lOMoARcPSD| 44985297
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ
POHE
BÀI TẬP LỚN MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề bài: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Từ đó
lien hệ với quan niệm hôn nhân của người trẻ hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ và tên sinh viên : Bùi Hà Thu
Mã sinh viên : 11226038
Lớp học phần : Digital Marketing CLC 64D
Hà Nội – 2022
lOMoARcPSD| 44985297
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................4
NỘI DUNG CHÍNH…......................................................................5
CHƯƠNG 1: SỞ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM
CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
.......................................................................................
1.1. Quan điểm về vật chất và ý thức
............................................................................................................. 5
1.1.1. Quan điểm về vật
điểm về ý thức....................................................................................7
1.2. Quan điểm Triết học Mác- Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức
..............................................................................................................9
1.2.1. Vật chất quyết định ý thức
..............................................................................................................9
1.2.2. Ý thức có tính độc
lập tương đối, tác động trở lại vật chất............................................11
1.3. Ý nghĩa
phương pháp luận chung..................................................................12
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VÀ ĐÁNH GIÁ VIỆC GIẢI
QUYẾT MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG
SINH VIÊN HIỆN
NAY.....................................................................................................13
2.1.Liên hệ việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý
thức trong quan niệm hôn nhân của người trẻ hiện nay
.............................................................................................................13
2.2.Đánh giá việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức trong
đời sống sinh viên hiện nay............................................................17
KẾT LUẬN
................................................................................................
lOMoARcPSD| 44985297
3
Lời mở đầu
Như chúng ta thấy triết học Mác – Lênin trang bị cho con người hệ thống
các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học, giúp con
người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Những nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, của chủ
nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và của triết học Mác – Lênin nói chung là sự
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của
hiện thực khách quan. Trong Triết học Mác - Lênin có đề cập đến quan niệm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức. Ta thấy rằng vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ đó thì
vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức. Tiếp đến, trong thực tiễn đời sống
sinh viên hiện nay thì khi sinh viên vận dụng một cách hiệu quả mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức sẽ giúp cho bản thân mỗi người có thêm
nhiều kiến thức, sự hiểu biết đa dạng, phẩm chất tốt, có định hướng nghề nghiệp
hiệu quả, lựa chọn ngành học một cách hợp lý từ đó hoàn thiện bản thân hơn nữa
khiến bản thân trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội. Từ quá trình
học tập, mỗi người sẽ áp dụng được những kiến thức lý thuyết vào trong hoạt
động thực tiễn cuộc sống, cng hiến sức lực, tư duy của bản thân khiến cho đất
nước ngày càng giàu mạnh và phát triển. Xuất phát từ ý nghĩa và mục đích như
trên, là cơ sở để em chọn đề tài: “Phân tích quan điểm của triết học Mác -Lênin
về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải
quyết mối quan hệ này trong thực tiễn quan niệm tình yêu ca thah niên thời
nay.
I, Phân tích lý luận
1, Bàn luận về định nghĩa vật chất của Lênin
a,Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Trong lịch sử
tưởng nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm. Bản thân quan niệm ca chủ
nghĩa duy vật về phạm trù vật chất cũng trải qua lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền
với những tiến bộ của khoa học và thực tiễn.
b,Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về
phạm trù vật chất
Quan điểm nhất quán từ xưa đến nay của các nhà triết học duy vật là thừa nhận sự
tồn tại khách quan của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích tự
lOMoARcPSD| 44985297
4
nhiên. Lập trường đó là đúng đắn, song chưa đủ để các nhà duy vật trước C. Mác
đi đến một quan niệm hoàn chỉnh về phạm trù nền tảng này. Tuy vậy, cùng với
những tiến bộ của lịch sử, quan niệm của các nhà triết học duy vật về vật chất cũng
từng bước phát triển theo hướng ngày càng sâu sắc trừu tượng hoá khoa học
hơn.
Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp - La Mã, Trung Quốc, Ấn
Độ cho rằng vật chất là một vật cụ thể, hữu hình đang tồn tại ở thế giới bên
ngoài. Chẳng hạn, Thales định nghĩa vật chất là nước bởi ông cho rằng, nước
tồn tại ở khắp mọi nơi. Mọi vật khởi nguồn từ nước và cuối cùng lại phân hủy
thành nước. Một số nhà triết học Trung Quốc lại cho rằng 5 yếu tố cốt lõi cấu
thành nên mọi vật là Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ (thuyết Ngũ hành). Trong
khi ở Ấn Độ, phái Lokayata quan niệm vật chất có các hình thức khác nhau: đất,
nước, lửa gió. Tuy nhiên, nhìn chung chủ nghĩa duy vật cũ đã sai lầm khi đồng
nhất vật chất với một số dạng cụ thể của vật chất.
Một bước tiến quan trọng đánh dấu cho sự phát triển của phạm trù vật chất là
định nghĩa vật chất của 2 nhà triết học cổ đại ở Hy Lạp là Leucippus (500 - 440
TCN) và Democritus (khoảng 427-374 TCN). Hai triết gia này đều cho rằng vật
chất chính là nguyên tử. Theo họ, nguyên tử là hạt nhỏ nhất, không thể phân
chia, tồn tại vĩnh cửu. Sự phong phú về hình dạng, vị trí và cách sắp xếp của
chúng quyết định sự đa dạng của sự vật. Khái niệm này là một bước tiến dài
trong việc tìm kiếm định nghĩa chính xác về vật chất, mà nó còn đóng vai trò như
một lời tiên tri khoa học xuất sắc của con người về cấu trúc của thế giới vật chất
nói chung
1
Chủ nghĩa duy vật cận đại (thế kỷ XV - XVIII) ở phương Tây đã có sự bứt
phá hơn phương Đông nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của cơ học và khoa học
thực nghiệm. Thuyết nguyên tử vẫn được củng cố mạnh mẽ nhờ nghiên cứu của
các nhà khoa học như Galileo Galilei, Francis Bacon hay thành công vang dội
của Newton trong vật lí học cổ điển. Tuy nhiên, phương pháp tư duy siêu hình
của các nhà triết học vẫn còn nhiều hạn chế do chưa đưa ra được một định nghĩa
mang tính khái quát chung cho phạm trù vật chất. Do nghiên cứu các sự vật một
cách máy móc, trong trạng thái cô lập và không có mối liên hệ gì với nhau nên
vật chất đã bị đồng nhất với khối lượng. Cũng có một số nhà triết học như René
Descartes hay Immanuel Kant cố gắng vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên
tử nhưng vẫn không làm thay đổi cái nhìn cơ học về thế giới. Nhìn chung, chủ
nghĩa duy vật cận đại “chỉ thấy cây mà không thấy rừng” nói như Mác và
Ăngghen.
1
Biên niên sử các phát minh – Wikipedia tiếng Việt. (n.d.). Wikipedia.
lOMoARcPSD| 44985297
5
c, Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã
thay đổi hoàn toàn tư duy duy vật siêu hình về vật chất
Röntgen phát hiện ra tia X vào năm 1895. Một năm sau, Becquerel phát hiện ra
hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Đến năm 1987, Tomson phát hiện ra
điện tử. Đặc biệt năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện
tử thay đổi theo vận tốc của nguyên tử chứ không bất biến. Từ năm 1898 đến
1902, 2 vợ chồng nhà khoa học Pierre Curie và Marie Curie đã khám pha ra chất
phóng xạ mạnh là Polonium và Radium. Những phát minh vĩ đại đó đã chứng
minh được rằng nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất như hai triết gia cổ đại
đã khẳng định. Năm 1905, Thuyết Tương đối của Albert Einstein ra đời, chứng tỏ
rằng: không gian, thời gian và khối lượng luôn biến đổi cùng sự vận động của thế
giới vật chất. Những phát hiện này đã làm “chao đảo” thế giới quan của giới các
nhà khoa học tự nhiên và triết gia với tư duy duy vật siêu hình, khiến họ dần rơi
vào chủ nghĩa duy tâm. Lenin coi cuộc khủng hoảng vật lí học này là “thời kỳ
ốm đau ngắn ngủi” và để chiến thắng được nó, “chủ nghĩa duy vật biện chứng
phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”. Từ những yêu cầu của thời đại, định
nghĩa về vật chất của Lenin ra đời, một mặt kế thừa những tinh hoa của các thành
tựu khoa học tự nhiên, mặt khác dựa trên cơ sở tư tưởng triết học của Marx và
Engels để tiếp tục phát triển.
2, Phương pháp đnh nghĩa của Lenin
Để có thể thấy được tính đúng đắn và ưu việt trong định nghĩa về vật chất của
Lenin, trước hết ta cần tìm hiểu phương pháp định nghĩa của ông. Trước đây, các
triết gia dùng phương pháp loại suy: tìm ra các điểm tương đồng giữa các sự vật
để rút ra kết luận. Tuy nhiên, phạm trù vật chất vô cùng rộng lớn và khó có thể
bao quát được hết tất cả các đặc điểm của nó. Chính vì vậy Lenin đã sử dụng
phương pháp đối lập vật chất với ý thức - 2 phạm trù rộng tương đương nhau để
đưa ra một định nghĩa khái quát nhất về thế giới vật chất.
Giải thích định nghĩa về vật chất của Lenin
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lenin
đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không l
thuộc vào cảm giác Định nghĩa trên gồm các nội dung cơ bản sau đây: Một là,
vật chất là một phạm trù triết học rộng lớn, mang tính khái quát và trừu tượng
hóa, nghĩa là nó mang các đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện
tượng nào thuộc vật chất đều có. Vật chất chỉ các vật cụ thể, nhưng các vật cụ thể
như cái bàn, cái ghế,... không thể khái quát thành phạm trù vật chất. Thuộc tính
chung nhất giúp phân biệt vật chất với cái không phải là vật chất là: vật chất tồn
lOMoARcPSD| 44985297
6
2
tại với tư cách là hiện thực khách quan và tồn tại ngoài ý th
3
ức. Vật chất tồn tại
bất kể con người đã nhận thức được về nó hay chưa. Nói cách khác, vật chất
không phải hư vô, không phải một lực lượng siêu nhiên tồn tại lơ lửng như chủ
nghĩa duy tâm đã quan niệm mà nó là hiện thực, là cái có trước, tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức của con người hay vật chất đã quy định, quyết định ý
thức. Nói tóm lại, phạm trù vật chất vừa mang tính trừu tượng, vừa mang tính
hiện thực cụ thể. Bởi “chúng ta không biết, vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy
vật chất với tính cách là vật chất…bằng con đường cảm tính nào khác”. (C.Mác
và P.Ăngghen: toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994, tr.726). Tuy
nhiên, nếu tuyệt đối hóa tính hiện thực cụ thể thì sẽ vô tình đồng nhất vật chất
với một dạng cụ thể của vật chất. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính trừu tượng sẽ
dễ rơi vào sự sai lầm của Chủ nghĩa duy tâm mà không thấy được những thuộc
tính của vật chất. Khẳng định này của Lenin mang một ý nghĩa quan trọng: khắc
phục triệt để sự sai lầm của chủ nghĩa duy vật cũ khi đồng nhất vật chất với vật
thể, giúp các nhà khoa học tự nhiên thoát khỏi khủng hoảng thế giới quan để từ
đó khuyến khích họ khám phá cũng thuộc tính mới của vật chất, làm đa dạng và
phong phú tri thức nhân loại. Đây không chỉ là một bước tiến mới của chủ nghĩa
duy vật, đáp ứng được sự tiến bộ cũng như những đòi hỏi mới của khoa học, kỹ
thuật mà còn cho chúng ta cơ sở khoa học để nhìn nhận vật chất. Đồng thời, nội
dung này cũng bác bỏ được những luận điệu xuyên tạc của thế giới quan duy tâm
về lĩnh vực xã hội.
Hai là, vật chất khi tác động vào các giác quan của con người đem lại cho con
người cảm giác. V.I.Lenin muốn khẳng định rằng: hiện thực khách quan tồn tại
không lệ thuộc vào ý thức mà biểu hiện sự tồn tại của mình dưới dạng các thực
thể. Các thực thể này bằng cách gián tiếp hay trực tiếp tác động vào con người
đều đem lại cho con người những cảm giác. Từ những cảm giác này, chúng ta có
được sự hiểu biết và nhận thức được vật chất. Tóm lại, Lenin muốn làm rõ mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức: hiện thực khách quan (hay vật chất) là cái có
trước, tồn tạiđộc lập, không phụ thuộc vào ý thức. Còn ý thức là cái có sau vật
chất, bị quyết định bởi vật chất. Vật chất (cái bị phản ánh) là nguồn gốc khách
quan của tri thức, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức (cái phản ánh). Câu thành
ngữ “Có thực mới vực được đạo” chính là một ví dụ cho quan điểm của chủ nghĩa
duy vật, rằng yếu tố vật chất sẽ quyết định yếu tố tinh thần. Khẳng định này đã
2
). Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Chính Trị Quốc Gia
Sự Thật. 7. V.I.Lênin toàn tập. (1980). Chính trị Quốc gia - Sự thật
lOMoARcPSD| 44985297
7
3
chống lại chủ nghĩa duy tâm khi trường phái này cho rằng ý thức, hay cảm giác
cái sinh ra mọi sự vật, hiện tượng mà ta thấy xung quanh
Ba là, thực tại khách quan là cái được cảm giác chụp lại, phản ánh lại. Nghĩa là,
vật chất không phải những hiện tượng vô hình, bí ẩn tồn tại một cách trừu tượng,
ngược lại, vật chất được biểu hiện qua các dạng cụ thể, tổn tại khách quan và
không lệ thuộc vào ý thức, cảm giác của con người. Các hiện tượng tinh thần là sự
sao chụp lại, phản ánh lại của bản gốc là thế giới vật chất.
Như vậy, có thể kết luận con người có thể nhận thức được thế giới khách quan
thông qua nhiều phương pháp khác nhau như chép lại, chụp lại, phản ánh một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Về nguyên tắc, trong thế giới vật chất không có đối
tượng nào là không thể nhận biết,chỉ có những đối tượng con người chưa khám
phá ra, chưa nhận thức được do giới hạn về mặt tri thức ở những giai đoạn lịch
sử khác nhau.
Khẳng định này đã chống lại quan điểm của George Berkeley, Ernst Mach khi
cho rằng ý thức của con người là cái có trước và sinh ra vật chất. Berkeley cho
rằng “Tồn tại là được tri giác”, hay nói cách khác thế giới khách quan chỉ trong
trí óc của chúng ta. Tuy nhiên, đây là quan điểm sai lầm và Lenin đã chứng minh
được điều ngược lại: thế giới vật chất vốn tồn tại độc lập và là cái quyết định, nảy
sinh ra cảm giác. Đồng thời, nội dung định nghĩa về vật chất của Lenin đã hoàn
toàn bác bỏ Thuyết bất khả tri, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu vào tìm
hiểu, khám phá ra những đặc tính mới cũng như quy luật vận hành của thế giới
vật chất, góp phần làm giàu kho tri thức nhân loại. Nói tóm lại, dựa trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, định nghĩa về vật chất của V.I. Lenin
đã giải quyết hai vấn đề cơ bản của Triết học một cách sâu sắc: vật chất là cái có
trước, là cái quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất; đồng
thời khẳng định khả năng nhận thức về thế giới của con người. Định nghĩa vật
chất của Lenin đã bác bỏ Thuyết bất khả tri và quan điểm duy tâm, khắc phục tư
duy siêu hình, tạo cơ sở lí luận từ đó định hướng cho sự phát triển của nhận thức
khoa học. Không chỉ đưa ra thế giới quan khoa học đúng đắn, định nghĩa của
Lenin còn mang ý nghĩa phương pháp luận giúp chúng ta trong quá trình nhận
thức và hoạt động thực tiễn. 6. Ý nghĩa phương pháp luận Từ định nghĩa ca
Lenin, có thể rút ra một số nguyên tắc mang tính phương pháp luận như sau: chỉ
có những đối tượng con người chưa khám phá ra, chưa nhận thức được do giới
hạn về mặt tri thức ở những giai đoạn lịch sử khác nhau. Khẳng định này đã
lOMoARcPSD| 44985297
8
chống lại quan điểm của George Berkeley, Ernst Mach khi cho rằng ý thức của
con người là cái có trước và sinh ra vật chất. Berkeley cho rằng “Tồn tại là được
tri giác”, hay nói cách khác thế giới khách quan chỉ trong trí óc của chúng ta. Tuy
nhiên, đây là quan điểm sai lầm và Lenin đã chứng minh được điều ngược lại: thế
giới vật chất vốn tồn tại độc lập và là cái quyết định, nảy sinh ra cảm giác.
Đồng thời, nội dung định nghĩa về vật chất của Lenin đã hoàn toàn bác bỏ Thuyết
bất khả tri, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu vào tìm hiểu, khám phá ra
những đặc tính mới cũng như quy luật vận hành của thế giới vật chất, góp phần
làm giàu kho tri thức nhân loại.
Nói tóm lại, dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, định nghĩa về
vật chất của V.I. Lenin đã giải quyết hai vấn đề cơ bản của Triết học một cách sâu
sắc: vật chất là cái có trước, là cái quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động
trở lại vật chất; đồng thời khẳng định khả năng nhận thức về thế giới của con
người. Định nghĩa vật chất của Lenin đã bác bỏ Thuyết bất khả tri và quan điểm
duy tâm, khắc phục tư duy siêu hình, tạo cơ sở lý luận từ đó định hướng cho sự
phát triển của nhận thức khoa học. Không chỉ đưa ra thế giới quan khoa học đúng
đắn, định nghĩa của Lenin còn mang ý nghĩa phương pháp luận giúp chúng ta
trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ định nghĩa của Lenin, có thể rút ra một số nguyên tắc mang tính phương pháp
luận như sau:
Một là phải biết tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng sự thật, tránh sa đà
vào chủ quan duy ý chí: chỉ quan tâm tới nguyện vọng, mong muốn của mình mà
bỏ qua hiện thực khách quan. Ví dụ như không được lấy ảo tưởng của mình để áp
đặt lên thực tế, hành động theo cảm tính mà không dựa trên hiện thực khách quan
để phân biệt đúng sai.
Hai là phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo ca ý thức bởi ý thức có thể
tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Đồng thời
cần khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại, không dám
vượt lên hoàn cảnh.
Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất tồn tại bằng cách vận động. Các dạng cụ thể của vật chất phải có thuộc
tính ấy, luôn luôn trong quá trình biến đổi không ngừng. Bất kì sự vật, hiện tượng
nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu nhất định và trong hệ thống ấy, các mặt,
các bộ phận của chúng tác động qua lại lẫn nhau gây ra sự biến đổi. Chính vì vậy,
bản chất của sự vận động vật chất là tự thân vận động. Engels đã chỉ ra rằng “Các
hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua
vận động…”, tức là con người chỉ nhận thức được sâu sắc thế giới vật chất qua
lOMoARcPSD| 44985297
9
quá trình vận động của chúng. Đứng im cũng là một biểu hiện của trạng thái vận
động trong sự ổn định tương đối, tuy nhiên nỏ chỉ mang tính nhất thời, chỉ xảy ra
trong mối quan hệ nhất định
Vật chất có rất nhiều hình thức vận động mà Engels đã chia ra thành 5 hình thức
cơ bản: cơ học, vật lí, hóa học, sinh học và xã hội. Sự vận động của vật chất được
xem xét ở hai hình thức tồn tại là không gian và thời gian. Không gian bao gồm
vị trí tự nhiên và các mối liên hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng.
Còn thời gian ám chỉ giai đoạn ra đời, phát triển và tiêu vong của sự vật. Hai
hình thức tồn tại này luôn song hành, gắn bó chặt chẽ với nhau bởi không có sự
vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà không có quá trình diễn biến của
nó, cũng như không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại theo thời gian mà không có
kết cấu, quảng tính nhất định.
2, Bàn luận về ý thức a,
Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua shình thành của bộ óc con
người hoạt động ca bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Về bộ óc người: Ý thức thuộc tính của một dạng vật chất có tchức cao bộ
óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quhoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc.
Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý
thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình
tiến hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư
duy tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh
của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phn
ánh năng động, sáng tạo:
Quan hgiữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con
người xuất hiện. Trong mối quan hnày, thế giới khách quan, thông qua hoạt động
của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo
dạng vật chất chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất
tác động. Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi i phản ánh. Cái phản
ánh cái được phản ánh không tách rời nhau nhưng không đồng nhất với nhau.
Cái được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc
điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) một dạng vật
lOMoARcPSD| 44985297
10
chất khác (dạng vật chất nhận sự tác động). Phản ánh thuộc tính của tất cả các
dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức. Những hình thức
này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất. Phản ánh vật lý, hóa học là hình
thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất sinh. Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện
qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng
vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa định hướng
lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh
học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích
phản ứng của thực vật động vật bậc thấp bằng ch thay đổi chiều hướng sinh
trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc…khi nhận sự tác động trong
môi trường sống. Tính cảm ứng phản ứng của động vật hệ thần kinh tạo ra
năng lực cảm giác, được thực hiện trên sở điều khiển của quá trình thần kinh
qua chế phản xạ không điều kiện, khi sự tác động từ bên ngoài môi trường
lên cơ thể sống. Phản ánh tâm là phản ứng của động vật cóhệ thần kinh trung
ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có
điều kiện.
Phản ánh năng động sáng tạo hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, chỉ được thực hiện dạng vật chất có tổ chức cao nhất, tổ chức
cao nhất bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá
trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác
động lên các giác quan của con người. Đây sự phản ánh tính chủ động lựa
chọn thông tin, xử thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa
của thông tin. Sự phản ánh sáng tạo năng động này được gọi là ý thức.
Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc hội của ý thức là lao động ngôn ngữ. hai yếu tố này vừa nguồn
gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động quá trình con người sdụng công cụ tác động vào giới tnhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; quá trình trong
đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa
mình với giới tự nhiên. Đây cũng là qúa trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại
dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ
não,… của con người. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới
khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu,
những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định
con người thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của
lOMoARcPSD| 44985297
11
các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con
người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng ý thức nói
chung.Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh hnhu cầu phải
có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay
trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi
mà còn khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng tthế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất
quyết định sự ra đời phát triển của ý thức lao động. Sau lao động đồng thời
với lao động ngôn ngữ; đó hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn
dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển
hóa thành ý thức.
Bản chất của ý thức:
Ý thức sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin,
chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin
đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới phát hiện ý nghĩa của thông tin được
tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện
quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời
sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các hình tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người. Ý thức hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về thế giới khách
quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về hình thức
biểu hiện nhưng không còn y nguyên như thế giới khách quan đã cải biến
thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là
vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của
ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật
sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các
điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Kết cấu ý thức
lOMoARcPSD| 44985297
12
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận,
nghiên cứu về kết cấu của ý thức. a) Theo các yếu tố hợp thành
Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm
ý chí, trong đó tri thức nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn thể
bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,…
Tri thức toàn bộ những hiểu biết của con người, kết quả của quá trình nhận
thức, sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu
hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức phương thức tồn tại
của ý thức điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo
đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. Căn cứ
vào lĩnh vực nhận thức, tri thức thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự
nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn.
Căn cứ vào trình độ phát triển ca nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời
thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm
tính và tri thức lý tính,…
Tình cm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể
có sự tìm tòi chân lý”; không tình cảm thì không có mt yếu tố thôi thúc những
người sản nửa sản, những công nhân nông dân nghèo đi theo cách
mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hhình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức mối quan hệ biện chứng với nhau song tri
thức yếu tố quan trọng nhất; phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời nhân
tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố
khác
b) Theo chiều sâu của nội tâm
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức,
tiềm thức, vô thức.
Tự ý thức: Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời
cũng tự nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng
lOMoARcPSD| 44985297
13
ý thức, một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây ý thức về bản thân
mình trong mối quan hệ với ý thức vthế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự
nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có
các hành vi đạo đức và vị trí trong hội. Những cảm giác của con người về
bản thân mình trên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành
tự ý thức. Con người chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với những
người khác, trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội,
trong hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần
do chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức vmình để nhận bản thân
mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn tự ý thức của cả xã hội, của
một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những
quan hệ sản xuất xác định, về tưởng và lợi ích chung của hội mình, của giai
cấp mình, hay của tầng lớp mình.
Tiềm thức: những hoạt động tâm lý tđộng diễn ra bên ngoài skiểm soát của
chủ thể, song lại liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới
sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể
đã được ttrước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành knăng nằm trong
tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức thể
chủ động gây ra các hoạt động tâm nhận thức chủ thể không cần kiểm
soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động
tâm lý hàng ngày của con người, cả trong duy khoa học. Trong duy khoa học,
tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động duy
thường được lặp đi lặp lại nhiều ln. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của
đầu óc trong việc xử khối lượng lớn các tài liệu, dkiện, tin tức diễn ra một cách
lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy
khoa học.
thức: Vô thức những trạng thái tâm ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ,
hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa
struyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của trí. thức biểu
hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi
miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện tượng ấy vùng hoạt
động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có mt chức năng chung là
giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham
muốn bản năng không được phép bộc lộ rathực hiện trong quy tắc của đời sống
cộng đồng. góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con
người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, “libiđo”
Như vậy, thức vai trò tác dụng nhất định trong đời sống hoạt động của
con người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần
lOMoARcPSD| 44985297
14
thiếtkhi làm việc “quá tải”. Nhờ thức chuẩn mực con người đặt ra được thực
hiện một cách tự nhiên… vậy, không thể phủ nhận vai trò cái thức trong cuộc
sống, nếu phủ nhận thức sẽ không thể hiểu đầy đủ đúng đắn về con người.Tuy
nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa thần thức. Không n coi
thức là hiện tượng tâm lý lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh
không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, thức là vô thức nằm trong con người
ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô thức. Nhờ
ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ.
Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
3, Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ vật chất ý thức là "Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại"
[1]
. Tutheo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản trong triết
học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
Trong lịch sử triết học, khi lý giải mối quan hệ vật chất - ý thức, các nhà triết học
đã phạm nhiều sai lầm chủ quan, phiến diện do không hiểu được bản chất thực sự
của vật chất và ý thức.
Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn của con người đã bị trừu
tượng hoá, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên thiên.
Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn
thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai,
do ý thức tinh thần sinh ra. Trên thực tế, chủ nghĩa duy tâm là sở lý luận của tôn
giáo, chủ nghĩa ngu dân. Mọi con đường chủ nghĩa duy tâm mở ra đều dẫn con
người đến với thần học, với "đường sáng thế". Trong thực tiễn, người duy tâm phủ
nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí, hành động
bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một
chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập
tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của
ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, hđã phạm
nhiều sai lầm tính nguyên tắc bởi thái độ "khách quan chủ nghĩa", thụ động, ỷ
lại, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Kiên trì đường lối duy vật, nắm vững phép biện chứng, luôn theo sát kịp thời
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của
lOMoARcPSD| 44985297
15
chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan
niệm duy tâm, siêu hình nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn
về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức mối quan
hệ giữa chúng.
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất ý thức mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật
chất.
* Vật chất quyết định ý thức.
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía cạnh
sau: Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ
óc người một dạng vật chất tổ chức cao nhất, quan phản ánh để hình
thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong
quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu
tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.Vật chất “sinh” ra
ý thức, ý thức xuất hiện gắn liền với sxuất hiện của con người cách đây t3
đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu
dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên,
vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính của bộ phận con người
- cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện
đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái
trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
VD: Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 vềcông nghệ thông tin là
rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dậy
còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về sở vật chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ
thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ tốt hơn rất nhiều.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách
quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện
thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh
vào ý thức mới có nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội,
lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh.Ý thức chỉ
là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề
rộng và chiều sâu động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú độ sâu
sắc của nội dung của duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ
mông muội tới văn minh, hiện đại.
lOMoARcPSD| 44985297
16
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh sáng tạo hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức.
Nhưng sự phản ánh của con người không phải là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc là
"phản ánh tâm lý" ncon vật phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua
thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những
sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật
chất thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn hoạt động vật
chất có tính cải biến thế giới của con người - sở để hình thành, phát triển ý
thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng
tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi ca vật chất;
vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người -
một sinh vật tính hội ngày càng phát triển cả thể chất tinh thần, thì dĩ nhiên
ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung hình
thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng
phát triển đã chứng minh điều đó. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới
vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức
của con người. Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
được biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời
sống tinh thần, tồn tại hội đối với ý thức hội. Trong hội, sự phát triển của
kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi
thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận
thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng "sự đối
lập giữa vật chất ý thức chỉ ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức
hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận bản là
thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn
nghi ngờ nữa rằng sự đối lập đó là tương đối"
[1]
. đây, tính tương đối của sự
đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hgiữa thực thể vật chất đặc
biệt - bộ óc người và thuộc tính ca chính nó
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra
đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không
lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc
lOMoARcPSD| 44985297
17
lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh,
chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm
so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
3
Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ họat đông thực tiễn, ý thức thể làm biến đổi những điều
kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho
cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện
thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những
quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp ý chí quyết
tâm đthực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt ý thức tiến bộ, ch
mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, t
có vai trò rất to lớn. "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự
phê phán của khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đbằng lực lượng vật
chất; nhưng luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi thâm nhập vào
quần chúng"
[1]
.
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức thể dự báo, tiên đoán
một cách chính xác cho hiện thực, thể hình thành nên những luận định hướng
đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên,
cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên
gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên
tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, khi tri thức khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của
tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc rất to lớn, nhưng không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều
kiện khách quan năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt. Nếu quên điều đó
chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chnghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu
lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
3
[1] V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, t. 18, tr. 173.
lOMoARcPSD| 44985297
18
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên
tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan. Trong nhận thức hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế
hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều
kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng hành động theo qui luật khách quan,
nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn
lường. Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, trách tô hồng hoặc
bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có.
Văn kiện Đại hội XII chủ trương phải nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng s
thật, đánh giá đúng sự thật, nói sthật. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng,
nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó với những thuộc tính,
mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ
quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa
khách quan.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính
sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục
tưởng, coi trọng giáo dục luận chủ nghĩa Mác - Lênin tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, phải giáo dục nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố,
bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên nhân dân nói chung,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay;
coi trọng việc gigìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo
đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích,
phải biết kết hợp hài hòa lợi ích nhân, lợi ích tập thể, lợi ích hội; phải động
trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức
và hành động của mình.
II, Thực tiễn: Liên hệ với quan niệm về hôn nhân của thế hệ trẻ thời nay
Quan niệm về hôn nhân gia đình một vấn đề rất đời thường nhưng cũng rất
quan trọng. cần được nhiều người chú ý bàn bạc lo lắng trong xu hướng phát
triển của hôn nhân hiện đại. Đây cũng là một vấn đề triết học của cuộc sống, chứa
đựng nhiều khía cạnh phong phú: triết học về nhân cách con người, triết học về
hạnh phúc cá nhân, triết học về sự giao lưu và nối tiếp giữa các thế hệ, v.v.. Đồng
thời, đây cũng là vấn đề phương pháp luận biện chứng khoa học về cách suy nghĩ
giải quyết tốt đẹp nhất một lĩnh vực bản: xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc khi gia đình được coi là tế bào cơ sở của xã hội Việt Nam
đang trong quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
lOMoARcPSD| 44985297
19
Trước hết, chúng ta cần hiểu hôn nhân những bản chất của hôn nhân
gì.Theo Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam, hôn nhân quan hệ giữa vợ
chồng sau khi đã thực hiện các quy định của pháp luật về kết hôn, nhằm chung
sống với nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững.
Theo Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2014, hôn nhân những đặc điểm
sau: Hôn nhân sliên kết giữa một người nam một người nữ - hôn nhân
một vợ một chồng. Để đảm bảo nguyên tắ'c hôn nhân một vợ một chồng, Luật Hôn
nhân gia đình quy định: cấm người đang vợ, chồng kết hôn hoặc chung
sống như vchồng với người khác hoặc cấm người chưa vợ, chưa có chồng
kết hôn hoặc chung sống như vchồng với người đang chồng, vợ (điểm c
khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13). Hôn nhân
là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ, do đó những người cùng giới
tính không thể xác lập quan hệ hôn nhân với nhau.
Nam nữ khi tham gia quan hệ hôn nhân được hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật.
Trong gia đình, mỗi bên vợ chồng nghĩa vụ quyền ngang nhau vmọi mặt.
Ngoài xã hội, với tư cách là công dân, mỗi bên vợ, chồng có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của cồng dân đã được Hiến pháp công nhận. Quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng còn thể hiện trong việc không phân biệt vợ chồng người Việt Nam háy
người nước ngoài, người thuộc dân tộc hoặc tôn giáo nào, quan hệ hôn nhân của
họ đều được tôn trọng bảo vệ (khoản 2 Điều 2 Luật hôn nhân gia đình năm 2014
số 52/2014/QH13).
Đặc biệt, theo Ph.Ăngghen, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, có một hình thức gia
đình phù hợp tương quan với sự biến đổi của phương thức sản xuất vật chất, từ đó,
ông khẳng định rằng, sự phát triển của các hình thức gia đình từ thấp đến cao
một tất yếu ca lịch sử, con người sẽ tiến đến hình thức hôn nhân cuối cùng, chế
độ hôn nhân một vợ, một chồng. Tuy nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng, mặc hôn
nhân một vợ, một chồng là hình thức của xã hội văn minh, nhưng khi mà nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ, nền sản xuất hội chủ nghĩa được thiết lập thì s
xuất hiện một kiểu gia đình mới cao hơn. Gia đình mới trong hội hội chủ
nghĩa hoàn toàn dựa tình yêu hôn nhân là tự nguyện của cả người đàn ông
người đàn bà, là nhu cầu bức thiết của con người tự do và là sở, nền tảng đxây
dựng gia đình một vợ, một chồng hạnh phúc, bền vững.
Hôn nhân đã luôn một chủ đề gợi nhiều suy ngtrong hội, đặc biệt hơn
trong thời đại ngày nay – khi mà internet đã và đang phát triển mạnh mẽ, kéo theo
sự tự do ngôn luận và những nền tảng tiện ích để con người nói lên tiếng nói của
mình dậy sóng, thì lại càng xuất hiện thêm nhiều quan điểm thú vị khi đề cập đến
lOMoARcPSD| 44985297
20
hôn nhân. Đó có thể là sự tiếp nối những nét đẹp cũ, cũng có thể là sự phá vỡ của
những điều lệ cổ hủ. Chính thế, khi soi lăng kính mình vào quan niệm hôn nhân
của người Việt ngày trước và ngày nay, ta dễ dàng nhận thấy nhiều đổi thay rệt.
Trong truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” câu chuyện người Việt dùng để
lý giải về xuất thân của dân tộc Kinh hay “Chuyện quả bầu”
4
truyện cổ tích của
dân tộc Khơ kể về nguồn gốc của các dân tộc trên đất nước ta, thì cả hai câu
chuyện đều lấy điểm đặt cho nguồn gốc của dân tộc Việt Nam một cặp vợ chồng,
hay nói chính xác hơn một cuộc hôn nhân. Nói cách khác, theo quan niệm xưa
của ông cha ta, hôn nhân chính là miếng trầu cho đầu câu chuyện, là nền móng dẫn
đến vô vàn cơ sự sau này.
Vào thời phong kiến, theo luân lý “tam cương ngũ thường” – một hệ thống những
luân và chuẩn mực đạo đức do Khổng Tử đặt ra mà nam giới phải tuân theo bên
cạnh “Tam tòng tứ đức” của nữ giới, việc hôn nhân của con cái hoàn toàn do cha
mẹ quyết định kiểm soát tức “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Nếu người con
không tuân theo chỉ định bề trên đặt ra thì chỉ có thể bỏ nhà ra đi, không thể kháng
cự lại sự áp đặt đó. Cốt lõi của những cuộc hôn nhân sắp đặt trên chính hướng
đến việc “môn đăng hộ đối”. Những yếu tố như gia cảnh, học vấn, địa vị hội
được đặt lên hàng đầu xem xét bởi các bậc trưởng bối thay nhìn nhận tới nhu
cầu tình cảm của hai chủ thể thực sự trong “mối lương duyên” đó. Bởi lẽ, người
xưa cho rằng mục đích của hôn nhân chính là để duy trì gia thống, rằng hôn nhân
việc của cả họ, cả tộc chứ không chỉ việc riêng của con cái. Điều này không
chỉ tránh xảy ra những xung đột, mâu thuẫn xảy đến chênh lệch giai cấp còn
nhằm củng cố cho lợi ích chung của hai bên; đặc biệt đối với những gia đình
giàu , quyền lực, địa vị cao trong hội, đảm bảo về mặt kinh tế, tránh bị
người đời dị nghị, lời ra tiếng vào vì đối với những gia đình này, thanh danh và gia
thống là hai điều được ưu tiên hơn cả.
Nếu như hiện tại, khi người chồng người vợ thly hôn một khi cảm thấy
không còn phù hợp với nhau nữa thì vào thời phong kiến, đơn cử là dưới thời nhà
trong bộ luật Hồng Đức, quy định của việc ly hôn dựa trên lỗi của cả vợ
chồng, nhưng đặc biệt nhấn mạnh lên “tội”, “lỗi” của người vợ. T heo quy định về
“thất xuất” của Bộ luật Hồng Đức, người chồng buộc phải bỏ (ly hôn) vkhi người
vợ bị tử (không con), đa ngôn (lắm lời), ghen tuông, gian dâm với kkhác
(ngoại tình, không chung thủy), có hành vi trộm cắp, bất kính với cha, mẹ chồng,
bị ác tật; trường hợp vợ cả, vợ lẽ phạm vào điều nghĩa tuyệt (thất xuất) người
chồng giấu diếm, không bỏ (ly hôn) thì bị xử tội biếm, tùy theo việc nặng nhẹ mà
xử.
4
Hôn nhân dưới góc nhìn thời đại- Marketing Văn Lang University

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
BÀI TẬP LỚN MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề bài: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Từ đó
lien hệ với quan niệm hôn nhân của người trẻ hiện nay.
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Lê Thư
Họ và tên sinh viên : Bùi Hà Thu Mã sinh viên : 11226038
Lớp học phần : Digital Marketing CLC 64D Hà Nội – 2022 1 lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................4
NỘI DUNG CHÍNH…......................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM
CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

.......................................................................................
1.1. Quan điểm về vật chất và ý thức
............................................................................................................. 5
1.1.1. Quan điểm về vật
điểm về ý thức....................................................................................7
1.2. Quan điểm Triết học Mác- Lênin về mối quan hệ biện
chứng giữa vật chất và ý thức
..............................................................................................................9
1.2.1. Vật chất quyết định ý thức
..............................................................................................................9
1.2.2. Ý thức có tính độc
lập tương đối, tác động trở lại vật chất............................................11 1.3. Ý nghĩa
phương pháp luận chung..................................................................12
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ VÀ ĐÁNH GIÁ VIỆC GIẢI
QUYẾT MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG THỰC TIỄN ĐỜI SỐNG SINH VIÊN HIỆN
NAY.....................................................................................................13
2.1.Liên hệ việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý
thức trong quan niệm hôn nhân của người trẻ hiện nay
.............................................................................................................13
2.2.Đánh giá việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức trong
đời sống sinh viên hiện nay............................................................17 KẾT LUẬN
................................................................................................ 2 lOMoAR cPSD| 44985297 Lời mở đầu
Như chúng ta thấy triết học Mác – Lênin trang bị cho con người hệ thống
các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học, giúp con
người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Những nguyên lý và quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, của chủ
nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và của triết học Mác – Lênin nói chung là sự
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ phổ biến nhất của
hiện thực khách quan. Trong Triết học Mác - Lênin có đề cập đến quan niệm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức. Ta thấy rằng vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực tiễn, trong mối quan hệ đó thì
vật chất giữ vai trò quyết định đối với ý thức. Tiếp đến, trong thực tiễn đời sống
sinh viên hiện nay thì khi sinh viên vận dụng một cách hiệu quả mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức sẽ giúp cho bản thân mỗi người có thêm
nhiều kiến thức, sự hiểu biết đa dạng, phẩm chất tốt, có định hướng nghề nghiệp
hiệu quả, lựa chọn ngành học một cách hợp lý từ đó hoàn thiện bản thân hơn nữa
khiến bản thân trở thành những người có ích cho gia đình và xã hội. Từ quá trình
học tập, mỗi người sẽ áp dụng được những kiến thức lý thuyết vào trong hoạt
động thực tiễn cuộc sống, cống hiến sức lực, tư duy của bản thân khiến cho đất
nước ngày càng giàu mạnh và phát triển. Xuất phát từ ý nghĩa và mục đích như
trên, là cơ sở để em chọn đề tài: “Phân tích quan điểm của triết học Mác -Lênin
về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Liên hệ và đánh giá việc giải
quyết mối quan hệ này trong thực tiễn quan niệm tình yêu của thah niên thời nay.
I, Phân tích lý luận
1, Bàn luận về định nghĩa vật chất của Lênin
a,Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan
nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Bản thân quan niệm của chủ
nghĩa duy vật về phạm trù vật chất cũng trải qua lịch sử phát triển lâu dài, gắn liền
với những tiến bộ của khoa học và thực tiễn.
b,Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước C.Mác về
phạm trù vật chất
Quan điểm nhất quán từ xưa đến nay của các nhà triết học duy vật là thừa nhận sự
tồn tại khách quan của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích tự 3 lOMoAR cPSD| 44985297
nhiên. Lập trường đó là đúng đắn, song chưa đủ để các nhà duy vật trước C. Mác
đi đến một quan niệm hoàn chỉnh về phạm trù nền tảng này. Tuy vậy, cùng với
những tiến bộ của lịch sử, quan niệm của các nhà triết học duy vật về vật chất cũng
từng bước phát triển theo hướng ngày càng sâu sắc và trừu tượng hoá khoa học hơn.
Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp - La Mã, Trung Quốc, Ấn
Độ cho rằng vật chất là một vật cụ thể, hữu hình đang tồn tại ở thế giới bên
ngoài. Chẳng hạn, Thales định nghĩa vật chất là nước bởi ông cho rằng, nước
tồn tại ở khắp mọi nơi. Mọi vật khởi nguồn từ nước và cuối cùng lại phân hủy
thành nước. Một số nhà triết học Trung Quốc lại cho rằng 5 yếu tố cốt lõi cấu
thành nên mọi vật là Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ (thuyết Ngũ hành). Trong
khi ở Ấn Độ, phái Lokayata quan niệm vật chất có các hình thức khác nhau: đất,
nước, lửa gió. Tuy nhiên, nhìn chung chủ nghĩa duy vật cũ đã sai lầm khi đồng
nhất vật chất với một số dạng cụ thể của vật chất.
Một bước tiến quan trọng đánh dấu cho sự phát triển của phạm trù vật chất là
định nghĩa vật chất của 2 nhà triết học cổ đại ở Hy Lạp là Leucippus (500 - 440
TCN) và Democritus (khoảng 427-374 TCN). Hai triết gia này đều cho rằng vật
chất chính là nguyên tử. Theo họ, nguyên tử là hạt nhỏ nhất, không thể phân
chia, tồn tại vĩnh cửu. Sự phong phú về hình dạng, vị trí và cách sắp xếp của
chúng quyết định sự đa dạng của sự vật. Khái niệm này là một bước tiến dài
trong việc tìm kiếm định nghĩa chính xác về vật chất, mà nó còn đóng vai trò như
một lời tiên tri khoa học xuất sắc của con người về cấu trúc của thế giới vật chất nói chung1
Chủ nghĩa duy vật cận đại (thế kỷ XV - XVIII) ở phương Tây đã có sự bứt
phá hơn phương Đông nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của cơ học và khoa học
thực nghiệm. Thuyết nguyên tử vẫn được củng cố mạnh mẽ nhờ nghiên cứu của
các nhà khoa học như Galileo Galilei, Francis Bacon hay thành công vang dội
của Newton trong vật lí học cổ điển. Tuy nhiên, phương pháp tư duy siêu hình
của các nhà triết học vẫn còn nhiều hạn chế do chưa đưa ra được một định nghĩa
mang tính khái quát chung cho phạm trù vật chất. Do nghiên cứu các sự vật một
cách máy móc, trong trạng thái cô lập và không có mối liên hệ gì với nhau nên
vật chất đã bị đồng nhất với khối lượng. Cũng có một số nhà triết học như René
Descartes hay Immanuel Kant cố gắng vạch ra những sai lầm của thuyết nguyên
tử nhưng vẫn không làm thay đổi cái nhìn cơ học về thế giới. Nhìn chung, chủ
nghĩa duy vật cận đại “chỉ thấy cây mà không thấy rừng” nói như Mác và Ăngghen.
1 Biên niên sử các phát minh – Wikipedia tiếng Việt. (n.d.). Wikipedia. 4 lOMoAR cPSD| 44985297
c, Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đã
thay đổi hoàn toàn tư duy duy vật siêu hình về vật chất
Röntgen phát hiện ra tia X vào năm 1895. Một năm sau, Becquerel phát hiện ra
hiện tượng phóng xạ của nguyên tố Urani. Đến năm 1987, Tomson phát hiện ra
điện tử. Đặc biệt năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện
tử thay đổi theo vận tốc của nguyên tử chứ không bất biến. Từ năm 1898 đến
1902, 2 vợ chồng nhà khoa học Pierre Curie và Marie Curie đã khám pha ra chất
phóng xạ mạnh là Polonium và Radium. Những phát minh vĩ đại đó đã chứng
minh được rằng nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất như hai triết gia cổ đại
đã khẳng định. Năm 1905, Thuyết Tương đối của Albert Einstein ra đời, chứng tỏ
rằng: không gian, thời gian và khối lượng luôn biến đổi cùng sự vận động của thế
giới vật chất. Những phát hiện này đã làm “chao đảo” thế giới quan của giới các
nhà khoa học tự nhiên và triết gia với tư duy duy vật siêu hình, khiến họ dần rơi
vào chủ nghĩa duy tâm. Lenin coi cuộc khủng hoảng vật lí học này là “thời kỳ
ốm đau ngắn ngủi” và để chiến thắng được nó, “chủ nghĩa duy vật biện chứng
phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”. Từ những yêu cầu của thời đại, định
nghĩa về vật chất của Lenin ra đời, một mặt kế thừa những tinh hoa của các thành
tựu khoa học tự nhiên, mặt khác dựa trên cơ sở tư tưởng triết học của Marx và
Engels để tiếp tục phát triển.
2, Phương pháp định nghĩa của Lenin
Để có thể thấy được tính đúng đắn và ưu việt trong định nghĩa về vật chất của
Lenin, trước hết ta cần tìm hiểu phương pháp định nghĩa của ông. Trước đây, các
triết gia dùng phương pháp loại suy: tìm ra các điểm tương đồng giữa các sự vật
để rút ra kết luận. Tuy nhiên, phạm trù vật chất vô cùng rộng lớn và khó có thể
bao quát được hết tất cả các đặc điểm của nó. Chính vì vậy Lenin đã sử dụng
phương pháp đối lập vật chất với ý thức - 2 phạm trù rộng tương đương nhau để
đưa ra một định nghĩa khái quát nhất về thế giới vật chất.
Giải thích định nghĩa về vật chất của Lenin
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lenin
đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác Định nghĩa trên gồm các nội dung cơ bản sau đây: Một là,
vật chất là một phạm trù triết học rộng lớn, mang tính khái quát và trừu tượng
hóa, nghĩa là nó mang các đặc tính chung nhất, bản chất nhất mà mọi sự vật, hiện
tượng nào thuộc vật chất đều có. Vật chất chỉ các vật cụ thể, nhưng các vật cụ thể
như cái bàn, cái ghế,... không thể khái quát thành phạm trù vật chất. Thuộc tính
chung nhất giúp phân biệt vật chất với cái không phải là vật chất là: vật chất tồn 5 lOMoAR cPSD| 44985297
2tại với tư cách là hiện thực khách quan và tồn tại ngoài ý th3ức. Vật chất tồn tại
bất kể con người đã nhận thức được về nó hay chưa. Nói cách khác, vật chất
không phải hư vô, không phải một lực lượng siêu nhiên tồn tại lơ lửng như chủ
nghĩa duy tâm đã quan niệm mà nó là hiện thực, là cái có trước, tồn tại khách
quan, độc lập với ý thức của con người hay vật chất đã quy định, quyết định ý
thức. Nói tóm lại, phạm trù vật chất vừa mang tính trừu tượng, vừa mang tính
hiện thực cụ thể. Bởi “chúng ta không biết, vì chưa có ai nhìn được và cảm thấy
vật chất với tính cách là vật chất…bằng con đường cảm tính nào khác”. (C.Mác
và P.Ăngghen: toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 1994, tr.726). Tuy
nhiên, nếu tuyệt đối hóa tính hiện thực cụ thể thì sẽ vô tình đồng nhất vật chất
với một dạng cụ thể của vật chất. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính trừu tượng sẽ
dễ rơi vào sự sai lầm của Chủ nghĩa duy tâm mà không thấy được những thuộc
tính của vật chất. Khẳng định này của Lenin mang một ý nghĩa quan trọng: khắc
phục triệt để sự sai lầm của chủ nghĩa duy vật cũ khi đồng nhất vật chất với vật
thể, giúp các nhà khoa học tự nhiên thoát khỏi khủng hoảng thế giới quan để từ
đó khuyến khích họ khám phá cũng thuộc tính mới của vật chất, làm đa dạng và
phong phú tri thức nhân loại. Đây không chỉ là một bước tiến mới của chủ nghĩa
duy vật, đáp ứng được sự tiến bộ cũng như những đòi hỏi mới của khoa học, kỹ
thuật mà còn cho chúng ta cơ sở khoa học để nhìn nhận vật chất. Đồng thời, nội
dung này cũng bác bỏ được những luận điệu xuyên tạc của thế giới quan duy tâm về lĩnh vực xã hội.
Hai là, vật chất khi tác động vào các giác quan của con người đem lại cho con
người cảm giác. V.I.Lenin muốn khẳng định rằng: hiện thực khách quan tồn tại
không lệ thuộc vào ý thức mà biểu hiện sự tồn tại của mình dưới dạng các thực
thể. Các thực thể này bằng cách gián tiếp hay trực tiếp tác động vào con người
đều đem lại cho con người những cảm giác. Từ những cảm giác này, chúng ta có
được sự hiểu biết và nhận thức được vật chất. Tóm lại, Lenin muốn làm rõ mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức: hiện thực khách quan (hay vật chất) là cái có
trước, tồn tạiđộc lập, không phụ thuộc vào ý thức. Còn ý thức là cái có sau vật
chất, bị quyết định bởi vật chất. Vật chất (cái bị phản ánh) là nguồn gốc khách
quan của tri thức, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức (cái phản ánh). Câu thành
ngữ “Có thực mới vực được đạo” chính là một ví dụ cho quan điểm của chủ nghĩa
duy vật, rằng yếu tố vật chất sẽ quyết định yếu tố tinh thần. Khẳng định này đã
2 ). Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Chính Trị Quốc Gia
Sự Thật. 7. V.I.Lênin toàn tập. (1980). Chính trị Quốc gia - Sự thật 6 lOMoAR cPSD| 44985297 3
chống lại chủ nghĩa duy tâm khi trường phái này cho rằng ý thức, hay cảm giác là
cái sinh ra mọi sự vật, hiện tượng mà ta thấy xung quanh
Ba là, thực tại khách quan là cái được cảm giác chụp lại, phản ánh lại. Nghĩa là,
vật chất không phải những hiện tượng vô hình, bí ẩn tồn tại một cách trừu tượng,
ngược lại, vật chất được biểu hiện qua các dạng cụ thể, tổn tại khách quan và
không lệ thuộc vào ý thức, cảm giác của con người. Các hiện tượng tinh thần là sự
sao chụp lại, phản ánh lại của bản gốc là thế giới vật chất.
Như vậy, có thể kết luận con người có thể nhận thức được thế giới khách quan
thông qua nhiều phương pháp khác nhau như chép lại, chụp lại, phản ánh một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Về nguyên tắc, trong thế giới vật chất không có đối
tượng nào là không thể nhận biết,chỉ có những đối tượng con người chưa khám
phá ra, chưa nhận thức được do giới hạn về mặt tri thức ở những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Khẳng định này đã chống lại quan điểm của George Berkeley, Ernst Mach khi
cho rằng ý thức của con người là cái có trước và sinh ra vật chất. Berkeley cho
rằng “Tồn tại là được tri giác”, hay nói cách khác thế giới khách quan chỉ trong
trí óc của chúng ta. Tuy nhiên, đây là quan điểm sai lầm và Lenin đã chứng minh
được điều ngược lại: thế giới vật chất vốn tồn tại độc lập và là cái quyết định, nảy
sinh ra cảm giác. Đồng thời, nội dung định nghĩa về vật chất của Lenin đã hoàn
toàn bác bỏ Thuyết bất khả tri, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu vào tìm
hiểu, khám phá ra những đặc tính mới cũng như quy luật vận hành của thế giới
vật chất, góp phần làm giàu kho tri thức nhân loại. Nói tóm lại, dựa trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, định nghĩa về vật chất của V.I. Lenin
đã giải quyết hai vấn đề cơ bản của Triết học một cách sâu sắc: vật chất là cái có
trước, là cái quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất; đồng
thời khẳng định khả năng nhận thức về thế giới của con người. Định nghĩa vật
chất của Lenin đã bác bỏ Thuyết bất khả tri và quan điểm duy tâm, khắc phục tư
duy siêu hình, tạo cơ sở lí luận từ đó định hướng cho sự phát triển của nhận thức
khoa học. Không chỉ đưa ra thế giới quan khoa học đúng đắn, định nghĩa của
Lenin còn mang ý nghĩa phương pháp luận giúp chúng ta trong quá trình nhận
thức và hoạt động thực tiễn. 6. Ý nghĩa phương pháp luận Từ định nghĩa của
Lenin, có thể rút ra một số nguyên tắc mang tính phương pháp luận như sau: chỉ
có những đối tượng con người chưa khám phá ra, chưa nhận thức được do giới
hạn về mặt tri thức ở những giai đoạn lịch sử khác nhau. Khẳng định này đã 7 lOMoAR cPSD| 44985297
chống lại quan điểm của George Berkeley, Ernst Mach khi cho rằng ý thức của
con người là cái có trước và sinh ra vật chất. Berkeley cho rằng “Tồn tại là được
tri giác”, hay nói cách khác thế giới khách quan chỉ trong trí óc của chúng ta. Tuy
nhiên, đây là quan điểm sai lầm và Lenin đã chứng minh được điều ngược lại: thế
giới vật chất vốn tồn tại độc lập và là cái quyết định, nảy sinh ra cảm giác.
Đồng thời, nội dung định nghĩa về vật chất của Lenin đã hoàn toàn bác bỏ Thuyết
bất khả tri, khuyến khích các nhà khoa học đi sâu vào tìm hiểu, khám phá ra
những đặc tính mới cũng như quy luật vận hành của thế giới vật chất, góp phần
làm giàu kho tri thức nhân loại.
Nói tóm lại, dựa trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, định nghĩa về
vật chất của V.I. Lenin đã giải quyết hai vấn đề cơ bản của Triết học một cách sâu
sắc: vật chất là cái có trước, là cái quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động
trở lại vật chất; đồng thời khẳng định khả năng nhận thức về thế giới của con
người. Định nghĩa vật chất của Lenin đã bác bỏ Thuyết bất khả tri và quan điểm
duy tâm, khắc phục tư duy siêu hình, tạo cơ sở lý luận từ đó định hướng cho sự
phát triển của nhận thức khoa học. Không chỉ đưa ra thế giới quan khoa học đúng
đắn, định nghĩa của Lenin còn mang ý nghĩa phương pháp luận giúp chúng ta
trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ định nghĩa của Lenin, có thể rút ra một số nguyên tắc mang tính phương pháp luận như sau:
Một là phải biết tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng sự thật, tránh sa đà
vào chủ quan duy ý chí: chỉ quan tâm tới nguyện vọng, mong muốn của mình mà
bỏ qua hiện thực khách quan. Ví dụ như không được lấy ảo tưởng của mình để áp
đặt lên thực tế, hành động theo cảm tính mà không dựa trên hiện thực khách quan
để phân biệt đúng sai.
Hai là phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức bởi ý thức có thể
tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Đồng thời
cần khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động. ỷ lại, không dám vượt lên hoàn cảnh.
Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Vật chất tồn tại bằng cách vận động. Các dạng cụ thể của vật chất phải có thuộc
tính ấy, luôn luôn trong quá trình biến đổi không ngừng. Bất kì sự vật, hiện tượng
nào cũng là một thể thống nhất có kết cấu nhất định và trong hệ thống ấy, các mặt,
các bộ phận của chúng tác động qua lại lẫn nhau gây ra sự biến đổi. Chính vì vậy,
bản chất của sự vận động vật chất là tự thân vận động. Engels đã chỉ ra rằng “Các
hình thức và các dạng khác nhau của vật chất chỉ có thể nhận thức được thông qua
vận động…”, tức là con người chỉ nhận thức được sâu sắc thế giới vật chất qua 8 lOMoAR cPSD| 44985297
quá trình vận động của chúng. Đứng im cũng là một biểu hiện của trạng thái vận
động trong sự ổn định tương đối, tuy nhiên nỏ chỉ mang tính nhất thời, chỉ xảy ra
trong mối quan hệ nhất định
Vật chất có rất nhiều hình thức vận động mà Engels đã chia ra thành 5 hình thức
cơ bản: cơ học, vật lí, hóa học, sinh học và xã hội. Sự vận động của vật chất được
xem xét ở hai hình thức tồn tại là không gian và thời gian. Không gian bao gồm
vị trí tự nhiên và các mối liên hệ, tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng.
Còn thời gian ám chỉ giai đoạn ra đời, phát triển và tiêu vong của sự vật. Hai
hình thức tồn tại này luôn song hành, gắn bó chặt chẽ với nhau bởi không có sự
vật, hiện tượng nào tồn tại trong không gian mà không có quá trình diễn biến của
nó, cũng như không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại theo thời gian mà không có
kết cấu, quảng tính nhất định.
2, Bàn luận về ý thức a,
Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con
người và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ
óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc.
Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý
thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình
tiến hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư
duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh
của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản
ánh năng động, sáng tạo:
Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con
người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan, thông qua hoạt động
của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo
ở dạng vật chất chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất
tác động. Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản
ánh và cái được phản ánh không tách rời nhau nhưng không đồng nhất với nhau.
Cái được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc
điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật 9 lOMoAR cPSD| 44985297
chất khác (dạng vật chất nhận sự tác động). Phản ánh là thuộc tính của tất cả các
dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức. Những hình thức
này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất. Phản ánh vật lý, hóa học là hình
thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện
qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng
vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng
lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh
học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là
phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh
trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc…khi nhận sự tác động trong
môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra
năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh
qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường
lên cơ thể sống. Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật cóhệ thần kinh trung
ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất có tổ chức cao nhất, có tổ chức
cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá
trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác
động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa
chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa
của thông tin. Sự phản ánh sáng tạo năng động này được gọi là ý thức.
Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. hai yếu tố này vừa là nguồn
gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong
đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa
mình với giới tự nhiên. Đây cũng là qúa trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại
dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ
não,… của con người. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới
khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu,
những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà
con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của 10 lOMoAR cPSD| 44985297
các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con
người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói
chung.Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách
quan thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải
có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay
trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi
mà còn khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất
quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời
với lao động là ngôn ngữ; đó là hai chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn
dần dần chuyển hóa thành bộ óc người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
Bản chất của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin,
chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin
đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được
tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện
ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời
sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người. Ý thức là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh về thế giới khách
quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về hình thức
biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến
thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là
vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của
ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật
sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các
điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. Kết cấu ý thức 11 lOMoAR cPSD| 44985297
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận,
nghiên cứu về kết cấu của ý thức. a) Theo các yếu tố hợp thành
Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm
và ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể
bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,…
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu
hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo
đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”. Căn cứ
vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về tự
nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn.
Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời
thường và tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm
tính và tri thức lý tính,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể
có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những
người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri
thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân
tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác
b) Theo chiều sâu của nội tâm
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
Tự ý thức: Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời
cũng tự nhận thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng 12 lOMoAR cPSD| 44985297
là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân
mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự
nhận thức về bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có
các hành vi đạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người về
bản thân mình trên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành
tự ý thức. Con người chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với những
người khác, trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội,
trong hoạt động thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần
do chính con người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân
mình, tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của
một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những
quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai
cấp mình, hay của tầng lớp mình.
Tiềm thức: Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của
chủ thể, song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới
sự kiểm soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể
đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong
tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể
chủ động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm
soát chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động
tâm lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học,
tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy
thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của
đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một cách
lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học.
Vô thức: Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ,
hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa
có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí. Vô thức biểu
hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi
miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện tượng ấy có vùng hoạt
động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức năng chung là
giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất là những ham
muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy tắc của đời sống
cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh thần của con
người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, “libiđo”…
Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của
con người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần 13 lOMoAR cPSD| 44985297
thiếtkhi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người đặt ra được thực
hiện một cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò cái vô thức trong cuộc
sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.Tuy
nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi vô
thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung quanh
không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con người có
ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô thức. Nhờ
có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân, thiện, mỹ.
Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
3, Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ vật chất và ý thức là "Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là của
triết học hiện đại"[1]. Tuỳ theo lập trường thế giới quan khác nhau, khi giải quyết
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức mà hình thành hai đường lối cơ bản trong triết
học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình
Trong lịch sử triết học, khi lý giải mối quan hệ vật chất - ý thức, các nhà triết học
đã phạm nhiều sai lầm chủ quan, phiến diện do không hiểu được bản chất thực sự
của vật chất và ý thức.
Đối với chủ nghĩa duy tâm, ý thức, tinh thần vốn có của con người đã bị trừu
tượng hoá, tách khỏi con người hiện thực thành một lực lượng thần bí, tiên thiên.
Họ coi ý thức là tồn tại duy nhất, tuyệt đối, là tính thứ nhất từ đó sinh ra tất cả; còn
thế giới vật chất chỉ là bản sao, biểu hiện khác của ý thức tinh thần, là tính thứ hai,
do ý thức tinh thần sinh ra. Trên thực tế, chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của tôn
giáo, chủ nghĩa ngu dân. Mọi con đường mà chủ nghĩa duy tâm mở ra đều dẫn con
người đến với thần học, với "đường sáng thế". Trong thực tiễn, người duy tâm phủ
nhận tính khách quan, cường điệu vai trò nhân tố chủ quan, duy ý chí, hành động
bất chấp điều kiện, quy luật khách quan.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, tuyệt đối hoá yếu tố vật chất, chỉ nhấn mạnh một
chiều vai trò của vật chất sinh ra ý thức, quyết định ý thức, phủ nhận tính độc lập
tương đối của ý thức, không thấy được tính năng động, sáng tạo, vai trò to lớn của
ý thức trong hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan. Do vậy, họ đã phạm
nhiều sai lầm có tính nguyên tắc bởi thái độ "khách quan chủ nghĩa", thụ động, ỷ
lại, trông chờ không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn.
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Kiên trì đường lối duy vật, nắm vững phép biện chứng, luôn theo sát và kịp thời
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của 14 lOMoAR cPSD| 44985297
chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục được những sai lầm, hạn chế của các quan
niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học, khái quát đúng đắn
về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng.
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
* Vật chất quyết định ý thức.
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía cạnh
sau: Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức. Bộ
óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản ánh để hình
thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong
quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế giới vật chất là yếu
tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc người.Vật chất “sinh” ra
ý thức, vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người cách đây từ 3
đến 7 triệu năm, mà con người là kết quả của một quá trình phát triển, tiến hóa lâu
dài, phức tạp của giới tự nhiên, của thế giới vật chất. Con người do giới tự nhiên,
vật chất sinh ra, cho nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính của bộ phận con người
- cũng do giới tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện
đại đã chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có
trước, còn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, còn ý thức là tính thứ hai.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức.
VD: Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 vềcông nghệ thông tin là
rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dậy
còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ
thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ tốt hơn rất nhiều.
Ý thức dưới bất kỳ hình thức nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách
quan. Ý thức mà trong nội dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện
thực khách quan vào trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện
thực vận động, phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh
vào ý thức mới có nội dung của ý thức.
Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là hoạt động thực tiễn có tính xã hội,
lịch sử của loài người là yếu tố quyết định nội dung mà ý thức phản ảnh.Ý thức chỉ
là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề
rộng và chiều sâu là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu
sắc của nội dung của tư duy, ý thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ
mông muội tới văn minh, hiện đại. 15 lOMoAR cPSD| 44985297
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức.
Nhưng sự phản ánh của con người không phải là "soi gương", "chụp ảnh" hoặc là
"phản ánh tâm lý" như con vật mà là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua
thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những
sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật
chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật
chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý
thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng
tạo và sáng tạo trong phản ánh.
Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức.
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất;
vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người -
một sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triển cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên
ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và hình
thức phản ánh của nó. Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học ngày càng
phát triển đã chứng minh điều đó. Sự vận động, biến đổi không ngừng của thế giới
vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư duy, ý thức
của con người. Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
được biểu hiện ở vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sống vật chất đối với đời
sống tinh thần, tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của
kinh tế xét đến cùng quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi
thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.
Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận
thức luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I. Lênin, rằng "sự đối
lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức
hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là
thừa nhận cái gì có trước và cái gì là cái có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không còn
nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là tương đối"[1]. Ở đây, tính tương đối của sự
đối lập giữa vật chất và ý thức thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc
biệt - bộ óc người và thuộc tính của chính nó
* Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.
Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản ánh
thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chất sinh ra, nhưng khi đã ra
đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng, không
lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời thì có tính độc 16 lOMoAR cPSD| 44985297
lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể thay đổi nhanh,
chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm
so với sự biến đổi của thế giới vật chất.3
Thứ hai, Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ họat đông thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều
kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho
cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì không thể biến đổi được hiện
thực. Con người dựa trên những tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những
quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, biện pháp và ý chí quyết
tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách
mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân – lực lượng vật chất xã hội, thì
có vai trò rất to lớn. "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự
phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật
chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng"[1].
Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của con
người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành
công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự báo, tiên đoán
một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên những lý luận định hướng
đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên,
cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên
gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, của
tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt
quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều
kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt. Nếu quên điều đó
chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan, duy tâm, duy ý chí, phiêu
lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt động thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận
3 [1] V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1980, t. 18, tr. 173. 17 lOMoAR cPSD| 44985297
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra nguyên
tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan
. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế
hoạch, mục tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều
kiện, tiền đề vật chất hiện có. Phải tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan,
nếu không làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn
lường. Nhận thức sự vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, trách tô hồng hoặc
bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó không có.
Văn kiện Đại hội XII chủ trương phải nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng,
nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự vật hiện tượng đó với những thuộc tính,
mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ
quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính
sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục
tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố,
bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung,
nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá hiện nay;
coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo
đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.
Để thực hiện nguyên tắc tôn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan, chúng ta còn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích,
phải biết kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động
cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi trong nhận thức
và hành động của mình.
II, Thực tiễn: Liên hệ với quan niệm về hôn nhân của thế hệ trẻ thời nay
Quan niệm về hôn nhân và gia đình là một vấn đề rất đời thường nhưng cũng rất
quan trọng. Nó cần được nhiều người chú ý bàn bạc và lo lắng trong xu hướng phát
triển của hôn nhân hiện đại. Đây cũng là một vấn đề triết học của cuộc sống, chứa
đựng nhiều khía cạnh phong phú: triết học về nhân cách con người, triết học về
hạnh phúc cá nhân, triết học về sự giao lưu và nối tiếp giữa các thế hệ, v.v.. Đồng
thời, đây cũng là vấn đề phương pháp luận biện chứng khoa học về cách suy nghĩ
và giải quyết tốt đẹp nhất một lĩnh vực cơ bản: xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc khi gia đình được coi là tế bào cơ sở của xã hội Việt Nam
đang trong quá trình đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 18 lOMoAR cPSD| 44985297
Trước hết, chúng ta cần hiểu rõ hôn nhân và những bản chất của hôn nhân là
gì.Theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, hôn nhân là quan hệ giữa vợ và
chồng sau khi đã thực hiện các quy định của pháp luật về kết hôn, nhằm chung
sống với nhau và xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014, hôn nhân có những đặc điểm
sau: Hôn nhân là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ - là hôn nhân
một vợ một chồng. Để đảm bảo nguyên tắ'c hôn nhân một vợ một chồng, Luật Hôn
nhân và gia đình quy định: cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng với người khác hoặc cấm người chưa có vợ, chưa có chồng mà
kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ (điểm c
khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13). Hôn nhân
là sự liên kết giữa một người nam và một người nữ, do đó những người cùng giới
tính không thể xác lập quan hệ hôn nhân với nhau.
Nam nữ khi tham gia quan hệ hôn nhân được hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật.
Trong gia đình, mỗi bên vợ chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt.
Ngoài xã hội, với tư cách là công dân, mỗi bên vợ, chồng có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ của cồng dân đã được Hiến pháp công nhận. Quyền bình đẳng giữa vợ và
chồng còn thể hiện trong việc không phân biệt vợ chồng là người Việt Nam háy
người nước ngoài, người thuộc dân tộc hoặc tôn giáo nào, quan hệ hôn nhân của
họ đều được tôn trọng và bảo vệ (khoản 2 Điều 2 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13).
Đặc biệt, theo Ph.Ăngghen, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, có một hình thức gia
đình phù hợp tương quan với sự biến đổi của phương thức sản xuất vật chất, từ đó,
ông khẳng định rằng, sự phát triển của các hình thức gia đình từ thấp đến cao là
một tất yếu của lịch sử, và con người sẽ tiến đến hình thức hôn nhân cuối cùng, chế
độ hôn nhân một vợ, một chồng. Tuy nhiên, Ph.Ăngghen cho rằng, mặc dù hôn
nhân một vợ, một chồng là hình thức của xã hội văn minh, nhưng khi mà nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ, nền sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập thì sẽ
xuất hiện một kiểu gia đình mới cao hơn. Gia đình mới trong xã hội xã hội chủ
nghĩa hoàn toàn dựa tình yêu và hôn nhân là tự nguyện của cả người đàn ông và
người đàn bà, là nhu cầu bức thiết của con người tự do và là cơ sở, nền tảng để xây
dựng gia đình một vợ, một chồng hạnh phúc, bền vững.
Hôn nhân đã luôn là một chủ đề gợi nhiều suy nghĩ trong xã hội, đặc biệt hơn là
trong thời đại ngày nay – khi mà internet đã và đang phát triển mạnh mẽ, kéo theo
sự tự do ngôn luận và những nền tảng tiện ích để con người nói lên tiếng nói của
mình dậy sóng, thì lại càng xuất hiện thêm nhiều quan điểm thú vị khi đề cập đến 19 lOMoAR cPSD| 44985297
hôn nhân. Đó có thể là sự tiếp nối những nét đẹp cũ, cũng có thể là sự phá vỡ của
những điều lệ cổ hủ. Chính vì thế, khi soi lăng kính mình vào quan niệm hôn nhân
của người Việt ngày trước và ngày nay, ta dễ dàng nhận thấy nhiều đổi thay rõ rệt.
Trong truyền thuyết “Con Rồng cháu Tiên” – câu chuyện mà người Việt dùng để
lý giải về xuất thân của dân tộc Kinh hay “Chuyện quả bầu” –4 truyện cổ tích của
dân tộc Khơ Mú kể về nguồn gốc của các dân tộc trên đất nước ta, thì cả hai câu
chuyện đều lấy điểm đặt cho nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là một cặp vợ chồng,
hay nói chính xác hơn là một cuộc hôn nhân. Nói cách khác, theo quan niệm xưa
của ông cha ta, hôn nhân chính là miếng trầu cho đầu câu chuyện, là nền móng dẫn
đến vô vàn cơ sự sau này.
Vào thời phong kiến, theo luân lý “tam cương ngũ thường” – một hệ thống những
luân lý và chuẩn mực đạo đức do Khổng Tử đặt ra mà nam giới phải tuân theo bên
cạnh “Tam tòng tứ đức” của nữ giới, việc hôn nhân của con cái hoàn toàn do cha
mẹ quyết định và kiểm soát – tức là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Nếu người con
không tuân theo chỉ định bề trên đặt ra thì chỉ có thể bỏ nhà ra đi, không thể kháng
cự lại sự áp đặt đó. Cốt lõi của những cuộc hôn nhân sắp đặt trên chính là hướng
đến việc “môn đăng hộ đối”. Những yếu tố như gia cảnh, học vấn, địa vị xã hội
được đặt lên hàng đầu mà xem xét bởi các bậc trưởng bối thay vì nhìn nhận tới nhu
cầu tình cảm của hai chủ thể thực sự trong “mối lương duyên” đó. Bởi lẽ, người
xưa cho rằng mục đích của hôn nhân chính là để duy trì gia thống, rằng hôn nhân
là việc của cả họ, cả tộc chứ không chỉ là việc riêng của con cái. Điều này không
chỉ tránh xảy ra những xung đột, mâu thuẫn xảy đến vì chênh lệch giai cấp mà còn
nhằm củng cố cho lợi ích chung của hai bên; đặc biệt là đối với những gia đình
giàu có, quyền lực, có địa vị cao trong xã hội, đảm bảo về mặt kinh tế, tránh bị
người đời dị nghị, lời ra tiếng vào vì đối với những gia đình này, thanh danh và gia
thống là hai điều được ưu tiên hơn cả.
Nếu như hiện tại, khi người chồng và người vợ có thể ly hôn một khi cảm thấy
không còn phù hợp với nhau nữa thì vào thời phong kiến, đơn cử là dưới thời nhà
Lê trong bộ luật Hồng Đức, quy định của việc ly hôn dựa trên lỗi của cả vợ và
chồng, nhưng đặc biệt nhấn mạnh lên “tội”, “lỗi” của người vợ. T heo quy định về
“thất xuất” của Bộ luật Hồng Đức, người chồng buộc phải bỏ (ly hôn) vợ khi người
vợ bị vô tử (không có con), đa ngôn (lắm lời), ghen tuông, gian dâm với kẻ khác
(ngoại tình, không chung thủy), có hành vi trộm cắp, bất kính với cha, mẹ chồng,
bị ác tật; trường hợp vợ cả, vợ lẽ phạm vào điều nghĩa tuyệt (thất xuất) mà người
chồng giấu diếm, không bỏ (ly hôn) thì bị xử tội biếm, tùy theo việc nặng nhẹ mà xử.
4 Hôn nhân dưới góc nhìn thời đại- Marketing Văn Lang University 20