

















Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA LUẬT BÀI TẬP LỚN
Môn: Triết học Mác – Lênin
Đề: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Liên hệ với quan niệm về hôn nhân của thanh niên hiện nay
Họ và tên sinh viên: Đào Ngọc Phương Thanh Mã sinh viên: 11225762 Lớp 13 Hà Nội, 2022 LỜI MỞ ĐẦU
Trong vài năm gần đây, quan niệm về hôn nhân của thế hệ trẻ có nhiều
điểm khác biệt so với quan niệm về hôn nhân của các thế hệ trước.
Nhà xã hội học, PGS.TS Trịnh Hòa Bình nhận thấy: Giới trẻ bây giờ đang
kết hôn muộn và thích độc thân hơn. Là bởi họ ưu tiên sự nghiệp, học hành và
vô vàn những áp lực khác đè nặng lên cuộc sống. Trước khi nghĩ tới một tổ ấm,
họ cần đảm bảo công việc của mình ổn định, nhà cửa đàng hoàng và kinh tế
vững chắc. Và khi nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, họ sẵn sàng “chưa cưới
vội”. Đây là một thực trạng trong xã hội hiện nay.
Có thể thấy, người trẻ Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang có xu
hướng trì hoãn hôn nhân cũng như kế hoạch gia đình. Giờ đây, ưu tiên của họ
không còn là kết hôn và lập gia đình nữa. Họ thường ví von hôn nhân như gia vị
cho cuộc sống, có thì đậm đà nhưng không có thì cũng không sao.
Cụ thể, theo dữ liệu của Viện Sức khỏe và xã hội Hàn Quốc, 52,6% thanh
niên Hàn Quốc cho rằng độc thân chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống của họ.
Tương tự, một nghiên cứu khác của cơ quan thống kê Hàn Quốc hồi năm 2014
cho rắng có 38,9% người trên 13 tuổi và 50,7% người trên 30 tuổi cho rằng hôn
nhân nên “để tự nhiên”.
Với mong muốn đặt vấn đề dưới lăng kính Triết học Mác – Lênin để có cái
nhìn sâu sắc hơn về thực trạng này, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Phân tích mối
quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ với quan niệm về hôn nhân
của thanh niên hiện nay”. 1 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. Vật chất và ý thức......................................................................................3
1. Quan niệm về vật chất............................................................................3
2. Bản chất của ý thức................................................................................3 II.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.................................4
1. Vật chất quyết định ý thức.....................................................................4
2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất............6
3. Kết luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.............7
III. Quan niệm về hôn nhân của thanh niên hiện nay................................8
1. Khái niệm hôn nhân...............................................................................8
2. Những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến quan niệm về
hôn nhân của thế hệ trẻ hiện nay.................................................................8
3. Mối quan hệ vật chất – ý thức với quan niệm về hôn nhân – gia đình
của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay...............................................................10
KẾT LUẬN........................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................15 2 NỘI DUNG I.
Vật chất và ý thức
1. Quan niệm về vật chất
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, V.I.
Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”. Đây là một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho đến
nay các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển.
Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc vào ý thức.
Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì
đem lại cho con người cảm giác.
Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Đây không phải định nghĩa duy nhất về vật chất từng xuất hiện trong lịch
sử. Song, đây là định nghĩa có tính đúng đắn nhất cho đến thời điểm hiện tại.
Ngày nay, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn ngày càng phát triển
với những khám phá mới càng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm duy vật
biện chứng về vật chất, chứng tỏ định nghĩa vật chất của V.I. Lênin vẫn giữ
nguyên giá trị, và do đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngày càng khẳng định vai
trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn của các khoa học hiện đại.
2. Bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá
trình phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của óc người
Như vậy, khi xem xét ý thức về mặt bản thể luận thì ý thức chỉ là “hình
ảnh” về hiện thực khách quan trong óc người. Đây là đặc tính đầu tiên để nhận 3
biết ý thức. Đối với con người, cả ý thức và vật chất đều là hiện thực, nghĩa là
đều tồn tại thực. Nhưng cần phân biệt giữa chúng có sự khác nhau, đối lập nhau
về bản chất: vật chất là hiện thực khách quan; còn ý thức là hiện thực chủ quan.
Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, ý thức không phải là sự vật mà chỉ
là “hình ảnh” của sự vật ở trong óc người. Ý thức tồn tại phi cảm tính, đối lập
với các đối tượng vật chất mà nó phản ánh luôn tồn tại cảm tính. Thế giới khách
quan là nguyên bản, là tính thứ nhất. Còn ý thức chỉ là bản sao, là “hình ảnh” về
thế giới đó, là tính thứ hai. Đây là căn cứ quan trọng nhất để khẳng định thế giới
quan duy vật biện chứng, phê phán chủ nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình trong
quan niệm về bản chất của ý thức.
Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt: Một là, trao đổi
thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là quá trình mang tính hai
chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết. Hai là, mô hình hóa
đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. ,
Ba là chuyển hóa mô hình
từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thông
qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng
phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Để thúc đẩy
quá trình chuyển hóa này, con người cần sáng tạo đồng bộ nội dung, phương
pháp, phương tiện, công cụ phù hợp để tác động vào hiện thực khách quan nhằm
thực hiện mục đích của mình. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức.
Từ kết quả nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của ý thức cho thấy, ý thức là
hình thức phản ánh cao nhất riêng có của óc người về hiện thực khách quan
trên cơ sở thực tiễn xã hội – lịch sử. II.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
1. Vật chất quyết định ý thức
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. 4
Vật chất “sinh” ra ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của
con người cách đây từ 3 đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá
trình phát triển, tiến hóa lâu dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất.
Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ram cho nên lẽ tất nhiên, ý thức – một
thuộc tính của bộ óc con người – cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các
thành tựu của khoa học hiện đại đã chứng minh rằng, giới tự nhiên có trước con
người; vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, ý
thức là tính thứ hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn
gốc sinh ra ý thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ
quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động
thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận
động của thế giới vật chất có tư duy là bộ óc người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
Suy cho cùng, dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực
khách quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản
ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người
Thế giới khách quan, trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã
hội – lịch sử của loài người, là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ánh.
Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực
tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong
phú và độ sâu sắc các thời đại từ mông muội tới văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý
thức. Nhưng sự phản ánh của con người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh”
hoặc là “phản ánh tâm ý” mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua
thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới của
con người hoạt động thực tiến. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải
biến thế giới của con người – là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó
ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh. 5
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của
vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo.
Con người – một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả về thể chất lẫn
tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức – một hình thức phản ánh của óc người cũng phát
triển cả về nội dung và hình thức phản ánh. Đời sống xã hội ngày càng văn minh
và khoa học, ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt
nhận thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của VI rằng “sự đối
lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa trong những phạm vi hết sức hạn chế:
trong trường hợp này, chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa
nhận cái gì là cái có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không
còn nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối”. Ở đây, tính tương đối của
sự đói lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật
chất đặc biệt – bộ óc người và thuộc tính của chính nó.
2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Điều này được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự
phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra,
nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát
triển riêng, không lệ thuộc một cách máy móc và vật chất. Ý thức một khi ra đời
thì có tính độc lập tương đối, tác động lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay
đổi nhanh, chậm, song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay
đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiến, ý thức có thể làm biến đổi
những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai”
phục vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến
đổi được hiện thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, 6
hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện
pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là
ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực
lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên
đoán môt cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận
định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp
phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật
chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó
phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất
là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng
3. Kết luận về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Theo quan điểm triết học Mác – Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ
biện chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác –
Lênin, rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp
với phát huy tính năng động chủ quan. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn,
mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế
khách quan, từ những điều kiện, tiên đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành
động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu quả tai hại khôn
lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, tránh to hồng
hoặc bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có. 7
Nhìn chung, nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng, phải xuất phát từ chính bản
thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có
của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan. III.
Quan niệm về hôn nhân của thanh niên hiện nay
1. Khái niệm hôn nhân
Có rất nhiều cách để định nghĩa cụm từ “hôn nhân”.
Theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, hôn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng sau khi đã thực hiện các quy định của pháp luật về kết hôn, nhằm chung
sống với nhau và xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Theo Công giáo, hôn nhân giữa hai người nam nữ và gia đình là những
định chế và cơ cấu nền tảng của của xã hội loài người. Tuy nhiên, định chế và cơ
cấu ấy không do xã hội qui định và gầy dựng nên, nhưng do chính Đấng Tạo
Hóa đã thiết lập ngay từ khởi đầu công trình sáng tạo vũ trụ và muôn loài
Người. Khi người dựng nên con người có nam có nữ và truyền cho họ hãy sinh
sôi nẩy nở đầy mặt đất tăng triển và tồn tại trên mặt đất này. Do vậy, Thiên Chúa
đã phú bẩm trong bản tính tự nhiên của con người bản năng tính dục và vì thế
con người có chiều hướng về người khác phái. Cùng với khả năng hành động có
lý trí có ý chí con người nhận biết được các quy luật phù hợp với luân lý đạo
đức trong hôn nhân với tất cả ý thức trách nhiệm và bổn phận nhất định kèm
theo, đối với bạn đời trước mặt Đấng Tạo Hóa.
Dưới góc nhìn Triết học, hôn nhân gắn liền với gia đình. Theo đó, hôn nhân
là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác, là cơ sở pháp lý cho sự
tồn tại của mỗi gia đình. Trong đó, mối quan hệ huyết thống là mối quan hệ tự
nhiên được nảy sinh từ quan hệ hôn nhân, đây là yếu tố mạnh mẽ gắn kết các
thành viên trong gia đình. 8
2. Những yếu tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến quan niệm về hôn
nhân của thế hệ trẻ hiện nay
Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của sự phát triển nền kinh tế tri thức với xu
hướng toàn cầu hoá, Việt Nam cố gắng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và hội nhập vào nền kinh tế của thời đại mới. Những
chuyển đổi về kinh tế tất yếu sẽ kéo theo những thay đổi về văn hoá, tâm lý, xã
hội. Cụ thể là những thay đổi trong vấn đề hôn nhân và gia đình ở thế hệ nam nữ thanh niên hiện nay.
Qua điều tra dân số tháng 4 - 1999, trong cơ cấu dân số từ 15 tuổi trở lên
thì 63% có vợ có chồng, goá là 6,7%, ly hôn là 0,8%, ly thân là 0,6%. Như vậy,
nam nữ có vợ có chồng vẫn chiếm đa số. Tuy nhiên, xu hướng kết hôn chậm
đang gia tăng, các vụ ly dị, ly thân cũng đang phát triển. Năm 1999, tỷ lệ dân số
dưới 15 tuổi chưa kết hôn đã tăng lên 3,3% so với năm 1989; tuổi kết hôn lần
đầu của nữ tăng lên 0,5 tuổi, của nam tăng lên 1 tuổi so với năm 1989. Nhìn
chung, xu hướng kết hôn chậm hay không muốn lập gia đình đang phát triển
trong nam nữ thanh niên, đặc biệt là ở thành phố, do ảnh hưởng của những quan
niệm mới về tự do cá nhân và tâm trạng muốn sống thoải mái.
Trong xã hội hiện đại, toàn cầu hóa mở ra những cơ hội mới, nhưng cũng
báo hiệu những mối nguy cơ mới. Một thách thức đáng chú ý do toàn cầu hóa
tạo ra là chủ nghĩa cá nhân, tiêu dùng và coi trọng vật chất. Lối sống thúc đẩy
nhu cầu phát triển cá nhân, ưu tiên thực hiện các nhu cầu và mong muốn của cá
nhân hơn là gia đình và cộng đồng. Những nhu cầu của cá nhân không chỉ giới
hạn ở giáo dục, giải trí, không gian làm việc mà còn định hình lại cách các cá
nhân nhìn nhận gia đình và hôn nhân. Trên thực tế, chủ nghĩa cá nhân coi gia
đình và hôn nhân đối lập với hạnh phúc và quyền tự do của cá nhân, thúc đẩy ý
tưởng cho rằng việc hình thành gia đình cản trở và hạn chế sự phát triển và hạnh
phúc của cá nhân. Nói cách khác, lối sống thiên về cá nhân có sự xung đột giữa
cá nhân và gia đình, tạo ra niềm tin sai lầm là con người phải hy sinh bản thân
để có gia đình hoặc hy sinh mong muốn có gia đình để đạt được mục tiêu và nhu cầu cá nhân. 9
Các nghiên cứu đã chỉ ra, thanh thiếu niên chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các
phương tiện truyền thông hơn là gia đình về sự phát triển hành vi, kiến thức và
thái độ tình dục. Đặc biệt, phim truyền hình được phát sóng trên các kênh truyền
hình vệ tinh, mạng xã hội đã trở thành những cánh cổng chính dẫn vào lối sống
đô thị, toàn cầu hóa và củng cố thêm chân dung gia đình và cá nhân như hai mặt
đối lập. Trình trạng sống độc thân được đề cao như một cách để thể hiện tự do,
tự hiện thực hóa bản thân và cung cấp cho nam giới và phụ nữ lối sống ưa thích,
vui vẻ, giàu có và hướng tới sự năng động. Trong khi đó, gia đình được coi là
nguồn gốc của xung đột, áp bức.
Thế hệ mới là nhóm những người sinh ra trong gia đoạn từ năm 1990 đến
nay, trong kỷ nguyên số hóa và toàn cầu hóa. Họ được tiếp cận với nền giáo dục
tiên tiến, tiếp cận với sự phát triển thần tốc của các phương tiện truyền thông,
mạng xã hội; được khuyến khích hãy mạnh mẽ theo đuổi ước mơ, tự tin chinh
phục những thử thách, thực hiện những điều bản thân yêu thích và sẵn sàng
chinh phục những thử thách mới.
Tóm lại, với mỗi cá nhân, toàn bộ thế giới quan xung quanh họ đều ẩn chứa
những tác nhân gây ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ về hôn nhân. Song, những
yếu tố có ảnh hưởng rộng nhất là sự toàn cầu hóa và số hóa. Đây là một con dao
hai lưỡi. Một mặt, sự phát triển này giúp thế hệ trẻ hình thành những quan niệm
về giá trị bản thân cũng như khám phá về thế giới xung quanh. Mặt khác, họ lại
dễ dàng rơi vào chủ nghĩa cá nhân với suy nghĩ bản thân là quan trọng nhất, điều
này làm rạn nứt mối quan hệ, trách nhiệm của các cá nhân với xã hội. Cụ thể,
thanh niên thường có suy nghĩ tách biệt bản thân khỏi xã hội và chỉ nghĩ đến bản thân.
3. Mối quan hệ vật chất – ý thức với quan niệm về hôn nhân – gia đình của
thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
Dựa trên ý nghĩa phương pháp luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức,
có thể phân tích quan niệm về hôn nhân ở giới trẻ như sau:
Thứ nhất vật chất – ý thức và mối quan hệ tính dục và tình yêu. , 10
Cùng với sự phát triển của công nghệ, không khó để thấy các bài đăng
tuyển Sugar Baby, Sugar Daddy hay hiện tượng FWB ở giới trẻ. Đây là những
vấn đề nhức nhối trong xã hội. Song, nhiều giới trẻ nhiễm nhiên coi đó là hoạt
động bình thường để thỏa mãn các nhu cầu của bản thân.
Đối với hiện tượng này, dễ dàng thấy được những yếu tố khách quan và chủ
quan đã tác động đến sự lựa chọn của con người về vấn đề tình dục. Trong quá
khứ, tình dục phải gắn liền với hôn nhân và tình yêu. Nhưng ở hiện tại, giới trẻ
coi đó là bản năng, là điều hoàn toàn tự nhiên của con người. Họ tin rằng, tình
dục không gắn liền với hôn nhân. Những hiện tượng FWB, Sugar Daddy Baby,
… xảy ra do sự tác động từ yếu tố khách quan là cơ thể vật chất, bản tính sinh
học của con người và yếu tố chủ quan là suy nghĩ lệch lạc, tư tưởng phóng
khoáng mù quáng. Ở những hiện tượng kể trên chỉ tồn tại sự chi phối về mặt thể
xác và vật chất chứ không hề có tác động từ tình cảm, tình yêu. Vậy nên, những
hành động trên đơn thuần chỉ là sự thỏa mãn tầm thường giống như các loài
động vật khi đến mùa động dục.
Sự tự do trong tình dục là bình thường và đáng được tôn trọng. Song, việc
thần thánh hóa hay bao biện cho những mặt xấu của hiện tượng này là không
nên. Về mặt luật pháp, Việt Nam hiện chưa hợp pháp hóa việc mại dâm và hiện
tượng Sugar Baby, Daddy lại là một hình thức mại dâm trá hình. Ngoài ra, đối
với hiện tượng FWB, tuy đây được coi là hành vi có sự đồng thuận từ hai phía
nhưng hiện tượng này hoàn toàn có nguy cơ gây ra những hậu quả nghiệm trọng
như có thai ngoài ý muốn, nạo phá thai,…. Dẫn chứng cho luận điểm này thể
hiện ở những số liệu thống kê trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng. Theo số liệu thống kê của UNICEF Việt Nam, ngày càng có nhiều thanh
niên Việt Nam có quan hệ tình dục ở độ tuổi chưa thành niên: 7,8% người chưa
thành niên ở độ tuổi 15 – 18 đã quan hệ tình dục lần đầu trước khi 15 tuổi và tỷ
lệ này ở nhóm 19 – 24 tuổi là 1,3%. Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai thấp,
chỉ có 41% nữ và 65% nam ở độ tuổi 15 – 24 sử dụng biện pháp tránh thai khi
quan hệ tình dục. Hậu quả là tỷ lệ người chưa thành niên sinh con là 45/1000
phụ nữ ở độ tuổi 15 – 19. 11
Nhu cầu tình dục là nhu cầu cơ bản của con người. Song, thứ khiến loài
người khác biệt là con người có ý thức, tức con người có khả năng nhận thức
được trách nhiệm và hành động dựa trên đó. Vậy nếu bám víu vào sự “tự do”
một cách mù quáng, con người sẽ không thể thoát ly được khỏi bản năng giải
quyết nhu cầu tầm thường.
Thứ hai, vật chất – ý thức và quan niệm về lựa chọn đối tượng kết hôn.
Theo nghiên cứu của đại học Swansea với quy mô khảo sát hơn 2700 đối
tượng sinh viên, họ đưa ra kết quả về các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn
bạn đời. Trong đó cho thấy rằng tỉ lệ phần trăm cao nhất thuộc về lòng trắc ẩn
(25% ở nam và 24% ở nữ), đứng thứ hai là ngoại hình (23% ở nam và 17% ở
nữ), đứng thứ ba là tình hình tài chính tốt (12% ở nam và 18% ở nữ).
Nghiên cứu trên cho thấy rằng, đa số giới trẻ vẫn ưu tiên tính cách và lòng
trắc ẩn ở đối phương. Song, không thể phủ nhận sự quan trọng của những yếu tố
khách quan như ngoại hình và tình hình tài chính. Nếu đi sâu hơn nữa, thì thực
chất tính cách và lòng trắc ẩn cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khách
quan như môi trường sống, các mối quan hệ như gia đình, bạn bè,…. Điều này
làm khẳng định thêm nhận định vật chất tác động lên ý thức theo Triết học Mác – Lênin.
Tuy nhiên, trên thực tế, sẽ có vô số người phù hợp với những yếu tố kể trên
nhưng bạn đời thì chỉ có một. Vậy nên, không thể phủ nhận rằng có những yếu
tố chủ quan tác động đến sự lựa chọn bạn đời của thế hệ trẻ. Ví dụ như một cô
gái tóc đen, da ngăm đối với người Châu Á có thể bị coi là xấu nhưng đó lại là
tiêu chuẩn vẻ đẹp của người phương Tây. Vậy nên, những cái nhìn chủ quan của
từng cá nhân chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn đối tượng kết hôn.
Ngoài ra, những yếu tố này cũng được thể hiện trong sự lựa chọn bạn đời
của các mối quan hệ đồng giới. Trong đó, giới tính bạn đời không còn bị đặt
nặng như trước nữa. Nếu như hôn nhân trước đây là sự độc quyền của mối quan
hệ một nam một nữ thì hiện tại, thế giới đã không còn suy nghĩ như vậy. Đa
phần giới trẻ hiện nay có cái nhìn vô cùng thoải mái về vấn đề hôn nhân đồng 12
giới. Những người đồng giới tin rằng miễn là những tiêu chí lựa chọn bạn đời
được thỏa mãn thì việc giới tính của họ không phải là một vấn đề quá lớn.
Thứ ba, vật chất – ý thức và quan niệm về kinh tế trong mối quan hệ giữa vợ và chồng
Trong hôn nhân và gia đình, từ xưa đến nay, người ta thường quan niệm
rằng phụ nữ phải giỏi công việc bếp núc, trông con cái, chiều lòng chồng còn
nam giới thì phải gánh vác trên vai những gánh nặng về kinh tế của gia đình.
Trước những định kiến giới như vậy, con người và xã hội dần dần nhận thấy
những vấn đề phát sinh cũng như ảnh hưởng của nó đến xã hội. Hậu quả của
việc định kiến giới là: tư tưởng trọng nam khinh nữ, tính nam độc hại…. Những
điều này ảnh hưởng nặng nề đến xã hội.
Tuy nhiên, ở tầng lớp trẻ, dường như đa phần đều nhận thức được vấn đề
này và có cái nhìn tiến bộ về bình đẳng giới. Tại chương trình “đối thoại sinh
viên về bình đẳng giới và an toàn cho phụ nữ và trẻ em” do Trung ương Hội liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Trung ương Đoàn và Cơ quan Liên Hợp
quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) tổ chức tại Đại
Học Luật Hà Nội, nhiều sinh viên đã mạnh dạn nêu rõ quan điểm của bản thân
cũng như niềm tin của họ vào sự bình đẳng giới. Đặc biệt, khi câu nhận định
“Phụ nữ không phải là “hoa” để “người ta hái”” được đưa ra, tiếng vỗ tay ào ào
vang khắp khán phòng. Có thể thấy, nhận thức về bình đẳng giới trong giới trẻ
đã phát triển rất mạnh mẽ.
Cùng với sự phát triển ấy, ranh giới giữa nam và nữ dần được xóa nhòa.
Ngoài những khác biệt về bản chất sinh học, giới trẻ tin rằng vai trò của phụ nữ
và đàn ông là quan trọng như nhau. Do đó, gánh nặng kinh tế trong gia đình tài
chính ở các thế hệ trẻ thường được chia đều cho cả người vợ và người chồng. Ở
một vài trường hợp, người vợ còn trở thành trụ cột kinh tế chính của gia đình và
người chồng sẽ ở nhà đảm nhiệm công việc nội trợ.
Thứ tư, vật chất – ý thức và quan niệm về cuộc sống không hôn nhân
Theo quan niệm của giới trẻ, độc thân hạnh phúc là một sự lựa chọn hướng
đến chất lượng cuộc sống thoải mái, hạnh phúc trên những phương diện và giá 13
trị cuộc sống khác, ngoài thú vui của mối quan hệ hôn nhân đem lại. Việc kết
hôn muộn hay độc thân đang là lựa chọn của nhiều bạn trẻ nhằm hướng đến một
lối sống tập trung cho những đam mê công việc, phát triển bản thân và nuôi
dưỡng thời gian cho ba mẹ, bạn bè.
Điều này góp phần làm rõ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Khi những
yếu tố như định kiến giới, gánh nặng tài chính khiến cho giới trẻ mất dần niềm
tin vào hôn nhân và tình yêu.
Nhiều người, đặc biệt là các thế hệ trước, tin rằng đây là một sự phát triển
xấu. Song, không thể phủ nhận rằng những người có tư tưởng sống độc thân
không hôn nhân, gia đình vẫn còn chiếm tỷ lệ khá ít trong xã hội hiện tại. Đồng
thời, sự phát triển này cũng đem lại không ít lợi ích cho xã hội. Cụ thể, con
người khi được tự do trong việc lựa chọn hôn nhân và tương lai của bản thân sẽ
khiến bản thân cá nhân đó được hạnh phúc, đó là điều kiện để cá nhân đó có thể
phát triển bản thân và trở thành những con người có đóng góp lớn cho xã hội. KẾT LUẬN
Trong bài tiểu luận này, tác giả đã phân tích mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức và từ đó liên hệ với quan niệm về hôn nhân ở giới trẻ. Từ đó
nhận định rằng quan niệm hôn nhân ở thế hệ trẻ hiện nay đang phát triển theo xu
hướng chú trọng tính bình đẳng, sự tự do và tự nguyện giữa các cá thể trong
cuộc hôn nhân. Đây là một sự phát triển đã được dự đoán từ trước và đem lại
nhiều lợi ích trong xã hội. Song, sự tự do mù quáng đã dẫn đến tình trạng tôn
sùng sự tự do trong tình dục ở lớp trẻ hiện nay. Đó là một tư tưởng lệch lạc và để
lại nhiều hậu quả khôn lường cho xã hội. Qua đó, tác giả cho rằng cần giáo dục,
tuyên truyền về vấn đề hôn nhân cũng như nhấn mạnh về trách nhiệm của mỗi
cá thể trong mối quan hệ hôn nhân. Từ đó, thế hệ trẻ sẽ có cái nhìn toàn diện
hơn về vấn đề này cũng như ý thức được trách nhiệm của bản thân trong mối
quan hệ hôn nhân. Theo đó, thanh niên trẻ tuổi sẽ có đủ khả năng đưa ra quyết
định của bản thân trong vấn đề hôn nhân mà không để lại hậu quả xấu đến xã hội. 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị) (2021), NXB Chính trị quốc gia Sự thật 2.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2015), Thế kỷ XXI và những
biến động xung quanh vấn đề hôn nhân và gia đình ở Việt Nam,
http://philosophy.vass.gov.vn/Chinh-Tri-Xa-Hoi/The-ky-XXI-va-nhung-
bien-dong-xung-quanh-van-de-hon-nhan-va-gia-dinh-o-Viet-Nam-26.0 3.
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (2015), Quan niệm của
Ph.Ăngghen về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong tác phẩm “Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”,
http://philosophy.vass.gov.vn/triet-hoc-mac-lenin/Quan-niem-cua-
Phangghen-ve-tinh-yeu-hon-nhan-va-gia-dinh-trong-tac-pham-Nguon-
goc-cua-gia-dinh-cua-che-do-tu-huu-va-cua-nha-nuoc-59.0.html 4.
Tạp chí Mặt trận Việt Nam (2018), Những giá trị lý luận và thực tiễn từ
quan điểm của C.Mác về hôn nhân và gia đình,
http://tapchimattran.vn/nghien-cuu/nhung-gia-tri-ly-luan-va-thuc-tien-tu-
quan-diem-cua-cmac-ve-hon-nhan-va-gia-dinh-12890.html 5.
Tịnh Anh (2016), Tuổi trẻ, Giới trẻ nghĩ gì về hôn nhân?
https://cuoituan.tuoitre.vn/gioi-tre-the-gioi-nghi-gi-ve-hon-nhan- 1131136.htm 6.
Ngọc Quỳnh (2020), Phụ nữ Thủ đô, Người trẻ đang làm gì với hôn nhân?
https://baophunuthudo.vn/hon-nhan-gia-dinh/nguoi-tre-dang-lam-gi-voi- hon-nhan-79569.html 15 7.
Hoài Thu, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Thành phố Hồ Chí
Minh, Quan niệm của giới trẻ về tình dục ngày càng thoáng.
http://dansohcm.gov.vn/tin-tuc/thu-vien-tai-lieu/truyen-thong-suc-khoe-
sinh-san-va-cac-bien-phap-tranh-thai/1129/quan-ni%E1%BB%87m-c
%E1%BB%A7a-gi%E1%BB%9Bi-tr%E1%BA%BB-v%E1%BB%81-
tinh-d%E1%BB%A5c-ngay-cang-thoang/
8. Tuấn Anh (2020), Báo Pháp luật Việt Nam, Cảnh báo tình trạng trẻ vị
thành niên quan hệ tình dục sớm.
https://baophapluat.vn/canh-bao-tinh-trang-tre-vi-thanh-nien-quan-he- tinh-duc-som-post329116.html
9. Hồng Minh (2019), Báo Pháp luật Việt Nam, Giới trẻ nhận thức tiến bộ về bình đẳng giới.
https://baophapluat.vn/gioi-tre-nhan-thuc-tien-bo-ve-binh-dang-gioi- post301685.html
10. James Neill (2011), The Origins and Role of Same-Sex Relations in Human Societies, McFarland.
11. Lm Nguyễn Hữu Thy (2012), Những suy tư đúng đắn về hôn nhân và gia
đình Công giáo, Trung tâm Mục Vụ CGVN Giáo phận Trier, CHLB Đức.
12. Phạm Gia Cường (2021), Ban tuyên giáo Trung ương, Các yếu tố ảnh
hưởng đến giá trị gia đình.
https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/xa-hoi/cac-yeu-to-anh-huong-den- gia-tri-gia-dinh-135640
13. Vụ gia đình, Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị gia đình, hôn nhân đối với
thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay.
http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/cac-yeu-to-anh-huong-den-gia-tri-gia-dinh-
hon-nhan-doi-voi-the-he-tre-viet-nam-hien-nay/
14. PGS, TS. Trần Thị Minh Thi (2020), tạp chí cộng sản, Những biến đổi
của gia đình Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị chính sách. 16
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816
737/nhung-bien-doi-cua-gia-dinh-viet-nam-hien-nay-va-mot-so-khuyen- nghi-chinh-sach.aspx
15. GS Lê Thi (2009), Hoàn cảnh tìm hiểu bạn đời và quyết định kết hôn của thế hệ trẻ hiện nay.
http://ifgs.vass.gov.vn/journal/Tap-chi-Nghien-cuu-Gia-dinh-va-Gioi--
ban-tieng-Viet-/So-3---2009.html
16. Paul Ratner (2019), What young people around the world want most in a partner.
https://bigthink.com/the-present/what-young-people-want-most-in- partner/ 17