





Preview text:
ĐỀ 1
Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; ý nghĩa phương pháp luận
và liên hệ với thực tế đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Bài làm:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng, trong đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất. 1. Vật chất
a. Quan điểm của các nhà triết học về vật chất trước Mác- Lê Nin
Chủ nghĩa duy tâm: bản chất của thế giới, cơ sở của mọi tồn tại là bản nguyên
tinh thần còn vật chất chỉ là sản phẩm của bản nguyên tinh thần ấy
Chủ nghĩa duy vật quan niệm: bản chất của thế giới, thực thể của thế giới là vật
chất – cái tồn tại vĩnh viễn, tạo nên mọi sự vật, hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng.
Các nhà triết học trước Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm đã
hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Tuy nhiên tất cả họ đều
mắc phải hạn chế lớn nhất là đồng nhất vật chất với vật thể hoặc một thuộc tính
nào đó của vật thể, họ không thấy được sự tồn tại của vật chất gắn liền với vận
động và họ không chỉ ra được biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội.
b. Định nghĩa vật chất theo Mác-Lê Nin
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, và được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác”
Qua định nghĩa của Mác-Lê Nin về vật chất, ta có thể hiểu rằng: Vật chất là một
phạm trù triết học (là phạm trù rộng nhất) dùng để chỉ thực tại khách quan. Vì
vậy không thể đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất (như đất,
nước, nguyên tử...). Thuộc tính cơ bản của vật chất là “tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác” và đây cũng chính là tiêu chuẩn phân biệt cái gì là vật chất/không
phải vật chất. “TTKQ được cảm giác chép lại...tồn tại không lệ thuộc vào CG”
đã khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau. TTKQ được cảm giác chép/chụp
lại, phản ánh, điều đó khẳng định: Vật chất được biểu hiện thông qua các dạng
cụ thể của nó, bằng “cảm giác” (ý thức) con người có thể nhận thức được TGVC.
Từ định nghĩa, Lê nin đã giải quyết được hai vấn đề cơ bản của triết học trên
quan điểm duy vật biện chứng:
- Vật chất quyết định ý thức
- Con người có khả năng nhận thức được TGVC.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Định nghĩa đã chống lại tất cả các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về PT vật chất.
- Khắc phục triệt để tính trực quan siêu hình máy móc của chủ nghĩa duy vật cũ
(đồng nhất vật chất với một số dạng cụ thể của nó)
- Khẳng định TGVC tồn tại khách quan, vô cùng, vô tận, luôn vận động và phát
triển, từ đó cổ vũ, động viên các nhà khoa học nghiên cứu, khám phá TGVC.
- Định nghĩa còn giúp xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. 2. Ý thức
a. Quan điểm trước Mác về ý thức:
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức sinh ra vật
chất, tuyệt đối hóa ý thức
Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác lại cho rằng:
- Vật chất có trước ý thức có sau vật chất quyết định ý thức
- Nhưng do KH chưa phát triển và ảnh hưởng của qđ siêu hình, nên họ chưa
giải thích đúng nguồn gốc, bản chất của ý thức.
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức:
- Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao là bộ óc người.
- Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức, sinh ra ý thức.
- Ý thức không thể tách rời hoạt động sinh lý thần kinh diễn ra trong bộ óc người.
b. Nguồn gốc của ý thức
Đặc tính phản ánh của vật chất - Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:
- Phản ánh là đặc tính chung, phổ biến của mọi loại vật chất.
- Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của hệ thống vật chất này ở HTVC khác
trong quá trình tác động qua lại giữa chúng.
- Kết quả của quá trình phản ánh là thông tin: vật nhận p.á mang nội dung, thông tin của vật phản ánh.
- Thuộc tính phản ánh của vật chất phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
- Phản ánh của các dạng vật chất phát triển từ thấp đến cao cùng với quá trình
tiến hóa từ thấp đến cao của TGVC.
Hình thức phản ánh lý hóa là những phản ánh đơn giản nhất đặc trưng cho
thế giới vô sinh. Sự phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định
hướng, chưa có lựa chọn.
Hình thức phản ánh sinh học đặc trưng cho giới tự nhiên sống là bước
phát triển về chất trong sự tiến hóa của đặc tính phản ánh của vật chất).
Sự phản ánh ở thực vật đã mang tính kích thích. Sự phản ánh ở động vật
chưa có hệ thần kinh là tính cảm ứng. Sự phản ánh ở động vật có hệ thần
kinh là các phản xạ (có ĐK và KĐK). Sự phản ánh ở động vật có hệ thần
kinh trung ương là các tâm lý (tâm lý động vật chỉ là sự phản ánh mang
tính bản năng do nhu cầu sinh lý và quy luật sinh học chi phối).
Kết luận, dưới nguồn gốc xã hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của bộ óc con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ. - Lao động:
Khác biệt cơ bản giữa con người và động vật chính là con người có lao động.
Thông qua lao động cải tạo thế giới khách quan, con người đã biết chế tạo và sử
dụng công cụ lao động để tách mình ra khỏi giới động vật. Như vậy, “lao động
đã sáng tạo ra bản thân con người”.
Thông qua lao động cải tạo thế giới khách quan, con người đã bắt thế giới khách
quan bộc lộ những thuộc tính, kết cấu, quy luật vốn có của nó để con người có ý
thức về thế giới khách quan. Vì vậy, “Lao động đã tạo ra ý thức, tư tưởng”
Thông qua quá trình lao động, bộ óc con người phát triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển.
Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm nảy
sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển cùng với lao động. - Ngôn ngữ
Ngôn ngữ ra đời do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành & phát
triển. Nó là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái “vỏ vật chất” của tư duy. Không có
ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa
là công cụ của tư duy nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ ngôn
ngữ mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, truyền lại tri
thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Chính vì vậy,
Ph.Angghen đã khẳng định rằng” sau lao dộng đồng thời với lao động là ngôn
ngữ, đó là 2 sự kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành
bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức”
Kết luận: Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người thông qua
lao động và ngôn ngữ. Ý thức là sản phẩm, là hiện tượng xã hội.
c. Bản chất của ý thức
Chủ nghĩa duy tâm coi ý thức là một thực thể độc lập và duy nhất sản sinh ra vật chất.
Chủ nghĩa duy vật trước Mác thừa nhận vật chất tồn tại kết quả và sản sinh ra ý
thức, nhưng họ chưa thấy được tính năng động, sáng tạo của ý thức trong mối
quan hệ biện chứng của quá trình phản ánh.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: “Ý thức là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động sáng tạo; là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan”.
Qua đây ta thấy bản chất của ý thức:
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- Là sự phản ánh năng động, sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ óc người
thông qua hoạt động thực tiễn - Nghĩa là:
Nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy định.
Ý thức phản ánh năng động, sáng tạo lại thế giới khách quan theo nhu cầu HĐTT, thể hiện:
Trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh là quá trình hai
chiều, có định hướng và chọn lọc
Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần.
Chuyển mô hình từ tư duy ra HTKQ, tức quá trình hiện thực hóa thông tin qua HĐTT.
- Ý thức là 1 hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: Ý thức ra đời gắn liền
với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của quy luật sinh học và quy luật xã
hội, trong đó quy luật xã hội là chủ yếu.
3. Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Ý thức có tính độc lập tương đối, tính năng động sáng tạo có thể tác động trở lại
vật chất thông qua hoạt động của con người, vì vậy cùng với việc xuất phát từ
hiện thực khách quan, cần phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy
mặt tích cực của ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất
thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vì ý thức chính là ý thức
của con người nên nói đến vai trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con
người. Bản thân ý thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực khách quan.
Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy vai trò của ý thức
không phải là trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị
cho con người những hiểu biết về hiện thực khách quan, trên cơ sở đó con người
xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương
pháp, các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình.
Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của
vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận
động khách quan của vật chất.
Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại …
Ví dụ: Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 10000C,
người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không
phải bằng phương pháp thủ công cổ xưa.
4. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi
nhận thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất
phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần
phải tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố
con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ,
thiếu tính sángtạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng
vai trò của tri thức, phải tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu
dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa
lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.
5. Vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức trong cuộc sống
a. Trong kinh tế và chính trị
Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào sự nghiệp đổi mới - Từ lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh nghiệm về những thành công và thất bại trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra những bài học
kinh nghiệm. “Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tuân theo các quy luật khách quan”.
b. Trong việc xây dựng nền kinh tế mới
Hiện nay, mọi người hiểu và tiếp thu những nghiên cứu và kết luận rút ra từ sự
phân tích của các nhà khoa học và triết học trong cuộc sống thực. Tiếp theo, vận
dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nó là cơ sở để con người phản ứng lại
hiện thực vật chất thông qua những tri giác cụ thể. Có những thứ tồn tại trong
cuộc sống thực sự cần sự nâng cao của con người để có ích cho nhiều thứ.
Từ sự có mặt của vật chất trong thế giới này, con người nhận thức đúng đắn,
thậm chí thay đổi và phản ứng một cách sáng tạo. Làm cho vật chất sinh ra vật
thể, đồ vật, sinh vật, thực vật,.... đa dạng hơn, hoặc nếu chủ thể cho là có hại thì
sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển của nó và xa rời thế giới con người.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Đảng ta chủ trương: “tăng cường huy động mọi nguồn lực cả trong và ngoài,
nhất là nguồn lực trong nhân dân và cho sự nghiệp phát triển đất nước”, để làm
được điều này cần “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy
mạnh công tác củng cố của cả nước, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.