lOMoARcPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----
-----
BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ BÀI
LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG THỰC TIỄN ĐỜI
SỐNG CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn
:
TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ và tên sinh viên
:
Phạm Nguyễn Thảo Nguyên
Mã sinh viên
: 11224833
Lớp học phần
:
LLNL1105(122)_
24
Hà Nội - 2022
lOMoARcPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----
-----
BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
ĐỀ BÀI
LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG THỰC TIỄN ĐỜI
SỐNG CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn
:
TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ và tên sinh viên
:
Phạm Nguyễn Thảo Nguyên
Mã sinh viên
: 11224833
Lớp học phần
:
LLNL1105(122)_
24
Hà Nội - 2022
lOMoARcPSD| 44985297
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................... 1
NỘI DUNG CHÍNH ............................................................... 3
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC ....................................................... 3
1.1. Quan điểm về vật chất và ý thức...................................... 3
1.1.1. Vật chất là gì? ............................................................ 3
1.1.2. Ý thức là gì? ............................................................... 7
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ............................. 10
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
duy vật siêu hình ............................................................... 10
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ...... 10
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận chung ......................... 14
PHẦN 2: LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ
Ý THỨC TRONG CUỘC SỐNG CỦA THANH NIÊN
HIỆNNAY ............................................................................. 15
KẾT LUẬN............................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................20
lOMoARcPSD| 44985297
1
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
LỜI MỞ ĐẦU
Tiến lên chủ nghĩa hội mục tiêu cách mạng lớn lao nhất
quan trọng nhất của Đảng và nhân dân ta, vì chỉ có thực hiện được mục
tiêu này, chúng ta mới thể xây dựng được một nước Việt Nam
theo cách nói của chủ tịch Hồ Chí Minh là: "dân giàu, nước mạnh,
hội công bằng, dân chủ, văn minh". Để phân tích một cách thật chính
xác những đặc điểm của nước ta, thì Đảng ta đã áp dụng chủ nghĩa Mác
- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh để m được quy luật định ra đường lối,
phương châm cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa sao cho phù hợp.
Triết học Mác - nin trang bcho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học, giúp con người
phát triển duy khoa học. Những nguyên và quy luật bản của
phép biện chứng duy vật, của chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng của
Triết học Mác - Lênin nói chung sự phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của hiện thực khách quan. Trong
Triết học Mác - nin đề cập đến quan niệm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng vvật chất, ý thức mối quan hgiữa vật chất ý thức.
Ta thấy rằng vật chất ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn. Thanh niên, mà
đặc biệt là sinh viên tầng lớp người chủ nhân tương lai của đất nước, là
lớp tri thức trẻ được thụ hưởng tri thức khoa học hiện đại tiến bộ nên
việc giáo dục để hình thành một lối sống tốt cùng quan trọng. Bằng
việc vận dụng một cách hiệu quả mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
ý thức sgiúp cho thanh niên thêm nhiều kiến thức, sự hiểu biết
da dạng, phẩm chất tốt, định hướng nghề nghiệp hiệu quả, từ đó hoàn
thiện bản thân hơn nữa, để trở thành một công dân tốt, ích cho gia
đình và hội - đó hình thức đầu bản nhất cho một đất nước
vững mạnh. Từ quá trình học tập, mỗi người sẽ áp dụng được những
kiến thức thuyết vào hoạt động thực tiễn cuộc sống, cống hiến sức
mạnh, duy của bản thân cho đất nước ngày một phát triển là sở để
em lựa chọn đề tài: "PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC" để từ đó vận dụng và áp vào thực tiễn lối
sống của thanh niên Việt Nam hiện nay.
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu
Trang
(23a4010661@hvnh.edu.vn)
2
lOMoARcPSD| 44985297
3
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Quan điểm về vật chất và ý thức
1.1.1. Vật chất là gì?
a. Quan niệm của ch nghĩa duy vật trước Mác. Cuộc khủng
hoảng Khoa học tự nhiên thế giới quan Triết học cuối TK XIX đầu
TK XX.
Các quan niệm về vật chất của các nchnghĩa duy vật chủ
nghĩa duy tâm trước Mác đều mắc phải những sai lầm hạn chế nhất
định.
Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại cho rằng vật chất một hay một
số chất, tức quy vật chất về những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn
tại thế giới bên ngoài, chẳng hạn nước (Thales), lửa (Heraclitus), Ngũ
hành, Tứ đại,...
Chủ nghĩa duy vật thời cận đại đã có bước bứt phá ở phương Tây,
coi vật chất nguyên tử, từ một trường phái nay đã được khoa học
chứng minh, không n phỏng đoán, đây các nhà duy vật cận đại
cho rằng nguyên tnhỏ nhất không phân chia được. Đặc biệt,
những thành công diệu của Niu-tơn trong vật học khi nghiên cứu
cấu tạo và thuộc tính của các vật thể vật chất - bắt đầu tính từ
nguyên tử càng làm cho quan niệm ấy được củng cố. Niu-tơn nói rằng
vật chất lượng chất chứa trong vật, tức vật chất đồng nhất với khối
lượng vật chất không thay đổi. Song, do chưa thoát khỏi phương
pháp duy siêu ghình nên nhìn chung các nhà triết học duy vật cận đại
đã không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn.
Cho đến cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, các thành tựu khoa học
tự nhiên ra đời, điển hình như năm 1895, Rơn-ghen phát hiện ra tia X.
Năm 1896, Béccơren phát hiện hiện tượng phóng xạ của nguyên tố
Urani. Năm 1897, Tôm-xơn phát hiện ra điện tử. Từ đó đưa ra kết luận
rằng, nguyên tử không phải nhỏ nhất, thbị phân chia.
Cùng với đó là sự khẳng định khối lượng có thể thay đổi, khi vào năm
1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử thay đổi
theo vận tốc của nó. Năm 1905, Thuyết Tương đối hẹp 1916, Thuyết
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu
Trang
(23a4010661@hvnh.edu.vn)
4
Tương đối Tổng quát của Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian,
thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất.
Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên,
không ít nkhoa học triết học duy vật tự phát, siêu hình đã hoang
mang, dao động, hoài nghi tính đúng dắn của chủ nghĩa duy vậy. Đẩy
họ vào một cuộc khủng hoảng như Lênin nói, thực chất của "
sự đảo lộn của những quy luật những nguyên bản, sự
thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chnghĩa duy tâm chnghĩa bất
khả tri". Từ đấy đặt ra bốn nhiệm vụ: Giúp các nhà khoa học tựu nhiên
thoát khỏi khủng hoảng; chỉ ra sai lầm của chủ nghĩa duy vật cũ; bác bỏ
luận điệu của chủ nghĩa duy tâm; phát triển chủ nghĩa duy vật dựa trên
snhững thành tựu khoa học tự nhiên mới nhất - trước hết đưa
ra quan niệm mới về vật chất.
Và Lênin đã làm được điều đó.
b. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Lênin đã dựa vào những thành tựu của khoa học đầu thế kỉ XX
kế thừa những giá trị triết học duy vật trong quá khđể nêu ra định
nghĩa đúng, bao quát được những đặc trưng bản nhất của vật chất.
Theo Lênin "Vật chất phạm trù triết học ng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tài không lệ thuộc vào cảm
giác". Từ khái niệm đó nổi lên những nội dung cơ bản sau:
"Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức,
không phụ thuộc vào ý thức". Mọi sự vật, hiện tượng đều thuộc phạm
trù của vật chất, đều các dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Nhưng
không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng đặc biệt của vật
chất. Vật chất, với tính cách vật chất, một sáng tạo thuần túy của
duy một sự trừu tượng. Chúng ta bỏ qua những sự khác nhau về
chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với cách những vật
tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất. Do đó, khác với những vật chất
nhất định và đang tồn tại, vật chất không sự tồn tại cảm tính, tức ý
thức. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ cái
"đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền
vơi việc thứ nhận đặc tính này - cái đặc tính tồn tại với cách
hiện thực khách quan, tồn tại ngoài ý thức của chúng ta". Nói cách khác,
lOMoARcPSD| 44985297
5
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
tính trừu tượng của phạm trù vật chất bắt nguồn từ sở hiện thực, do
đó không tách rời tính hiện thực cụ thể của nó. Nói đến vật chất nói
đến tất cả những đã đang hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức của
con người. Vật chất hiện thực chứ không phải vô và hiện thực
này mang tính khách quan chứ không phải hiện thực chủ quan
hội loài người là một dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Khẳng
định trên đây ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán thế giới quan
duy tâm vật học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng hoảng
thế giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới
vật chất, khám phá những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất,
không ngừng làm phong phú tri thức con người về thế giới
"Thứ hai, vật chất cái khi tác động vào các giác quan con
người thì đem lại cho con người cảm giác". Tuy nhiên không phải tất
cả sự vật, hiện tượng quá trình trong thế giới khi tác động lên giác quan
con người thì đem lại cho con người cảm giác. Trái với quan niệm
"khách quan" magn tính chất duy tâm vsự tồn tại của vật chất. V.I.
Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính của hiện thực
khách quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức
của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức luôn biểu hiện sự tồn tại hiện
thực của mình dưới dạng các thực thể. Các thực thể này do những đặc
tính bản thể luận vốn của nó, nên khi tác động vào các giác quan sẽ
đem lại cho con người cảm dạc. Mặc dù, khong phải mọi sự vật, hiện
tượng khi tác động lên giác quan của con người đều cảm giám,
cái phải trải qua dụng cụ khoa học, thậm chí có cái bằng dụng cụ khoa
học nhưng cũng chưa biết,...Song nếu tồn tại khách quan, hiện thực
ở bên ngoài, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người thì nó vẫn
là vật chất
"Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản
ánh của nó"
Chỉ một thế giới duy nhất thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo
quy luật vốn có đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại
hai hiện tượng - hiện tượng vật chất hiện tượng tinh thần. Các hiện
tượng vật chất luôn tồn tại khách quan không lệ thuộc vào các hiện
tượng tinh thần, n các hiện tượng tinh thần thì phụ thuộc lại vào thế
giới vật chất, những nội dung của chúng chẳng qua cũng chủ chép
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu
Trang
(23a4010661@hvnh.edu.vn)
6
lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại với tính
cách là hiện thực khách quan. Khi đứng trên lập trường của quan điểm
duy tâm cho rằng ý thức cái trước, đó điều bẩ khả thi, bởi sự
tồn tại của vật chất khách quan trong thế giới tự nhiên, cùng với sự
độc lập với ý thức con người, nên không thể nào ta hình thành ý thức
trước khi có sự tác động của vật chất vào giác quan con người.
Qua định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã cho thấy được cả hai
mặt vấn đề bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng, thừa
nhận trong nhận thức luận, vật chất luôn mang tính thứ nhất, cái quyết
định: vật chất quyết định sự hình thành ý thức, quyết định nội dung phản
ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức còn điều kiện để hiện
thực hóa ý thức
c. Hình thức tồn tại của vật chất
Theo Ph.Ăngghen, vận động được hiểu phương thức tồn tại của
vật chất thuộc tính cố hữu của vật chất. Vật chất vận động
không tách rời nhau, vật chất chỉ thể tồn tại bằng cách vận động
thông qua sự vận động mà biểu hiện. Các hình thức vận động luôn khác
nhau về chất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào dù trong tự nhiên hay trong
xã hội, là vật thể cùng lớn như các ngôi sao, thiên hà,... Hay vật thể
cùng nhỏ như các hạt bản, thuộc giới sinh hay hữu sinh
cũng đều tồn tại trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Đứng
yên là một biểu hiện vận động đặc biệt của vận động không bị thay đổi
về chất. Không một sự vật và hiện tượng nào có thể tạo ra chuyển động
cũng như nó sẽ không bao giờ mất đi.
Trong triết học, khi bàn về phạm trù "vật chất" thì luôn gắn liền
với việc phải bàn tới phạm trù vận động không gian thời gian. Không
gian, thời gian hình thức tồn tại của vật chất. Không gian kích
thước của không gian một vật thể chiếm giữ (dài, rộng cao)
thời gian độ dài tồn tại, mức độ tiến hóa. Nghĩa tính ba chiều của
không gian chiều dài, chiều rộng chiều cao. Tính một chiều của
thời gian chiều từ quá khứ đến tương lai. V.I. Lênin đã viết rằng:
"Trong thế giới không khác ngoài vật chất chuyển động, vật
chất vận động không thể chuyển động ngoài không gian thời gian".
Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cùng tồn tại
khách quan. Không gian và thời gian hai thuộc tính khác nhau nhưng
lOMoARcPSD| 44985297
7
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
không thể tách rời nhau của vật chất vận động. Khoa học đã chứng minh
không gian hay thời gian không giới hạn, không đâu sự ngưng
tụ hay thay đổi.
1.1.2. Ý thức là gì?
a. Nguồn gốc ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Ý thức của con người
sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử - xã hội. Vì vậy,
để hiểu đúng nguồn gốc của ý thức, cần phải xem xét trên cả hai mặt:
tự nhiên và xã hội.
Một , nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Theo những thành tựu khoa
học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, các nkhoa học đã khẳng
định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất, không phải tất cả
các dạng vất chất mà chỉ là một dạng vật chất có tổ chức cao, chính
bộ não của con người. Óc người khí quan vật chất của ý thức. Ý thức
chức năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người dựa
trên sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não. Ý thức không tự sinh
ra trong bộ óc là kết quả phản ánh sự tác động của thế giới bên ngoài
vào bộ não người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường
ý thức không thể tách rời bộ óc. Nếu não nguời bị tổn thương một
phần hay toàn bộ thì hoạt động của ý thức cũng bị ảnh hưởng theo. Chỉ
có con người mới ý thức, động vật bậc cao cũng không thể ý thức
được. Sự phản ánh của thế giới khách quan bằng ý thức con người
hình thức phản ánh cao nhất, hình thức đặc biệt chỉ có ở con người trên
cơ sở phản ánh tâm lý ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Các sự vật,
hiện tượng tác động lên giác quan của con người truyền những tác
động đó lên trung ương thần kinh, tức bóc, do đó con người một
hình ảnh về các sự vật đó. Như vậy, sự xuất hiện con người hình
thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan
là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Hai là, nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ.
Lao động hoạt động vật chất. Nhờ qtrình lao động vượn
người trở thành người xuất hiện não người. Lao động giúp giải phóng
con người khỏi thế giới động vật. Trong quá trình lao động, con người
buộc giới tự nhiên biến đổi, tức là buộc giới tự nhiên bộc lộ những bản
chất đặc trưng của để con người thể phát hiện. dụ ncon
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu
Trang
(23a4010661@hvnh.edu.vn)
8
người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng, tạo ra vật chất,
của cải,... thông qua giác quan, hệ thần kinh tác động vào bộ óc để
con người phân loại, qua đó nhận biết nó càng sâu sắc, do đó khả năng
phản ánh thế giới khách quan ngày càng trở nên chính xác hơn.
phương thức tồn tại bản của con người, lao động mang tính hội
đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành
viên trong hội. Từ đó, ngôn ngdần được hình thành một cách khách
quan.
Ngôn ngữ hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức,
trở thành "vỏ vật chất" của duy, là hiện thực trực tiếp của ý thức,
phương thức để ý thức tồn tại với ch sản phẩm hội - lịch
sử. Cùng với lao động, ngôn ngữ vai trò to lớn đối với sự tồn tại
phát triển của ý thức. Ngôn ngữ vừa phương tiện giao tiếp, vừa
công cụ của duy. Nhngôn ngữ, con người thể khát quát, trừu
tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ ngôn
ngữ con người thể giao tiếp trao đổi ởng, lưu giữ, kế thừa
những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội đã tích lũy được qua
các thế hệ lịch sử. Không những làm cho ý thức phát triển, mà có ngôn
ngữ, con người ngày càng thể đi sâu khám phá thế giới quan. Ý thức
một hiện ợng tính xã hội, do đó không phương tiện trao đổi
hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành phát triển
được.
Ý thức kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên,
của lịch sử trái đất, đồng thời kết quả trực tiếp của thực tiễn hội
lịch sử con người. Trong đó, nguồn gốc tự nhiên điều kiện cần, nguồn
gốc hội điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại phát triển.
Nếu chỉ nhấn mạnh mặt tự nhiên mà quên đi mặt hội, hoặc ngược lại
chỉ nhấn mạnh mặt hội quên mặt tự nhiên đều dẫn đến những
quan niệm sai lầm, phiến diện của chủ nghĩa duy tâm hoặc duy vật siêu
hình, không thể hiểu được thực chất của hiện tượng ý thức con người.
b. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy tâm do không hiểu được nguồn gốc ra đời của ý
thức nên đã những quan niệm sai lầm về bản chất của ý thức, đã
cường điệu vai trò của ý thức thái quá, trừu tượng tới mức thoát ly đời
sống hiện thực. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật siêu hình đã tầm thường
lOMoARcPSD| 44985297
9
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
hóa vai trò của ý thức, coi ý thức chỉ một dạng vật chất, hoặc chỉ
sự phản ánh gian đơn, thụ động của thế giới vật chất, tách rời thực tiễn
xã hội rất phong phú, sinh động
Tuy nhiên với chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở nhận thức
đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững thuyết phản ánh, đã
đưa ra giải khoa học về bản chất của ý thức: "Bản chất ý thức hình
ảnh chủ quan của thế giới quan, quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo
hiện thực khách quan của óc người". Thứ nhất, Lênin đưa ra: thức
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan", đây hình ảnh tinh thần
chứ không phải vật lý, đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Ý thức
là hình ảnh về thế giới khách quan, được thế giới khách quan quy định
cả về nội dung hình thức thể hiện, nhưng không y nguyên nthế
giới khách quan "nó cái vật chất được di chuyển vào đầu óc con
người cải biến đi trong đó" C.Mác. Kết quả phản ánh của ý thức
tùy thuộc nhiều yếu tố, cùng một đối tượng phản ánh nhưng các chủ th
khác nhau hay ng một chủ thể thời điểm khác thì thì ý thức sẽ
khác nhau.
Thứ hai, ý thức sự phản ánh tích cực sáng tạo hiện thực khách
quan. Nó gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Tính sáng tạo của ý thức
thể hiện trước hết khả năng phản ánh chọn lọc của nó. Xuất phát từ
nhu cầu của thực tiễn, của đời sống hội nói chung, sự phản ánh của
ý thức bao giờ cũng tập trung vào những cái cơ bản chính yếu tùy theo
yêu cầu của chủ thể phản ánh. Ý thức có thể dự đoán, đoán trước được
tương lai, thể tạo ra những ảo tưởng, hoang đường, những lúy thuyết
khoa học thuyết rất trừu tượng, tính khái quát cao. Tuy nhiên,
tính sáng táo ra ý thức sự sáng tạo ra sự phản ánh, ý thức bao giờ
cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
Ý thức n mang tính lịch sử vì nó sphản ánh nội dung của
sự phản ánh đó là do thế giới khách quan quy định, thế giới vật chất
đó luôn nằm trong quá trình vận động biến đổi phát triển không
ngừng. Vì vậy, ta khẳng định rằng: Ý thức toàn bộ những hoạt động
tinh thần của con người, là hình thức phản ánh và là phản ánh cao nhất
của thế giới vật chất, phản ánh mang tính tích cực và sáng tạo.
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu
Trang
(23a4010661@hvnh.edu.vn)
10
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu
hình
Trong lịch sử triết học, khi giải mối quan hệ vật chất - ý thức,
các nhà triết học đã phạm nhiều sai lầm chủ quan, phiến diện do không
hiểu được bản chất thực sự của vật chất ý thức. Khi nghiên cứu
tưởng triết học trong lịch sử, C.Mác đã chỉ rõ hạn chế của cả chủ nghĩa
duy vật trực quan và chủ nghĩa duy tâm
Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn của con người
đã bị trừu tượng hóa tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng
thần bí. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, sinh ra tất cả; còn thế giới vật
chất chỉ bản sao của ý thức tinh thần. Mọi con đường chủ nghĩa
duy tâm mra đều dẫn con người đến với thần học, với "đường sáng
thế". Trong thực tiễn, người duy tâm phnhận tính khách quan, cường
điệu vai trò nhân tố chủ quan, hành động bất chấp quy luật khách quan
Đối với chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hóa yéu tố vật chất,
chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định
ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được
tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực
tiễn. Do vậy, họ đã phạm sai lầm bởi thái độ "khách quan chủ nghĩa".
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a. Vật chất quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái
trước, ý thức cái sau, tức vật chất nguồn gốc của ý thức; vật chất
quyết định nội dung, bản chất và sự vận động phát triển của ý thức.
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức, vật chất
là cái có trước, ý thức là cái có sau.
Ý thức là ý thức của con người, không tách rời con người, nhưng
sự ra dời của con người cũng giới hạn, còn thế giới vật chất thì tồn
tại vĩnh viễn, vô hạn. Do đó có thể khẳng định rằng thế giới vật chất là
cái trước con người, vậy thế giới vật cht phải trước ý thức.
Con người xuất hiện trên trái đất này chỉ có lịch sử hơn cách đây 3 đến
7 triệu năm, con người người chính kết quả của một quá trình phát
triển, tiến hóa lâu dài và phức tạp của thế giới vật chất, và bản thân thế
giới vật chất vĩ mô hơn con người có lịch sử 4, 5 tỷ năm. Con người do
lOMoARcPSD| 44985297
11
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
giới tự nhiên vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc
tính của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên vật chất sinh ra.
Trong khi đó quan điểm về thế giới vật chất cùng, tận không
do ai sinh ra, cũng không ai m mất đi thế giới khách quan, chúng ta
không thể nào đếm được điểm khởi đầu cũng như dđoán được điểm
kết thúc của thế giới vật chất. Vì những lý lẽ trên, ta thấy rằng thế giới
vật chất phải trước ý thức, trụ trước trái đất, trái đất phải
trước con người, và có con người rồi mới có ý thức. Vì vậy, vai trò của
vật chất với ý thức được thể hiện ở chỗ vật chất trước, ý thức sau.
Thứ hai, vật chất quyết định đến nội dung của ý thức
Ý thức dưới bất kì hình thức nào đều là sự phản ánh chủ quan của
thế giới khách quan, đều nảy sinh trên những tiền đề vật chất nhất định.
Hay nói cách khác, thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những
quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới nội dung
của ý thức. Những yếu tố tình cảm ban đầu của con người, tình cảm gia
đình, tình cảm huyết thống cũng xuất phát từ những tiền đề vật chất.
Quan hệ vật chất mở rộng thì tình cảm của con người cũng mở rộng.
Những tri thức về thế giới, kể cả tri thức kinh nghiệm lẫn tri thức luận
cũng đều sự phản ánh những mối liên hệ, những cái vốn từ thế giới
bên ngoài. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển
của hoạt động thực tiễn cả brộng và chiều sâu động lực mạnh mẽ
nhất qyết định đến tính phong phú, đsâu sắc nội dung của duy, ý
thức con người qua các thời đại, từ mông muội đến văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Ta thấy phản ánh và sáng tạo làhai thuộc tính không tách rời nhau
trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không
phải là "chụp ảnh", "soi gương" hoặc là "phản ánh tâm lý" như con vật
chính phản ánh, tự giác, sáng tạo, tích cực thông qua thực tiễn
khách quan. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất -
đây thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn
hoạt động vật chất mang tính cải biến thế giới của con người - cũng
cơ sở để hình thành và phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người
vừa sáng tạo, vừa phản ánh, sáng tạo trong phản ánh và phản ánh để
sáng tạo
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu
Trang
(23a4010661@hvnh.edu.vn)
12
Mọi sự tồn tại và phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình
biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng
phải thay đổi theo. Trong đời sống xã hội, sự phát triển của kinh tế quy
định sự phát triển của đời sống văn hóa. hội phát triển càng cao, điều
kiện vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần sẽ ngày càng phong phú, đa
dạng. dụ, trong hội cộng sản nguyên thủy, đời sống vật chất hết
sức thấp m, thì đời sống tinh thần cũng bị giới hạn. Trong điều kiện
đó chưa thể luận, càng chưa thể có các thuyết khoa học. Khi lực
lượng sản xuất phát triển, tạo ra sự phân công giữa lao động trí óc
lao động chân tay, luận mới ra đời. dụ vận dụng trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Trước kia do không nhận
thức được rằng mọi chủ trương đường lối...đều phải dựa trên điều kiện
vật chất hiện chúng ta đã chủ trương phát triển ng nghiệp nặng,
trong khi mọi tiền đề vật chất thì chưa có. Do đó đã bị thất bại.
b. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Khẳng định vật chất quyết định ý thức nhưng chủ nghĩa Mác
không bao giờ xem thường vai trò của ý thức. Quan hệ giữa vật chất và
ý thức không phải quan hệ một chiều, là quan hệ tác động qua lại.
Ý thức tính độc lập tương đối nên sự tác động trở lại to lớn đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Điều này
được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức
sự phản ánh thế giới vật chất trong đầu óc con người, do vật chất sinh
ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. thức" một khi ra đời
thì tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất.
thức" thì thể thay đổi nhanh, chậm, hoặc đi song hành so với hiện
thực, nhưng nhìn chung thì chúng ta thấy ý thức thường thay đổi chậm
so với sự biến đổi của thế giới vật chất. .
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Bản thân ý thức tnó không trực
tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực phải tiến
hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều
do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay
thay đổi thế giới vật chất, mà nó trang bị cho con người tri thức về thực
lOMoARcPSD| 44985297
13
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác địn mục tiêu, đề ra phương
hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ,
phương tiện,...để thực hiện được mục tiêu của mình. Đặc biệt là ý thức
tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân - đây
là lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. "Vũ khí của sự phê
phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của khí, lực
lượng vật chất chỉ thể bị đánh đổ bằng lượng vật chất, nhưng lý luận
cũng sẽ trở thành lực ợng vật chất, một khi thâm nhập vào quần
chúng".
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện chỗ chỉ đạo hoạt động,
hành động của con người; ý thức thể quyết định làm cho hoạt động
cảu con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức trong việc
trang bị cho con người những hiểu biết về hiện thực khách quan thể hiện
sự tác động theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Chiều hướng tích
cực nếu ý thức phản ánh chính xác những điều kiện, hoàn cảnh khách
quan, dự báo hay tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, th
hình thành nên những luận định hướng đúng đắn các luận này
được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi
tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội.
Ngược lại, ý thức thể tác động tiêu cực khi phản ánh sai lệch,
xuyên tạc hiện thực, sẽ làm cho hoạt động của con người kém hiệu quả,
thậm chí phản tác dụng, kìm hãm, gây nguy hại cho chính bản thân con
người và hiện thực khách quan
Ví dụ 1: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt
độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản
xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công
cổ xưa.
dụ 2: Trong lịch sử loài người, những tưởng phản động đã
từng vật cản đối với sự phát triển của lịch sử. Nhiều ởng
duy tâm tôn giáo đã hạn chế năng lực thực tiễn của con người.
tưởng quyền đế quốc chủ nghĩa đã từng gây ra những cuộc
chiến tranh tàn khốc làm hao tốn biết bao sức người, sức của.
Thứ tư, xã hội chúng ta ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức
ngày càng to lớn, nhất là trong bối cảnh và thời đại ngày nay. Cụ thể
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu
Trang
(23a4010661@hvnh.edu.vn)
14
thời đại thông tin, kinh tế tri thức; thời đại của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại, khi tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri
thức khoa học, của tưởng chính trị, tưởng nhân văn hết sức quan
trọng.
Qua những điều vừa trình bày ở trên về mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể rút ra một
ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người n
sau: Mọi hoạt động của con người (cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt
động thực tiễn) đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy được
tính năng động sáng tạo của ý thức, tư tưởng, của nhân tố chủ quan của
con người và đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận chung.
Từ mối quan hệ vật chất và ý thức, Đảng đã xác định "Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng hành động theo quy luật
khách quan". Nguyên tắc khách quan yêu cầu:
Thứ nhất, khi xem xét, nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính sự vật,
phải phản ánh sự vật trungthành như vốn có, phải tôn trọng sự thật,
không được lấy ý chí chủ quan áp đặt cho sự vật. Những yêu cầu này
không phức tạp, không khó thực hiện nhưng trong thực tế nó lại rất hay
bị con người vi phạm ở những mức độ khác nhau, do đó mà không đạt
được những nhận thức đúng dẫn về sự vật hoặc không được những
chủ trương hoạt động thực tiễn phù hợp.
Thứ hai, trong nhận thức và hoạtđộng thực tiễn phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng hành động theo quy luật khách quan. Mọi mục đích
hành động, kế hoạch, chủ trương, biện pháp hànhđộng của con người
phải dựa trên việc phân tích cặn kẽ, thấu đáo hoàn cảnh thực tế khách
quan, các chủ trương chính sách của con người phải phản ánh
đượcnhững nhu cầu đã chín muồi của điều kiện thực tế, có như
vậy những chủ trương, chính sách mới ththực hiện thành công.
Mặt khác, các quy luật tự nhiên, hội, duy tồn tại khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức, thực tế chứng tỏ rằng nếu làm trái quy luật, con
người sẽ phải hứng chịu những hậu quả. Do đó, phải nhận thức các quy
luật, hành động phù hợp với quy luật.
lOMoARcPSD| 44985297
15
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
Kế đến, phát huy tính năng động chủ quan của ý thức: Ý thức,
tư tưởng,với tính năng động sáng tạo của nó có vai trò to lớn do đó cần
phát huy yếu tố tích cực của ý thức, ng nghĩa phát huy vai trò
của nhân tố con người trong hoạt động cải tạo hiện thực. Cần nâng cao
không ngừng khả năng nhận thức và vận dụng quy luật của con người.
Muốn vậy đòi hỏi con người phải tích cực học tập làm chủ các tri thức
khoa học, vận dụng các tri thức trong hoạt động thực tiễn của mình. Cần
tự giác rèn luyện nhân sinh quan cách mạng, tiến bộ để góp phần thúc
đẩy sự phát triển theo hướng tích cực, tiến bộ của xã hội.
Cuối cùng, khắc phục bệnh trì trệ, thụ động, chủ quan duy ý chí:
Trong sự vận động đa dạng của hội, xuất hiện những xu hướng cần
khắc phục và loại trừ. Xu hướng thứ nhất xu hướng bảo thủ, trì trệ,
thụ động, lại, trông chvào sự biến đổi của hiện thực, không tích cực
tự giác biến đổi hiện thực ấy. Xu hướng thứ hai xu hướng chquan
duy ý chí, không căn cứ vào thực tế khách quan để hành động lại
lấy ý muốn chủ quan, lấy tình cảm, nguyện vọng nhân làm điểm xuất
phát cho chủ trương, chính sách. Cả hai xu hướng này xét về bản chất,
đều là chủ nghĩa duy tâm trong nhận thức và hành động, đều cản trở sự
vận động của hiện thực và đều cần khắc phục trong hoạt động của con
người.
PHẦN 2: LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC TRONG CUỘC SỐNG CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY.
Thứ nhất, theo quan điểm duy vật biện chứng, vật chất quyết định
ý thức. Cho nên trong nhận thức hoạt động thực tiễn cần phải xuất
phát từ thực tế khách quan. Đầu tiên bản thân mỗi người, đặc biệt
tầng lớp thanh niên, cần phải xác đinh cho mình điều kiện khách quan
làm ảnh hưởng đến lối sống, công việc, học tập của bản thân. Hiện nay
thanh niên đang lối sống theo hai xu hướng, đó tích cực tiêu
cực.
dụ: Vật chất quyết định ý thức, cụ thể hơn đó tiền đã m
cho một bộ phận thanh niên chạy theo lối sống vật chất “Sùng bái đồng
tiền", làm tất cả để đạt được mục đích của mình bất chấp thđoạn; coi
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu
Trang
(23a4010661@hvnh.edu.vn)
16
những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong cuộc sống là tất yếu không những
không thể thiếu còn rất quan trọng hữu ích trong việc đạt mục
đích nhân. Hay về phía tích cực, thanh niên đang học tập , khi lựa
chọn ngành học phù hợp với năng lực bản thân, để thể vừa học thật
tốt chuyên ngành đó , vừa thời gian giải trí, tham gia câu lạc bộ thì
thanh niên cần đặt ra kế hoạch cụ thể, không chủ quan, trông chờ hay
lại vào cha mẹ. Như vậy chính ý thức đó của thanh niên giúp họ nâng
cao năng lực, kinh nghiệm cho nghnghiệp sau này Mặt khác, mỗi
người cần đặc biệt chú ý n trọng tính khách quan hành động theo
quy luật khách quan như tuân thủ thời gian biểu, tham gia đầy đủ các
hoạt động xã hội trường học, ở nơi làm việc, tuân thủ theo hướng dẫn
của giảng viên, của cấp trên. Ngoài ra còn cần tuân thcác quy định,
nội dung lại nơi sống, làm việc và học tập.
Chúng ta thấy rằng, ý thức chỉ đạo, hướng dẫn bản thân thanh niên
trong hoạt động thực tiễn, ý thức trạng bị cho họ tri thức, hiểu biết đúng
đắn về thực tại khách quan, về quy luật khách quan. Trên sở đó, giúp
sinh viên xác định được phương hướng, mục tiêu, lựa chọn chính xác
cho cuộc sống của minh. Như vậy, ý thức đã thể hiện stác động đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của thanh niên. Nếu một
người thanh niên nhận thức đúng, tri thức khoa học, tình cảm
cách mạng, hay nói một cách ngắn gọn: Nếu thanh niên hiện nay ý
thức đúng - th tri thức đúng, tình cảm đúng, nghị lực đúng thì
hành động của thanh niên chắc chắn sẽ đúng và đi tới thành công trong
mục tiêu mình đã đặt ra ngay từ đầu. Đó xu hướng tích cực. Nhưng
ngược lại, nếu thanh niên có ý thức sai, hiểu biết sai ,nh cảm đặt sai,
sự quyết tâm đặt không đúng lúc, đúng thời điểm, đúng chỗ thì rõ ràng
chúng ta có một cách nói khác đi, đó ý thức mà sai, nhận thức sai
thì đương nhiên hành động sai và đi tới thất bại. Đó là biểu hiện của sự
tác động tiêu cực
Thứ hai, ý thức sự c động trở lại đối với vật chất nên cần
phải phát huy tính năng động chủ quan, tức phải phát huy tính tích
cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Luôn biết cách nghiên cứu trước,
học hỏi trước, skhông ai hướng dẫn hay chỉ cho bạn cách m,
phải tự định hướng bản thân. Để xã hội ngày càng phát triển thì phải
phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa phát huy vai trò tích cực,

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----- ----- BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN ĐỀ BÀI
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG THỰC TIỄN ĐỜI
SỐNG CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Lê Thư Họ và tên sinh viên
: Phạm Nguyễn Thảo Nguyên Mã sinh viên : 11224833 Lớp học phần : LLNL1105(122)_ 24 Hà Nội - 2022 lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ----- ----- BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN ĐỀ BÀI
PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC.
LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ NÀY TRONG THỰC TIỄN ĐỜI
SỐNG CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Lê Thư Họ và tên sinh viên
: Phạm Nguyễn Thảo Nguyên Mã sinh viên : 11224833 Lớp học phần : LLNL1105(122)_ 24 Hà Nội - 2022 lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................... 1
NỘI DUNG CHÍNH ............................................................... 3
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA

VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC ....................................................... 3
1.1. Quan điểm về vật chất và ý thức...................................... 3
1.1.1. Vật chất là gì? ............................................................ 3
1.1.2. Ý thức là gì? ............................................................... 7
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ............................. 10
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
duy vật siêu hình ............................................................... 10
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ...... 10
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận chung ......................... 14
PHẦN 2: LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ
Ý THỨC TRONG CUỘC SỐNG CỦA THANH NIÊN
HIỆNNAY ............................................................................. 15

KẾT LUẬN............................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................20 lOMoAR cPSD| 44985297 LỜI MỞ ĐẦU
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cách mạng lớn lao nhất và
quan trọng nhất của Đảng và nhân dân ta, vì chỉ có thực hiện được mục
tiêu này, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước Việt Nam mà
theo cách nói của chủ tịch Hồ Chí Minh là: "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh". Để phân tích một cách thật chính
xác những đặc điểm của nước ta, thì Đảng ta đã áp dụng chủ nghĩa Mác
- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm được quy luật định ra đường lối,
phương châm cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa sao cho phù hợp.
Triết học Mác - Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm,
phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học, giúp con người
phát triển tư duy khoa học. Những nguyên lý và quy luật cơ bản của
phép biện chứng duy vật, của chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và của
Triết học Mác - Lênin nói chung là sự phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của hiện thực khách quan. Trong
Triết học Mác - Lênin có đề cập đến quan niệm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Ta thấy rằng vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn. Thanh niên, mà
đặc biệt là sinh viên tầng lớp người chủ nhân tương lai của đất nước, là
lớp tri thức trẻ được thụ hưởng tri thức khoa học hiện đại và tiến bộ nên
việc giáo dục để hình thành một lối sống tốt là vô cùng quan trọng. Bằng
việc vận dụng một cách hiệu quả mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức sẽ giúp cho thanh niên có thêm nhiều kiến thức, sự hiểu biết
da dạng, phẩm chất tốt, có định hướng nghề nghiệp hiệu quả, từ đó hoàn
thiện bản thân hơn nữa, để trở thành một công dân tốt, có ích cho gia
đình và xã hội - đó là hình thức đầu tư cơ bản nhất cho một đất nước
vững mạnh. Từ quá trình học tập, mỗi người sẽ áp dụng được những
kiến thức lý thuyết vào hoạt động thực tiễn cuộc sống, cống hiến sức
mạnh, tư duy của bản thân cho đất nước ngày một phát triển là cơ sở để
em lựa chọn đề tài: "PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC" để từ đó vận dụng và áp vào thực tiễn lối
sống của thanh niên Việt Nam hiện nay. 1
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297 Downloaded by Ho Thi Thu Trang 2 (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297 NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1. Quan điểm về vật chất và ý thức
1.1.1. Vật chất là gì?

a. Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Cuộc khủng
hoảng Khoa học tự nhiên và thế giới quan Triết học cuối TK XIX đầu TK XX.
Các quan niệm về vật chất của các nhà chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trước Mác đều mắc phải những sai lầm và hạn chế nhất định.
Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại cho rằng vật chất là một hay một
số chất, tức quy vật chất về những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn
tại ở thế giới bên ngoài, chẳng hạn nước (Thales), lửa (Heraclitus), Ngũ hành, Tứ đại,...
Chủ nghĩa duy vật thời cận đại đã có bước bứt phá ở phương Tây,
coi vật chất là nguyên tử, từ là một trường phái nay đã được khoa học
chứng minh, không còn là phỏng đoán, ở đây các nhà duy vật cận đại
cho rằng nguyên tử là nhỏ nhất và không phân chia được. Đặc biệt,
những thành công kì diệu của Niu-tơn trong vật lý học khi nghiên cứu
cấu tạo và thuộc tính của các vật thể vật chất vĩ mô - bắt đầu tính từ
nguyên tử càng làm cho quan niệm ấy được củng cố. Niu-tơn nói rằng
vật chất là lượng chất chứa trong vật, tức là vật chất đồng nhất với khối
lượng và vật chất không thay đổi
. Song, do chưa thoát khỏi phương
pháp tư duy siêu ghình nên nhìn chung các nhà triết học duy vật cận đại
đã không đưa ra được những khái quát triết học đúng đắn.
Cho đến cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, các thành tựu khoa học
tự nhiên ra đời, điển hình như năm 1895, Rơn-ghen phát hiện ra tia X.
Năm 1896, Béccơren phát hiện hiện tượng phóng xạ của nguyên tố
Urani. Năm 1897, Tôm-xơn phát hiện ra điện tử. Từ đó đưa ra kết luận
rằng, nguyên tử không phải là nhỏ nhất, mà nó có thể bị phân chia.
Cùng với đó là sự khẳng định khối lượng có thể thay đổi, khi vào năm
1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử thay đổi
theo vận tốc của nó. Năm 1905, Thuyết Tương đối hẹp và 1916, Thuyết 3
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Tương đối Tổng quát của Anhxtanh ra đời đã chứng minh: không gian,
thời gian, khối lượng luôn biến đổi cùng với sự vận động của vật chất
.
Đứng trước những phát hiện trên đây của khoa học tự nhiên,
không ít nhà khoa học và triết học duy vật tự phát, siêu hình đã hoang
mang, dao động, hoài nghi tính đúng dắn của chủ nghĩa duy vậy. Đẩy
họ vào một cuộc khủng hoảng mà như Lênin nói, thực chất của nó "
ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự
thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất
khả tri"
. Từ đấy đặt ra bốn nhiệm vụ: Giúp các nhà khoa học tựu nhiên
thoát khỏi khủng hoảng; chỉ ra sai lầm của chủ nghĩa duy vật cũ; bác bỏ
luận điệu của chủ nghĩa duy tâm; phát triển chủ nghĩa duy vật dựa trên
cơ sở những thành tựu khoa học tự nhiên mới nhất - mà trước hết là đưa
ra quan niệm mới về vật chất.
Và Lênin đã làm được điều đó.
b. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất
Lênin đã dựa vào những thành tựu của khoa học đầu thế kỉ XX và
kế thừa những giá trị triết học duy vật trong quá khứ để nêu ra định
nghĩa đúng, bao quát được những đặc trưng cơ bản nhất của vật chất.
Theo Lênin "Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tài không lệ thuộc vào cảm
giác". Từ khái niệm đó nổi lên những nội dung cơ bản sau:
"Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức,
không phụ thuộc vào ý thức". Mọi sự vật, hiện tượng đều thuộc phạm
trù của vật chất, đều là các dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Nhưng
không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng đặc biệt của vật
chất. Vật chất, với tính cách là vật chất, là một sáng tạo thuần túy của
tư duy và một sự trừu tượng. Chúng ta bỏ qua những sự khác nhau về
chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là những vật
tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất. Do đó, khác với những vật chất
nhất định và đang tồn tại, vật chất không có sự tồn tại cảm tính, tức ý
thức. V.I. Lênin nhấn mạnh rằng, phạm trù triết học này dùng để chỉ cái
"đặc tính duy nhất của vật chất mà chủ nghĩa duy vật triết học gắn liền
vơi việc thứ nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là
hiện thực khách quan,
tồn tại ngoài ý thức của chúng ta". Nói cách khác, Downloaded by Ho Thi Thu Trang 4 (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
tính trừu tượng của phạm trù vật chất bắt nguồn từ cơ sở hiện thực, do
đó không tách rời tính hiện thực cụ thể của nó. Nói đến vật chất là nói
đến tất cả những gì đã và đang hiện hữu thực sự bên ngoài ý thức của
con người. Vật chất là hiện thực chứ không phải là hư vô và hiện thực
này mang tính khách quan chứ không phải hiện thực chủ quan
Xã hội loài người là một dạng tồn tại đặc biệt của vật chất. Khẳng
định trên đây có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán thế giới quan
duy tâm vật lý học, giải phóng khoa học tự nhiên khỏi cuộc khủng hoảng
thế giới quan, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu thế giới
vật chất, khám phá những thuộc tính mới, kết cấu mới của vật chất,
không ngừng làm phong phú tri thức con người về thế giới
"Thứ hai, vật chất là cái khi tác động vào các giác quan con
người thì đem lại cho con người cảm giác". Tuy nhiên không phải tất
cả sự vật, hiện tượng quá trình trong thế giới khi tác động lên giác quan
con người thì đem lại cho con người cảm giác. Trái với quan niệm
"khách quan" magn tính chất duy tâm về sự tồn tại của vật chất. V.I.
Lênin khẳng định rằng, vật chất luôn biểu hiện đặc tính của hiện thực
khách quan của mình thông qua sự tồn tại không lệ thuộc vào ý thức
của các sự vật, hiện tượng cụ thể, tức là luôn biểu hiện sự tồn tại hiện
thực của mình dưới dạng các thực thể. Các thực thể này do những đặc
tính bản thể luận vốn có của nó, nên khi tác động vào các giác quan sẽ
đem lại cho con người cảm dạc. Mặc dù, khong phải mọi sự vật, hiện
tượng khi tác động lên giác quan của con người đều có cảm giám, có
cái phải trải qua dụng cụ khoa học, thậm chí có cái bằng dụng cụ khoa
học nhưng cũng chưa biết,...Song nếu nó tồn tại khách quan, hiện thực
ở bên ngoài, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức con người thì nó vẫn là vật chất
"Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản
ánh của nó"
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Trong thế giới ấy, theo
quy luật vốn có mà đến một thời điểm nhất định sẽ cùng một lúc tồn tại
hai hiện tượng - hiện tượng vật chất và hiện tượng tinh thần. Các hiện
tượng vật chất luôn tồn tại khách quan không lệ thuộc vào các hiện
tượng tinh thần, còn các hiện tượng tinh thần thì phụ thuộc lại vào thế
giới vật chất, những nội dung của chúng chẳng qua cũng chủ là chép 5
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
lại, chụp lại, là bản sao của các sự vật, hiện tượng đang tồn tại với tính
cách là hiện thực khách quan. Khi đứng trên lập trường của quan điểm
duy tâm mà cho rằng ý thức là cái có trước, đó là điều bẩ khả thi, bởi sự
tồn tại của vật chất là khách quan trong thế giới tự nhiên, cùng với sự
độc lập với ý thức con người, nên không thể nào ta hình thành ý thức
trước khi có sự tác động của vật chất vào giác quan con người.
Qua định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã cho thấy được cả hai
mặt vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng, thừa
nhận trong nhận thức luận, vật chất luôn mang tính thứ nhất, là cái quyết
định: vật chất quyết định sự hình thành ý thức, quyết định nội dung phản
ánh, quyết định sự biến đổi của ý thức và nó còn là điều kiện để hiện thực hóa ý thức
c. Hình thức tồn tại của vật chất
Theo Ph.Ăngghen, vận động được hiểu là phương thức tồn tại của
vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vật chất và vận động
không tách rời nhau, vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và
thông qua sự vận động mà biểu hiện. Các hình thức vận động luôn khác
nhau về chất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào dù trong tự nhiên hay trong
xã hội, là vật thể vô cùng lớn như các ngôi sao, thiên hà,... Hay vật thể
vô cùng nhỏ như các hạt cơ bản, dù thuộc giới vô sinh hay hữu sinh
cũng đều tồn tại trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Đứng
yên là một biểu hiện vận động đặc biệt của vận động không bị thay đổi
về chất. Không một sự vật và hiện tượng nào có thể tạo ra chuyển động
cũng như nó sẽ không bao giờ mất đi.
Trong triết học, khi bàn về phạm trù "vật chất" thì luôn gắn liền
với việc phải bàn tới phạm trù vận động không gian và thời gian. Không
gian, thời gian
là hình thức tồn tại của vật chất. Không gian là kích
thước của không gian mà một vật thể chiếm giữ (dài, rộng và cao) và
thời gian là độ dài tồn tại, mức độ tiến hóa. Nghĩa là tính ba chiều của
không gian là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của
thời gian là chiều từ quá khứ đến tương lai. V.I. Lênin đã viết rằng:
"Trong thế giới không có gì khác ngoài vật chất chuyển động, và vật
chất vận động không thể chuyển động ngoài không gian và thời gian".
Vật chất tồn tại khách quan, do đó không gian và thời gian cùng tồn tại
khách quan. Không gian và thời gian là hai thuộc tính khác nhau nhưng Downloaded by Ho Thi Thu Trang 6 (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
không thể tách rời nhau của vật chất vận động. Khoa học đã chứng minh
không gian hay thời gian là không có giới hạn, không ở đâu có sự ngưng tụ hay thay đổi.
1.1.2. Ý thức là gì?
a. Nguồn gốc ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Ý thức của con người
là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử - xã hội. Vì vậy,
để hiểu đúng nguồn gốc của ý thức, cần phải xem xét nó trên cả hai mặt: tự nhiên và xã hội.
Một là, nguồn gốc tự nhiên của ý thức: Theo những thành tựu khoa
học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, các nhà khoa học đã khẳng
định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất, không phải là tất cả
các dạng vất chất mà chỉ là một dạng vật chất có tổ chức cao, chính là
bộ não của con người.
Óc người là khí quan vật chất của ý thức. Ý thức
là chức năng của bộ óc người. Hoạt động có ý thức của con người dựa
trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não. Ý thức không tự sinh
ra trong bộ óc mà là kết quả phản ánh sự tác động của thế giới bên ngoài
vào bộ não người. Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường
và ý thức không thể tách rời bộ óc. Nếu não nguời bị tổn thương một
phần hay toàn bộ thì hoạt động của ý thức cũng bị ảnh hưởng theo. Chỉ
có con người mới có ý thức, động vật bậc cao cũng không thể có ý thức
được. Sự phản ánh của thế giới khách quan bằng ý thức con người là
hình thức phản ánh cao nhất, hình thức đặc biệt chỉ có ở con người trên
cơ sở phản ánh tâm lý ngày càng phát triển hoàn thiện hơn. Các sự vật,
hiện tượng tác động lên giác quan của con người và truyền những tác
động đó lên trung ương thần kinh, tức bộ óc, do đó con người có một
hình ảnh về các sự vật đó. Như vậy, sự xuất hiện con người và hình
thành bộ óc của con người có năng lực phản ánh hiện thực khách quan
là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Hai là, nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ.
Lao động là hoạt động vật chất. Nhờ có quá trình lao động và vượn
người trở thành người và xuất hiện não người. Lao động giúp giải phóng
con người khỏi thế giới động vật. Trong quá trình lao động, con người
buộc giới tự nhiên biến đổi, tức là buộc giới tự nhiên bộc lộ những bản
chất đặc trưng của nó để con người có thể phát hiện. Ví dụ như con 7
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
người sử dụng công cụ lao động tác động vào đối tượng, tạo ra vật chất,
của cải,... và thông qua giác quan, hệ thần kinh tác động vào bộ óc để
con người phân loại, qua đó nhận biết nó càng sâu sắc, do đó khả năng
phản ánh thế giới khách quan ngày càng trở nên chính xác hơn. Là
phương thức tồn tại cơ bản của con người, lao động mang tính xã hội
đã làm nảy sinh nhu cầu giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm giữa các thành
viên trong xã hội. Từ đó, ngôn ngữ dần được hình thành một cách khách quan.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất và mang nội dung ý thức,
nó trở thành "vỏ vật chất" của tư duy, là hiện thực trực tiếp của ý thức,
là phương thức để ý thức tồn tại với tư cách là sản phẩm xã hội - lịch
sử. Cùng với lao động, ngôn ngữ có vai trò to lớn đối với sự tồn tại và
phát triển của ý thức. Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp, vừa là
công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ, con người có thể khát quát, trừu
tượng hóa, suy nghĩ độc lập, tách khỏi sự vật cảm tính. Cũng nhờ ngôn
ngữ mà con người có thể giao tiếp trao đổi tư tưởng, lưu giữ, kế thừa
những tri thức, kinh nghiệm phong phú của xã hội đã tích lũy được qua
các thế hệ lịch sử. Không những làm cho ý thức phát triển, mà có ngôn
ngữ, con người ngày càng có thể đi sâu khám phá thế giới quan. Ý thức
là một hiện tượng có tính xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi
xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được.
Ý thức là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên,
của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn xã hội
lịch sử con người. Trong đó, nguồn gốc tự nhiên là điều kiện cần, nguồn
gốc xã hội là điều kiện đủ để ý thức hình thành, tồn tại và phát triển.
Nếu chỉ nhấn mạnh mặt tự nhiên mà quên đi mặt xã hội, hoặc ngược lại
chỉ nhấn mạnh mặt xã hội mà quên mặt tự nhiên đều dẫn đến những
quan niệm sai lầm, phiến diện của chủ nghĩa duy tâm hoặc duy vật siêu
hình, không thể hiểu được thực chất của hiện tượng ý thức con người.
b. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy tâm do không hiểu được nguồn gốc ra đời của ý
thức nên đã có những quan niệm sai lầm về bản chất của ý thức, đã
cường điệu vai trò của ý thức thái quá, trừu tượng tới mức thoát ly đời
sống hiện thực. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật siêu hình đã tầm thường Downloaded by Ho Thi Thu Trang 8 (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
hóa vai trò của ý thức, coi ý thức chỉ là một dạng vật chất, hoặc chỉ là
sự phản ánh gian đơn, thụ động của thế giới vật chất, tách rời thực tiễn
xã hội rất phong phú, sinh động
Tuy nhiên với chủ nghĩa duy vật biện chứng trên cơ sở nhận thức
đúng đắn nguồn gốc ra đời của ý thức và nắm vững thuyết phản ánh, đã
đưa ra lý giải khoa học về bản chất của ý thức: "Bản chất ý thức là hình
ảnh chủ quan của thế giới quan, là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo
hiện thực khách quan của óc người". Thứ nhất, Lênin đưa ra: "Ý thức
là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan", đây là hình ảnh tinh thần
chứ không phải vật lý, là đặc tính đầu tiên để nhận biết ý thức. Ý thức
là hình ảnh về thế giới khách quan, được thế giới khách quan quy định
cả về nội dung và hình thức thể hiện, nhưng nó không y nguyên như thế
giới khách quan mà "nó là cái vật chất được di chuyển vào đầu óc con
người và cải biến đi ở trong đó" C.Mác. Kết quả phản ánh của ý thức
tùy thuộc nhiều yếu tố, cùng một đối tượng phản ánh nhưng các chủ thể
khác nhau hay cùng một chủ thể mà ở thời điểm khác thì thì ý thức sẽ khác nhau.
Thứ hai, ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo hiện thực khách
quan. Nó gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội. Tính sáng tạo của ý thức
thể hiện trước hết ở khả năng phản ánh chọn lọc của nó. Xuất phát từ
nhu cầu của thực tiễn, của đời sống xã hội nói chung, sự phản ánh của
ý thức bao giờ cũng tập trung vào những cái cơ bản chính yếu tùy theo
yêu cầu của chủ thể phản ánh. Ý thức có thể dự đoán, đoán trước được
tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, hoang đường, những lúy thuyết
khoa học và lý thuyết rất trừu tượng, có tính khái quát cao. Tuy nhiên,
tính sáng táo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản ánh, vì ý thức bao giờ
cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.
Ý thức còn mang tính lịch sử vì nó là sự phản ánh và nội dung của
sự phản ánh đó là do thế giới khách quan quy định, mà thế giới vật chất
đó luôn nằm trong quá trình vận động biến đổi và phát triển không
ngừng. Vì vậy, ta khẳng định rằng: Ý thức là toàn bộ những hoạt động
tinh thần của con người, là hình thức phản ánh và là phản ánh cao nhất
của thế giới vật chất, phản ánh mang tính tích cực và sáng tạo. 9
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu
hình
Trong lịch sử triết học, khi lý giải mối quan hệ vật chất - ý thức,
các nhà triết học đã phạm nhiều sai lầm chủ quan, phiến diện do không
hiểu được bản chất thực sự của vật chất và ý thức. Khi nghiên cứu tư
tưởng triết học trong lịch sử, C.Mác đã chỉ rõ hạn chế của cả chủ nghĩa
duy vật trực quan và chủ nghĩa duy tâm
Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người
đã bị trừu tượng hóa tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng
thần bí. Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, sinh ra tất cả; còn thế giới vật
chất chỉ là bản sao của ý thức tinh thần. Mọi con đường mà chủ nghĩa
duy tâm mở ra đều dẫn con người đến với thần học, với "đường sáng
thế". Trong thực tiễn, người duy tâm phủ nhận tính khách quan, cường
điệu vai trò nhân tố chủ quan, hành động bất chấp quy luật khách quan
Đối với chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hóa yéu tố vật chất,
chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định
ý thức, phủ nhận tính độc lập tương đối của ý thức, không thấy được
tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của ý thức trong hoạt động thực
tiễn. Do vậy, họ đã phạm sai lầm bởi thái độ "khách quan chủ nghĩa".
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a. Vật chất quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có
trước, ý thức là cái có sau, tức vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất
quyết định nội dung, bản chất và sự vận động phát triển của ý thức.
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức, vật chất
là cái có trước, ý thức là cái có sau.
Ý thức là ý thức của con người, không tách rời con người, nhưng
sự ra dời của con người cũng có giới hạn, còn thế giới vật chất thì tồn
tại vĩnh viễn, vô hạn. Do đó có thể khẳng định rằng thế giới vật chất là
cái có trước con người, vì vậy thế giới vật chất phải có trước ý thức.
Con người xuất hiện trên trái đất này chỉ có lịch sử hơn cách đây 3 đến
7 triệu năm, mà con người người chính là kết quả của một quá trình phát
triển, tiến hóa lâu dài và phức tạp của thế giới vật chất, và bản thân thế
giới vật chất vĩ mô hơn con người có lịch sử 4, 5 tỷ năm. Con người do Downloaded by Ho Thi Thu Trang 10 (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
giới tự nhiên và vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc
tính của bộ phận con người - cũng do giới tự nhiên và vật chất sinh ra.
Trong khi đó quan điểm về thế giới vật chất là vô cùng, vô tận không
do ai sinh ra, cũng không ai làm mất đi thế giới khách quan, chúng ta
không thể nào đếm được điểm khởi đầu cũng như dự đoán được điểm
kết thúc của thế giới vật chất. Vì những lý lẽ trên, ta thấy rằng thế giới
vật chất phải có trước ý thức, vũ trụ có trước trái đất, trái đất phải có
trước con người, và có con người rồi mới có ý thức. Vì vậy, vai trò của
vật chất với ý thức được thể hiện ở chỗ vật chất có trước, ý thức có sau.
Thứ hai, vật chất quyết định đến nội dung của ý thức
Ý thức dưới bất kì hình thức nào đều là sự phản ánh chủ quan của
thế giới khách quan, đều nảy sinh trên những tiền đề vật chất nhất định.
Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động, phát triển theo những
quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức mới có nội dung
của ý thức. Những yếu tố tình cảm ban đầu của con người, tình cảm gia
đình, tình cảm huyết thống cũng xuất phát từ những tiền đề vật chất.
Quan hệ vật chất mở rộng thì tình cảm của con người cũng mở rộng.
Những tri thức về thế giới, kể cả tri thức kinh nghiệm lẫn tri thức lý luận
cũng đều là sự phản ánh những mối liên hệ, những cái vốn có từ thế giới
bên ngoài. Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển
của hoạt động thực tiễn cả bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ
nhất qyết định đến tính phong phú, độ sâu sắc nội dung của tư duy, ý
thức con người qua các thời đại, từ mông muội đến văn minh, hiện đại.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Ta thấy phản ánh và sáng tạo làhai thuộc tính không tách rời nhau
trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của con người không
phải là "chụp ảnh", "soi gương" hoặc là "phản ánh tâm lý" như con vật
mà chính là phản ánh, tự giác, sáng tạo, tích cực thông qua thực tiễn
khách quan. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất -
đây là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là
hoạt động vật chất mang tính cải biến thế giới của con người - cũng là
cơ sở để hình thành và phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người
vừa sáng tạo, vừa phản ánh, sáng tạo trong phản ánh và phản ánh để sáng tạo
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. 11
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Mọi sự tồn tại và phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình
biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng
phải thay đổi theo. Trong đời sống xã hội, sự phát triển của kinh tế quy
định sự phát triển của đời sống văn hóa. Xã hội phát triển càng cao, điều
kiện vật chất thay đổi thì đời sống tinh thần sẽ ngày càng phong phú, đa
dạng. Ví dụ, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, đời sống vật chất hết
sức thấp kém, thì đời sống tinh thần cũng bị giới hạn. Trong điều kiện
đó chưa thể có lý luận, càng chưa thể có các lý thuyết khoa học. Khi lực
lượng sản xuất phát triển, tạo ra sự phân công giữa lao động trí óc và
lao động chân tay, lý luận mới ra đời. Ví dụ vận dụng trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta. Trước kia do không nhận
thức được rằng mọi chủ trương đường lối...đều phải dựa trên điều kiện
vật chất hiện có mà chúng ta đã chủ trương phát triển công nghiệp nặng,
trong khi mọi tiền đề vật chất thì chưa có. Do đó đã bị thất bại.
b. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
Khẳng định vật chất quyết định ý thức nhưng chủ nghĩa Mác
không bao giờ xem thường vai trò của ý thức. Quan hệ giữa vật chất và
ý thức không phải là quan hệ một chiều, mà là quan hệ tác động qua lại.
Ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Điều này
được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức
là sự phản ánh thế giới vật chất trong đầu óc con người, do vật chất sinh
ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có quy luật vận động, phát triển riêng,
không lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. "Ý thức" một khi ra đời
thì nó có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. "Ý
thức" thì có thể thay đổi nhanh, chậm, hoặc đi song hành so với hiện
thực, nhưng nhìn chung thì chúng ta thấy ý thức thường thay đổi chậm
so với sự biến đổi của thế giới vật chất. .
Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực
tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực phải tiến
hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều
do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay
thay đổi thế giới vật chất, mà nó trang bị cho con người tri thức về thực Downloaded by Ho Thi Thu Trang 12 (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác địn mục tiêu, đề ra phương
hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ,
phương tiện,...để thực hiện được mục tiêu của mình. Đặc biệt là ý thức
tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân - đây
là lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. "Vũ khí của sự phê
phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lượng vật chất, nhưng lý luận
cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng".
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động,
hành động của con người; ý thức có thể quyết định làm cho hoạt động
cảu con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Ý thức trong việc
trang bị cho con người những hiểu biết về hiện thực khách quan thể hiện
sự tác động theo hai hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Chiều hướng tích
cực là nếu ý thức phản ánh chính xác những điều kiện, hoàn cảnh khách
quan, dự báo hay tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể
hình thành nên những lý luận định hướng đúng đắn và các lý luận này
được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi
tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội.
Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lệch,
xuyên tạc hiện thực, sẽ làm cho hoạt động của con người kém hiệu quả,
thậm chí phản tác dụng, kìm hãm, gây nguy hại cho chính bản thân con
người và hiện thực khách quan
Ví dụ 1: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt
độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản
xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công cổ xưa.

Ví dụ 2: Trong lịch sử loài người, những tư tưởng phản động đã
từng là vật cản đối với sự phát triển của lịch sử. Nhiều tư tưởng
duy tâm tôn giáo đã hạn chế năng lực thực tiễn của con người.
Tư tưởng bá quyền đế quốc chủ nghĩa đã từng gây ra những cuộc
chiến tranh tàn khốc làm hao tốn biết bao sức người, sức của.

Thứ tư, xã hội chúng ta ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức
ngày càng to lớn, nhất là trong bối cảnh và thời đại ngày nay. Cụ thể là 13
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
thời đại thông tin, kinh tế tri thức; thời đại của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Qua những điều vừa trình bày ở trên về mối quan hệ giữa vật chất
với ý thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chúng ta có thể rút ra một
ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con người như
sau: Mọi hoạt động của con người (cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt
động thực tiễn) đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, phát huy được
tính năng động sáng tạo của ý thức, tư tưởng, của nhân tố chủ quan của
con người và đồng thời chống chủ quan duy ý chí.
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận chung.
Từ mối quan hệ vật chất và ý thức, Đảng đã xác định "Đảng phải
luôn luôn xuất phát từ thực tế tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan". Nguyên tắc khách quan yêu cầu:
Thứ nhất, khi xem xét, nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính sự vật,
phải phản ánh sự vật trungthành như nó vốn có, phải tôn trọng sự thật,
không được lấy ý chí chủ quan áp đặt cho sự vật. Những yêu cầu này
không phức tạp, không khó thực hiện nhưng trong thực tế nó lại rất hay
bị con người vi phạm ở những mức độ khác nhau, do đó mà không đạt
được những nhận thức đúng dẫn về sự vật hoặc không có được những
chủ trương hoạt động thực tiễn phù hợp.
Thứ hai, trong nhận thức và hoạtđộng thực tiễn phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Mọi mục đích
hành động, kế hoạch, chủ trương, biện pháp hànhđộng của con người
phải dựa trên việc phân tích cặn kẽ, thấu đáo hoàn cảnh thực tế khách
quan, các chủ trương chính sách của con người phải phản ánh
đượcnhững nhu cầu đã chín muồi của điều kiện thực tế, có như
vậy những chủ trương, chính sách mới có thể thực hiện thành công.
Mặt khác, các quy luật tự nhiên, xã hội, tư duy tồn tại khách quan, không
phụ thuộc vào ý thức, thực tế chứng tỏ rằng nếu làm trái quy luật, con
người sẽ phải hứng chịu những hậu quả. Do đó, phải nhận thức các quy
luật, hành động phù hợp với quy luật. Downloaded by Ho Thi Thu Trang 14 (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Kế đến, là phát huy tính năng động chủ quan của ý thức: Ý thức,
tư tưởng,với tính năng động sáng tạo của nó có vai trò to lớn do đó cần
phát huy yếu tố tích cực của ý thức, cũng có nghĩa là phát huy vai trò
của nhân tố con người trong hoạt động cải tạo hiện thực. Cần nâng cao
không ngừng khả năng nhận thức và vận dụng quy luật của con người.
Muốn vậy đòi hỏi con người phải tích cực học tập làm chủ các tri thức
khoa học, vận dụng các tri thức trong hoạt động thực tiễn của mình. Cần
tự giác rèn luyện nhân sinh quan cách mạng, tiến bộ để góp phần thúc
đẩy sự phát triển theo hướng tích cực, tiến bộ của xã hội.
Cuối cùng, là khắc phục bệnh trì trệ, thụ động, chủ quan duy ý chí:
Trong sự vận động đa dạng của xã hội, xuất hiện những xu hướng cần
khắc phục và loại trừ. Xu hướng thứ nhất là xu hướng bảo thủ, trì trệ,
thụ động, ỷ lại, trông chờ vào sự biến đổi của hiện thực, không tích cực
và tự giác biến đổi hiện thực ấy. Xu hướng thứ hai là xu hướng chủ quan
duy ý chí, không căn cứ vào thực tế khách quan để hành động mà lại
lấy ý muốn chủ quan, lấy tình cảm, nguyện vọng cá nhân làm điểm xuất
phát cho chủ trương, chính sách. Cả hai xu hướng này xét về bản chất,
đều là chủ nghĩa duy tâm trong nhận thức và hành động, đều cản trở sự
vận động của hiện thực và đều cần khắc phục trong hoạt động của con người.
PHẦN 2: LIÊN HỆ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý
THỨC TRONG CUỘC SỐNG CỦA THANH NIÊN HIỆN NAY.
Thứ nhất, theo quan điểm duy vật biện chứng, vật chất quyết định
ý thức. Cho nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải xuất
phát từ thực tế khách quan. Đầu tiên bản thân mỗi người, đặc biệt là
tầng lớp thanh niên, cần phải xác đinh cho mình điều kiện khách quan
làm ảnh hưởng đến lối sống, công việc, học tập của bản thân. Hiện nay
thanh niên đang có lối sống theo hai xu hướng, đó là tích cực và tiêu cực.
Ví dụ: Vật chất quyết định ý thức, mà cụ thể hơn đó là tiền đã làm
cho một bộ phận thanh niên chạy theo lối sống vật chất “Sùng bái đồng
tiền", làm tất cả để đạt được mục đích của mình bất chấp thủ đoạn; coi 15
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong cuộc sống là tất yếu không những
không thể thiếu mà còn rất quan trọng và hữu ích trong việc đạt mục
đích cá nhân. Hay về phía tích cực, thanh niên đang học tập , khi lựa
chọn ngành học phù hợp với năng lực bản thân, để có thể vừa học thật
tốt chuyên ngành đó , vừa có thời gian giải trí, tham gia câu lạc bộ thì
thanh niên cần đặt ra kế hoạch cụ thể, không chủ quan, trông chờ hay ỷ
lại vào cha mẹ. Như vậy chính ý thức đó của thanh niên giúp họ nâng
cao năng lực, kinh nghiệm cho nghề nghiệp sau này Mặt khác, mỗi
người cần đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và hành động theo
quy luật khách quan như tuân thủ thời gian biểu, tham gia đầy đủ các
hoạt động xã hội ở trường học, ở nơi làm việc, tuân thủ theo hướng dẫn
của giảng viên, của cấp trên. Ngoài ra còn cần tuân thủ các quy định,
nội dung lại nơi sống, làm việc và học tập.
Chúng ta thấy rằng, ý thức chỉ đạo, hướng dẫn bản thân thanh niên
trong hoạt động thực tiễn, ý thức trạng bị cho họ tri thức, hiểu biết đúng
đắn về thực tại khách quan, về quy luật khách quan. Trên cơ sở đó, giúp
sinh viên xác định được phương hướng, mục tiêu, lựa chọn chính xác
cho cuộc sống của minh. Như vậy, ý thức đã thể hiện sự tác động đối
với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của thanh niên. Nếu một
người thanh niên có nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm
cách mạng, hay nói một cách ngắn gọn: Nếu thanh niên hiện nay có ý
thức đúng - có thể là tri thức đúng, tình cảm đúng, nghị lực đúng thì
hành động của thanh niên chắc chắn sẽ đúng và đi tới thành công trong
mục tiêu mình đã đặt ra ngay từ đầu. Đó là xu hướng tích cực. Nhưng
ngược lại, nếu thanh niên có ý thức sai, hiểu biết sai , tình cảm đặt sai,
sự quyết tâm đặt không đúng lúc, đúng thời điểm, đúng chỗ thì rõ ràng
chúng ta có một cách nói khác đi, đó là ý thức mà sai, nhận thức mà sai
thì đương nhiên hành động sai và đi tới thất bại. Đó là biểu hiện của sự tác động tiêu cực
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần
phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phải phát huy tính tích
cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Luôn biết cách nghiên cứu trước,
học hỏi trước, vì sẽ không có ai hướng dẫn hay chỉ cho bạn cách làm,
mà phải tự định hướng bản thân. Để xã hội ngày càng phát triển thì phải
phát huy tính năng động chủ quan, nghĩa là phát huy vai trò tích cực, Downloaded by Ho Thi Thu Trang 16 (23a4010661@hvnh.edu.vn)