Phân tích luận điểm “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Phân tích luận điểm “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!

lOMoARcPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Phân tích luận điểm “Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận
điểm đối với Việt Nam hiện nay.
lOMoARcPSD| 45568214
2
HÀ NỘI, 2022
MỤC LỤC
I. Đặt vấn
đề..........................................................................................................3
II. Giải quyết vấn
đề..............................................................................................4
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc....................................................4
2. Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập – tự do – hạnh
phúc....................6
2.1. Độc lập dân tc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh
phúc, tự do.........................................................................................................7
2.2. Đi lên Chủ nghĩa xã hội – tột bậc của đc lập dân tộc là tự do hạnh phúc.8
3. Liên hệ thực tiễn với Việt Nam.....................................................................9
3.1. Thực tiễn Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.......................10
3.2. Thực tiễn Việt Nam hiện nay................................................................10
III. Kết thúc vấn
đề..............................................................................................11IV. Tài liệu tham
khảo.........................................................................................12
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, sống trong bối cảnh nước mất, nhà
tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm thấu hiểu tình cảnh của đất nươc và nỗi
thống khổ của nhân dân. Sự thất bại của các phong trào cứu dân, cứu nước của các bậc
tiền bối đi trước do sai lầm về đường lối tưởng đã thúc đẩy, khơi dậy ý chí ra đi
tìm đường cứu nước của Người. Bắt đầu chuyến hành trình trên con tàu Đô Đốc
lOMoARcPSD| 45568214
3
Latouche Tresville, Bác mang trong mình khát vọng giúp nhân dân ta thoát khỏi ách
thống trị của bọn thực dân. Người đã tận dụng hội để được đến nhiều nơi trên thế
giới, trong đó các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp. Trên suốt chặng đường đầy
gian khổ, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn không làm cho người thanh niên chùn bước
mà trái lại, nó lại càng tôi luyện nên ý chí, lòng yêu nước nồng nàn cùng mục tiêu giải
phải dân tộc. Trên những chuyến đi, người thanh niên Nguyến Tất Thành đã bổ sung
cho mình những kiến thức cùng phong phú với một tầm nhìn hết sức rộng lớn bao
quát để từ đó nhận ra rằng: chủ nghĩa đế quốc, thực dân là nguồn cội cho mọi đau khổ
của nhân dân và giai cấp công nhân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa. Chính
chủ nghĩa yêu nước cùng những năm tháng tìm tòi không biết mệt mỏi về luận
hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin, xác định đường con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, khám phá ra chân
lịch sử: “Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Xác định được hướng đi cho con đường Cách mạng Việt Nam, nhà hoạt động
cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá tư tưởng cho phòng trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cùng Đảng lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc. Để rồi ngày 2/9/1945 đánh dấu một mốc son
chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Độc lập rồi đất nước chưa trọn niềm vui, ngay sau ngày đọc bản
Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thế giới, Việt Nam một nước tự do độc lập,
Bác đã đra các nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước trong đó nhiệm vụ hàng đầu
chống giặc đói.
Những việc mà chủ tịch Hồ Chí Minh làm suốt cuộc đời chỉ để nhằm thực hiện
hóa những lời Bác từng bộc bạch: “Tôi một ham muốn, ham muốn tột bậc, làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Bác luôn đặt nhân dân lên hàng đầu, độc lập
của dân tộc phải gắn với tự do, quyền được ăn cơm no, mặc áo ấm của nhân dân.
Sau đây, em sẽ phân tích luận diểm: “Nước độc lập người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng nghĩa gì” đlàm tưởng của
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và ý nghĩa của luận điểm đối với quá trình xây dựng
Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam hiện nay.
lOMoARcPSD| 45568214
4
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Dân tộc là một vấn đề vô cùng rộng lớn. Mác – Ăngghen không đi sâu giải quyết
vấn đvề dân tộc bởi đã được các nước Tây Âu giải quyết trong Cách mạng
sản. Trong giai đoạn quốc tế chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ
phận quan trọng của cuộc cách mạng sản thế giới. Mác, Ăngghen Lênin đã nêu
những quan điểm biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận
và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược của các Đảng Cộng sản sau này về
vấn đề dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận một cách sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin, giải quyết vấn đề về dân tộc trên phương diện lý luận và hoạt động thực
tiễn sao cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam lúc bấy giờ sự tiến hóa của nhân
loại, đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại. Độc lập dân tộc khát vọng lớn nhất
của mỗi dân tộc thuộc địa, vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng các
các dân tộc thuộc địa khỏi sự thống trị của nước ngoài, xóa bỏ chế đáp bức, bóc lột
của thực dân và xây dựng nhà nước độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tc.
Điều này đã được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn
nhân quyền dân quyền cách mạng Pháp năm 1791. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh
trọng nhắc lại trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1945: “Tất cả mọi người đều có sinh ra có quyền bình đẳng, có quyền được sống,
quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc… Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa
là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Độc lập dân tộc trong tưởng Hồ Chí Minh phải nền độc lập thật sự, hoàn
toàn triệt để. Đất nước ta, dân tộc ta phải chủ quyền thực sự về mọi lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại, quân sự; độc lập là phải xóa bỏ tình trạng áp bức
bóc lột dịch của dân tộc này với dân tộc khác, chúng ta phải quyền tự quyết
định đến vận mệnh của mình, không sự can thiệp đến từ nước ngoài. có phải hi
sinh đến đâu, chúng ta cũng phải giành lại quyền quyết định vào tay mình. Giữ vững
độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là những nguyên tắc bất biến để ta có thể bảo vệ
được lợi ích quốc gia, dân tộc của mình. tưởng này cũng chính “sợi chỉ đxuyên
suốt và định hình các hoạt động đối ngoại của đất nước ta từ khi giành độc lập đến nay.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Nước Việt
Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, ba miền Bắc Trung Nam phải là một khối thống
lOMoARcPSD| 45568214
5
nhất không thể bị chia cắt. Mọi người dân trên đất nước hình chữ S không kể đồng bào
Kinh, Thái, Mường, Dao, Êdê, đều con Rồng cháu Tiên. Đất nước không duy trì
được một khối thống nhất thì không thể độc lập dân tộc, càng không thể nghĩ đến
việc tạo cơ sở, tiền đề để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhưng độc lập như thế chưa đủ, theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc còn phải gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân, đó mới là giá
trị sâu sắc độc lập dân tộc mang lại. Tự do của một thể nghĩa con người
được làm chủ chính mình, không bị lệ thuộc vào bất kỳ ai, tự do sống, tự do ngôn luận,
tự do lao động sản xuất,… nhưng tự do này không được thái quá mà cần giới hạn trong
khuôn khổ luật pháp của mt Quốc gia. Tự do của một dân tộc là sự toàn vẹn về các giá
trị tinh thần, giá trị của con người trong một dân tộc. Tự do của một dân tộc tự do
của công dân là hai khái niệm khác nhau của tự do. Nếu một quốc gia không thực sự
được tự do thì dân tộc ấy không thể bàn đên tự do của một công dân được. Với một
quốc gia, tự do chỉ được xác định khi chủ quyền được bảo toàn. Chủ quyền ấy được thể
hiện qua các mặt văn hóa, giáo dục, hội, kinh tế, thương mại, an ninh quốc phòng.
Xét vào hoàn cảnh của đất nước ta lúc bấy giờ, vấn đề về tự do quốc gia, dân tộc đang
bị áp bức, hạn chế. Chính vì vậy, mọi người dân trên đất nước Việt Nam đứng lên đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc mình cũng chính đấu tranh cho sự tự do của con
người, của đất nước Việt Nam. “Không quý hơn độc lập tự do” không chỉ
tưởng, còn lẽ sống, học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta
cảu toàn thể dân tộc Việt Nam. Khát vọng dân tộc độc lập, nhân dân tự do là khát vọng
ngàn đời. trong tình cảnh nước mất, nhà tan, chúng ta cũng nhất quyết không
chịu làm lệ; phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, người con đất Việt cũng
không bao giờ chùn bước vì một nền độc lập của dân tộc, vì toàn vẹn lãnh thổ của non
sông và tự do của con người. Chúng ta đấu tranh để bảo vệ được nền độc lập tự do của
Tổ quốc cũng tạo tiền đề để một môi trường hòa bình cho người dân thể yên
tâm lo cơm no, áo ấm, xây đắp hạnh phúc. Hạnh phúc trạng thái cảm xúc của con
người, năng lực biết thưởng thức những chúng ta làm tạo ra sự thỏa mãn. Hạnh
phúc gắn liền với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống. Hạnh phúc là đầu ra qtình
phấn đấu của con người với tư cách là một thành viên ca cộng đồng, của mt dân tộc,
một quốc gia.
Trong tưởng Hồ Chí Minh, hạnh phúc, tự do người dân phải được hưởng
đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần, người dân phải có ăn, có mặc, có chỗ ở và có chỗ
học hành. Đây chính mục đích cuối cùng, mong ước sâu thẳm trong mỗi người dân
Việt Nam. Bác đã từng nhiều lần khẳng định: “Nếu đất nước được độc lập người
dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng còn nghĩa gì”,
lOMoARcPSD| 45568214
6
“Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ”. Chính
tự do, hạnh phúc của con người Hồ Chí Minh đã đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
Độc lập là tiền đề của hạnh phúc, tự do và tự do, hạnh phúc ngược lại chính là thước đo
giá trị cho nền độc lập mà chúng ta giành được. Và chắc chắn rằng, độc lập ấy phải
độc lập dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc tiến tới xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập – tự do – hạnh phúc
Sinh ra lớn lên trong bối cảnh đất nước bị thực dân xâm chiếm, người dân
sống trong cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào yêu nước của
các bậc tiền bối, Bác đánh gia cao lòng yêu nước của họ nhưng cũng sớm nhận thấy
những hạn chế của các phòng trào đấu tranh đó. Do đó, Bác đã quyết tâm ra đi tìm con
đường cứu nước, cứu dân. Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra rằng cách mạng tư sản là cuộc
cách mạng không triệt để, bởi vì các cuộc cách mạng đó, mang tiếng cộng hòa dân
chủ, nhưng bên trong thì nó tước đoạt sức lao động công nhân, bên ngoài thì áp bức,
bóc lôt các thuộc địa”. Chính vì vậy, Bác không chọn đi theo con đường cách mạng tư
sản.
Năm 1917, cách mạng tháng 10 Nga bùng nổ và giành thắng lợi, Hồ Chí Minh
đã tình cảm đặc biệt cho cuộc cách mạng này. Tháng 7 năm 1920, Bác lần đầu tiếp
xúc với Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I.Lênin. Lý luận này của Lênin có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của Người,
tạo ra một bước chuyển căn bản, quyết định trong nhận thức tưởng của nhà cách
mạng Việt Nam và mở đầu cho một chuyển biến cách mạng thực sự trong lịch sử
tưởng nước ta. Bản khảo của Lênin đã chỉ ra tầm quan trọng của cách mạng thuộc
địa, mối quan hệ và đặc điểm giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa. Bác
đã tiếp nhận sâu sắc và xác định được rõ đâu là kẻ thù của giai cấp, của dân tộc
Việt Nam; tìm được hướng đi đúng đắn cho cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa
chính con đường cách mạng sản, giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cuối
cùng của độc lập dân tộc không chỉ dừng lại giai đoạn hoàn thành cách mạng giải
phóng dân tộc mà còn phải tiếp tục công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải phóng
dân tộc mới chỉ cấp độ đầu tiên để có thể tiếp theo giải phóng về mặt chính trị; là tiền
đề để tiến tới chủ nghĩa xã hội, đi tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
2.1. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh
lOMoARcPSD| 45568214
7
phúc, tự do
Sau khi được ánh sáng của Quốc tế Cộng sản soi rọi, đặc biệt Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, H Chí Minh đã đặt cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc đất nước ta vào quỹ đạo của cuộc cách mạng sản. Theo Bác, cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con đường cách mạng
sản. Cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải do Đảng Cộng sản nh đạo.
Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững
cách mệnh mới thành công...”. Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu
mới của V.I.Lênin, được trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin. Đảng Cộng sản Việt
Nam đại diện cho giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng
ta đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, là Đảng của nhân dân lao động của cả dân
tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mệnh tiên phong, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, cán bộ có phẩm chất đạo đức trong sáng, trí tuệ dồi dào để có
thể giải quyết vấn đề phù hợp với thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại.
Bên cạnh đó, lực lượng tham gia cách mạng giải phỏng phải toàn dân tộc, cách
mạng giải phóng dân tc là việc chung của cả nhân dân chứ không phải của riêng mình
ai. Chính vì vậy phải đoàn kết lại toàn dân, sĩ, nông, công, thương đều tham gia chống
lại cường quyền. Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân chính giai cấp
lãnh đạo cách mạng Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công nông làm
nòng cốt. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi c tầng lớp nhân dân
Việt Nam, những người dân chịu cảnh mất nước, và đang phải chịu thân phận lệ,
tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, từ đó huy động sức mạnh toàn dân tộc vào
cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực
tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tc.
Cuối cùng, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
bạo lực cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân, thực hiện khởi
nghĩa từng phần rồi tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Người đã nhận
thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”. Bác khẳng định “độc lập tự do
không thể cầu xin mà có được”. vậy, để thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
cũng như bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc tiến tới xây dựng xã hội chủ nghĩa, tất
yếu phải “Dùng bảo lực cách mạng chống lại bảo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”.
Độc lập dân tộc không phải điều quá mới mẻ trong lịch sử dân tộc lịch sử
của thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới,
lOMoARcPSD| 45568214
8
đó là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ, một chất mới. Người chọn
kiểu độc lập dân tộc đi theo con đường cách mạng sản, đó kiểu độc lập dân tộc
làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do.
2.2. Đi lên Chủ nghĩa xã hội – tột bậc của độc lập dân tộc là tự do hạnh
phúc
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với đời sống ấm no, hạnh
phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách
mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ
thuộc đói nghèo, lạc hậu; chặng đường tiếp theo chỉ thể đi lên chủ nghĩa hội.
Người nhấn mạnh rằng chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều
kiện đcải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng sở trường riêng
của mình, chăm lo cho con người điều kiện phát triển toàn diện. Khi Bác xác định
giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc lập dân tc đi
tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa hội trong quan điểm của Bác không phải câu trả lời cho mong
muốn chủ quan của con người, một vấn đề hiện thực, xuất phát từ hiện thực
vận động của lịch sử. xuất phát từ chính hiện thực của Việt Nam, từ một nước thuộc
địa với nền nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển di thẳng lên hội
chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa hội xóa bỏ căn
nguyên sâu xa về kinh tế của tình trạng người c lột người; nó hướng đến chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, nhờ đó chủ nghĩa xã hội xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra sự áp bức
về chính trị và sự dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc mới đạt được mục tiêu phục vụ lợi ích cộng đồng, cho nhân dân
lao động có quyền làm chủ thực sự, có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống
tinh thần ngày càng phong phú.
Chủ nghĩa hội giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa bản về mặt giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột đem lại cho con người hạnh phúc, tự do. Vì
vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống. Văn
hóa nói chung, trong chủ nghĩa xã hội nói riêng không chỉ dừng lại ở trình độ học vấn,
mà nó còn là “chất người”, “trình độ người” trong các mối quan hệ con người với con
người, con người với xã hội, con người với thiên nhiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp
cận chủ nghĩa xã hội theo phương diện đạo đức, con người hạnh phúc trong chế độ
xã hội chủ nghãi phải là những con người được giáo dục và có đạo đức. Chế độ xã hội
chủ nghĩa mang lại hạnh phúc cho con người phải chế độ xa lạ với chủ nghĩa nhân,
với những gì phản văn hóa và đạo đức. Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là
lOMoARcPSD| 45568214
9
một xã hội tốt đẹp, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột; là xã hội công bằng và hợp lý ai làm
nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm thì không hưởng; hội đảm
bảo phúc lợi cho người già, trmồ côi. Một hội nền sản xuất phát triển gắn vi sự
phát triển của khoa học kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân lao động. Đó một xã hội kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người
với người bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của
mình; hòa bình hữu nghị, bình đẳng trong các mối quan hệ giữa cộng đồng dân tộc này
với dân tộc khác.
Đi lên xã hội chủ nghĩa là khát vọng của nhân dân ta, sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử. hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng một hội: Dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiền bộ phù hợp; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn diện. Dân ta Nhà nước
pháp quyền hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Nhà nước phải thể hiện ý chí, nguồn lực của nhân dân, đem lại lợi ích cho
dân, thỏa mãn những nhu cầu hợp của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Quan điểm
về quyền làm chủ đất nước và hội của nhân dân do chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng
ta đề cập hết sức đầy đủ. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân,
vấn đề cót lõi là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước, thực sự
được tự do, hạnh phúc.
3. Liên hệ thực tiễn với Việt Nam
3.1. Thực tiễn Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 năm 1945
Cuộc Cách mạng thang Tám năm 1945 thành công thắng lợi lịch sử đầu tiên
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù
cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ngay sau khi Việt Nam vừa giành độc lập, thực dân Pháp quay
lại xâm lược nước ta, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam bảo vệ nền độc lập dân tộc, tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
Đảng chủ trương thực hiện hai cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa chống ngoại
xâm miền Nam vừa xây dựng chế độ dân chủ mới phía Bắc. Chế độ mới không chỉ
ý nghĩa về mặt tinh thần còn tạo ra lực lượng vật chất to lớn, bảo đảm kháng
chiến dài lâu, tiến tới đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Chế độ
dân chủ mới đã khơi dậy ý chí, khát vọng, tạo động lực cho toàn Đảng, toàn dân và toàn
lOMoARcPSD| 45568214
10
quân ta, đưa cuộc kháng chiến đến thành công, đồng thời tiền đề trực tiếp cho xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ tiếp theo.
Giai đoạn năm 1954 tới năm 1975, độc lập dân tộc gắn với Chủ nghĩa xã hội thể
hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Sức mạnh của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là kết quả của sự kết hợp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sức mạnh của chế độ mới được khơi dậy trên nền
tảng của tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
chân “Không quý hơn độc lập tự do”. Nhân dân hai miền Nam - Bắc cùng chung
sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả hai miền đất nước. Miền Nam đã thể hiện
xuất sắc vai trò quyết định trực tiếp đánh đuổi đế quốc Mỹ, đánh đổ chế độ tay sai, đồng
thời góp phần bảo vệ miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.
3.2. Thực tiễn Việt Nam hiện nay
Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta chủ trương đưa
cả nước đi lên hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đường lối xây dựng chủ nghĩa hội theo
chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã đẩy đất nước lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế, hội trầm trọng. Trước tính hình đó, trên cơ sở phân tích sâu sắc tình
hình đất nước qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, với tinh thần “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
đề ra Đường lối mới đáp ứng yêu cầu bức thiết của cuộc sống, phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân và xu thế phát triển của thời đại. Từ đó, Đảng ta đã khơi dậy và phát huy
sức mạnh của toàn dân tộc; mọi tiềm năng, thế mạng của đất nước để xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kXX, Đảng ta đứng trước bao khó khăn
thách thức về đường lối, tưởng do sự sụp đổ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực
Liên Xô và các nước Đông Âu. Tuy vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chủ trương tiếp
tục vững bước trên con đường Bác đã chọn, đi lên hội chủ nghĩa phù hợp với
điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam. Bời vì: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước
nhiều khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song,
loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó quy luật tiến hóa của
lịch sử”. Kiên định với đường lối đổi mới mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
hội, sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế
- xã hội; năm 2008, ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức thu nhập trung
bình năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD.
lOMoARcPSD| 45568214
11
Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần, đời sống nhân dân được
nâng cao rệt về vật chất, văn a, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống;
nhất về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị được
xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng,
an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết
hợp nội lực với ngoại lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp
tác phát triển. Tổng thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nêu
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Tuy nhiên, trên con đường đổi mới xây dựng đất nước Việt Nam với mục tiêu
độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa hội, Đảng ta gặp không ít kkhăn, thách thức.
Trên thế giới, tình trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ,
khủng bố vẫn diễn biến phức tạp. Tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt,
trong đó khu vực Biển Đông điểm nóng. Trong nước, tình trạng suy thoái về chính
trị, tưởng, đạo đức, lối sống, tham nhũng lợi ích nhóm của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng vi phạm dân chủ trong xã hội; một số đảng viên
nhân dân mất niềm tin vào Đảng, những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn biến phức tạp. Những hiện tượng đó nếu không được
ngăn chặn kịp thời và kiên quyết, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của chế
độ, tiền đồ của dân tộc.
Bước tiếp tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như thành tựu trong sự
nghiệp cách mạng đã đạt được gần đây, thế hệ trẻ và đặc biết là sinh viên chúng ta cần
phải ra sức rèn luyện bản thân, trau dồi kiến thức, phẩm chất, đạo đức và lý tưởng cách
mạng để thể xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp hơn, đóng góp vào sự thịnh
vượng chung của toàn dân tộc.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Vậy đphân tích luận điểm của HChí Minh: “Nước độc lập người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” thì trước hết ta phải sáng
tỏ tưởng Hồ Chí Minh vđộc lập dân tộc. Theo quan điểm của Người, độc lập, tự do
là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm; là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để.
Hơn thế nữa. nó phải gắn liền với tự do hạnh phúc của nhân dân và gắn với thống nhất,
lOMoARcPSD| 45568214
12
toàn vẹn lãnh thổ. Đã hàng chục năm trôi qua,những tư tưởng của Bác vẫn còn vn
nguyên giá trị, không chỉ ở hiện tại mà còn cả tương lai.
Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập – tự do – hạnh phúc chỉ có thể là đi theo con
đường cách mạng sản đi lên hội chủ nghĩa. Độc lập tự do theo con đường cách
mạng sản tiền đề của hạnh phúc, tự do đi lên Chủ nghĩa hội cũng chính
tột bậc của độc lập dân tộc tự do hạnh phúc. Chúng ta thể tự hào rằng, cho đến
ngày hôm nay, Đảng và toàn bộ nhân dân ta đã hoàn thành hết sức mình, hi sinh xương
máu để có thể quyết tâm giữ gìn, dựng xây và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đất nước Việt
Nam hùng mạnh. Chúng ta có quyền độc lập của riêng chúng ta, có quyền được hưởng
tự do, hạnh phúc trong một nền độc lập, hòa bình thực sự.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh” dành cho bậc
Đại học – không chuyên ngành lý luận chính trị, NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà
Nội
2. Vũ Khiêu, Hồ Chí Minh với vấn đề tự do của dân tộc và tự do của mỗi con người
| 1/12

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài: Phân tích luận điểm “Nước độc lập mà người
dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận
điểm đối với Việt Nam hiện nay. lOMoAR cPSD| 45568214 HÀ NỘI, 2022 MỤC LỤC I. Đặt vấn
đề..........................................................................................................3 II. Giải quyết vấn
đề..............................................................................................4
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc....................................................4
2. Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập – tự do – hạnh phúc....................6
2.1. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh
phúc, tự do.........................................................................................................7
2.2. Đi lên Chủ nghĩa xã hội – tột bậc của độc lập dân tộc là tự do hạnh phúc.8
3. Liên hệ thực tiễn với Việt Nam.....................................................................9
3.1. Thực tiễn Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.......................10
3.2. Thực tiễn Việt Nam hiện nay................................................................10 III. Kết thúc vấn
đề..............................................................................................11IV. Tài liệu tham
khảo.........................................................................................12 I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, sống trong bối cảnh nước mất, nhà
tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm thấu hiểu tình cảnh của đất nươc và nỗi
thống khổ của nhân dân. Sự thất bại của các phong trào cứu dân, cứu nước của các bậc
tiền bối đi trước do sai lầm về đường lối và tư tưởng đã thúc đẩy, khơi dậy ý chí ra đi
tìm đường cứu nước của Người. Bắt đầu chuyến hành trình trên con tàu Đô Đốc 2 lOMoAR cPSD| 45568214
Latouche Tresville, Bác mang trong mình khát vọng giúp nhân dân ta thoát khỏi ách
thống trị của bọn thực dân. Người đã tận dụng cơ hội để được đến nhiều nơi trên thế
giới, trong đó có các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp. Trên suốt chặng đường đầy
gian khổ, cuộc sống khó khăn, thiếu thốn không làm cho người thanh niên chùn bước
mà trái lại, nó lại càng tôi luyện nên ý chí, lòng yêu nước nồng nàn cùng mục tiêu giải
phải dân tộc. Trên những chuyến đi, người thanh niên Nguyến Tất Thành đã bổ sung
cho mình những kiến thức vô cùng phong phú với một tầm nhìn hết sức rộng lớn và bao
quát để từ đó nhận ra rằng: chủ nghĩa đế quốc, thực dân là nguồn cội cho mọi đau khổ
của nhân dân và giai cấp công nhân ở các nước chính quốc cũng như thuộc địa. Chính
chủ nghĩa yêu nước cùng những năm tháng tìm tòi không biết mệt mỏi về lý luận và
hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác-
Lênin, xác định đường con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, khám phá ra chân lý
lịch sử: “Chỉ có Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Xác định được hướng đi cho con đường Cách mạng Việt Nam, nhà hoạt động
cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá tư tưởng cho phòng trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và cùng Đảng lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc. Để rồi ngày 2/9/1945 đánh dấu một mốc son
chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Độc lập rồi mà đất nước chưa trọn niềm vui, ngay sau ngày đọc bản
Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thế giới, Việt Nam là một nước tự do độc lập,
Bác đã đề ra các nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước trong đó là nhiệm vụ hàng đầu là chống giặc đói.
Những việc mà chủ tịch Hồ Chí Minh làm suốt cuộc đời chỉ để nhằm thực hiện
hóa những lời mà Bác từng bộc bạch: “Tôi có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm
sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Có thể thấy rằng, trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, Bác luôn đặt nhân dân lên hàng đầu, độc lập
của dân tộc phải gắn với tự do, quyền được ăn cơm no, mặc áo ấm của nhân dân.
Sau đây, em sẽ phân tích luận diểm: “Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” để làm rõ tư tưởng của
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và ý nghĩa của luận điểm đối với quá trình xây dựng
Chủ nghĩa xã hội của Việt Nam hiện nay. 3 lOMoAR cPSD| 45568214
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Dân tộc là một vấn đề vô cùng rộng lớn. Mác – Ăngghen không đi sâu giải quyết
vấn đề về dân tộc bởi vì nó đã được các nước Tây Âu giải quyết trong Cách mạng tư
sản. Trong giai đoạn quốc tế chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ
phận quan trọng của cuộc cách mạng vô sản thế giới. Mác, Ăngghen và Lênin đã nêu
những quan điểm biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận
và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược của các Đảng Cộng sản sau này về
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận một cách sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin, giải quyết vấn đề về dân tộc trên phương diện lý luận và hoạt động thực
tiễn sao cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam lúc bấy giờ và sự tiến hóa của nhân
loại, đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại. Độc lập dân tộc là khát vọng lớn nhất
của mỗi dân tộc thuộc địa, vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng các
các dân tộc thuộc địa khỏi sự thống trị của nước ngoài, xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột
của thực dân và xây dựng nhà nước độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Điều này đã được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền cách mạng Pháp năm 1791. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh
trọng nhắc lại trong Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1945: “Tất cả mọi người đều có sinh ra có quyền bình đẳng, có quyền được sống,
quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc… Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa
là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải là nền độc lập thật sự, hoàn
toàn và triệt để. Đất nước ta, dân tộc ta phải có chủ quyền thực sự về mọi lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại, quân sự; độc lập là phải xóa bỏ tình trạng áp bức
bóc lột và nô dịch của dân tộc này với dân tộc khác, chúng ta phải có quyền tự quyết
định đến vận mệnh của mình, không có sự can thiệp đến từ nước ngoài. Dù có phải hi
sinh đến đâu, chúng ta cũng phải giành lại quyền quyết định vào tay mình. Giữ vững
độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là những nguyên tắc bất biến để ta có thể bảo vệ
được lợi ích quốc gia, dân tộc của mình. Tư tưởng này cũng chính là “sợi chỉ đỏ” xuyên
suốt và định hình các hoạt động đối ngoại của đất nước ta từ khi giành độc lập đến nay.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Nước Việt
Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, ba miền Bắc Trung Nam phải là một khối thống 4 lOMoAR cPSD| 45568214
nhất không thể bị chia cắt. Mọi người dân trên đất nước hình chữ S không kể đồng bào
Kinh, Thái, Mường, Dao, Êdê, … đều là con Rồng cháu Tiên. Đất nước không duy trì
được một khối thống nhất thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nghĩ đến
việc tạo cơ sở, tiền đề để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhưng độc lập như thế là chưa đủ, theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc còn phải gắn liền với tự do và hạnh phúc của nhân dân, đó mới là giá
trị sâu sắc mà độc lập dân tộc mang lại. Tự do của một cá thể có nghĩa là con người
được làm chủ chính mình, không bị lệ thuộc vào bất kỳ ai, tự do sống, tự do ngôn luận,
tự do lao động sản xuất,… nhưng tự do này không được thái quá mà cần giới hạn trong
khuôn khổ luật pháp của một Quốc gia. Tự do của một dân tộc là sự toàn vẹn về các giá
trị tinh thần, giá trị của con người trong một dân tộc. Tự do của một dân tộc và tự do
của công dân là hai khái niệm khác nhau của tự do. Nếu một quốc gia không thực sự có
được tự do thì dân tộc ấy không thể bàn đên tự do của một công dân được. Với một
quốc gia, tự do chỉ được xác định khi chủ quyền được bảo toàn. Chủ quyền ấy được thể
hiện qua các mặt văn hóa, giáo dục, xã hội, kinh tế, thương mại, an ninh và quốc phòng.
Xét vào hoàn cảnh của đất nước ta lúc bấy giờ, vấn đề về tự do quốc gia, dân tộc đang
bị áp bức, hạn chế. Chính vì vậy, mọi người dân trên đất nước Việt Nam đứng lên đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc mình cũng chính là đấu tranh cho sự tự do của con
người, của đất nước Việt Nam. “Không có gì quý hơn độc lập tự do” không chỉ là tư
tưởng, mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và
cảu toàn thể dân tộc Việt Nam. Khát vọng dân tộc độc lập, nhân dân tự do là khát vọng
ngàn đời. Dù có trong tình cảnh nước mất, nhà tan, chúng ta cũng nhất quyết không
chịu làm nô lệ; dù có phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, người con đất Việt cũng
không bao giờ chùn bước vì một nền độc lập của dân tộc, vì toàn vẹn lãnh thổ của non
sông và tự do của con người. Chúng ta đấu tranh để bảo vệ được nền độc lập tự do của
Tổ quốc cũng là tạo tiền đề để có một môi trường hòa bình cho người dân có thể yên
tâm lo cơm no, áo ấm, xây đắp hạnh phúc. Hạnh phúc là trạng thái cảm xúc của con
người, là năng lực biết thưởng thức những gì mà chúng ta làm tạo ra sự thỏa mãn. Hạnh
phúc gắn liền với quan niệm về niềm vui trong cuộc sống. Hạnh phúc là đầu ra quá tình
phấn đấu của con người với tư cách là một thành viên của cộng đồng, của một dân tộc, một quốc gia.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, hạnh phúc, tự do là người dân phải được hưởng
đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần, người dân phải có ăn, có mặc, có chỗ ở và có chỗ
học hành. Đây chính là mục đích cuối cùng, là mong ước sâu thẳm trong mỗi người dân
Việt Nam. Bác đã từng nhiều lần khẳng định: “Nếu đất nước được độc lập mà người
dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng còn nghĩa lý gì”, và 5 lOMoAR cPSD| 45568214
“Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ”. Chính vì
tự do, hạnh phúc của con người mà Hồ Chí Minh đã đấu tranh để giành độc lập dân tộc.
Độc lập là tiền đề của hạnh phúc, tự do và tự do, hạnh phúc ngược lại chính là thước đo
giá trị cho nền độc lập mà chúng ta giành được. Và chắc chắn rằng, độc lập ấy phải là
độc lập dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc tiến tới xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập – tự do – hạnh phúc
Sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đất nước bị thực dân xâm chiếm, người dân
sống trong cảnh lầm than. Hồ Chí Minh được chứng kiến các phong trào yêu nước của
các bậc tiền bối, Bác đánh gia cao lòng yêu nước của họ nhưng cũng sớm nhận thấy
những hạn chế của các phòng trào đấu tranh đó. Do đó, Bác đã quyết tâm ra đi tìm con
đường cứu nước, cứu dân. Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra rằng cách mạng tư sản là cuộc
cách mạng không triệt để, bởi vì các cuộc cách mạng đó, mang tiếng là cộng hòa dân
chủ, nhưng bên trong thì nó tước đoạt sức lao động công nhân, bên ngoài thì nó áp bức,
bóc lôt các thuộc địa”. Chính vì vậy, Bác không chọn đi theo con đường cách mạng tư sản.
Năm 1917, cách mạng tháng 10 Nga bùng nổ và giành thắng lợi, Hồ Chí Minh
đã có tình cảm đặc biệt cho cuộc cách mạng này. Tháng 7 năm 1920, Bác lần đầu tiếp
xúc với Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V.I.Lênin. Lý luận này của Lênin có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của Người, nó
tạo ra một bước chuyển căn bản, quyết định trong nhận thức tư tưởng của nhà cách
mạng Việt Nam và mở đầu cho một chuyển biến cách mạng thực sự trong lịch sử tư
tưởng nước ta. Bản sơ khảo của Lênin đã chỉ ra tầm quan trọng của cách mạng thuộc
địa, mối quan hệ và đặc điểm giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa. Bác
đã tiếp nhận sâu sắc và xác định được rõ đâu là kẻ thù của giai cấp, của dân tộc
Việt Nam; tìm được hướng đi đúng đắn cho cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa
chính là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng con người. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cuối
cùng của độc lập dân tộc không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn thành cách mạng giải
phóng dân tộc mà còn phải tiếp tục công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải phóng
dân tộc mới chỉ là cấp độ đầu tiên để có thể tiếp theo giải phóng về mặt chính trị; là tiền
đề để tiến tới chủ nghĩa xã hội, đi tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
2.1. Độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là tiền đề của hạnh 6 lOMoAR cPSD| 45568214 phúc, tự do
Sau khi được ánh sáng của Quốc tế Cộng sản soi rọi, đặc biệt là Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã đặt cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc ở đất nước ta vào quỹ đạo của cuộc cách mạng vô sản. Theo Bác, cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con đường cách mạng
vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững
cách mệnh mới thành công...”. Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu
mới của V.I.Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác – Lênin. Đảng Cộng sản Việt
Nam là đại diện cho giai cấp công nhân, mang bản chất của giai cấp công nhân. Đảng
ta đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, là Đảng của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mệnh tiên phong, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, cán bộ có phẩm chất đạo đức trong sáng, trí tuệ dồi dào để có
thể giải quyết vấn đề phù hợp với thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại.
Bên cạnh đó, lực lượng tham gia cách mạng giải phỏng phải là toàn dân tộc, cách
mạng giải phóng dân tộc là việc chung của cả nhân dân chứ không phải của riêng mình
ai. Chính vì vậy phải đoàn kết lại toàn dân, sĩ, nông, công, thương đều tham gia chống
lại cường quyền. Hồ Chí Minh luôn khẳng định, giai cấp công nhân chính là giai cấp
lãnh đạo cách mạng và Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công nông làm
nòng cốt. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân
Việt Nam, những người dân chịu cảnh mất nước, và đang phải chịu thân phận nô lệ,
tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, từ đó huy động sức mạnh toàn dân tộc vào
cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực
tiễn to lớn đối với cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc.
Cuối cùng, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
bạo lực cách mạng, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân, thực hiện khởi
nghĩa từng phần rồi tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Người đã nhận
thức sâu sắc bản chất của chế độ thực dân: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”. Bác khẳng định “độc lập tự do
không thể cầu xin mà có được”. Vì vậy, để thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
cũng như bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và tiến tới xây dựng xã hội chủ nghĩa, tất
yếu phải “Dùng bảo lực cách mạng chống lại bảo lực phản cách mạng, giành lấy chính
quyền và bảo vệ chính quyền”.
Độc lập dân tộc không phải là điều quá mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử
của thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới, vì 7 lOMoAR cPSD| 45568214
đó là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ, một chất mới. Người chọn
kiểu độc lập dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản, đó là kiểu độc lập dân tộc
làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do.
2.2. Đi lên Chủ nghĩa xã hội – tột bậc của độc lập dân tộc là tự do hạnh phúc
Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn với đời sống ấm no, hạnh
phúc của quần chúng nhân dân, những người đã trực tiếp làm nên thắng lợi của cách
mạng dân tộc dân chủ. Để đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc, để không rơi vào lệ
thuộc đói nghèo, lạc hậu; chặng đường tiếp theo chỉ có thể là đi lên chủ nghĩa xã hội.
Người nhấn mạnh rằng chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều
kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng
của mình, chăm lo cho con người và có điều kiện phát triển toàn diện. Khi Bác xác định
giành độc lập theo con đường cách mạng vô sản tức là đã khẳng định độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội trong quan điểm của Bác không phải là câu trả lời cho mong
muốn chủ quan của con người, mà nó là một vấn đề hiện thực, xuất phát từ hiện thực
vận động của lịch sử. Nó xuất phát từ chính hiện thực của Việt Nam, từ một nước thuộc
địa với nền nông nghiệp lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát triển di thẳng lên xã hội
chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội xóa bỏ căn
nguyên sâu xa về kinh tế của tình trạng người bóc lột người; nó hướng đến chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, nhờ đó chủ nghĩa xã hội xóa bỏ cơ sở kinh tế sinh ra sự áp bức
về chính trị và sự nô dịch con người về tinh thần, ý thức và tư tưởng. Chỉ với chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc mới đạt được mục tiêu phục vụ lợi ích cộng đồng, cho nhân dân
lao động có quyền làm chủ thực sự, có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống
tinh thần ngày càng phong phú.
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột đem lại cho con người hạnh phúc, tự do. Vì
vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống. Văn
hóa nói chung, trong chủ nghĩa xã hội nói riêng không chỉ dừng lại ở trình độ học vấn,
mà nó còn là “chất người”, “trình độ người” trong các mối quan hệ con người với con
người, con người với xã hội, con người với thiên nhiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp
cận chủ nghĩa xã hội theo phương diện đạo đức, con người có hạnh phúc trong chế độ
xã hội chủ nghãi phải là những con người được giáo dục và có đạo đức. Chế độ xã hội
chủ nghĩa mang lại hạnh phúc cho con người phải là chế độ xa lạ với chủ nghĩa cá nhân,
với những gì phản văn hóa và đạo đức. Chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là 8 lOMoAR cPSD| 45568214
một xã hội tốt đẹp, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột; là xã hội công bằng và hợp lý – ai làm
nhiều thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm thì không hưởng; là xã hội đảm
bảo phúc lợi cho người già, trẻ mồ côi. Một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn với sự
phát triển của khoa học – kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân lao động. Đó là một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh trong đó người
với người là bạn bè, đồng chí, anh em, mọi người được phát triển hết khả năng của
mình; hòa bình hữu nghị, bình đẳng trong các mối quan hệ giữa cộng đồng dân tộc này với dân tộc khác.
Đi lên xã hội chủ nghĩa là khát vọng của nhân dân ta, sự lựa chọn đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử. Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiền bộ phù hợp; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Dân ta có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Nhà nước phải thể hiện ý chí, nguồn lực của nhân dân, đem lại lợi ích cho
dân, thỏa mãn những nhu cầu hợp lí của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Quan điểm
về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đề cập hết sức đầy đủ. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân,
vấn đề cót lõi là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước, thực sự
được tự do, hạnh phúc.
3. Liên hệ thực tiễn với Việt Nam
3.1. Thực tiễn Việt Nam sau Cách mạng tháng 8 năm 1945
Cuộc Cách mạng thang Tám năm 1945 thành công là thắng lợi lịch sử đầu tiên
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc thuộc phạm trù
cách mạng vô sản. Thắng lợi này đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ngay sau khi Việt Nam vừa giành độc lập, thực dân Pháp quay
lại xâm lược nước ta, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam là bảo vệ nền độc lập dân tộc, tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vừa
kháng chiến, vừa kiến quốc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
Đảng chủ trương thực hiện hai cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa chống ngoại
xâm ở miền Nam vừa xây dựng chế độ dân chủ mới phía Bắc. Chế độ mới không chỉ
có ý nghĩa về mặt tinh thần mà còn tạo ra lực lượng vật chất to lớn, bảo đảm kháng
chiến dài lâu, tiến tới đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Chế độ
dân chủ mới đã khơi dậy ý chí, khát vọng, tạo động lực cho toàn Đảng, toàn dân và toàn 9 lOMoAR cPSD| 45568214
quân ta, đưa cuộc kháng chiến đến thành công, đồng thời là tiền đề trực tiếp cho xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ tiếp theo.
Giai đoạn năm 1954 tới năm 1975, độc lập dân tộc gắn với Chủ nghĩa xã hội thể
hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Sức mạnh của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là kết quả của sự kết hợp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, sức mạnh của chế độ mới được khơi dậy trên nền
tảng của tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Nhân dân hai miền Nam - Bắc cùng chung
sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả hai miền đất nước. Miền Nam đã thể hiện
xuất sắc vai trò quyết định trực tiếp đánh đuổi đế quốc Mỹ, đánh đổ chế độ tay sai, đồng
thời góp phần bảo vệ miền Bắc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.
3.2. Thực tiễn Việt Nam hiện nay
Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Đảng ta chủ trương đưa
cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo
cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã đẩy đất nước lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng. Trước tính hình đó, trên cơ sở phân tích sâu sắc tình
hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, với tinh thần “nhìn thẳng
vào sự thật, đánh giá đúng sự thật”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
đề ra Đường lối mới đáp ứng yêu cầu bức thiết của cuộc sống, phù hợp với nguyện vọng
của nhân dân và xu thế phát triển của thời đại. Từ đó, Đảng ta đã khơi dậy và phát huy
sức mạnh của toàn dân tộc; mọi tiềm năng, thế mạng của đất nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng ta đứng trước bao khó khăn
thách thức về đường lối, tư tưởng do sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở
Liên Xô và các nước Đông Âu. Tuy vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn chủ trương tiếp
tục vững bước trên con đường mà Bác đã chọn, đi lên xã hội chủ nghĩa phù hợp với
điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt Nam. Bời vì: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước
nhiều khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song,
loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của
lịch sử”. Kiên định với đường lối đổi mới và mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa
xã hội, sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế
- xã hội; năm 2008, ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức thu nhập trung
bình và năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. 10 lOMoAR cPSD| 45568214
Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần, đời sống nhân dân được
nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng cuộc sống;
nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị được
xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng,
an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết
hợp nội lực với ngoại lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp
tác và phát triển. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nêu rõ và
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm
lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Tuy nhiên, trên con đường đổi mới và xây dựng đất nước Việt Nam với mục tiêu
độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, Đảng ta gặp không ít khó khăn, thách thức.
Trên thế giới, tình trạng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ,
khủng bố vẫn diễn biến phức tạp. Tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt,
trong đó khu vực Biển Đông là điểm nóng. Trong nước, tình trạng suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tham nhũng và lợi ích nhóm của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên; tình trạng vi phạm dân chủ trong xã hội; một số đảng viên và
nhân dân mất niềm tin vào Đảng, những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn biến phức tạp. Những hiện tượng đó nếu không được
ngăn chặn kịp thời và kiên quyết, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của chế
độ, tiền đồ của dân tộc.
Bước tiếp tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như thành tựu trong sự
nghiệp cách mạng đã đạt được gần đây, thế hệ trẻ và đặc biết là sinh viên chúng ta cần
phải ra sức rèn luyện bản thân, trau dồi kiến thức, phẩm chất, đạo đức và lý tưởng cách
mạng để có thể xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp hơn, đóng góp vào sự thịnh
vượng chung của toàn dân tộc.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Vậy để phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh: “Nước độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” thì trước hết ta phải sáng
tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Theo quan điểm của Người, độc lập, tự do
là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm; là nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để.
Hơn thế nữa. nó phải gắn liền với tự do hạnh phúc của nhân dân và gắn với thống nhất, 11 lOMoAR cPSD| 45568214
toàn vẹn lãnh thổ. Đã hàng chục năm trôi qua, mà những tư tưởng của Bác vẫn còn vẹn
nguyên giá trị, không chỉ ở hiện tại mà còn cả tương lai.
Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập – tự do – hạnh phúc chỉ có thể là đi theo con
đường cách mạng vô sản đi lên xã hội chủ nghĩa. Độc lập tự do theo con đường cách
mạng vô sản là tiền đề của hạnh phúc, tự do và đi lên Chủ nghĩa xã hội cũng chính là
tột bậc của độc lập dân tộc là tự do hạnh phúc. Chúng ta có thể tự hào rằng, cho đến
ngày hôm nay, Đảng và toàn bộ nhân dân ta đã hoàn thành hết sức mình, hi sinh xương
máu để có thể quyết tâm giữ gìn, dựng xây và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, đất nước Việt
Nam hùng mạnh. Chúng ta có quyền độc lập của riêng chúng ta, có quyền được hưởng
tự do, hạnh phúc trong một nền độc lập, hòa bình thực sự.
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh” dành cho bậc
Đại học – không chuyên ngành lý luận chính trị, NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội
2. Vũ Khiêu, Hồ Chí Minh với vấn đề tự do của dân tộc và tự do của mỗi con người 12