Phân tích luận điểm “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Bài tập lớn môn Tư tưởng Hồ Chí Minh
Phân tích luận điểm “Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (LLTT1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45568214
TRƯỜNG iiĐẠI iiHỌC iiKINH iiTẾ iiQUỐC iiDÂN ----- -----
BÀI TẬP LỚN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH Đề tài:
PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH: “NƯỚC ĐỘC LẬP
MÀ NGƯỜI DÂN KHÔNG ĐƯỢC HƯỞNG HẠNH PHÚC, TỰ
DO, THÌ ĐỘC LẬP CŨNG CHẲNG CÓ NGHĨA LÝ GÌ”. LÀM RÕ Ý NGHĨA CỦA LUẬN
ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY.
Họ iivà iitên
: Nguyễn iiThị iiÁnh iiMy
Quản iitrị Kinh iidoanh ii Lớp :
quốc iitế iiCLC ii63C
Mã iisinh iiviên : 11219748
Giáo iiviên iihướng iidẫn : Nguyễn Hồng Sơn Hà nội, 2022 1 lOMoAR cPSD| 45568214 MỤC LỤC MỤC
LỤC……………………………………………………………………....2
A.ĐẶT VẤN ĐỀ ………………………………………………………. ……….3 B.NỘI
DUNG…………………………………………………………………...4 I.
Quan điểm của Mác Leenin về độc lập dântộc………………………….4
1.Quan điểm của Các Mác – Ph. Ăngghen……………………………....4 2.Quan điểm của
Lenin…………………………………………………...4 II.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dântộc……………………………..5 III.
Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh về độc lậpdân tộc …………...7 IV.
Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dântộc với Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………………9
IV. Thực tiễn đối với thế hệ trẻ Việt Nam…………………………………11
C.KẾT LUẬN………………………………………………………………… 13 D.TÀI LIỆU THAM
KHẢO………………………………………………….14 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ trước tới nay, độc lập dân tộc luôn vẫn là một mục tiêu hàng đầu của mọi
quốc gia, của mọi dân tộc, đặc biệt với các dân tộc nhỏ thì đây càng là một vấn
đề được đặt lên hàng đầu. Kinh nghiệm lịch sử đã cho thấy rằng sự tồn vong và
phát triển của mỗi dân tộc đều gắn liền với việc giành và giữ vững nền độc lập
của đất nước. Được sống trong độc lập luôn là nguyện vọng thiết tha, chính đáng
của bất kì ai, của bất kì một dân tộc nào trên thế giới
Độc lập dân tộc vừa là một giá trị tinh thần vừa là một giá trị vật chất. Để biết
rằng một dân tộc có được vị thế bình đẳng trên trường quốc tế hay không, người
dân của dân tộc đó có được cuộc sống hạnh phúc hay không phụ thuộc rất nhiều 2 lOMoAR cPSD| 45568214
vào việc dân tộc có thực sự độc lập hay không? Tuy nhiên, đối với chủ tịch Hồ
Chí Minh vĩ đại của chúng ta, Người lại có một quan niệm hoàn toàn khác so với
những điều trên rằng: “Nước độc lập mà người dân không được hưởng quyền
tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Để có được nền độc lập, hòa bình như bây giờ, đất nước Việt Nam chúng ta
đã phải trải qua hàng nghìn năm tranh đấu chống lại sự xâm lược của kẻ thù đặt
chân đến lãnh thổ Việt
Nam. Nhờ có sự lãnh đạo tài tình của Đảng và một yếu tố mang tính quyết định
chính đó là tư tưởng của Hồ Chí Minh – một hệ thống toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của Cách Mạng Việt Nam cũng như là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác- Lenin vào nước ta mà mới có
một đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập như ngày hôm nay. Nền độc lập của
một dân tộc là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho dân tộc ấy có hòa bình, ổn định
về chính trị, phát triển về kinh tế và văn hóa, thống nhất về lãnh thổ và chủ quyền
quốc gia. Nó phải được “đo bằng những khả năng và điều kiện đảm bảo cho dân
tộc thoát khỏi tình cản nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức, bóc lột và nô dịch; đảm bảo
cho dân tộc đó vượt qua tình trạng đói nghèo, lạc hậu so với các dân tộc khác
trong thế giới ngày nay, ngày càng vươn lên đỉnh cao của sự giàu có, văn minh,
hiện đại, công bằng và văn minh”. B. NỘI DUNG
I- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin về độc lập dân tộc
1.Quan điểm của Các Mác – Ph. Ăngghen
Các Mác và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết cách mạng, khoa học và
nhân đạo với mục tiêu cao nhất hướng đến đó là giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và tiến tới giải phóng con người một cách triệt để nhất. Hai ông đã chứng
minh sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự quá độ sang một xã hội mới 3 lOMoAR cPSD| 45568214
không còn chế độ người bóc lột người lao động. Cương lĩnh dân tộc đã đưa ra
ba vấn đề cốt lỗi nhất: Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; Thứ hai, các
dân tộc được quyền tự quyết; Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại.
Chủ nghĩa xã hội là một hình thái xã hội lý tưởng để từng bước hiện thực hoá sự
nghiệp giải phóng con người khỏi chế độ áp bức, bóc lột giữa người và người,
tiến tới mục tiêu cao cả: “Biến con người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc
tự do”. Có thể nói rằng, giải phóng áp bức về kinh tế là một trong những cách
giải phóng con người triệt để. Những cuộc cách mạng trước đây vốn chỉ mang
tính chất chính trị, nhằm kết thúc bằng việc lật đổ sự thống trị của giai cấp này
và thay thế bằng sự trị vì của giai cấp khác mà chưa khắc phục được triệt để
được vấn đề cho những giai cấp bị trị còn mắc kẹt trong xiềng xích, nô lệ. Hơn
hết, việc thay đổi vị trí của người lao động đối với tư liệu sản xuất là việc cần
thiết trước mắt hơn cả, hay rõ ràng là việc thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản thành chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành chế độ công hữu với những
phương thức thích hợp. Bên cạnh đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn phát triển
lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất lao động nhằm cải thiện
đời sống của người dân.
2.Quan điểm của Lênin
Nếu như quan điểm của Các Mác - Ăngghen mang đậm tính lý luận thì khi đến
với Lenin những quan điểm ấy đã được tiếp thu có chọn lọc và được phát triển
dựa trên cơ sở thực tiễn. Nhận thấy rằng các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
đã từng nổ ra, nguyên nhân sâu xa là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính
xã hội hóa cao với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới
chủ nghĩa tư bản, cho nên chừng nào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn
được duy trì thì nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại. Do
đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa vấn là một tất yếu khách quan của tiến trình phát
triển lịch sử nhân loại. Qua quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin có thể thấy chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính cho người lao động.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc luôn là vấn đề xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người về độc lập dân tộc là sự kết thừa từ
học thuyết Mác Lenin, từ các học thuyết trong lịch sử cùng với sự ứng dụng trong
điều kiện thực tế ở nước ta. Người cho rằng độc lập dân tộc phải là nền độc lập 4 lOMoAR cPSD| 45568214
hoàn toàn triệt để, gắn liền với tự do hạnh phúc của nhân dân, là quyền thiêng
liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc và độc lập dân tộc phải gắn liền
với thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Thứ nhất, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc
Lịch sử dựng nước và gìn giữu nước của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến
nay gắn liền với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Điều
đó nói lên một khát khao to lớn của dân tộc ta là mong muốn có được một nền
độc lập cho nhân dân và đó cũng là một giá trị tinh thần thiêng liêng, bất hủ mà
Hồ Chí Minh là hiện thân cho tinh thần ấy. Người khẳng định: “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do…” Đó là những lý lẽ mà không một ai có thể cãi bỏ. Với tư
tưởng của Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhân dân Việt Nam
đã anh dũng chiến đấu để đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược.
Thứ hai, độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
Độc lập phải bảo đảm quyền lực tối cao về đối nội, đối ngoại và suy đến cùng
là phải đảm bảo quyền tự quyết của dân tộc. Độc lập dân tộc phải được thực
hiện toàn diện, triệt để trên mọi lĩnh vực. Khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất
vừa kết thúc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người dân An Nam gửi
đến Hội Nghị quốc tế ở Versseillies, Pháp năm 1919 Bản yêu sách điểm đòi tự do
độc lập cho thuộc địa, trong đó nhấn mạnh đến dân quyền với các điểm cụ thể:
“…3.Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4.Tự do lập hội và hội họp; 5.Tự do cư trú
ở nước ngoài và tự do xuất dương; 6.Tự do học tập, thành lập các trường kỹ
thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ”.
Ngay trong năm ấy, khi Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp hỏi mong muốn điều
gì, Nguyễn Ái Quốc đã trực diện đáp thẳng: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là:
Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Tháng 7 năm 1920, Nguyễn
Ái Quốc tiếp cận Bản Sơ thảo Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lê Nin qua báo Nhân đạo. Trong hai ngày, 16 và 17/7/1920, lần đầu tiên ở
Pháp, báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội, cho công bố toàn văn
tác phẩm quan trọng của Lê Nin: “Luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa”… Tác phẩm này của Lê Nin đã làm cho Nguyễn Ái Quốc vô cùng xúc
động, tin tưởng và vui mừng đến rơi lệ: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây
là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Cũng từ
đây, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa
cộng sản, mở ra một con đường mới cho cách mạng Việt Nam: “Muốn cứu nước 5 lOMoAR cPSD| 45568214
và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”.
Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa là Nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Trong tư tưởng của Người, nhà nước của dân là nhà nước mà ở đó
người dân làm chủ, người dân là người có địa vị cao nhất, là người nắm giữ
quyền quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước. Người ý thức được rất
rõ vị trí của mình trong bộ máy nhà nước, ở nước ta từ Hồ Chí Minh trở xuống là
đầy tớ của dân; dân đặt ở đâu thì làm đó; Người làm Chủ tịch nước cũng là nhận
sự trao quyền ủy thác của dân. Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm
chủ nhà nước, nhà nước phải tin dân và dựa vào dân. Ngoài ra, nó còn bao hàm
nội dung khác: nhân dân có quyền tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê
bình, kiểm soát, kiểm tra và giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, các
đại biểu do mình bầu ra. Nhà nước vì dân, phải theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là
nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: để phục vụ tốt nhân dân, vì dân, nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong
sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết “các ông
quan cách mạng” ra khỏi bộ máy nhà nước. “Độc lập mà người dân không có
quyền tự quyết về ngoại giao, không có quân đội riêng, không có nền tài chính
riêng, .. thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì.”
Thứ ba, Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do của nhân dân. Người
đánh giá caohọc thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn về độc lập, tự do: dân tộc,
độc lập, dân quyền tự dovà dân sinh hạnh phúc. Bằng lý lẽ đầy thuyết phục, trong
khi viện dẫn bản Tuyên ngônNhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm
1791 “ Người ta sinh ra tự do và bìnhđẳng về quyền lợi, phải luôn được tự do và
bình đẳng về quyền lợi.”, Hồ Chí Minh đãkhẳng định dân tộc Việt Nam đương
nhiên phải được tự do và bình đẳng về quyền lợi “ Đólà lẽ không thể chối cãi được.
Thứ tư, Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
Độc lập dân tộc và thống nhất đất nước là chân lý, là quy luật tồn tại, phát
triển của dân tộc. “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi
có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. “Độc lập” ở Việt Nam trong
Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải phóng đồng bài ta ra khỏi chế độ quân
chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân, xây dựng cho nhân dân ta nền tảng Dân
chủ Cộng hòa và thống nhất độc lập”. “Độc lập” của dân tộc sau khi đã giành 6 lOMoAR cPSD| 45568214
được nêu cao ý chí quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ”, dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20
năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể
bị tàn phá, sonh nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc
lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hoàng hơn, to đơn đẹp hơn!”.
Lịch sử xuyên suốt của Việt Nam ta là lịch sử không ngừng đấu tranh trong
quá trình dựng nước và giữ nước. Có thể khẳng định rằng tinh thần yêu nước là
cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt Nam. Đối với người dân mất nước, cái quý
nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Theo chủ tịch Hồ Chí
minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung “dân tộc” và “dân chủ”; độc lập dân
tộc phải được gắn với hạnh phúc và tự do của quần chúng nhân dân; đồng thời
thì tự do và hạnh phúc của nhân dân cũng chính là giá trị sâu sắc của độc lập dân tộc.
III. Phân tích luận điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Hồ Chí Minh bước lên vũ đài chính trị trong bối cảnh nước mất nhà tan, Người
đã tận mắt chứng kiến sự đàn áp thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc với
dân tộc, sự hèn hạ của triều đình phong kiến và Người cũng rất khâm phục tinh
thần yêu nước của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Bởi sống trong bối
cảnh xã hội nhức nhối như vậy nên Người càng thấm thía hơn về hai tiếng “độc
lập” cho dân tộc và nuôi dưỡng khao khát tìm ra con đường cứu nước để giải
phòng quần chúng nhân dân khỏi cách bị áp bức. Và cũng chính tiền đó đã đã
thôi thúc người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời bến Nhà Rồng ra
đi đi tìm đường cứu nước vào 5/6/1911.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Nhưng “Độc
lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc” mà phải gắn liền một cách hmu
cơ và biện chứng với nhau. Điều này đã được Bác nêu rõ trong Thư gửi ủy ban
nhân dân các miền, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945), “Ngày nay,chúng ta đã xây
dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
Chúng ta hãy cùng định nghĩa rõ hơn về ba khái niệm độc lập, tự do và hạnh
phúc. Trước hết, “độc lập” là quyền bất khả xâm phạm của một quốc gia, về
phạm vi lãnh thổ, chính trị, tư tưởng tôn giáo, ... về đời sống an sinh, xã hội, về 7 lOMoAR cPSD| 45568214
dân trí, về quyền tựdo tối cao của nhân dân trong quốc gia đó. “Tự do” không
phải là giá trị bất biến, nó luôn thay đổi theo thời gian và phụ thuộc theo bối
cảnh xã hội. Tự do còn là thực tế của việc không bị kiểm soát bởi một thế lực đối
với số phận; ý chí tự do. Trong chính trị, tự do bao gồm các quyền tự do xã hội
và tự do chính trị mà tất cả các thành viên cộng đồng xã hội được hưởng và là
tự do dân sự, theo Oxford English Dictionary. Cuối cùng,
“hạnh phúc” là một trạng thái khi đó con người được thỏa mãn những nhu cầu
chính đáng và căn bản nhất, được sống đầy đủ với các quyền công dân của mình,
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước.
Có được độc lập thôi chưa đủ, độc lập nhưng người dân phải được hưởng
hạnh phúc, tự do. Chủ tịch cũng chỉ ra rằng đây là một đòi hỏi hoàn toàn chính
đáng. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc
(10/1/1946), Người lý giải:“Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ
chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của
tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Thật vậy, khi được sống ở
một cuộc sống sung túc no đủ, con người ta mới thấm thía giá trị của hai tiếng
độc lập. Đó là nỗi trăn trở của Người đó là luôn tìm cách giữ vững được nền độc
lập dân tộc nhưng đồng thời cũng phải đem lại một cuộc cuộc sống sung túc, no
đủ cho quần chúng nhân dân. Nhân dân ta Việt Nam ta đã đứng lên tranh đấu
suốt mấy ngàn năm lịch sử vì chúng ta hiểu được giá trị của hai tiếng “độc lập”
nó thiêng liêng đến mức nào.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh độc lập và tự do hạnh phúc là ba vấn đề luôn luôn
tồn tạicùng nhau không thể tách rời. Hồ Chí Minh xác định: có độc lập mới có tự
do, có giành được độc lập dân tộc mới có điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và
mang lại hạnh phúcthật sự cho nhân dân. Trong Tuyên ngôn độc lập, tư tưởng
ấy đã thể hiện sự gắn bó cácquyền dân tộc cơ bản với các quyền cơ bản của con
người. Người đã hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của các hệ tư tưởng cũ, đã
khẳng định một cách hùng hồn rằng ngọn cờ độc lập dân tộc thống nhất với chủ
nghĩa xã hội là ngọn cờ bảo vệ nhân quyền và các quyền lợi chân chính của con
người. Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho tất cả mọi người và con người được
giải phóng hoàn toàn để vươn tới cái tất yếu của tự do chính là đích đến củachủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa
cộngsản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm
cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”. Theo Người,
giành độc lập dân tộc rồi thì phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội là
“làm sao cho dân giàu, nước mạnh, là mọingười được ăn no, mặc ấm, sung 8 lOMoAR cPSD| 45568214
sướng, tự do thật sự, triệt để”. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để tiến lên
chủ nghĩa xã hội là cơ sở để đảm bảo vmng chắc cho dân tộc. Người nêu rõ bản
chất cách mạng và dân chủ của chính quyền nhân dân, nguồn gốc sức mạnh của
chính quyền là ở sự gắn bó với nhân dân, hết lòng, hết sức mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
IV. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc với Việt Nam hiện nay
1.Kiên định với mục tiêu, con đường Cách Mạng Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được Đảng Cộng sản
Việt Nam thể hiện trong các văn kiện đại hội Đảng các thời kỳ và thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Qua mỗi bước ngoặt, mỗi chặng đường cách mạng, Đảng ta
luôn khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử”. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc
trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng chính là cách mà những người
cộng sản Việt Nam chứng tỏ bản lĩnh trước những công kích, xuyên tạc của các
thế lực thù địch chống phá mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Chủ nghĩa xã hội là một hình thái phát triển mới trong sự phát triển của nhân
loại. Đó không phải là con đường bằng phẳng, có sẵn mà đòi hỏi Đảng cộng sản
Việt Nam, trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh không ngừng sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại để
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời không ngừng hoàn thiện lý luận về chủ
nghĩa xã hội. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong hơn 30 năm đổi
mới mà nhân dân Việt Nam đạt được từ năm 1986 đến nay, thực sự là một minh
chứng rõ ràng về việc Đảng cộng sản Việt Nam bám sát thực tiễn đất nước, vận
hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại và hội nhập
quốc tế, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.Phát huy sức mạnh nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa
Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy sức mạnh bản chất
ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa; là dân chủ phải được thực hiện đầy
đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống để nhân dân tham gia vào
tất cả các khâu của quá trình đưa ra quyết định liên quan đến lợi ích của nhân
dân theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. 9 lOMoAR cPSD| 45568214
Phát huy sứ mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa không tách rời quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền
và nghĩa vụ công dân theo tinh thần của Hiến pháp hiện hành.
Phát huy sức mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với tăng cường pháp chế,
đề cao trách nhiệm công dân và đạo đức xã hội, phê phán nững biểu hiện dân
chủ cực đoan, dân chỉ hình thức và xử lí nghiêm minh những hành vi lợi dụng
dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như tất cả những
hành vi vi phạm quyền dân và quyền làm chủ của nhân dân.
3.Củng cố, kiện toàn, phát huy sức mạnh và hiệu quả hoạt động của toàn
bộ hệ thống chính trị
Đặc điểm của hệ thống chính trị ở Việt Nam là tính nhất nguyên và tính thống
nhất: Nhất nguyên về chính trị, về tổ chức, về tư tưởng; thống nhất dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, thống nhất về mục tiêu chính trị. Các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở Việt Nam có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng , nhiệm
vụ, phương thức hoạt động khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau tạo nên
một thể thống nhất, phát huy sức mạnh để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực. Nhân dân
thực hiện quyền làm chủ thông quá các hoạt động của nhà nước, của cả hệ thống
chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
4.Đấu tranh chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị là nhiệm vụ
quan trọng, cơ bản, lâu dài của Đảng. Trong hơn 30 năm đổi mới, bám sát thực
tế trong mỗi giai đoạn, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thường xuyên, kịp thời lãnh
đạo, chỉ đạo đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị; đề ra các chủ
trương, giải pháp nhằm đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, ngăn
chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong
những năm gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện các giải pháp chủ yếu
sau: Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng đã coi trọng hơn việc đề cao tinh thần cảnh
giác, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là việc đấu tranh với những biểu hiện
nói và làm trái với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; Hai là, thành lập các ban chỉ đạo đấu tranh chống "diễn biến
hòa bình", chống suy thoái về tư tưởng chính trị; Ba là, tổ chức các hoạt động
đấu tranh cụ thể, phong phú, đa dạng; Bốn là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục 10 lOMoAR cPSD| 45568214
nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Vận dụng hiệu quả
nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh để đạt được những kết quả tích cực.
IV. Thực tiễn đối với thế hệ trẻ Việt Nam
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng
cao đời sống mọi mặt của nhân dân, chú trọng phát huy nhân tố con người trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, cả thế giới biết đến công cuộc đổi
mới ở Việt Nam như một bằng chứng về sự thành công chuyển đổi kinh tế -xã
hội trong lịch sử đương đại.
Về kinh tế - tài chính: Kinh tế nước ta có sức tăng trưởng khá nhanh cũng như
đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp FDI do có
lợi thế về máy móc thiết bị và kỹ thuật hiện đại, có thị trường xuất khẩu khá ổn
định còn được Nhà nước khuyến khích bằng các cơ chế chính sách ngày càng
thông thoáng nên trong những năm vừa qua phát triển khá nhanh và ổn định
hơn hẳn khu vực công nghiệp trong nước.
Cơ cấu kinh tế cũng chuyển dịch khá rõ rệt, điều đó được thểhiện ở sự giảm tỷ
trọng ở khu vực I và tăng tỷ trọng ở khu vực II và III.
Về giáo dục: Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở
lên biết đọc đã tăng vọt, năm 2000 Việt Nam đã hoàn thành chương trình mục
tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Giáo dục trung học chuyên
nghiệp và đại học có bước mở rộng nhanh về quy mô đào tạo. Cập nhật, bổ sung
kiến thức mới hàng năm liên tục để trình độ giáo dục không bị lạc hậu so với thế
giới, thời đại. Chất lượng giáo dục được nâng cao nên đào tạo được nhiều nhân
tài đi ra các đấu trường quốc tế, xuất sắc giành được các vị trí cao và danh giá.
Về chính trị - quân sự: Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng
cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ
vững. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế lực mới cho đất nước tiếp
tục đilên với triển vọng tốt đẹpNhững cơ hội phải nắm bắt và những khó khăn phải vượt qua
Về những cơ hội cần phải nắm bắt: Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cùng với
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập. Đan xen với đó là các quá trình hội nhập đưa
thế giới đến một “cấu trúc ma trận” các hiệp định tự do thương mại trên nhiều
tuyến và nhiều cấp độ. Việt Nam ta cần phải biết chuyển mình theo dòng chảy 11 lOMoAR cPSD| 45568214
có thời đại, nắm được cơ hội để có được sự phát triển thần kì, vượt bậc. Đây sẽ
là một cơ hội, một bước tiến cực kì lớn đối với đất nước ta.
Về những khó khăn và thách thức cần phải vượt qua: Các nước lớn điều chỉnh
chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh, đấu tranh kiềm chế lẫn nhau
quyết liệt, giành vị thế và lợi ích gây ra tình hình phức tạp tài nhiều khu vực và
nhiều nước. Những vấn đề toàn cầu và an ninh phi truyền thống như: an ninh
lươngthực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, an ninh tài chính, an ninh
mạng,biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,… đang diễn biến nghiêm trọng. Đặc
biệt trong hai năm, thế giới đã bị dịch bệnh Covid tàn phá rất nặng nề cả về con
người, kinh tế, xã hội và Việt Nam cũng là một quốc gia hứng chịu không ít những
khó khăn do dịch bệnh này gây ra. Và đã đến lúc chúng ta hồi phục lại nền kinh
tế cũng như các hoạt động văn hóa xã hội sau khi dịch bệnh chấm dứt. Bên cạnh
đó Việt Nam còn phải đối mặtvới sự thiếu hụt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm
môi trường đang ngày càng gia tăng nghiêm trọng. 12 lOMoAR cPSD| 45568214 C.KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và luận điểm “Nước độc lập mà người dân
không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì” nói
riêng thật sự là một ngọn đèn triết lí soi sáng cho con đường cách mạng dân tộc.
Luận điểm của Người không hề lỗi thời mà nó có giá trị cho đến tận ngày nay:
Độc lập phải đi cùng với tự do thì mới giữ đúng được bản chất, ý nghĩa của nó.
Sau bao nhiêu năm đổi mới, lĩnh hội và phát huy bài học từ câu nói của Bác, Đảng
và nhân dân ta đã cùng nhau phấn đấu xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta thời kì đổi mới. Song song với việc đổi mới kinh tế, từng bước
đổi mới về chính trị, xã hội , văn hóa với mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực
sự của nhân dân. Trong dòng chảy lịch sử nhân loại và xuyên suốt hàng ngàn năm
dựng xây gắn liền với bảo vệ giang sơn gấm vóc Việt Nam, Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc luôn là nỗ lực phấn đấu, hy sinh của biết bao thế hệ. Với Việt Nam, từ sau
khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945 đến nay, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc luôn xuất hiện
cùng quốc hiệu Việt Nam, khẳng định giá trịl ớn lao và ý nghĩa trường tồn của 6
chm quý báu này và tiếp tục được hiện thực hóa trongvăn kiện Đại hội XIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, chúng ta – những người dân Việt Nam có trách
nhiệm, nghĩa vụ phải giữ gìn những kinh nghiệm quý giá mà ông cha ta đúc kết
được, phải vững lòng tin vào Đảng, vào Tổ quốc, có như thế đất nước mới được
độc lập, tự do, hạnh phúc như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh. D.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh – Bộ giáo dục và đào tạo. 2.
https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/dautranh-
ngan-chan-day-lui-suy-thoai-ve-tu-tuong-chinh-tri-trongdang-117300 3.
https://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Kiendinh-di-
theo-con-duong-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh-va-cachmang-Viet-Nam-da-chon-9
4.http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/quan-diem-triet-hoc-maclenin-ve-tu-do-
va-tat-yeu-trong-phat-trien-nen-van-hoa-vietnam-tien-tien-dam-da-ban-sac- dan-toc-77677.htm
5. http://www.vanhocnghethuathatinh.org.vn/nguyen-ai-quocva-su-lua-chon-
con-duong-cach-mang-vo-san-cho-dan-toc-vietnam-1622804954.html 13