dân
tộc này đi áp bức dân tộc khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa xã hội càng phát triển, càng đạt đến độ chín
muồi thì các tiềm lực, nhất là tiềm lực vật chất kỹ thuật của dân tộc càng mạnh,
đất nước càng có điều kiện củng cố độc lập của mình, tăng cường khả năng
phòng thủ. Không có một chế độ xã hội nào có thể đảm bảo vững chắc độc lập
dân tộc bằng chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ cấu trúc nội tại của mình, chủ
nghĩa xã hội thể hiện khả năng tự bảo vệ và biết cách bảo vệ.
Hồ Chí Minh khẳng định, trong chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động là
người chủ duy nhất. Đó là sự khác biệt về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế
độ xã hội trước đó. Chế độ dân chủ là chế độ do nhân dân làm chủ, dân chủ là
vấn đề thuộc bản chất của nhà nước ta. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải được phát huy trên tất cả các lĩnh vực, phải được thể chế hoá bằng
pháp luật, được hoàn thiện, nâng cao trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội và
nâng cao dân trí. Đây là điều kiện cơ bản và quyết định vận mệnh của dân tộc,
tạo ra sức đề kháng trên phạm vi xã hội, loại trừ và có khả năng chống trả bất kỳ
một hành động nào đe dọa độc lập, tự do của dân tộc. Thực hiện được một xã hội
như vậy thì độc lập dân tộc mới thực sự vững chắc, sự nghiệp giải phóng dân tộc
mới thắng lợi một cách hoàn toàn và triệt để. 12 lOMoAR cPSD| 23022540
II. ĐỘC LẬP DÂN TỘC THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VÔ SẢN LÀ
TIỀN ĐỀ CỦA HẠNH PHÚC, TỰ DO
Năm 1911, khi Việt Nam đã hoàn toàn trở thàn thuộc địa của thực dân
Pháp, nước mất độc lập, dân nô lệ, Hồ Chí Minh không hoàn toàn tán thành con
đường cứu nước của các bậc tiền bối, quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước
mới. Suy nghĩ lớn nhất, duy nhất của Người lúc đó là giải phóng đồng bào, tức là
lật đổ, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột của bọn thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc.
Trong khoảng bảy năm từ 1911 đến trước khi Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917 thắng lợi, Hồ Chí Minh đã: tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế
giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân
các dân tộc bị áp bức. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, tuy
chưa có được nhận thức lý tính, nhưng Người thấy rằng chỉ có đi theo con đường
Cách mạng Tháng Mười Nga thì mới giành được độc lập dân tộc. Người nhiệt
thành ủng hộ và tuyên truyền cho cuộc cách Mạng Tháng Mười Nga.
Được ánh sáng của quốc tế Cộng sản soi rọi, đặc biệt là Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, đã giải đáp trăn trở của Người về vấn đề
giải phóng các dân tộc thuộc địa, giải phóng dân tộc Việt Nam. Tiếp xúc với
Luận cương, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu
nước giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản. Trên diễn đàn Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp (12/1920),
Hồ Chí Minh đã yêu cầu Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả
các nước thuộc địa. Năm 1923, Hồ Chí Minh viết: “ Chỉ có chủ nghĩa cộng sản
mới cứu nhân loại đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn
gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, quả đất, việc làm cho mọi
người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng
hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ
là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau
và yêu thương nhau”. Hồ Chí Minh không bao giờ chấp nhận độc lập dân tộc
dưới chế độ quân chủ chuyên chế, càng không chấp nhận chế độ thực dân. Bởi
vì, đó là chế độ mà người dân bị đầu độc về cả thể xác lẫn tinh thần, bị bịt mồm
và bị giam hãm. Phát biểu tại Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh rằng “ thực dân Pháp đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng
tôi. Từ đó chúng tôi không những bị áp bức bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị
hành hạ và đầu độc bằng thuốc phiện và rượu một cách thê thảm. Đó là một chế lOMoAR cPSD| 23022540
độ tàn bạo mà bọn ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương. Nhà tù nhiều hơn trường
học và lúc nào cũng chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội
chủ nghĩa cũng đều bị bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử...Với một nền
“công lý” ở Đông Dương như vậy, một sự phân biệt đối xử không có những bảo
đảm về quyền con người như vậy, một kiểu sống nô lệ như vậy, thì sẽ không có
gì hết”. Hơn ai hết, Người ý thức rất rõ không có độc lập là sống kiếp ngựa trâu,
thì “chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Vì vậy, Người nung nấu và truyền quyết tâm
cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân “dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải giành kỳ được độc lập cho dân tộc”. Độc lập dân tộc không phải là
điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới, vì đó là một kiểu độc lập dân tộc được
nâng lên một trình độ mới, một chất mới. Đối với một người dân mất nước, cái
quý nhất là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên con đường tiếp cận
chân lý cứu nước, Người đã chọn kiểu độc lập dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do.
“Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” là dòng tiêu ngữ của nước ta suốt 76 năm
qua, tuy đơn giản nhưng đó là “ham muốn tột bậc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành”. Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc
địa như Việt Nam thì trước hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ,
và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.Với Hồ Chí Minh, nước có độc
lập rồi thì dân phải được hưởng hạnh phúc, tự do, vì hạnh phúc tự do là thước đo
giá trị của độc lập dân tộc. Muốn có hạnh phúc, tự do thì độc lập dân tộc phải
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Người nhấn mạnh chỉ có trong chế độ xã hội chủ
nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát
huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình, chăm lo cho con người và con
người có điều kiện phát triển toàn diện. Khi Hồ Chí Minh xác định giành độc lập
theo con đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc lập dân tộc đi tới chủ
nghĩa xã hội. Trong nền độc lập đó mọi người đều phải được hưởng ấm no, hạnh
phúc nếu không độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Bác đã nói: “ Chúng ta đã hy sinh,
đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no mặc đủ ấm”.
Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và tính cách mạng triệt để của
người. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cống hiến quý giá nhất
của Hồ Chí Minh cho cách mạng Việt Nam. Đó cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư 14 lOMoAR cPSD| 23022540
tưởng Hồ Chí Minh, xuyên suốt đường lối và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người
bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền
lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không
hưởng. Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người dân phải được
hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại.
III. HẠNH PHÚC, TỰ DO LÀ GIÁ TRỊ CỦA ĐỘC LẬP DÂN TỘC
Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện nước thuộc địa như Việt Nam thì trước
hết phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, nhưng nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do thì đó vẫn là độc lập kiểu cũ, và vì vậy độc lập đó cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Chủ nghĩa xã hội trong quan niệm của Hồ Chí Minh không phải là câu trả
lời cho mong muốn chủ quan của con người theo quan niệm duy tâm, không
tưởng, mà là câu trả lời cho một sự vận động lịch sử hiện thực theo khái niệm
duy vật phê phán. Chủ nghĩa xã hội là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ thực
tiễn khách quan, từ hiện thực vận động của lịch sử, từ đặc điểm Việt Nam, một
nước vốn là thuộc địa, nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển,
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ
nghĩa xã hội trong quan điểm Hồ Chí Minh không thể suy nghĩ chủ quan, giáo
điều, nóng vội, duy ý chí mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn nước ta, đặc điểm thế
giới và xu thế của thời đại.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội nhằm làm cho nhân dân
lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động
khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người
bóc lột người, một xã hội bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền
lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng.
Có được độc lập chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng hạnh
phúc, tự do. Đấy chính là đòi hỏi chính đáng, điều mà không ai khác chính cụ Hồ
đã chỉ ra. Hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích cuối cùng, là mong ước thẳm lOMoAR cPSD| 23022540
sâu nhất của mỗi người dân nước Việt. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là “độc lập,
tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, “Chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi
học, ốm đau có thuốc, không lao động được thì nghỉ ngơi,...Tóm lại xã hội ngày
càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó là chủ nghĩa xã
hội”. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một
cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu : “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no và sống một đời hạnh phúc”. “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do thì độc lập tự do cũng không có ý nghĩa gì”. “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có
thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt được
dần dần được xóa bỏ”, “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và
văn hóa của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra giá trị của chủ nghĩa xã hội.
Chế độ xã hội chủ nghĩa theo quan điểm Hồ Chí Minh không chỉ là thước đo giá
trị của độc lập dân tộc mà còn tạo nên sức mạnh để bảo vệ vững chắc độc lập
dân tộc và tự bảo vệ. Độc lập dân tộc chỉ có đi tới chủ nghĩa xã hội thì mới có
một nền độc lậpdân tộc thật sự, hoàn toàn, nhân dân mới được hưởng hạnh phúc
tự do; chủ nghĩa xã hội chỉ có phát triển trên một một nền độc lập dân tộc thật sự
thì mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện.
IV. SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai
đoạn hiện nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất
phong phú, trong đó bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình
diện: cộng đồng và cá nhân. Đó là phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng
dân tộc động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó là phát huy sức mạnh của
con người được giải phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này phải tác động
vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo
đức, truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã 16 lOMoAR cPSD| 23022540
hội…Đó là khắc phục các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội,
bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đấu tranh chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái
mới…Đó cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình hiện nay, mặc dù chủ nghĩa xã hội đang ở vào giai đoạn
thoái trào tuy nhiên nó vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người
và sự lựa chọn đi theo con đườg xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh và nhân dân
là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước những thử thách
lớn lao của thời đại, hoàn cảnh lịch sử đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên
định con đường mục tiêu của mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại. Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó là một
quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới.
Có thể hiểu cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã
hội ta mới thoát ra mấy chục năm qua, mà cái cũ ở đây còn là những yếu tố tư
bản chủ nghĩa đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Đó là để tạo
ra sự biến đổi về chất trên tấtcả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự biến đổi về
chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự
biến đổi về lượng, sự biến đổi của từng bộ phận. Nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở
nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất
cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và quá trình đó phải diễn ra lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Đó là do
xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hộita cũng chưa trải qua sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử.
Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển
khác nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội cùng phát triển hội nhập,
đan xen nhau. Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất
nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, "các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách
xóa bỏ chủ nghĩa xã hội". Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng ta vẫn lạc quan
khẳng định, "Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có
bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một lOMoAR cPSD| 23022540
dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn
kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được nhữngcơ sở vật chất - kỹ
thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình
thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”.
Nhận thức đúng thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục
tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt
và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công băng xã hội; Bảo đảm vững
chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trải qua gần 30 năm thực hiện
đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và
hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn,
hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới,với mô hình kinh tế tổng quát là
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển
sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời
sống nhân dân ngày càng được nâng cao.
Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình chủ
nghĩa xã hội Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết
sức sâu sắc, toàn diện. Đảng ta khẳng định,“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 18