Phân tích mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945.
Tháng 10/ 1930 sau khi Luận cương ra đời, được sự ủng hộ của Quốc tế cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
lOMoAR cPSD| 45562685
Đề: Anh/chị hãy phân tích mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ của cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945.
Trong giai đoạn 1930 – 1945, vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ được xem là hai nhiệm vụ
quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời năm
1930, hai nhiệm vụ này đã được xác định rõ ràng trong Chính cương vắn tắt của Đảng được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Hồ Chí Minh khởi thảo. Chính cương đã xác định rõ
con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Trong Luận cương chính trị được thông qua tại Hội nghị
lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (10 - 1930) cũng đã chỉ ra các bước tiến triển
của cách mạng Việt Nam là: Trong lúc đầu sẽ là cuộc cách mạng tư sản dân quyền tiếp sau đó
sẽ tiếp tục đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Như vậy hai nhà lãnh đạo lỗi lạc
của Việt Nam là Hồ CHí Minh và Trần Phú đều nhấn mạnh hai nhiệm vụ quan trọng của cách
mạng Việt Nam là "tư sản dân quyền cách mạng" (cách mạng giải phóng dân tộc, đánh đổ thực
dân, đế quốc) và "thổ địa cách mạng" (cách mạng dân chủ, chống phong kiến). Tuy nhiên, hai
nhiệm vụ này lại được các nhà lãnh đạo xác định khác nhau: nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ
nào làm sau? hay cùng làm một lúc? Tất cả những câu hỏi này cũng là sự trăn trở, tư duy
không ngừng của các nhà lãnh đạo Việt Nam thời kì đó - nó cũng thể hiện sự nhận thức từng
bước của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với những điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam qua từng thời kì.
Sự khác nhau giữa Chính cương và Luận cương đã thể hiện tư duy phản biện trong Đảng,
không chấp nhận quan điểm một chiều. Quan điểm của Hồ Chí Minh trong Chính cương nhấn
mạnh nhiệm vụ dân tộc làm trước, nhiệm vụ dân chủ làm sau. Với quan điểm này Hồ Chí Minh
đã kêu gọi và tập hợp hầu hết các tầng lớp nhân dân đứng về phía công nông để thực hiện
cuộc cách mạng dân tộc nhân dân. Nhưng quan điểm của Trần Phú trong Luận cương lại
ngược lại: nhấn mạnh nhiệm vụ dân chủ, sau mới thực hiện nhiệm vụ dân tộc. Vì thế Trần Phú
mới chỉ thấy được vai trò của lực lượng đấu tranh chính là lực công nông mà chưa thấy hết vai
trò của các lực lượng khác trong xã hội.
Tháng 10/ 1930 sau khi Luận cương ra đời, được sự ủng hộ của Quốc tế cộng sản, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông dương và Trần Phú, cao trào Xô Viết Nghệ tĩnh đã nổ ra - cao trào là điển hình
của việc thực hiện nhiệm vụ dân chủ, công nông kéo lên đập phá chính quyền tại địa phương ở
một vai huyện như Thanh Chương, Nghệ An. Sau khi giành được huyện lị trong thời gian ngắn,
quan lại phong kiến địa phương được sự hậu thuẫn của thực dân pháp đã dành lại huyện lị
nhanh chóng và tiến hành cuộc đàn áp đẫm máu lực lượng cách mạng của chúng ta.
Năm 1932 - 1935 là giai đoạn khủng bố trắng của địch, Đảng cộng sản non trẻ của chúng ta bị
đàn áp và tiêu diệt trên trên tất cả các miền của Tố quốc. Nhưng thời điểm này Đảng Cộng sản
Đông Dương tiếp tục nhiệm vụ dân chủ với ngọn cở "Trí, phú, địa, hào đào tận gốc chốc tận rễ"
- đây tiếp tục là một sai lầm khi đặt nhiệm vụ dân chủ trước nhiệm vụ dân tộc vì "nước mất thì nhà tan".
Giai đoạn cuối 1935 Đảng ta đã cố gắng phục hồi các tổ chức đảng và bình tĩnh để đưa ra
những lựa chọn sáng suốt hơn cho cách mạng Việt Nam.
Giai đoạn 1936 - 1939 được coi là giai đoạn nhận thức mới của Đảng. Đảng bắt đầu nhìn nhận
2 nhiệm vụ này trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Thời điểm này: đảng ta xác định:
nhiệm vụ dân tộc hay nhiệm vụ dân chủ, nhiệm vụ nào làm trước, nhiệm vụ nào làm sau đều
được miễn là phải phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam tại thời điểm đó. Vì vậy
cao trào 1926 - 1939 là cao trào đòi dân chủ dân sinh, tiếp tục thực hiện dân chủ nhưng lại là
sự lựa chọn vô cùng đúng đắn trong giai đoạn này khi đời sống của nhân dân VN quá khổ cực.
Thực dân Pháp bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933, dẫn tới chúng đổ hết mọi
hậu quả của khủng hoảng lên nhân dân Việt Nam, chúng còn bắt bớ người dân Việt Nam đi
làm bia đỡ đạn cho chúng. Vì vậy việc biểu tình đưa lời thỉnh cầu dân nguyện, đấu tranh nghị
trường, đấu tranh công khai, nửa hợp pháp... hoàn toàn là những phương pháp đấu tranh dân
chủ, công khai, tuy không triệt để nhưng lại cần thiết tại thời điểm này - nhằm mục đích củng cố
sức dân, động viên tinh thần người dân, chờ đợi cuộc chiến lớn hơn sau đó.
Giai đoạn 1939 - 1945 là giai đoạn thay đổi hoàn toàn chiến lược cách mạng Việt Nam từ cách
mang dân chủ sang cách mạng dân tộc. Lần đầu tiên chúng ta chính thức giương cao ngọn cờ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Quá trình đổi mới này cũng không diễn ra ngay lập tức mà có
sự nhận thức khá đầy đủ toàn diện của Đảng thông quan Hội nghị Trung ương 6, 7, 8. Cuối
cùng chúng ta xác định: Một là giương cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng dân tộc lên hàng đầu;
Hai là, thành lập mặt trận Việt minh để tập hợp lực lượng; Ba là chuẩn bị lực lượng vũ trang và
căn cứ địa cách mạng. Đến đây sự nhận thức của Đảng về nhiệm vụ dân tộc và nhiệm dân chủ
dân chủ đã tương đối rõ ràng, đã thấy được đâu là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Từ đây cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của chúng ta chính thức phát triển lên một tâm cao mới
và nhiệm vụ dân chủ chỉ chính thức hoàn thành khi chúng ta tiến hành thành công cuộc cách
mạng tháng Tám năm 1946 (Xoá bỏ chế độ phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà) và cuộc cách mạng dân tộc của chúng ta chỉ chính
thức thành công khi chúng đảnh đuổi đế quốc Mỹ năm 1975.