lOMoARcPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO & POHE
----------------------------------------------
BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề 02: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Liên
hệ tới quan niệm hôn nhân của giới trẻ hiện nay.
Mã sinh viên : 11225647
Lớp : Digital Marketing 64D
Hà Nội, 2023
lOMoARcPSD| 44985297
LỜI MỞ ĐẦU
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới, trang
sử mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập, tự do chủ nghĩa
xã hội. Kể từ đó cho đến nay, trải qua 78 năm lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Nhà nước, đất nước Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến mới trong công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc phát triển kinh tế hội. Để đạt được những
thành công như thế, Đảng ta đã chỉ ra rằng phải lấy chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Ngày nay, triết
học đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong sự phát triển của bất hình
thái kinh tế xã hội nào. Những vấn đề của triết học nói chung, hay của mối quan
hệ giữa vật chất ý thức nói riêng chính là cơ sở, phương hướng cho các hoạt
động xây dựng và phát triển ca xã hội.
Với cách là một sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, một ng dân
của nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam, qua bài tiểu luận này, em muốn
bản thân tìm hiểu kĩ hơn về Triết học Mác-Lênin, cụ thể hơn là mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, và từ các kiến thức đó liên hệ đến lối sống của thanh niên hiện
nay để có thể phát huy những mặt tích cực và giải quyết triệt để các mặt tiêu cực
nhằm hướng đến sự phát triển tốt nhất của những “trụ cột” tương lai của đất nước.
Mặc đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, em
rất mong nhận được sự góp ý quý báu của cô để bài tiểu luận của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤCI. Lý luận ....................................... Error! Bookmark not defined.
1. Vật chất ......................................................................................................... 4
1.1. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất ................................... 4
1.2. Những phương thức tồn tại của vật chất ................................................. 5
2. Ý thức ............................................................................................................ 7
2.1. Nguồn gốc của ý thức .............................................................................. 7
2.2. Bản chất của ý thức .................................................................................. 9
2.3. Kết cấu của ý thức ................................................................................. 10
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ........................................................ 11
lOMoARcPSD| 44985297
3.1. Vật chất quyết định ý thức ..................................................................... 11
3.2. Ý thức có tính độc lập, tác động trở lại vật chất .................................... 12
II. Liên hệ thực tiễn ........................................................................................... 13
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc lựa chọn vợ hoặc
chồng. .............................................................................................................. 13
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc quyết định các vấn
đề. .................................................................................................................... 14
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc duy trì hôn nhân ........ 15
lOMoARcPSD| 44985297
4
I. Lý luận
1. Vật chất
1.1. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất
V.I. Lênin định nghĩa về vật chất như sau:
Vật chất một phạm trù triết học dùng đchỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.”
Thứ nhất, theo định nghĩa của Lênin, vật chất với cách phạm ttriết
học dùng chỉ vật chất vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không
mất đi; trái ngược hoàn toàn so với các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên
cứu đều có khối lượng, có giới hạn, có sinh ra, có mất đi để chuyển đổi thành
dạng năng lượng khác. Từ thế giới mô, ta giải ngân hà, thiên hà, hành
tinh, các ngôi sao cho đến thế giới vi mô như phân tử, nguyên tử, điện tử, hạt
nhân, hạt bản, hạt Quark, Higg, …; từ thế giới các kim loại, khí,
chất lỏng cho đến thế giới hữu những sinh thể, quan, mô, tế bào, AND,
ARN… đều những dạng cụ thể của vật chất. Ngay ý thức cũng chỉ một
thuộc tính của một vật chất sống tổ chức cao, đó bộ óc của con người.
Như vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật
chất nói chung về những dạng cụ thể ca vật chất như cách mà các nhà duy vật
trước đây đã làm.
Thứ hai, vật chất mang tính khách quan. Theo V.I. Lênin, khách quan là “cái
đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người”. Trong đời
sống hội, vật chất “theo ý nghĩa là tồn tại hội không phụ thuộc vào ý thức
hội của con người”. thnói rằng, vật chất không chỉ những thứ
con người có thể cảm nhận, nhận thức được còn bao gồm cả những thứ
chính ý thức của con người cũng chưa nhận thức được. Không chỉ vậy, dựa
vào định nghĩa ta thể thấy rằng vật chất, theo Lênin, nguồn gốc khách
quan của cảm giác, ý thức qua các phương thức nhận thức khác nhau (chép
lại, chụp lại, phản ánh…) con người nhận thức được thế giới vật chất. dụ
điển hình như là sóng điện từ, con người không thể cảm nhận được thông qua
năm giác quan của bản thân nhưng qua những phương tiện máy móc, chúng ta
chứng minh được chúng có tồn tại và độc lập khỏi nhận thức của con người.
Kết lại, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin không chỉ giải quyết được sự bế
tắc của những quan điểm trước Mác về vật chất đồng thời còn mang ý
nghĩa định hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc
các hình thức mới của vật thể trong thế giới. Không dừng lại ở đó, định nghĩa
mới này cho phép ta xác định được đâu là vật chất khi nghiên cứu về các lĩnh
vực hội, thứ sở cho các nhà khoa học luận để giải thích những
nguyên nhân của các biến cố hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động
lOMoARcPSD| 44985297
5
của phương thức sản xuất, góp phần đưa ra các phương án tối ưu để thúc đẩy
xã hội phát triển.
1.2. Những phương thức tồn tại của vật chất
a) Vận động
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chlà sự
thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp của vật chất) theo
nghĩa chung nhất, vận động mọi sự biến đổi. Ph. Ăngghen viết “Vận động
hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi mọi quá trình
diễn ra trong vụ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Khi ta định nghĩa rằng vận động mọi sự biến đổi nói chung thì vận động
phương thức tồn tại của vật chất”. Điều này nghĩa vật chất tồn tại
bằng vận động. Trong vận động và thông qua vận động các dạng vật chất
thể hiện sự tồn tại của mình.
Với tính chất thuộc tính cố hữu của vật chất”, theo quan điểm của triết
học Mác-Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ
sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất.
Quan điểm này đã được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học tự
nhiên và càng ngày những phát kiến mới của khoa học tự nhiên hiện đại càng
khẳng định quan điểm đó, điển hình thí nghiệm của Robert Brown chứng
minh được rằng mặt nước vẻ đứng yên nhưng khi quan sát các hạt
phấn hoa trong nước thì thấy chúng chuyển động không ngừng về mọi phía
cho thấy rằng các phân tử nước đã không ngừng chuyển động.
Vật chất hạn, không sinh ra, không mất đi vận động một thuộc tính
không thtách rời vật chất nên bản thân svận động cũng không thể bị mất đi
hoặc sáng tạo ra. Kết luận này của triết học Mác-Lênin đã được khẳng định
bởi định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng trong vật lý. Theo định luật,
vận động của vật chất được bảo toàn cả về mặt lượng mặt chất. Nếu một
hình thức vận động nào đó của sự vật tưởng chừng như là mất đi nhưng về mặt
bản chất sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức
vận động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thình viễn tồn tại
cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Căn cứ vào sự phát triển của thế giới vật chất cùng với những thành tự khoa
học của thời đại bấy giờ, Ph. Ăngghen đã phân chia vận động thành 5 hình
thức cơ bản: Vận động cơ học; Vận động vật lý; Vận động hóa học; Vận động
sinh học; Vận động hội. Tuy khác nhau nhưng chúng vẫn thể hiện được mối
quan hệ: Các hình thức vận động tương ứng với trình độ của kết cấu vật chất;
các hình thức vận động cao bao hàm các hình thức vận động thấp mỗi sự
vật thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau nhưng bao giờ
cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
lOMoARcPSD| 44985297
6
Dựa theo triết học Mác-Lênin, thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh
cửu của nó, thì điều đó không nghĩa phủ nhận hiện tượng đứng im của
thế giới vật chất. Ngược lại, Đứng im được định nghĩa một trạng thái đặc
biệt của vận động vận động trong cân bằng hay những tính chất của vật
chất chưa có sự biến đổi vcơ bản. Bởi vậy có thể nói: Đứng im chỉ là mang
tính tương đối và tạm thời.
Đứng im tương đối bởi hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối
quan hnhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một lúc. Ngoài
ra, đứng im chxảy ra với một hình thái vận động trong một thời điểm, chứ
không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Không chỉ vậy,
đứng im biểu thị cho sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương
đối, biểu hiện thành một svật nhất định khi còn chưa bị phân hóa
thành cái khác. Chính nhờ trạng thái đó mà xảy ra được sự chuyển hóa của sự
vật. Không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào cả; bởi vậy, đứng im
còn được biểu hiện như một quá trình vận động của svật khi còn ổn định,
chưa xảy ra biến đổi. b) Không gian, thời gian
Dựa trên cơ sở của các thành tkhoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã đưa ra rằng:
Thứ nhất, mọi khách thể vật chất nào cũng chiếm một vị trí nhất định, một kích
thước nhất định, vào một khung cảnh nhất định trong tương quan với các
khách thể khác. Hình thức tồn tại như vậy gọi là không gian
Thứ hai, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu diễn ở mức độ lâu
dài hay mau chóng, sự liên tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động.
Các hình thức tồn tại đó được gọi là thời gian
Kết hợp lại, không gian và thời gian có mối quan hệ mất thiết với nhau và gắn
liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó cho biết rằng là
không một dạng vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian thời gian.
ngược lại, không thể xảy ra việc thời gian không gian ngoài vật
chất.
Đã nhiều thành tự khoa học chứng minh cho sự đúng đắn của quan điểm
triết học duy vật biện chứng như trên. Chẳng hạn như Nikolai Lobachevsky đã
bác bỏ tư tưởng của Imanuel Kant về không gian và thời gian coi như là hình
thức của tri giác cảm tính ngoài kinh nghiệm. Không chỉ vậy, đặc biệt thuyết
tương đối của nhà vật lý học Albert Einstein đã xác nhận rằng, không gian và
thời gian không tự tồn tại, tách rời vật chất nằm trong mối liên hqua
lại phổ biến không thể phân chia.
Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất cơ bản sau đây:
lOMoARcPSD| 44985297
7
Tính khách quan, không gian thời gian thuộc tính của vật chất tồn tại
với mối quan hệ mật thiết với nhau gắn liên với vật chất. Bởi vậy, vật
chất tồn tại khách quan nên không gian và thời gian cũng phải đảm bảo được
yếu tố đó.
Tính vĩnh cửu tận, không gian thời gian không tận cùng về bất
kì một phía nào cả, xét trên cả các khía cạnh từ quá khứ đến tương lai, từ phía
trước đến phía sau, từ bên trái sang bên phải, từ bên trên xuống bên dưới.
Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, rộng cao), còn thời gian chỉ có
một chiều (từ quá khứ tới tương lai). Mặc chúng ta khái niệm “không
gian nhiều chiều” nhưng nó chỉ mang tính chất là một công cụ toán học hỗ trợ
trong quá trình nghiên cứu chứ không phải để chỉ không gian thực.
2. Ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
a) Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học
thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức không phải nguồn
gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật chất như các nhà thần học
duy tâm khách quan đã khẳng định ý thức một thuộc tính của vật chất,
nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ một thuộc tính của một
dạng vật chất tổ chức cao bộ óc con người. Bộ óc người quan vật
chất của ý thức ý thức đóng vai trò chức năng của bộ óc con người,
phụ thuộc vào hoạt động của óc người, vì thế cho nên khi bộ óc bị tổn thương
thì các hoạt động của ý thức sẽ diễn ra không bình thường. Như vậy, không thể
tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc, ý thức không thể diễn ra khi tách
rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc con người.
Chi tiết hơn, bộ óc con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi
phức tạp bao gồm khoảng 14-15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này sự
liên hệ với nhau với các giác quan tạo nên số mối liên hệ thu nhận,
điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các
phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Quá trình ý thức và qtrình sinh
trong bộ óc không đồng nhất, không tách rời, không song song mà là hai mặt
của một quá trình sinh lý thần kinh mang nội dung ý thức.
Trong quá trình tiến hóa của thế giời vật chất, các vật thể càng ở bậc cao bao
nhiêu thì hình thức phản ánh của càng phức tạp bấy nhiêu (phản ánh là sự
tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất ngày hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại của chúng; là thuốc tính phổ biến trong
mọi dạng vật chất). Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự
nhiên sinh những phản ánh vật lý, hóa học mang tính chất thụ động, chưa
định hướng sự lựa chọn. Cao hơn nữa đó phản ánh sinh học đặc trưng
lOMoARcPSD| 44985297
8
cho giới tự nhiên sống. được biểu hiện thông qua tính ch thích, tức
phản ứng trả lời trước những tác động của môi trường bên ngoài ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng. Không chỉ vậy, tính cảm ứng,
tính nhạy cảm đối với sthay đổi của môi trường cũng một đặc tính của
phản ánh sinh học. Ngoài ra, khi hthần kinh trung ương xuất hiện thì hình
thức phản ánh là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức vì nó mới chỉ là
sự phản ánh tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh thể
do quy luật sinh học chi phối.
Vì điều đó, có thể nói rằng, ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế
giới hiện thực, ý thức chỉ xuất hiệngiai đoạn phát triển cao nhất của thế giới
vật chất cùng với sự xuất hiện của con người và chỉ ý thức con người nằm
trong con người và không thể tách rời con người.
Như vậy, ý thức bắt nguồn từ mt thuộc tính của vật chất: phản ánh và ra đời
như là kết quả của việc phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất.
Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh.
Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Mặc dù bộ óc
người quan phản ánh, song chỉ mỗi bộ óc thì chưa thể ý thức
phải qua sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan thì hoạt động ý
thức mới có thể xảy ra.
Tựu chung lại, bộ óc người (cơ quan phản ánh vthế giới vật chất xung
quanh) cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc đó nguồn gốc tự
nhiên của ý thức
b) Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng,
song không thể thiếu được điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức
những tiền đề, nguồn gốc hội. Ý thức được hình thành cùng quá trình bộ óc
con người thông qua lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Lao động quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những
sản phẩm phục vụ cho những nhu cầu của mình, quá trình con người đóng
góp vai trò môi giới, điều tiết giám sát trong sự trao đổi giữa người tự
nhiên. Lao động điều kiện quan trọng để con người tồn tại, là điểm khác biệt
khiến con người tác rời khỏi giới động vật; nhờ lao động con người bắt
được giới tnhiên thay đổi để phục tùng những nhu cầu của mình. Chính thông
qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người thể
phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Như vậy, thông qua việc chủ động thay đổi, cải tạo thế giới khách quan của
con người mà ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có
được bên ngoài làm quá trình con người lao động làm biến đổi thế giới xung
quanh. Vì thế thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức tưởng, hoặc
lOMoARcPSD| 44985297
9
nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào
đầu óc con người trong quá trình lao động của con người.
Lao động không xuất hiện trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu đã mang tính
tập thể hội. vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm nhu cầu trao đổi
tưởng cho nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó đòi hỏi phải có một phương tiện
để việc trao đổi trở nên thuận tiện hơn. Và vì thế, ngôn ngữ được ra đời.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Đó là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nhờ ngôn ngữ con người
tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Ý thức không phải thuần túy là hiện tượng nhân hiện
tượng xã hội do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì
ý thức không thể hình thành và phát triển.
Tổng kết lại, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời phát
triển của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là
một hiện tượng xã hội.
2.2. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở luận phản ánh: về bản chất,
coi ý thức sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo; ý thức hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan.
Để hiểu được bản chất của ý thức, đầu tiên, chúng ta thừa nhận rằng cả vật
chất ý thức sự khác nhau mang tính đối lập: ý thức sphản ánh còn
vật chất cái được phản ánh. Cái được phản ánh vật chất tồn tại khách
quan, ngoài và độc lập với cái phản ánh tức ý thức. Còn cái phản ánh – tức
ý thức hiện thực chủ quan, hình ảnh phản chiếu chủ quan của thế giới
khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề và bị cái khách quan quy định. Vì
vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được vật chất với ý thức.
Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, thì đó
không phải hình ảnh mang tính vật hay tâm lý động vật về sự vật mà nó
mang tính năng động, ng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội bởi
ý thức là của con người, của một thực thể xã hội năng động sáng tạo, được ra
đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới.
Bởi vì ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho
nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người quá trình năng
động sáng tạo thống nhất ba mặt như sau:
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều, định hướng, chọn lọc các thông tin cần
thiết.
lOMoARcPSD| 44985297
10
Thứ hai, hình hóa đối tượng trong tư duy dưới hình ảnh tinh thần. Về mặt
bản chất, đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa:
hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Cuối cùng, chuyển hình tduy hiện thực khách quan, tức quá trình
hiện thực hóa tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành
cái thực tại, biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất
ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn áp dụng những
phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan
nhằm thực hiện mục đích của mình.
Kết lại, ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền
với những hoạt động thực tiễn, bị chi phối bởi không chỉ quy luật sinh học mà
còn là quy luật xã hội. Bởi vậy, ý thức mang bản chất xã hội.
2.3. Kết cấu của ý thức
Trước hết, ta cần nhận thức được rằng ý thức một hiện tượng tâm
hội kết cấu rất phức tạp. nhiều cách tiếp cận đến kết cấu của ý thức
nhưng tại đây, chúng ta chỉ xét theo các yếu tố hợp thành theo chiều sâu
của nội tâm.
a) Theo các yếu tố hợp thành
Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức,
tình cảm, lý trí, niềm tin, ý chí … trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Tri thức kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực,
làm tái hiện trong tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy
diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống hiệu khác.
Tri thức đóng vai trò cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế hội ngày
nay. Dựa vào những thành tựu của khoa học công nghệ kinh tế trở nên ngày
càng phát triển theo hướng dài hạn. Nhờ vào tri thức mà các nhà kinh tế thể
dự đoán được hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế để những phương
thức duy trì sự phát triển hoặc những biện pháp để ngăn cản, suy giảm mối
nguy hại của việc suy thoái.
Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại
xung quanh và đối với bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của
sự phản ánh thực tại; phản ánh quan hệ của con người đối với nhau, cũng
như đối với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của
con người giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con
người. Tình cảm thể mang cả sắc thái cảm xúc tích cực lẫn tiêu cực. Khi
trạng thái tình cảm tích cực diễn ra sẽ là động lực giúp nâng cao năng lực hoạt
động sống của con người. Sự kết hợp giữa tri thức với tình cảm sẽ hình thành
nên niềm tin, nâng cao ý chí ca con người, đóng vai trò quan trọng trong việc
lOMoARcPSD| 44985297
11
hiện thực hóa những ý tưởng thành hành động thực tế, phát huy được sức mạnh
của mình.
b) Theo chiều sâu của nội tâm
Dựa theo chiều sâu của nội tâm, ý thức bao gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức
Tự ý thức là ý thức, một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng là ý thức
về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy,
con người tự nhận thức được về bản thân như một thực thể hoạt động có cảm
giác, tư duy, hành vi đạo đức vị trí trong xã hội. Những cảm giác
cảu con người về chính bản thân trên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng
trong việc hình thành tý thức. Chính trong quan hhội, trong thực tiễn
hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do con người tạo ra, con
người phải tự ý thức về mình để nhận bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân
theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tiềm thức những tri thức chủ thể đã được từ trước nhưng đã gần
như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể,
ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức thể chủ động gây ra các
hoạt động tâm và nhận thức chủ thể không cần kiếm soát chung một
cách trực tiếp. Tiềm thức đóng vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm
hàng ngày của con người lẫn cả trong tư duy khoa học. Tiềm thức giúp giảm
sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin
tức diễn ra một cách lặp lại liên tục vẫn đảm bảo được chất lượng cũng như
độ chặt chẽ cần thiết.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành
vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa
struyền tin bên trong, chưa sự kiểm tra, tính toán của trí. thức
biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ,
thôi miên, trực giác … Mỗi hiện tượng ấyvùng hoạt động riêng, có vai trò,
có chức năng riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải tỏa những
ức chế trong hoạt động thần kinh vượt vưỡng, nhất những ham muốn bản
năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng
đồng. Vô thức đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng các hoạt động tinh
thần của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3.1. Vật chất quyết định ý thức
Ý thức nguồn gốc từ tự nhiên lẫn nguồn gốc hội. Trong đó, xét về nguồn
gốc tự nhiên của ý thức là thuộc tính của bộ óc con người (vật chất), hoạt động
phụ thuộc vào bộ óc con người dưới sự tác động của thế giới bên ngoài, thế
giới khách quan (vật chất). Không chỉ vậy, xét về nguồn gốc xã hội, lao động
(hoạt động tác động vào thế giới khách quan) ngôn ngữ (hệ thống tín hiệu
lOMoARcPSD| 44985297
12
vật chất mang nội dung ý thức) quyết định sự ra đời phát triển của ý thức.
vậy, khi xét về nguồn gốc, ý thức nguồn gốc sâu xa từ vật chất nên vật
chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
Xét về nội dung của ý thức, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Hiện thực khách quan là một phần của vật chất
còn tính sáng tạo của ý thức được thể hiện trên cơ sở những cái đã có trước để
tạo ra những tiên báo, dự đoán, những ảo tưởng phong phú, những giả thuyết
mang tính trừu tượng khái quát cao. vậy, vật chất là nguồn gốc, quyết
định ý thức. Chính vì điều đó, khi thế giới khách quan thay đổi hay quá trình
biến đổi của vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi.
Và cuối cùng, vai trò của vật chất với ý thức trong đời sống xã hội được biểu
hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống
tinh thần. Trong thực tiễn, sự phát triển của kinh tế sẽ kéo theo đó là sự phát
triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì cũng kéo theo đó là đời sống
tinh thần cũng thay đổi theo.
Ví dụ: Để tiến xa hơn công việc, môi trường làm việc, mức đãi ngộ của công
ty hay cả chính những người lãnh đạo trực tiếp đóng một vai trò vô cùng quan
trọng từ đó chúng ta xuất hiện suy nghĩ về việc tìm hiểu về những điều
đó trước khi đi xin việc hoặc để đưa ra phong cách giao tiếp và làm việc phù
hợp (Vật chất quyết định ý thức).
3.2. Ý thức có tính độc lập, tác động trở lại vật chất
Ý thức tính độc lập việc: khi thế giới khách quan thay đổi, song hành với
đó sthay đổi của ý thức, tuy vậy nhưng sự thay đổi đó lại không phụ thuộc
vào tốc độ thay đổi của vật chất thường thay đổi chậm hơn so với thế giới
vật chất.
Thông qua các hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể làm biến đổi
những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, tác động lên thế giới vật chất theo hai
hướng: thúc đẩy, phát triển hoặc là m hãm, triệt tiêu. Dưới stác động của ý
thức con người xác định được các phương hướng hành động trước mọi hiện
tượng của thế giới vật chất cùng với nỗ lực ý chí của bản thân, con người
thể thực hiện được các mục tiêu đề ra, đây ý thức thể quyết định làm
cho con người hoạt động đúng thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc
thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức hoàn toàn thể khiến cho con người
có những hành động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách
quan.
Ví dụ: Khi chúng ta những suy nghĩ về việc muốn một tương lai tốt hơn
khi không phải băn khoăn về những khoản thu chi, điều đó thúc đẩy chúng ta
lOMoARcPSD| 44985297
13
bắt tay vào để cải thiện bản thân, cải thiện công việc để gia tăng lợi nhuận (Ý
thức tác động lại vật chất).
II. Liên hệ thực tiễn
Mối quan hệ giữa vật chất ý thức đóng một vai trò quan trọng trong việc
định hình quan niệm hôn nhân của giới trẻ hiện nay.
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc lựa chọn vợ hoặc chồng.
Hiện nay, trong những khảo sát của các nghiên cứu về các tiêu chí thiết yếu
nhất trong việc lựa chọn đi đến hôn nhân, xây dựng gia đình của người trẻ hiện
nay, tình yêu vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất đối với họ (chiếm khoảng 91,4% lựa
chọn) bên cạnh những tiêu chí khác như tính cách, thể trạng, công việc, thu
nhập. Như vậy, thế hệ trẻ ngày nay không quá đề cao các vấn đề vật chất như
ngoại hình, tính cách, gia thế... mà quan tâm hơn vào các yếu tố cảm xúc của
bản thân nhiều hơn.
Nếu như ngày xưa, việc kết hôn chịu ảnh hưởng tsự lựa chọn của cha mẹ
dẫn đến việc các yếu tố về vật chất như gia thế, tài chính, công việc là những
điểm then chốt đlựa chọn vợ/chồng. Bậc bề trên quan niệm rằng, việc chọn
bạn đời những lợi thế vcác yếu tố trên sẽ giúp cho cuộc hôn nhân, cuộc
sống của đôi bên vơi bớt đi khó khăn, bền chặt, hạnh phúc. Tuy nhiên trên thực
tiễn, những đôi vợ chồng kết hôn dựa trên những điều kiện vật chất lại cho
thấy là những người không tìm được hạnh phúc trong hôn nhân. Điều này xảy
ra bởi vì hạnh phúc của hôn nhân được quyết định bởi sự thấu hiểu, đồng điệu
giữa hai tâm hồn chứ không phải từ giá trị vật chất. Hai người đến với nhau,
tạo thành hôn nhân không trải qua quá trình tìm hiểu, hẹn hò thì khó thể
trở thành bạn đời bởi họ chỉ bị ràng buộc với nhau qua giấy tờ sống với
nhau như một nghĩa vụ.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện này, những quan niệm sống cũng như suy nghĩ
đã dần dần thay đổi và trở nên tích cực hơn. Đối với vấn đề hôn nhân, các bậc
cha mẹ không còn những người quyết định trở thành người cố vấn đưa
ra lời khuyên cho con cái của họ. Nhờ vào đó, những người trẻ được tự do tìm
hiểu lựa chọn bạn đời của mình. Qua việc tìm hiểu sâu sắc về đối phương
cũng như việc tự nhận thức được xem bản thân và đối phương có phù hợp đế
tiến tới một mối quan hệ lâu dài. Đây chính chìa khóa cho một cuộc hôn
nhân bền chặt, bởi trong kết cấu của ý thức, tri thức đóng vai trò quan trọng
hơn cả
Tuy vậy, các yếu tố vật chất khách quan không có nghĩa là không quan trọng
trong việc lựa chọn bạn đời của người trẻ hiện nay. Mặc dù tình cảm là yếu t
then chốt song nếu không thể đảm bảo được các yếu tố vvật chất như công
việc, tài chính, sức khỏe… thì cũng khó thể bền chặt được. Từ việc thiếu
những yếu tố vật chất, dần dần sẽ dẫn tới những xung đột về mặt tình cảm và
rồi sẽ bắt đầu có những hoài nghi về sự bền chặt trong mối quan hệ khi không
lOMoARcPSD| 44985297
14
thể đáp ứng được những điều kiện thiết yếu giữa hai bên. Bởi vậy, lựa chọn
những người phù hợp với bản thân vnhững điều kiện vật chất cũng là tiền đ
cho một tình yêu vững bền.
Tóm lại, tình yêu chính là yếu tố hàng đầu cho việc lựa chọn đối tượng để đi
đến hôn nhân của giới trẻ hiện nay, tuy nhiên bên cạnh đó họ cũng sẽ xu
hướng lựa chọn những người cùng điều kiện với mình đtìm hiểu yêu
đương.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc quyết định các vấn đề.
Trong một gia đình, tồn tại rất nhiều vấn đề cần phải quyết định thường
người đưa ra những quyết định đó lại gắn liền với yếu tố vật chất.
Theo quan niệm xưa, người đàn ông người trụ cột trong gia đình bởi một
phần họ được thể trạng tốt hơn so với người phụ nữ nên được phép tham
gia vào càng hoạt động khoa cử, vinh quanh danh vọng; gia đình đều phụ thuộc
vào người đàn ông. Ngược lại, người phụ nữ không tiếng nói trong gia đình,
phụ thuộc chịu sự sắp đặt của cha mẹ, chồng và con trai phải nhất nhất
tuân theo các quyết định, quy định người đàn ông đặt ra. Điều này cho thấy
rằng, vật chất chính là yếu tố quyết định địa vị của một người trong hôn nhân
gia đình; trong tay nguồn thu nhập ổn định sẽ giúp cho bản thân tiếng
nói và được quyền tham gia vào các quyết định quan trọng.
Việc tài chính, công việc quyết định địa vị của một người trong hôn nhân gia
đình thì vẫn đúng với cuộc sống ngày nay. Trong gia đình, những người tạo ra
thu nhập sđược coi những người hiểu biết hơn bởi hđiều kiện ra
ngoài mở mang kiến thức, mở mang các mối quan hệ. Ngược lại, những người
bị lệ thuộc vào thu nhập của đối phương sẽ thường chỉ quanh quẩn nhà và
làm những công việc nội trợ, ít điều kiện ra ngoài để tiếp xúc, học hỏi
nếu chỉ qua tivi, sách báo; nhưng bản thân họ cũng khó còn đủ sức cho
việc trau dồi bản thân sau một ngày hoàn thành đủ công việc nhà. Chính
vậy, đối với việc đưa ra quyết định, những người tạo ra được thu nhập sẽ
những quyết định đúng đắn và hợp hơn so với những người lệ thuộc vào thu
nhập của người khác.
Chính vì quan niệm này, đa số những người trẻ hiện nay đều có xu hướng sẽ
ổn định công việc trước khi tiến tới hôn nhân. Việc một công việc ổn định
giúp họ sẽ không quá nhiều chênh lệch với đối phương về trình độ, hiểu
biết, vấn đề về chi tiêu cũng sẽ thoải mái hơn quan trọng nhất vẫn được
bình đẳng quyền được đưa ra quyết định cho các vấn đề trong gia đình. một
thực tế được đưa ra rằng, các nội trợ hiện đại thay chỉ chú tâm vào mỗi
công việc nhà thì họ thường tự tạo cho mình một nguồn kiếm thêm thu nhập
với suy nghĩ rằng họ có thể có được tiếng nói trong nhà. Và quả thật đúng n
vậy, điều này giúp cho cả hai bên đều sẽ được nêu ra ý kiến, quan điểm của
mình, khiến cho họ cảm thấy được đối phương tôn trọng.
lOMoARcPSD| 44985297
15
Tóm lại, trong hôn nhân gia đình, yếu tố tài chính cũng không kém phần quan
trọng bên cạnh tình yêu, nó quyết định đến tiếng nói của một người trong các
vấn đề của gia đình và cũng là một yếu tố để duy trì hạnh phúc.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc duy trì hôn nhân.
Trong tất cả mọi vấn đề về hôn nhân gia đình, giữ gìn được hạnh phúc luôn
vấn đề khó khăn nhất, đòi hỏi rất nhiều sự cố gắng nỗ lực từ cả hai bên. Đây
chính vấn đề nhiều người trẻ chưa thực sự hiểu và làm được, khiến
cho tỷ lệ ly hôn ở các cặp vợ chồng trẻ đang có xu hướng ngày một tăng cao.
Trước hết, nguyên nhân của đa số các vụ ly hôn ở các cặp vợ chồng trẻ hiện
nay đến từ sự vội vàng kết hôn khi tình yêu đang thời điểm nồng cháy
chưa thực sự hiểu hết về hoàn cảnh sống, lối sống, quan điểm sống của nhau.
Chính sự vội vàng ấy đã dẫn đến rất nhiều hệ luỵ sau khi họ về chung sống với
nhau. Những rung cảm mãnh liệt của tình yêu khiến họ xa rời đi cái nhìn thực
tế về một tương lai trong hôn nhân sẽ cần phải duy trì bởi nhiều yếu tố chứ
không phải chỉ mỗi tình yêu. Tình cảm chỉ một loại rung động biểu thị
thái độ, và theo nnghiên cứu thì tình cảm chỉ có thể kéo dài khoảng hơn hai
năm rưỡi. Việc kết hôn chỉ dựa vào tình yêu dành cho đối phương khiến các
cặp đôi khi về chung sống sẽ bị “vỡ mộng” khi người bạn đời của mình
những cách sống, suy nghĩ hoàn toàn khác với khi yêu. Lâu dần, sẽ dẫn tới
xung đột, cãi vã và cuối cùng đi đến quyết định ly hôn. Điều thực sđể duy
trì hôn nhân không chỉ đơn thuần tình yêu còn phải sự hiểu biết về
nhau, chấp nhận được con người của nhau thông cảm, sẻ chia với nhau.
Chính vậy, sống thử trước hôn nhân chính một xu hướng nên được ủng
hộ phổ biến hơn giới trẻ đtránh tình trạng vội vã kết hôn, vội vàng ly
hôn hướng tới một xu thế hôn nhân bền vững.
Không chỉ vậy, vấn đvkinh tế cũng là một trong những do phổ biến cho
việc ly hôn sau thời gian chung sống ngắn ngủi của giới trẻ. Sự không đồng
đều về thu nhập hoặc người việc, kẻ thất nghiệp cũng dễ khiến vợ chồng
nảy sinh xung đột, bất hòa trong giải quyết nghĩa vụ, đóng góp chi tiêu. Khi
một người phải trở thành người chu cấp cho một người khác, họ sẽ xu hướng
coi người kia trở thành “gánh nặng” hoặc “kẻ dụng”, đem họ so sánh với
vợ hoặc chồng của những người xung quanh. Không chỉ vậy, với một sngười
khi trở thành người lệ thuộc vào người khác, họ sẽ những cảm xúc tti,
chán nản. Từ đó, tình yêu cũng sẽ dần dần phai nhạt, thay vào đó những cảm
xúc tiêu cực như cáu gắt, bực bội, không thể dung hoà được mối quan hệ, bầu
không khí ấm áp của gia đình được thay bằng sự ngột ngạt. Cuối cùng, khi
những mâu thuẫn tích tụ lâu ngày như “giọt nước tràn ly” chỉ có thể được giải
thoát bằng việc vào đơn ly hôn. Qua đây, việc ổn định công việc hoặc tìm
một người cùng điều kiện tài chính với mình để kết hôn cũng làm giảm
thiểu đi các vấn đề mâu thuẫn tài chính, tuy nhiên vẫn không thể tránh được
những phát sinh trong cuộc sống, quan trọng nhất vẫn phải cùng nhau sẻ
lOMoARcPSD| 44985297
16
chia gánh nặng, có thời gian để trao đổi giữa hai vợ chồng thì mới có thể vượt
qua được những xung đột.
Không chỉ dừng lại đó, những xung đột với gia đình của bạn đời cũng
một nguyên nhân mà rất nhiều cặp đôi đã không thể duy trì được hôn nhân lâu
thêm nữa. Nổi bật nhất vẫn chính là mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu.
Mẹ chồng là đại diện thế hệ trước, họ được giáo dục trong một môi trường đề
cao tính truyền thống, mang trong mình những suy nghĩ, định kiến của thời đại
cũ. Còn những nàng dâu trẻ thì được lớn lên nuôi dạy trong một thời đại
mới khi những quan niệm, lối sống đã được thay đổi rất nhiều, xuất hiện
nhiều luồng tư tưởng mới do hội nhập quốc tế và sự phát triển tất yếu ca thời
đại. Việc hai con người được sinh ra ở hai thời đại khác nhau với những quan
điểm khác nhau thì khi sống cùng nhau dưới một mái nhà ắt sẽ nảy sinh xung
đột. Mẹ chồng cũng đã sống qua nửa đời người, cũng đã trải qua rất thăng trầm
nên họ thường cho rằng những lối sống của mình là hợp lý, đúng đắn, không
chịu thay đổi và nhất quyết bảo vệ quan niệm sống của mình; còn con dâu thì
thường có những suy nghĩ hiện đại hơn và cũng nhất nhất cho rằng cái tôi, bản
thân của mình quan trọng hơn tất cả. Hai người đó sẽ không thể nào tìm được
tiếng nói chung đối với cả hai, ý kiến của bản thân đúng; từ đó các mâu
thuẫn được sinh ra. Còn người chồng đứng giữa hai người thì cũng cùng
khó xử khi không biết sẽ nên làm điều trong tình huống này: chiều theo ý
người này thì slàm mất lòng ý của người kia. Và điều này chỉ thật sự chấm
dứt khi cả hai người đặt mình vào vtrí của người còn lại để hiểu, cảm thông
cho họ. Tuy nhiên, đa phần những xung đột giữa mẹ chồng nàng dâu dường
như không thể nào chấm dứt, chỉ tạm lắng xuống tạo thành những đợt
sóng mâu thuẫn ngầm mối quan hệ của cả hai, nhưng đến một lúc nào đó
sẽ hoàn toàn bùng nổ gây ảnh hưởng đến hôn nhân của vợ chồng. Giải pháp
thường thấy của các cặp đôi sẽ sống tách biệt với các bậc phụ huynh để tránh
cho các mâu thuẫn trầm trọng hơn. Tuy nhiên, điều đó cũng không hề khiến
người vợ người chồng trở nên thoải mái hơn, bởi từ xưa đến nay, chữ
hiếu luôn là một chuẩn mực đạo đức mà tất cả mọi người đều coi trọng, trách
nhiệm với các bậc phụ huynh vẫn còn xuất hiện đó, và điều này vô tình tạo
nên mâu thuẫn giữa vợ chồng với nhau. Người chồng thì đương nhiên sẽ
muốn gần cha mẹ để chăm sóc cho họ nhưng người vợ lại cảm thấy không
được thỏa mãn khi cuộc sống bị can thiệp quá nhiều. Dần dần, những vấn đề
này trở nên bế tắc và kết cục cũng là phải chấm dứt cuộc hôn nhân đó. Chính
vậy, khi kết hôn, việc tìm hiểu về người bạn đời của mình thôi vẫnchưa
đủ, mà còn phải tìm hiểu cả những người thân của họ, để biết được quan niệm
sống của gia đình họ liệu có phù hợp với mình hay không hoặc có thoả thuận
ngay từ đầu với người bạn đời của mình về một gia đình riêng của hai người
để hạn chế nhất những mâu thuẫn với người thân của họ.
lOMoARcPSD| 44985297
17
Tóm lại, trong đời sống hôn nhân sẽ rất nhiều những vấn đề nảy sinh, và
để duy tđược một cuộc hôn nhân hạnh phúc, đòi hỏi chúng ta phải dành thời
gian để quan tâm lẫn nhau, tìm hiểu sâu về nội tâm của người bạn đời của
mình, tránh để những mâu thuẫn trở nên quá gay gắt mà dẫn đến tan vỡ.
lOMoARcPSD| 44985297
18
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Triết học Mác-Lênin (2019)
Giáo trình Triết học Mác-Lênin (2021)

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO & POHE
---------------------------------------------- BÀI TẬP LỚN
MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề 02: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Liên
hệ tới quan niệm hôn nhân của giới trẻ hiện nay.
Họ và tên : Phạm Hồng Sơn
Mã sinh viên : 11225647
Lớp : Digital Marketing 64D Hà Nội, 2023 lOMoAR cPSD| 44985297 LỜI MỞ ĐẦU
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới, trang
sử mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa
xã hội. Kể từ đó cho đến nay, trải qua 78 năm lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước, đất nước Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến mới trong công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển kinh tế xã hội. Để đạt được những
thành công như thế, Đảng ta đã chỉ ra rằng phải lấy chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Ngày nay, triết
học đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong sự phát triển của bất kì hình
thái kinh tế xã hội nào. Những vấn đề của triết học nói chung, hay của mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức nói riêng chính là cơ sở, là phương hướng cho các hoạt
động xây dựng và phát triển của xã hội.
Với tư cách là một sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, một công dân
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua bài tiểu luận này, em muốn
bản thân tìm hiểu kĩ hơn về Triết học Mác-Lênin, cụ thể hơn là mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức, và từ các kiến thức đó liên hệ đến lối sống của thanh niên hiện
nay để có thể phát huy những mặt tích cực và giải quyết triệt để các mặt tiêu cực
nhằm hướng đến sự phát triển tốt nhất của những “trụ cột” tương lai của đất nước.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, em
rất mong nhận được sự góp ý quý báu của cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤCI. Lý luận ....................................... Error! Bookmark not defined.
1. Vật chất ......................................................................................................... 4
1.1. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất ................................... 4
1.2. Những phương thức tồn tại của vật chất ................................................. 5
2. Ý thức ............................................................................................................ 7
2.1. Nguồn gốc của ý thức .............................................................................. 7
2.2. Bản chất của ý thức .................................................................................. 9
2.3. Kết cấu của ý thức ................................................................................. 10
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức ........................................................ 11 lOMoAR cPSD| 44985297
3.1. Vật chất quyết định ý thức ..................................................................... 11
3.2. Ý thức có tính độc lập, tác động trở lại vật chất .................................... 12
II. Liên hệ thực tiễn ........................................................................................... 13
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc lựa chọn vợ hoặc
chồng. .............................................................................................................. 13
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc quyết định các vấn
đề. .................................................................................................................... 14
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc duy trì hôn nhân ........ 15 lOMoAR cPSD| 44985297 I. Lý luận 1. Vật chất
1.1. Quan niệm của triết học Mác – Lênin về vật chất

V.I. Lênin định nghĩa về vật chất như sau:
Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác
.”
Thứ nhất, theo định nghĩa của Lênin, vật chất với tư cách là phạm trù triết
học dùng chỉ vật chất vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không
mất đi; trái ngược hoàn toàn so với các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên
cứu đều có khối lượng, có giới hạn, có sinh ra, có mất đi để chuyển đổi thành
dạng năng lượng khác. Từ thế giới vĩ mô, ta có giải ngân hà, thiên hà, hành
tinh, các ngôi sao cho đến thế giới vi mô như phân tử, nguyên tử, điện tử, hạt
nhân, hạt cơ bản, hạt Quark, Higg, …; từ thế giới vô cơ là các kim loại, khí,
chất lỏng cho đến thế giới hữu cơ là những sinh thể, cơ quan, mô, tế bào, AND,
ARN… đều là những dạng cụ thể của vật chất. Ngay ý thức cũng chỉ là một
thuộc tính của một vật chất sống có tổ chức cao, đó là bộ óc của con người.
Như vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật
chất nói chung về những dạng cụ thể của vật chất như cách mà các nhà duy vật trước đây đã làm.
Thứ hai, vật chất mang tính khách quan. Theo V.I. Lênin, khách quan là “cái
đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người”. Trong đời
sống xã hội, vật chất “theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức
xã hội của con người”. Có thể nói rằng, vật chất không chỉ là những thứ mà
con người có thể cảm nhận, nhận thức được mà còn bao gồm cả những thứ mà
chính ý thức của con người cũng chưa nhận thức được. Không chỉ vậy, dựa
vào định nghĩa ta có thể thấy rằng vật chất, theo Lênin, là nguồn gốc khách
quan của cảm giác, ý thức mà qua các phương thức nhận thức khác nhau (chép
lại, chụp lại, phản ánh…) con người nhận thức được thế giới vật chất. Ví dụ
điển hình như là sóng điện từ, con người không thể cảm nhận được thông qua
năm giác quan của bản thân nhưng qua những phương tiện máy móc, chúng ta
chứng minh được chúng có tồn tại và độc lập khỏi nhận thức của con người.
Kết lại, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin không chỉ giải quyết được sự bế
tắc của những quan điểm trước Mác về vật chất mà đồng thời còn mang ý
nghĩa định hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc
các hình thức mới của vật thể trong thế giới. Không dừng lại ở đó, định nghĩa
mới này cho phép ta xác định được đâu là vật chất khi nghiên cứu về các lĩnh
vực xã hội, thứ là cơ sở cho các nhà khoa học lý luận để giải thích những
nguyên nhân của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động 4 lOMoAR cPSD| 44985297
của phương thức sản xuất, góp phần đưa ra các phương án tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2. Những phương thức tồn tại của vật chất a) Vận động
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự
thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp của vật chất) mà theo
nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Ph. Ăngghen viết “Vận động
hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình
diễn ra trong vụ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Khi ta định nghĩa rằng vận động là mọi sự biến đổi nói chung thì vận động
là phương thức tồn tại của vật chất”. Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại
bằng vận động. Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất
thể hiện sự tồn tại của mình.
Với tính chất “là thuộc tính cố hữu của vật chất”, theo quan điểm của triết
học Mác-Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ
sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất.
Quan điểm này đã được chứng minh bởi những thành tựu của khoa học tự
nhiên và càng ngày những phát kiến mới của khoa học tự nhiên hiện đại càng
khẳng định quan điểm đó, điển hình là thí nghiệm của Robert Brown chứng
minh được rằng dù mặt nước có vẻ là đứng yên nhưng khi quan sát các hạt
phấn hoa trong nước thì thấy chúng có chuyển động không ngừng về mọi phía
cho thấy rằng các phân tử nước đã không ngừng chuyển động.
Vật chất là vô hạn, không sinh ra, không mất đi và vận động là một thuộc tính
không thể tách rời vật chất nên bản thân sự vận động cũng không thể bị mất đi
hoặc sáng tạo ra. Kết luận này của triết học Mác-Lênin đã được khẳng định
bởi định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng trong vật lý. Theo định luật,
vận động của vật chất được bảo toàn cả về mặt lượng và mặt chất. Nếu một
hình thức vận động nào đó của sự vật tưởng chừng như là mất đi nhưng về mặt
bản chất sẽ nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức
vận động chuyển hóa lẫn nhau, còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại
cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Căn cứ vào sự phát triển của thế giới vật chất cùng với những thành tự khoa
học của thời đại bấy giờ, Ph. Ăngghen đã phân chia vận động thành 5 hình
thức cơ bản: Vận động cơ học; Vận động vật lý; Vận động hóa học; Vận động
sinh học; Vận động xã hội. Tuy khác nhau nhưng chúng vẫn thể hiện được mối
quan hệ: Các hình thức vận động tương ứng với trình độ của kết cấu vật chất;
các hình thức vận động cao bao hàm các hình thức vận động thấp và mỗi sự
vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau nhưng bao giờ
cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. 5 lOMoAR cPSD| 44985297
Dựa theo triết học Mác-Lênin, thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh
cửu của nó, thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận hiện tượng đứng im của
thế giới vật chất. Ngược lại, Đứng im được định nghĩa là một trạng thái đặc
biệt của vận động – vận động trong cân bằng hay là những tính chất của vật
chất chưa có sự biến đổi về cơ bản. Bởi vậy có thể nói: Đứng im chỉ là mang
tính tương đối và tạm thời.
Đứng im là tương đối bởi vì hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối
quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi mối quan hệ cùng một lúc. Ngoài
ra, đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một thời điểm, chứ
không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Không chỉ vậy,
đứng im biểu thị cho sự vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương
đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó còn là nó chưa bị phân hóa
thành cái khác. Chính nhờ trạng thái đó mà xảy ra được sự chuyển hóa của sự
vật. Không có đứng im tương đối thì không có sự vật nào cả; bởi vậy, đứng im
còn được biểu hiện như một quá trình vận động của sự vật khi còn ổn định,
chưa xảy ra biến đổi. b) Không gian, thời gian
Dựa trên cơ sở của các thành tự khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đưa ra rằng:
Thứ nhất, mọi khách thể vật chất nào cũng chiếm một vị trí nhất định, một kích
thước nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan với các
khách thể khác. Hình thức tồn tại như vậy gọi là không gian
Thứ hai, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn được biểu diễn ở mức độ lâu
dài hay mau chóng, ở sự liên tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động.
Các hình thức tồn tại đó được gọi là thời gian
Kết hợp lại, không gian và thời gian có mối quan hệ mất thiết với nhau và gắn
liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó cho biết rằng là
không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời gian.
Và ngược lại, không có thể xảy ra việc thời gian và không gian ở ngoài vật chất.
Đã có nhiều thành tự khoa học chứng minh cho sự đúng đắn của quan điểm
triết học duy vật biện chứng như trên. Chẳng hạn như Nikolai Lobachevsky đã
bác bỏ tư tưởng của Imanuel Kant về không gian và thời gian coi như là hình
thức của tri giác cảm tính ngoài kinh nghiệm. Không chỉ vậy, đặc biệt là thuyết
tương đối của nhà vật lý học Albert Einstein đã xác nhận rằng, không gian và
thời gian không tự nó tồn tại, tách rời vật chất mà nằm trong mối liên hệ qua
lại phổ biến không thể phân chia.
Như vậy, không gian và thời gian có những tính chất cơ bản sau đây: 6 lOMoAR cPSD| 44985297
Tính khách quan, không gian và thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại
với mối quan hệ mật thiết với nhau và gắn liên với vật chất. Bởi vậy, vì vật
chất tồn tại khách quan nên không gian và thời gian cũng phải đảm bảo được yếu tố đó.
Tính vĩnh cửu và vô tận, không gian và thời gian không có tận cùng về bất
kì một phía nào cả, xét trên cả các khía cạnh từ quá khứ đến tương lai, từ phía
trước đến phía sau, từ bên trái sang bên phải, từ bên trên xuống bên dưới.
Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, rộng và cao), còn thời gian chỉ có
một chiều (từ quá khứ tới tương lai). Mặc dù chúng ta có khái niệm “không
gian nhiều chiều” nhưng nó chỉ mang tính chất là một công cụ toán học hỗ trợ
trong quá trình nghiên cứu chứ không phải để chỉ không gian thực. 2. Ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức

a) Nguồn gốc tự nhiên
Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh lý học
thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý thức không phải có nguồn
gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật chất như các nhà thần học
và duy tâm khách quan đã khẳng định mà ý thức là một thuộc tính của vật chất,
nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ là một thuộc tính của một
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người.
Bộ óc người là cơ quan vật
chất của ý thức và ý thức đóng vai trò là chức năng của bộ óc con người, nó
phụ thuộc vào hoạt động của óc người, vì thế cho nên khi bộ óc bị tổn thương
thì các hoạt động của ý thức sẽ diễn ra không bình thường. Như vậy, không thể
tách rời ý thức ra khỏi hoạt động của bộ óc, ý thức không thể diễn ra khi tách
rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc con người.
Chi tiết hơn, bộ óc con người là một tổ chức sống đặc biệt có cấu trúc tinh vi
và phức tạp bao gồm khoảng 14-15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này có sự
liên hệ với nhau và với các giác quan tạo nên vô số mối liên hệ thu và nhận,
điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài qua các
phản xạ không điều kiện và có điều kiện. Quá trình ý thức và quá trình sinh lý
trong bộ óc không đồng nhất, không tách rời, không song song mà là hai mặt
của một quá trình sinh lý thần kinh mang nội dung ý thức.
Trong quá trình tiến hóa của thế giời vật chất, các vật thể càng ở bậc cao bao
nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy nhiêu (phản ánh là sự
tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất ngày ở hệ thống vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại của chúng
; là thuốc tính phổ biến trong
mọi dạng vật chất). Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới tự
nhiên vô sinh là những phản ánh vật lý, hóa học mang tính chất thụ động, chưa
có định hướng sự lựa chọn. Cao hơn nữa đó là phản ánh sinh học đặc trưng 7 lOMoAR cPSD| 44985297
cho giới tự nhiên sống. Nó được biểu hiện thông qua tính kích thích, tức là
phản ứng trả lời trước những tác động của môi trường bên ngoài có ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình trao đổi chất của chúng. Không chỉ vậy, tính cảm ứng,
tính nhạy cảm đối với sự thay đổi của môi trường cũng là một đặc tính của
phản ánh sinh học. Ngoài ra, khi có hệ thần kinh trung ương xuất hiện thì hình
thức phản ánh là tâm lý. Tâm lý động vật chưa phải là ý thức vì nó mới chỉ là
sự phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp của sinh lý cơ thể và
do quy luật sinh học chi phối.
Vì điều đó, có thể nói rằng, ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế
giới hiện thực, ý thức chỉ xuất hiện ở giai đoạn phát triển cao nhất của thế giới
vật chất cùng với sự xuất hiện của con người và chỉ có ý thức con người nằm
trong con người và không thể tách rời con người.
Như vậy, ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất: phản ánh và ra đời
như là kết quả của việc phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất.
Nội dung của ý thức là thông tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh.
Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Mặc dù bộ óc
người là cơ quan phản ánh, song chỉ có mỗi bộ óc thì chưa thể có ý thức mà
phải qua sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan thì hoạt động ý
thức mới có thể xảy ra.
Tựu chung lại, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung
quanh) cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức
b) Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng,
song không thể thiếu được điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là
những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức được hình thành cùng quá trình bộ óc
con người thông qua lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những
sản phẩm phục vụ cho những nhu cầu của mình, là quá trình con người đóng
góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi giữa người và tự
nhiên. Lao động là điều kiện quan trọng để con người tồn tại, là điểm khác biệt
khiến con người tác rời khỏi giới động vật; nhờ lao động mà con người bắt
được giới tự nhiên thay đổi để phục tùng những nhu cầu của mình. Chính thông
qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người có thể
phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Như vậy, thông qua việc chủ động thay đổi, cải tạo thế giới khách quan của
con người mà ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có
được ở bên ngoài làm quá trình con người lao động làm biến đổi thế giới xung
quanh. Vì thế có thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng, hoặc 8 lOMoAR cPSD| 44985297
nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào
đầu óc con người trong quá trình lao động của con người.
Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu nó đã mang tính
tập thể xã hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi tư
tưởng cho nhau xuất hiện. Chính nhu cầu đó đòi hỏi phải có một phương tiện
để việc trao đổi trở nên thuận tiện hơn. Và vì thế, ngôn ngữ được ra đời.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Đó là hệ
thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Nhờ ngôn ngữ mà con người
tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Ý thức không phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là hiện
tượng xã hội do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì
ý thức không thể hình thành và phát triển.
Tổng kết lại, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là
một hiện tượng xã hội.
2.2. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận phản ánh: về bản chất,
coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một
cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Để hiểu được bản chất của ý thức, đầu tiên, chúng ta thừa nhận rằng cả vật
chất và ý thức có sự khác nhau mang tính đối lập: ý thức là sự phản ánh còn
vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh – vật chất – tồn tại khách
quan, ở ngoài và độc lập với cái phản ánh tức ý thức. Còn cái phản ánh – tức
ý thức – là hiện thực chủ quan, là hình ảnh phản chiếu chủ quan của thế giới
khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề và bị cái khách quan quy định. Vì
vậy, không thể đồng nhất hoặc tách rời cái được vật chất với ý thức.
Thứ hai, khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, thì đó
không phải là hình ảnh mang tính vật lý hay tâm lý động vật về sự vật mà nó
mang tính năng động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn xã hội bởi
ý thức là của con người, của một thực thể xã hội năng động sáng tạo, được ra
đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới.
Bởi vì ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho
nên quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng
động sáng tạo thống nhất ba mặt như sau:
Thứ nhất, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi
này mang tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết. 9 lOMoAR cPSD| 44985297
Thứ hai, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới hình ảnh tinh thần. Về mặt
bản chất, đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã
hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Cuối cùng, chuyển mô hình từ tư duy hiện thực khách quan, tức quá trình
hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành
cái thực tại, biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất
ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con người lựa chọn và áp dụng những
phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách quan
nhằm thực hiện mục đích của mình.
Kết lại, ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền
với những hoạt động thực tiễn, bị chi phối bởi không chỉ quy luật sinh học mà
còn là quy luật xã hội. Bởi vậy, ý thức mang bản chất xã hội.
2.3. Kết cấu của ý thức
Trước hết, ta cần nhận thức được rằng ý thức là một hiện tượng tâm lý – xã
hội có kết cấu rất phức tạp. Có nhiều cách tiếp cận đến kết cấu của ý thức
nhưng tại đây, chúng ta chỉ xét theo các yếu tố hợp thành và theo chiều sâu của nội tâm.
a) Theo các yếu tố hợp thành
Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức,
tình cảm, lý trí, niềm tin, ý chí … trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực,
làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy
và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.
Tri thức đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội ngày
nay. Dựa vào những thành tựu của khoa học công nghệ mà kinh tế trở nên ngày
càng phát triển theo hướng dài hạn. Nhờ vào tri thức mà các nhà kinh tế có thể
dự đoán được hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế để mà có những phương
thức duy trì sự phát triển hoặc những biện pháp để ngăn cản, suy giảm mối
nguy hại của việc suy thoái.
Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại
xung quanh và đối với bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của
sự phản ánh thực tại; nó phản ánh quan hệ của con người đối với nhau, cũng
như đối với thế giới khách quan. Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của
con người và giữ một vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của con
người. Tình cảm có thể mang cả sắc thái cảm xúc tích cực lẫn tiêu cực. Khi
trạng thái tình cảm tích cực diễn ra sẽ là động lực giúp nâng cao năng lực hoạt
động sống của con người. Sự kết hợp giữa tri thức với tình cảm sẽ hình thành
nên niềm tin, nâng cao ý chí của con người, đóng vai trò quan trọng trong việc 10 lOMoAR cPSD| 44985297
hiện thực hóa những ý tưởng thành hành động thực tế, phát huy được sức mạnh của mình.
b) Theo chiều sâu của nội tâm
Dựa theo chiều sâu của nội tâm, ý thức bao gồm: tự ý thức, tiềm thức, vô thức
Tự ý thức là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng là ý thức
về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy,
con người tự nhận thức được về bản thân như một thực thể hoạt động có cảm
giác, có tư duy, có hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác
cảu con người về chính bản thân trên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng
trong việc hình thành tự ý thức. Chính trong quan hệ xã hội, trong thực tiễn xã
hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do con người tạo ra, con
người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều chỉnh bản thân
theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần
như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể,
là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
Do đó, tiềm thức có thể chủ động gây ra các
hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiếm soát chung một
cách trực tiếp. Tiềm thức đóng vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý
hàng ngày của con người lẫn cả trong tư duy khoa học. Tiềm thức giúp giảm
sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin
tức diễn ra một cách lặp lại liên tục mà vẫn đảm bảo được chất lượng cũng như
độ chặt chẽ cần thiết.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành
vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa
có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Vô thức
biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ,
thôi miên, trực giác … Mỗi hiện tượng ấy có vùng hoạt động riêng, có vai trò,
có chức năng riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là giải tỏa những
ức chế trong hoạt động thần kinh vượt vưỡng, nhất là những ham muốn bản
năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống cộng
đồng. Vô thức đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng các hoạt động tinh thần của con người.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3.1. Vật chất quyết định ý thức

Ý thức có nguồn gốc từ tự nhiên lẫn nguồn gốc xã hội. Trong đó, xét về nguồn
gốc tự nhiên của ý thức là thuộc tính của bộ óc con người (vật chất), hoạt động
phụ thuộc vào bộ óc con người dưới sự tác động của thế giới bên ngoài, thế
giới khách quan (vật chất). Không chỉ vậy, xét về nguồn gốc xã hội, lao động
(hoạt động tác động vào thế giới khách quan) và ngôn ngữ (hệ thống tín hiệu 11 lOMoAR cPSD| 44985297
vật chất mang nội dung ý thức) quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức.
Vì vậy, khi xét về nguồn gốc, ý thức có nguồn gốc sâu xa từ vật chất nên vật
chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.

Xét về nội dung của ý thức, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Hiện thực khách quan là một phần của vật chất
còn tính sáng tạo của ý thức được thể hiện trên cơ sở những cái đã có trước để
tạo ra những tiên báo, dự đoán, những ảo tưởng phong phú, những giả thuyết
mang tính trừu tượng và khái quát cao. Vì vậy, vật chất là nguồn gốc, quyết
định ý thức.
Chính vì điều đó, khi thế giới khách quan thay đổi hay quá trình
biến đổi của vật chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi.
Và cuối cùng, vai trò của vật chất với ý thức trong đời sống xã hội được biểu
hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời sống
tinh thần. Trong thực tiễn, sự phát triển của kinh tế sẽ kéo theo đó là sự phát
triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì cũng kéo theo đó là đời sống
tinh thần cũng thay đổi theo.
Ví dụ: Để tiến xa hơn công việc, môi trường làm việc, mức đãi ngộ của công
ty hay cả chính những người lãnh đạo trực tiếp đóng một vai trò vô cùng quan
trọng và từ đó chúng ta xuất hiện suy nghĩ về việc tìm hiểu rõ về những điều
đó trước khi đi xin việc hoặc để đưa ra phong cách giao tiếp và làm việc phù
hợp (Vật chất quyết định ý thức).
3.2. Ý thức có tính độc lập, tác động trở lại vật chất
Ý thức có tính độc lập ở việc: khi thế giới khách quan thay đổi, song hành với
đó là sự thay đổi của ý thức, tuy vậy nhưng sự thay đổi đó lại không phụ thuộc
vào tốc độ thay đổi của vật chất và thường thay đổi chậm hơn so với thế giới vật chất.
Thông qua các hoạt động thực tiễn của con người, ý thức có thể làm biến đổi
những điều kiện, hoàn cảnh vật chất, tác động lên thế giới vật chất theo hai
hướng: thúc đẩy, phát triển hoặc là kìm hãm, triệt tiêu. Dưới sự tác động của ý
thức con người xác định được các phương hướng hành động trước mọi hiện
tượng của thế giới vật chất cùng với nỗ lực và ý chí của bản thân, con người
có thể thực hiện được các mục tiêu đề ra, ở đây ý thức có thể quyết định làm
cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn, sâu sắc
thế giới khách quan. Ngược lại, ý thức hoàn toàn có thể khiến cho con người
có những hành động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan.
Ví dụ: Khi chúng ta có những suy nghĩ về việc muốn có một tương lai tốt hơn
khi không phải băn khoăn về những khoản thu chi, điều đó thúc đẩy chúng ta 12 lOMoAR cPSD| 44985297
bắt tay vào để cải thiện bản thân, cải thiện công việc để gia tăng lợi nhuận (Ý
thức tác động lại vật chất).
II. Liên hệ thực tiễn
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đóng một vai trò quan trọng trong việc
định hình quan niệm hôn nhân của giới trẻ hiện nay.
1. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc lựa chọn vợ hoặc chồng.
Hiện nay, trong những khảo sát của các nghiên cứu về các tiêu chí thiết yếu
nhất trong việc lựa chọn đi đến hôn nhân, xây dựng gia đình của người trẻ hiện
nay, tình yêu vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất đối với họ (chiếm khoảng 91,4% lựa
chọn) bên cạnh những tiêu chí khác như tính cách, thể trạng, công việc, thu
nhập. Như vậy, thế hệ trẻ ngày nay không quá đề cao các vấn đề vật chất như
ngoại hình, tính cách, gia thế... mà quan tâm hơn vào các yếu tố cảm xúc của bản thân nhiều hơn.
Nếu như ngày xưa, việc kết hôn chịu ảnh hưởng từ sự lựa chọn của cha mẹ
dẫn đến việc các yếu tố về vật chất như gia thế, tài chính, công việc là những
điểm then chốt để lựa chọn vợ/chồng. Bậc bề trên quan niệm rằng, việc chọn
bạn đời có những lợi thế về các yếu tố trên sẽ giúp cho cuộc hôn nhân, cuộc
sống của đôi bên vơi bớt đi khó khăn, bền chặt, hạnh phúc. Tuy nhiên trên thực
tiễn, những đôi vợ chồng kết hôn dựa trên những điều kiện vật chất lại cho
thấy là những người không tìm được hạnh phúc trong hôn nhân. Điều này xảy
ra bởi vì hạnh phúc của hôn nhân được quyết định bởi sự thấu hiểu, đồng điệu
giữa hai tâm hồn chứ không phải từ giá trị vật chất. Hai người đến với nhau,
tạo thành hôn nhân mà không trải qua quá trình tìm hiểu, hẹn hò thì khó có thể
trở thành bạn đời bởi họ chỉ bị ràng buộc với nhau qua giấy tờ và sống với nhau như một nghĩa vụ.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện này, những quan niệm sống cũng như suy nghĩ
đã dần dần thay đổi và trở nên tích cực hơn. Đối với vấn đề hôn nhân, các bậc
cha mẹ không còn là những người quyết định mà trở thành người cố vấn đưa
ra lời khuyên cho con cái của họ. Nhờ vào đó, những người trẻ được tự do tìm
hiểu và lựa chọn bạn đời của mình. Qua việc tìm hiểu sâu sắc về đối phương
cũng như việc tự nhận thức được xem bản thân và đối phương có phù hợp đế
tiến tới một mối quan hệ lâu dài. Đây chính là chìa khóa cho một cuộc hôn
nhân bền chặt, bởi trong kết cấu của ý thức, tri thức đóng vai trò quan trọng hơn cả
Tuy vậy, các yếu tố vật chất khách quan không có nghĩa là không quan trọng
trong việc lựa chọn bạn đời của người trẻ hiện nay. Mặc dù tình cảm là yếu tố
then chốt song nếu không thể đảm bảo được các yếu tố về vật chất như công
việc, tài chính, sức khỏe… thì cũng khó có thể bền chặt được. Từ việc thiếu
những yếu tố vật chất, dần dần sẽ dẫn tới những xung đột về mặt tình cảm và
rồi sẽ bắt đầu có những hoài nghi về sự bền chặt trong mối quan hệ khi không 13 lOMoAR cPSD| 44985297
thể đáp ứng được những điều kiện thiết yếu giữa hai bên. Bởi vậy, lựa chọn
những người phù hợp với bản thân về những điều kiện vật chất cũng là tiền đề
cho một tình yêu vững bền.
Tóm lại, tình yêu chính là yếu tố hàng đầu cho việc lựa chọn đối tượng để đi
đến hôn nhân của giới trẻ hiện nay, tuy nhiên bên cạnh đó họ cũng sẽ có xu
hướng lựa chọn những người có cùng điều kiện với mình để tìm hiểu và yêu đương.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc quyết định các vấn đề.
Trong một gia đình, tồn tại rất nhiều vấn đề cần phải quyết định và thường
người đưa ra những quyết định đó lại gắn liền với yếu tố vật chất.
Theo quan niệm xưa, người đàn ông là người trụ cột trong gia đình bởi một
phần họ có được thể trạng tốt hơn so với người phụ nữ nên được phép tham
gia vào càng hoạt động khoa cử, vinh quanh danh vọng; gia đình đều phụ thuộc
vào người đàn ông. Ngược lại, người phụ nữ không có tiếng nói trong gia đình,
phụ thuộc và chịu sự sắp đặt của cha mẹ, chồng và con trai và phải nhất nhất
tuân theo các quyết định, quy định mà người đàn ông đặt ra. Điều này cho thấy
rằng, vật chất chính là yếu tố quyết định địa vị của một người trong hôn nhân
gia đình; có trong tay nguồn thu nhập ổn định sẽ giúp cho bản thân có tiếng
nói và được quyền tham gia vào các quyết định quan trọng.
Việc tài chính, công việc quyết định địa vị của một người trong hôn nhân gia
đình thì vẫn đúng với cuộc sống ngày nay. Trong gia đình, những người tạo ra
thu nhập sẽ được coi là những người có hiểu biết hơn bởi họ có điều kiện ra
ngoài mở mang kiến thức, mở mang các mối quan hệ. Ngược lại, những người
bị lệ thuộc vào thu nhập của đối phương sẽ thường chỉ quanh quẩn ở nhà và
làm những công việc nội trợ, ít có điều kiện ra ngoài để tiếp xúc, học hỏi và
nếu có chỉ là qua tivi, sách báo; nhưng bản thân họ cũng khó còn đủ sức cho
việc trau dồi bản thân sau một ngày hoàn thành đủ công việc nhà. Chính vì
vậy, đối với việc đưa ra quyết định, những người tạo ra được thu nhập sẽ có
những quyết định đúng đắn và hợp lý hơn so với những người lệ thuộc vào thu nhập của người khác.
Chính vì quan niệm này, đa số những người trẻ hiện nay đều có xu hướng sẽ
ổn định công việc trước khi tiến tới hôn nhân. Việc có một công việc ổn định
giúp họ sẽ không có quá nhiều chênh lệch với đối phương về trình độ, hiểu
biết, vấn đề về chi tiêu cũng sẽ thoải mái hơn và quan trọng nhất vẫn là được
bình đẳng quyền được đưa ra quyết định cho các vấn đề trong gia đình. Và một
thực tế được đưa ra rằng, các bà nội trợ hiện đại thay vì chỉ chú tâm vào mỗi
công việc nhà thì họ thường tự tạo cho mình một nguồn kiếm thêm thu nhập
với suy nghĩ rằng họ có thể có được tiếng nói trong nhà. Và quả thật đúng như
vậy, điều này giúp cho cả hai bên đều sẽ được nêu ra ý kiến, quan điểm của
mình, khiến cho họ cảm thấy được đối phương tôn trọng. 14 lOMoAR cPSD| 44985297
Tóm lại, trong hôn nhân gia đình, yếu tố tài chính cũng không kém phần quan
trọng bên cạnh tình yêu, nó quyết định đến tiếng nói của một người trong các
vấn đề của gia đình và cũng là một yếu tố để duy trì hạnh phúc.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong việc duy trì hôn nhân.
Trong tất cả mọi vấn đề về hôn nhân gia đình, giữ gìn được hạnh phúc luôn
là vấn đề khó khăn nhất, đòi hỏi rất nhiều sự cố gắng nỗ lực từ cả hai bên. Đây
chính là vấn đề mà nhiều người trẻ chưa thực sự hiểu rõ và làm được, khiến
cho tỷ lệ ly hôn ở các cặp vợ chồng trẻ đang có xu hướng ngày một tăng cao.
Trước hết, nguyên nhân của đa số các vụ ly hôn ở các cặp vợ chồng trẻ hiện
nay đến từ sự vội vàng kết hôn khi tình yêu đang ở thời điểm nồng cháy mà
chưa thực sự hiểu hết về hoàn cảnh sống, lối sống, quan điểm sống của nhau.
Chính sự vội vàng ấy đã dẫn đến rất nhiều hệ luỵ sau khi họ về chung sống với
nhau. Những rung cảm mãnh liệt của tình yêu khiến họ xa rời đi cái nhìn thực
tế về một tương lai trong hôn nhân sẽ cần phải duy trì bởi nhiều yếu tố chứ
không phải chỉ có mỗi tình yêu. Tình cảm chỉ là một loại rung động biểu thị
thái độ, và theo như nghiên cứu thì tình cảm chỉ có thể kéo dài khoảng hơn hai
năm rưỡi. Việc kết hôn chỉ dựa vào tình yêu dành cho đối phương khiến các
cặp đôi khi về chung sống sẽ bị “vỡ mộng” khi người bạn đời của mình có
những cách sống, suy nghĩ hoàn toàn khác với khi yêu. Lâu dần, sẽ dẫn tới
xung đột, cãi vã và cuối cùng là đi đến quyết định ly hôn. Điều thực sự để duy
trì hôn nhân không chỉ đơn thuần là tình yêu mà còn phải là sự hiểu biết về
nhau, chấp nhận được con người của nhau và thông cảm, sẻ chia với nhau.
Chính vì vậy, sống thử trước hôn nhân chính là một xu hướng nên được ủng
hộ và phổ biến hơn ở giới trẻ để tránh tình trạng vội vã kết hôn, vội vàng ly
hôn hướng tới một xu thế hôn nhân bền vững.
Không chỉ vậy, vấn đề về kinh tế cũng là một trong những lý do phổ biến cho
việc ly hôn sau thời gian chung sống ngắn ngủi của giới trẻ. Sự không đồng
đều về thu nhập hoặc người có việc, kẻ thất nghiệp cũng dễ khiến vợ chồng
nảy sinh xung đột, bất hòa trong giải quyết nghĩa vụ, đóng góp chi tiêu. Khi
một người phải trở thành người chu cấp cho một người khác, họ sẽ có xu hướng
coi người kia trở thành “gánh nặng” hoặc “kẻ vô dụng”, và đem họ so sánh với
vợ hoặc chồng của những người xung quanh. Không chỉ vậy, với một số người
khi trở thành người lệ thuộc vào người khác, họ sẽ có những cảm xúc tự ti,
chán nản. Từ đó, tình yêu cũng sẽ dần dần phai nhạt, thay vào đó là những cảm
xúc tiêu cực như cáu gắt, bực bội, không thể dung hoà được mối quan hệ, bầu
không khí ấm áp của gia đình được thay bằng sự ngột ngạt. Cuối cùng, khi
những mâu thuẫn tích tụ lâu ngày như “giọt nước tràn ly” chỉ có thể được giải
thoát bằng việc ký vào đơn ly hôn. Qua đây, việc ổn định công việc hoặc tìm
một người có cùng điều kiện tài chính với mình để kết hôn cũng làm giảm
thiểu đi các vấn đề mâu thuẫn tài chính, tuy nhiên vẫn không thể tránh được
những phát sinh trong cuộc sống, quan trọng nhất vẫn là phải cùng nhau sẻ 15 lOMoAR cPSD| 44985297
chia gánh nặng, có thời gian để trao đổi giữa hai vợ chồng thì mới có thể vượt
qua được những xung đột.
Không chỉ dừng lại ở đó, những xung đột với gia đình của bạn đời cũng là
một nguyên nhân mà rất nhiều cặp đôi đã không thể duy trì được hôn nhân lâu
thêm nữa. Nổi bật nhất vẫn chính là mối quan hệ giữa mẹ chồng và nàng dâu.
Mẹ chồng là đại diện thế hệ trước, họ được giáo dục trong một môi trường đề
cao tính truyền thống, mang trong mình những suy nghĩ, định kiến của thời đại
cũ. Còn những nàng dâu trẻ thì được lớn lên và nuôi dạy trong một thời đại
mới khi mà những quan niệm, lối sống đã được thay đổi rất nhiều, xuất hiện
nhiều luồng tư tưởng mới do hội nhập quốc tế và sự phát triển tất yếu của thời
đại. Việc hai con người được sinh ra ở hai thời đại khác nhau với những quan
điểm khác nhau thì khi sống cùng nhau dưới một mái nhà ắt sẽ nảy sinh xung
đột. Mẹ chồng cũng đã sống qua nửa đời người, cũng đã trải qua rất thăng trầm
nên họ thường cho rằng những lối sống của mình là hợp lý, đúng đắn, không
chịu thay đổi và nhất quyết bảo vệ quan niệm sống của mình; còn con dâu thì
thường có những suy nghĩ hiện đại hơn và cũng nhất nhất cho rằng cái tôi, bản
thân của mình quan trọng hơn tất cả. Hai người đó sẽ không thể nào tìm được
tiếng nói chung vì đối với cả hai, ý kiến của bản thân là đúng; từ đó các mâu
thuẫn được sinh ra. Còn người chồng đứng giữa hai người thì cũng vô cùng
khó xử khi không biết sẽ nên làm điều gì trong tình huống này: chiều theo ý
người này thì sẽ làm mất lòng ý của người kia. Và điều này chỉ thật sự chấm
dứt khi cả hai người đặt mình vào vị trí của người còn lại để hiểu, cảm thông
cho họ. Tuy nhiên, đa phần những xung đột giữa mẹ chồng và nàng dâu dường
như không thể nào chấm dứt, nó chỉ tạm lắng xuống và tạo thành những đợt
sóng mâu thuẫn ngầm vì mối quan hệ của cả hai, nhưng đến một lúc nào đó nó
sẽ hoàn toàn bùng nổ và gây ảnh hưởng đến hôn nhân của vợ chồng. Giải pháp
thường thấy của các cặp đôi là sẽ sống tách biệt với các bậc phụ huynh để tránh
cho các mâu thuẫn trầm trọng hơn. Tuy nhiên, điều đó cũng không hề khiến
người vợ và người chồng trở nên thoải mái hơn, bởi vì từ xưa đến nay, chữ
hiếu luôn là một chuẩn mực đạo đức mà tất cả mọi người đều coi trọng, trách
nhiệm với các bậc phụ huynh vẫn còn xuất hiện ở đó, và điều này vô tình tạo
nên mâu thuẫn giữa vợ chồng với nhau. Người chồng thì đương nhiên là sẽ
muốn ở gần cha mẹ để chăm sóc cho họ nhưng người vợ lại cảm thấy không
được thỏa mãn khi cuộc sống bị can thiệp quá nhiều. Dần dần, những vấn đề
này trở nên bế tắc và kết cục cũng là phải chấm dứt cuộc hôn nhân đó. Chính
vì vậy, khi kết hôn, việc tìm hiểu về người bạn đời của mình thôi vẫn là chưa
đủ, mà còn phải tìm hiểu cả những người thân của họ, để biết được quan niệm
sống của gia đình họ liệu có phù hợp với mình hay không hoặc có thoả thuận
ngay từ đầu với người bạn đời của mình về một gia đình riêng của hai người
để hạn chế nhất những mâu thuẫn với người thân của họ. 16 lOMoAR cPSD| 44985297
Tóm lại, trong đời sống hôn nhân sẽ có rất nhiều những vấn đề nảy sinh, và
để duy trì được một cuộc hôn nhân hạnh phúc, đòi hỏi chúng ta phải dành thời
gian để quan tâm lẫn nhau, tìm hiểu sâu về nội tâm của người bạn đời của
mình, tránh để những mâu thuẫn trở nên quá gay gắt mà dẫn đến tan vỡ. 17 lOMoAR cPSD| 44985297
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Triết học Mác-Lênin (2019)
Giáo trình Triết học Mác-Lênin (2021) 18