Đề 1: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; ý nghĩa phương pháp luận và
liên hệ với thực tế đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
BÀI LÀM
1.Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong
đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a)Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính
thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người
nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc con người và thế giới khách
quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức
Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung
của ý thức kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con
người.
Sự phát triển của hoạt động thực tiễn động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính
phong phú và độ sâu sắc nội dung của ya thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế
giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người được cải biên trong đó.
Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật
chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về
thể chất lẫn tinh thần, thì nhiên ý thức cũng phát triển cae về nội dung hình
thức phản ánh.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào trong đầu óc con ngườinhưng khi đã ra đời thì ý thức “đời sống” riêng,
không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn
cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người,
nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người
tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động
nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ động lực thúc đẩy vật
chất phát triển.
Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của
vật chất.
- Thứ tư, xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy
định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dực vào các điều kiện khách quan
năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
2. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận
thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế
khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ
quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến
lược và sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con
người, chống tưởng, thái độ thụ động,lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ , thiếu tính sáng
tạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải
tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo
đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích
cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.

Preview text:

Đề 1: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức; ý nghĩa phương pháp luận và
liên hệ với thực tế đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
BÀI LÀM
1.Phân tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, trong
đó vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác động tích cực trở lại vật chất.
a)Vật chất quyết định ý thức
- Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
 Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức nên vật chất là cái có trước, là tính
thứ nhất. Ý thức chỉ là hình thức phản ánh của vật chất vào trong bộ óc con người
nên ý thức là cái có sau, là tính thứ hai.
 Phải có sự vận động của vật chất trong tự nhiên (bộ óc con người và thế giới khách
quan) và vật chất trong xã hội (lao động và ngôn ngữ) thì mới có sự ra đời ý thức.
- Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức
 Dưới bất kỳ hình thức nào, ý thức đều là phản ánh hiện thực khách quan. Nội dung
của ý thức là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan trong đầu óc con người.
 Sự phát triển của hoạt động thực tiễn là động lực mạnh mẽ nhất quyết định tính
phong phú và độ sâu sắc nội dung của ya thức con người qua các thế hệ.
- Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức
 Bản chất của ý thức là phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan, tức là thế
giới vật chất được dịch chuyển vào bộ óc con người và được cải biên trong đó.
Vậy nên vật chất là cơ sở để hình thành bản chất của ý thức.
- Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức
 Mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều gắn liền với sự biến đổi của vật chất. Vật
chất thay đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.
 Vật chất luôn vận động và biến đổi nên con người cũng ngày càng phát triển cả về
thể chất lẫn tinh thần, thì dĩ nhiên ý thức cũng phát triển cae về nội dung và hình thức phản ánh.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức là sự phản ánh thế giới
vật chất vào trong đầu óc con ngườinhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng,
không lệ thuộc máy móc vào vật chất mà tác động trở lại thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn
cảnh vật chất để phục vụ cho cuộc sống con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ chỉ đạo hoạt động, hành động của con người,
nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất
bại. Ý thức không trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới mà nó trang bị cho con người
tri thức về hiện tượng khách quan để con người xác định mục tiêu, kế hoạch, hành động
nên làm. Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
 Tích cực: Khi phản ánh đúng đắn hiện thực, ý thức sẽ là động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
 Tiêu cực: Khi phản ánh sai lạc hiện thực, ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của vật chất.
- Thứ tư, xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn nhưng không thể vượt quá tính quy
định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dực vào các điều kiện khách quan và
năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
2. Ý nghĩa phương pháp luận từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan. Mọi nhận
thức, hành động, chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế
khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật chất hiện có. Cần phải tránh chủ nghĩa chủ
quan, bệnh chủ quan duy ý chí. Không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến
lược và sách lược cách mạng.
- Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của nhân tố con
người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ , thiếu tính sáng
tạo. Điều này đòi hỏi con người phải coi trọng ý thức, coi trọng vai trò của tri thức, phải
tích cực học tập, nghiên cứu khoa học, đồng thời phải tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo
đức, ý chí, nghị lực của bản thân.
- Phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, kết hợp hài hòa lợi ích
cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội dựa trên thái độ khách quan.