Phân tích một quan niệm về văn hóa mà anh/chị cho là tiêu biểu nhất? Phân biệt văn hóa với văn minh, lấy ví dụ cụ thể từ nền văn hóa Việt Nam
Phân tích một quan niệm về văn hóa mà anh/chị cho là tiêu biểu nhất? Phân biệt văn hóa với văn minh, lấy ví dụ cụ thể từ nền văn hóa Việt Nam
với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống
Môn: Cơ sở văn hóa Việt Nam (PHIL177)
Trường: Đại học Sư Phạm Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
Đề cương cơ sở văn hóa Việt Nam
Câu 1:Phân tích một quan niệm về văn hóa mà anh/chị cho là tiêu biểu nhất? Phân biệt
văn hóa với văn minh, lấy ví dụ cụ thể từ nền văn hóa Việt Nam. A,
*Quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh:”Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương
thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. *Phân tích quan niệm:
-Quan niệm đã nêu ra cấu trúc của văn hóa, bao gồm: +Văn hóa vật chất +Văn hóa tinh thần
+Tổng hợp phương thức sinh hoạt
-Quan niệm bàn đến đặc trưng của văn hóa: tính vị nhân sinh, được thể hiện ở hai phương diện:
con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, đồng thời cũng là chủ thể hưởng thụ văn hóa.
-Nhấn mạnh chức năng của văn hóa, trong đó có hai chức năng quan trọng là: duy trì đời sống
xã hội, phục vụ đời sống của con người và từ đó nâng cao giá trị của cuộc sống.
-Nhìn nhận các vấn đề trong quan hệ logic tổng hợp.
-Về hình thức: phát biểu mang tính chất quan niệm, không phải học thuật.
B, Phân biệt văn hóa với văn minh: Văn hóa Văn minh
-Văn hóa có đặc trưng lịch sử truyền thống. Ta -Văn minh gắn với hiện đại và thành tựu
có thể chứng minh qua nền văn hóa Việt Nam
khoa học kĩ thuật hiện đại. Nói dến văn
giàu truyền thống lịch sử: truyền thống yêu
minh, ta thường nhớ đến một nét nghĩa
nước, uống nước nhớ nguồn, yêu thương đồng chung là “trình độ phát triển”, một lát cắt loại… đồng đại.
Ví dụ nền ta nói văn minh nhân loại phát
-Là một quá trình tích lũy và được sang lọc lâu triển rực rỡ với sự ra đời của điện và hệ
dài. Văn hóa Việt Nam trải qua mấy ngàn năm
thống máy móc hiện đại.
đã giữ lại được nhiều nét văn hóa đẹp, giàu bản -Là những sáng tạo, phát kiến mang tính cá
sắc và loại bỏ đi những văn hóa cổ hủ, không nhân.
theo kịp thời đại(trọng nam khinh nữ, tảo
Ví dụ như Thomas Edison phát minh ra hôn,..)
bóng đèn, Anbe phát minh ra chiếc máy tính
-Mang tính cộng đồng, dân tộc, bản sắc. Văn đầu tiên…
hóa Việt Nam không được tạo từ một người,
-Mang giá trị phổ thông toàn nhân loại,
hay một nhóm người mà là thành quả chung
quốc tế. Văn minh mang nét nghĩa rộng lớn,
của cộng đồng người Việt, từ nhiều dân tộc
là thành quả của toàn nhân loại, được toàn
Việt. Vì vậy mà trở nên vô cùng đa dạng và
thể con người công nhận và sử dụng. đậm dà bản sắc
-Thay đổi liên tục. Để phù hợp với sự thay
-Được bảo lưu, duy trì, ổn định, gắn với thói
đổi của xã hội, văn minh biến đổi theo.
quen, tập quán, tâm linh. Dân tộc Việt Nam duy Trước kia,con người luôn cho rằng trái đất
trì được nhiều nét đẹp văn hóa như thờ cúng tổ đứng yên nhưng đến thế kỉ 17,con người đã tiên, biết ơn,…
thay đổi cách nhìn và cho rằng trái đất quay
-Văn hóa gắn bó với nhiều hơn vơi phương quanh mặt trời.
Đông nông nghiệp. Văn hóa Việt Nam được
hình thành ven lưu vực các con song lớn, thuân -Văn minh gắn bó nhiều hơn với phương
lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Tây đô thị. Phương Tây có nhiều phát minh hiện đại.
Câu 2: Trình bày đặc trưng và chức năng của văn hóa
*Đặc trưng của văn hóa
Các nhà nghiên cứu về văn hóa trong và ngoài nước đúc kết thành nhiều đặc trưng của văn hóa,
trong đó nổi bật nhất bà bốn đặc trưng cơ bản sau:
- Một là, tính hệ thống. Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị về văn hóa vật chất, văn hóa
xã hội và văn hóa tinh thần của cộng đồng người. Từ những thành tố căn bản này đã nẩy sinh và
bao gồm những tập hợp nhỏ nhiều tầng bậc khác nhau tạo thành một tổng thể phức tạp, phong phú.
- Hai là, tính giá trị. Văn hóa bao gồm các giá trị (giá trị thuộc về đời sống vật chất, giá trị
thuộc về đời sống tinh thần) trở thành thước đó về mức độ nhân bản của xã hội và con người.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại có giá trị của văn hóa để tồn tại và có giá trị của văn hóa để phát triển.
- Ba là, tính lịch sử. Văn hóa bao giờ cũng được hình thành qua một quá trình và được tích lũy
qua nhiều thế hệ, là những thành tựu do cộng đồng người trong quá trình tương tác với môi
trường tự nhiên và xã hội mà được sáng tạo và luôn hướng tới sự hoàn thiện để đạt đến tính giá trị.
- Bốn là, tính nhân sinh. Văn hóa là một hiện tượng thuộc về xã hội loài người, gắn liền với
hoạt động thực tiễn của con người, là những giá trị do một cộng đồng người sáng tạo ra, thuộc
về con người, ở trong con người và mang dấu ấn người. Điều đó cho thấy, con người vừa là chủ
thể của văn hóa, đồng thời là khách thể của văn hóa, lại vừa là sản phẩm văn hóa.
*Chức năng của văn hóa:
+Chức năng tổ chức xã hội
+Chức năng điều chỉnh xã hội +Chức năng giao tiếp +Chức năng giáo dục
*Phân tích một đặc trưng và chức năng của văn hóa:
Đặc trưng quan trọng của văn hóa là tính giá trị. Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là “trở thành
đẹp, thành có giá trị”, tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị. Nó là thước đo mức độ
nhân bản của xã hội và con người.
Các giá trị văn hóa, theo muc đích cố thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật
chất) và giá trị tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần), theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị
sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thấm mĩ theo thời gian có thể phân hiệt các giá trị vĩnh cừu và
giá trị nhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có đươc cái nhìn hiện
chứng– và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật, hiện tượng; tránh được những
xu hướng cực đoan – phủ nhận sạch trơn hoặc tán dương hết lời.
Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc
nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa
hay không phải xem xét mối tương quan giữa các mức độ “giá trị” và “phi giá trị” của nó. về
mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy thuộc vào chuẩn mực văn
hóa cùa từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò
của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn… đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.
Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai
là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không
ngừng tự hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các
chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội. *Lấy ví dụ chứng minh
Câu 3:Văn hóa Việt Nam thuộc về loại hình văn hóa gốc nông nghiệp điển hình với những
đặc trưng chủ yếu sau đây:
Do vị trí địa lý nằm ở góc tận cùng phía Đông-Nam Châu Á nên Việt Nam thuộc loại hình văn
hóa gốc nông nghiệp trồng trọt điển hình. Tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp trồng trọt đều được thể hiện rất rõ nét trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.
-Trong ứng xử với môi trường tự nhiên luôn có ý thức tôn trọng và sống hòa hợp với thiên
nhiên, tôn sùng thiên nhiên, thể hiện đức hiếu sinh
Cư dân Việt Nam chủ yếu sinh sống bằng nghề nông, trong cách ứng xử với tự nhiên, do nghề
trồng trọt buộc người dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, đơm hoa, kết trái và thu
hoạch, từ đó ưa thích lối sống ổn định, cho rằng” An cư lạc nghiệp” . Do sống phụ thuộc vào
thiên nhiên nên cư dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên
nhiên. Người Việt Nam mở miệng ra là nói “ nhờ trời”, “lạy trời”… Các tín ngưỡng và lễ hội
sung bái tự nhiên rất phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi vùng đât nước.
- Vì sống bằng kinh tế nông nghiệp, nhất là nông nghiệp lúc nước, ở đó con người có sự phụ
thuộc vào các hiện tượng tự nhiên (như trời, đất, nước, nắng, mưa...), nên trong nhận thức đã
hình thành một lối tư duy tổng hợp, trọng quan hệ, trọng tình biện chứng, thiên về kinh nghiệm,
trực giác, cảm tính và duy linh (linh cảm).
Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào nhiều yếu tố
thiên nhiên như : thời tiết, nước, khí hậu,... “ trông trời, trông đất, trông mây; trông mưa, trông
gió, trông ngày, trông đêm…” nên về mặt nhận thức, hình thành nên lối tư duy tổng hợp- biện
chứng, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính: sống lâu lên lão làng, trăm hay không bằng tay
quen… Người làm nông quan tâm không phải là từng yếu tố riêng lẻ mà là những mối quan hệ
giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan
hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đau
mùa lúa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…
-Trong tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội theo nguyên tắc trọng tình,
chuộng sự hòa thuận, tương trợ, quan tâm đến những láng giềng.
- Lối sống trọng tình đưa đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng Mẫu đề cao nguyên lý Mẹ.
- Nguyên tắc trọng tình cũng là cơ sở của tâm lí hiếu hòa, chuộng sự bình đẳng, dân chủ, đề cao
tính cộng đồng, tính tập thể.
Về mặt tổ chức cộng đồng, người Việt có lỗi sống cố định lâu dài nên tạo ra những mối quan hệ
tình cảm thân thiết, gắn bó, hình thành nên lối sống
trọng tình.. Nhưng cũng từ đây hình thành lối sống tự trị, khép kín, hướng nội. Lỗi sống trọng
tình cảm tất yếu dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ. Trong ngôi nhà của người
Việt rất coi trọng gian bếp, thể hiện sự coi trọng phụ nữ. Người Việt coi: Nhất vợ nhì trời; Lệnh
ông không bằng cồng bà… Người phụ nữ cũng được xem là người có vai trò quyết định trong
việc giáo dục con cái: Phúc đức tại mẫu; Con dại cái mang… Sự gắn bó cộng đồng tạo nên lối
sống trọng tình nghĩa: Lá lành đùm lá rách; Bầu ơi thương lấy bí cùng…; các quan hệ ứng xử
thường đặt lý cao hơn tình: Một bồ cái lý không bằng một tí cái tình.
- Lối tư duy tổng hợp biện chứng, cộng với nguyên tắc trọng tình dẫn đến lối sống linh hoạt,
luôn ứng biến cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.
- Tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt của văn hóa nông nghiệp còn quy định thái độ dung
hợp trong tiếp nhận các yếu tố khoan dung trong ứng xử, mềm dẻo trong đối phó.
Lối tư duy tổng hợp – biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm nông nghiệp cộng với
nguyên tắc trọng tình đã dẫn đên lối sống linh hoạt, luôn thay đổi để thích hợp với từng hoàn
cảnh: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy; … Mặt trái
của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc, sự thiếu tôn trọng pháp luật, tệ
đi “ cửa sau” để giải quyết công việc( Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế).
Vì sống theo tình cảm nên mọi người phải biết tôn trọng và cư xử bình đẳng, dân chủ với nhau.
Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lý coi trọng cộng đồng, coi trọng tập
thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể sau lưng.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp vfa phong cách linh hoạt còn quy định
thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không những không có chiến tranh tôn giáo mà
mọi tôn giáo đều được tiếp nhận. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược người Việt Nam
luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa.
Như vậy, hầu như tất cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp trồng trọt đều
được thể hiện rõ nét trong cách tố chức đời sống, phương thức tư duy, lối ứng xử của người Việt truyền thống.
- Tuy nhiên, mặt trái của tính linh hoạt và trọng tình là nó dẫn đến thái độ tùy tiện, coi thường tính nguyên tắc, ý thức tổ chức kỷ luật kém.
Văn minh nông nghiệp kéo dài đã làm chậm sự phát triển của tiến trình lịch sử Việt Nam, không
tạo ra được những tiền đề và điều kiện để bức ra khỏi cái khung phong kiến phương Đông, làm
hạn chế tính năng động, sáng tạo của con người Việt Nam và dẫn đến sự trì trệ của xã hội Việt Nam.
Câu 4: Vai trò của văn hóa trong sự phát triển
*Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
-Đào tạo con người theo các giá trị chân-thiện-mĩ
-Hình thành trong phẩm chất mọi thành viên trong xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể
lực, trí lực và nhân cách
-Tích cực xây dựng một môi trường văn hóa lành mạnh để có đủ sức đề kháng đẩy lùi các tiêu
cực xã hội, bài trừ những văn hóa phản tiến bộ.
*Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội
-Sự phát triển của một dân tộc gắn liền với cái mới nhưng không tách rời cội nguồn, văn hóa
-Con người là nhân tố có vai trò quan trọng và là không thể thiếu trong sự phát triển của kinh tế, xã hội
-Văn hóa có khả năng tiếp thu và cải biên những yếu tố văn hóa ngoại sinh để biến thành ngoại
lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội
-Văn hóa sẽ giải phóng và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người trong mọi lĩnh vực
đời sống xã hội mà trước hết là kinh tế
*Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển
-Mục tiêu của sự phát triển ở nước ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
Trong chiến lược phát triển kinh tế 2011-2020:
-Xác định: phát huy tối đa nhân tố con người, con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là
mục tiêu của sự phát triển”
-Yêu cầu: Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện công bằng xã
hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”.
*Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển
-Phát triển phải hướng tới mục tiêu văn hóa- xã hội mới đảm bảo được sự bền vững và trường
tồn cho sự giàu mạnh của tổ quốc.
🡪Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và
xây dựng xã hội mới.Văn hóa giúp mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí, giúp bồi dưỡng tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, cho nhân dân Việt Nam lí tưởng độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội, đồng thời bồi dưỡng phong cách, lối sống lành mạnh, hướng con
người đến chân-thiện-mĩ để hoàn thiện bản thân.
Câu 5: Trình bày vai trò của Phật giáo trong đời sống văn hóa Việt Nam
Đạo Phật truyền bá ở Việt Nam tính đến nay đã gần 2000 năm, trải qua các thời kỳ lịch
sử của đất nước, Phật giáo từ lâu vốn đã đi sâu vào quần chúng nhân dân Việt Nam, gắn
bó với sinh hoạt cộng đồng của người Việt, một sự gắn bó tự nhiên không do áp đặt của
chính quyền, cả khi Phật giáo được tôn là Quốc giáo... Nguồn gốc đạo Phật
Dạo Phật là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, được ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước
công nguyên, ở vùng phía Tây Bắc Ấn do thái tử Tất Đạt Đa sáng lập, hiệu là Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni).
Đạo Phật ra đời trong hoàn cảnh rối ren của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Thế kỷ VI trước Công
nguyên, lúc này Ấn Độ đang trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Sự phân chia đẳng cấp ngặt nghèo
sâu sắc. Thời kỳ này xã hội Ấn Độ chia làm bốn đẳng cấp cách biệt nhau…. Đẳng cấp Bà la
môn (địa vị cao nhất); đẳng cấp Sát đế lỵ (dòng họ vua quan, quý tộc); đẳng cấp Vệ xá (gần
những người giàu có, buôn bán thủ công), đẳng cấp Thủ đà la (nô lệ). Ngoài ra còn có một tầng
lớp người thuộc hàng cùng khổ dưới đáy xã hội, bị mọi người khinh rẻ. Trước khi có sự ra đời
của đạo Phật, mâu thuẫn giữa các đẳng cấp trên hết sức gay gắt được thể hiện trong những cuộc
đấu tranh mang tính chất toàn xã hội. Cùng thời điểm này Ấn Độ đã và đang diễn ra cuộc đấu
tranh giữa các nhà duy vật và duy tâm, đấu tranh giữa các tôn giáo, bởi lẽ bên cạnh sự thống
trị của đạo Bà la môn còn có sự hiện diện của Phệ đà giáo và một số giáo phái khác, đồng
thời tư tưởng duy vật thô sơ và tư duy biện chứng đã xuất hiện.
Hoàn cảnh xã hội và những tư tưởng quan niệm trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp
phần thúc đẩy sự ra đời của đạo Phật.
Bỏ qua những truyền thuyết về Tất Đạt Đa tìm đường cứu khổ cho chúng sinh mà sáng
lập ra đạo Phật thì có thể thấy rằng thực chất Phật giáo ra đời là do kết quả của cuộc đấu
tranh gay gắt giữa các giai cấp, đấu tranh giữa thần quyền và thế quyền, giữa những người nắm
kinh tế của xã hội và những người nắm tư tưởng xã hội. Cuộc đấu tranh ấy đã lôi kéo đông
đảo quần chúng nghèo khổ tham gia, thay bằng thành quả bình đẳng thật sự nơi trần gian, quần
chúng đã nhận được sự bình đẳng trong tư tưởng, nơi gọi là cõi Niết bàn của nhà Phật.
Giáo lý của đạo Phật tập trung vào hai vấn đề, một là sự khổ não, hai là sự giải thoát ra khỏi khổ
não ấy. Khổ não là bởi sự luân hồi, thoát khỏi vòng luân hồi thì khỏi khổ, mà muốn thoát
khỏi vòng luân hồi thì phải bỏ hết tham, sân, si trên trần thế. Khi thoát khỏi vòng luân hồi con
người mới chứng được trạng thái Niết bàn, Cực lạc.
Đạo Phật là một tôn giáo vô thần, không cùng bản chất như mọi tôn giáo khác. Đạo Phật còn có
một số đặc điểm riêng: Đạo Phật không quan niệm về đấng sáng tạo ra thế giới. Thế giới tự
nó vận động, phát triển thông qua luật vô thường nhân quả. Sự vận động ấy diễn ra trong không
gian và thời gian, đạo Phật sơ kỳ ở Tiểu thừa mang nhiều tính duy vật những quan niệm của đạo
Phật về thế giới về con người, về vận động mang hình thức biện chứng. Các giáo lý đạo
Phật chứa đựng nhiều nội dung đạo đức, hướng thiện. Đồng thời cũng phủ nhận một cách gián
tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội. Đạo Phật Việt Nam
Với những đặc điểm đó, cùng với giáo lý của mình đạo Phật đã tìm được chỗ đứng của mình
trong lòng xã hội Việt Nam.
Đạo Phật được truyền bá vào Việt Nam ngay từ đầu Công nguyên bằng hai con đường; đường
thủy thông qua con đường buôn bán với thương gia Ấn Độ. Đường bộ thông qua giao lưu văn
hóa với Trung Quốc mà Trung Quốc khi ấy cũng tiếp nhận Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ.
Như vậy Phật giáo Việt Nam mang cả sắc thái Phật giáo Ấn Độ và Trung Quốc.
Đạo Phật truyền vào Việt Nam không phải thông qua con đường chiếm lược, không phải do sự
cưỡng chế của Trung Hoa mà thông qua đường giao thương buôn bán. Đạo Phật đến bằng con
đường hòa bình, những giáo lý của đạo Phật về bình đẳng, bắc ái, cứu khổ cứu nạn…gần gũi
với cư dân Việt Nam do đó dễ được chấp nhận. Mặt khác thời kỳ này còn có các tín ngưỡng bản
địa của cư dân nông nghiệp lúa nước, cộng với sự tồn tại của Nho giáo, đạo lão được Trung
Quốc truyền vào, tuy nhiên các tín ngưỡng, tôn giáo đó còn có nhiều mặt khuyết thiếu đối
với đời sống tâm linh cộng đồng và đạo Phật đã bổ sung vào chỗ thiếu hụt đấy. Vì vậy đạo
Phật ở Việt Nam được giao thoa bởi các tín ngưỡng bản địa.
Đạo Phật truyền bá ở Việt Nam tính đến nay đã gần 2000 năm, trải qua các thời kỳ lịch sử của
đất nước, Phật giáo từ lâu vốn đã đi sâu vào quần chúng nhân dân Việt Nam, gắn bó với sinh
hoạt cộng đồng của người Việt, một sự gắn bó tự nhiên không do áp đặt của chính quyền, cả
khi Phật giáo được tôn là Quốc giáo. Sự tồn tại lâu dài của Phật giáo trong đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội đã đem lại những đóng góp đáng kể cho văn hóa, tư tưởng, kinh tế, chính trị
trong diễn trình lịch sử Việt Nam.
Người ta thường xếp tôn giáo vào phạm trù văn hóa, Phật giáo là một sự kiện tôn giáo, cũng là
một sự kiện văn hóa. Phật giáo truyền từ Ấn Độ sang Việt Nam vốn không phải là một sự
kiện đơn độc, mà kéo theo nó (hoặc trước, hoặc sau, hoặc đồng thời với nó) là cái ảnh
hưởng của tổng thể văn hóa Ấn Độ đối với văn hóa Việt Cổ, ảnh hưởng ấy diễn ra trên nhiều
lĩnh vực như: Nông nghiệp, y dược, âm nhạc vũ đạo ngôn ngữ…
Điều quan trọng là văn hóa Việt cổ tiếp thu một lượng quan trọng ảnh hưởng của văn hóa Ân
Độ qua ngả đường Phật giáo vào suốt thời Bắc thuộc, khi ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa
tràn lên trên đất Việt và mang khuynh hướng đồng hóa rõ rệt.
Ngoài đóng góp làm cho văn hóa Việt Nam thêm phong phú, khách quan mà nói ảnh
hưởng của văn hóa Ấn Độ là một đối trọng của ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa trên đất Việt. Nó
có tác dụng trung hòa ảnh hưởng quá mạnh mẽ vào nền văn minh Trung Hoa; nó góp sức cùng
cơ tầng văn hóa Việt cổ ngăn chặn khuynh hướng đồng hóa của văn minh Trung Hoa, nó được
hội nhập vào văn hóa Việt Nam làm giàu thêm nền văn hóa Việt, góp phần làm nên cái khác
của văn hóa Việt so với văn hóa Trung Hoa.
Lấy một ví dụ cụ thể: Ở Thăng Long đời Lý, Hoàng Thành Thăng Long mở 4 cửa, nếu ở phía
cửa Bắc thờ thánh Trấn Vũ – Trấn Vũ là một vị thần linh Trung Hoa được hội nhập vào đất Việt
thì ở cửa Đông lại thờ thần Bạch Mã là ảnh hưởng của Ấn Độ, và cửa Tây Long thành được
mang tên “Quảng Phúc Môn”, mở ra phía Tây để mong phúc lớn rộng “phúc đẳng hà sa”
của đức Phật ở Tây Thiên.
Và đạo Phật trong buổi đầu thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc là một đối tượng của Nho
giáo mà Trung Hoa đem sang Việt Nam. Khi mà Phật giáo bị suy sút ở thượng tầng, thì ở chốn
làng quê “cơ sở hạ tầng” Phật giáo lại tỏa ra dân chúng. Thời Lý Trần Phật giáo là Phật giáo quý
tộc, còn sang thời Lê Nguyễn Phật giáo là Phật giáo dân gian, nhân gian (hay là được dân gian
hóa – từ sau thế kỷ XV). Nếu như Quân chủ Việt Nam dựng ra cái đình ở làng quê với tư
cách như một “tiểu triều đình” trọng nam khinh nữ ở chốn đình Trung, thì dân dã quê Việt
Nam vẫn giữ và dựng cái chùa, cái “chùa làng” của dân gian chứ không phải cái quốc tự của
triều đình và những ai trước hết là nữ giới bị loại bỏ khỏi sinh hoạt đình Trung thì đã có một tổ
chức, một trung tâm sinh hoạt tâm linh là ngôi chùa. Thời nhà Lê, Nguyễn “đất vua, chùa làng”
(đất của vua, chùa của làng) tức “chùa làng” đã trở thành đối trọng của đình làng, và bảo trợ cho
một quá nửa lực lượng của dân tộc là “đàn bà”. Chính từ sự bảo trợ này mà Phật giáo Việt
Nam có được chỗ đứng thêm vững vàng trên đất Việt.
Khi đạo Phật vào Việt Nam, nếu nó chỉ có một kinh điển bất động không thôi thì sẽ không
có tác dụng chủ yếu nào cả, mà tác dụng của nó như thế nào là do sự tổ chức, tuyên truyền
giáo dục cải tạo của những người tiên phong thấm nhuần sâu sắc học thuyết Phật giáo. Lúc bấy
giờ đã có những vị thiền sư Việt Nam ý thức và chấp nhận tính nhân đạo đại trí, đại
dũng của Phật giáo, phù hợp với tinh thần anh dũng bất khuất, lòng thương người khổ đau
và đặc tính phân biệt thiện ác, chánh tà của quần chúng nhân dân Việt Nam ta. Từ sự thấm
nhuần tư tưởng Phật giáo xây dựng con người tốt cá biệt gắn liền với phát huy bản chất con người xã hội
“Chư ác mạc tác – chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý – Thị chư Phật giáo”
Không hành ác tức không làm cho mình trở thành một tội khổ cho mình và cho người khác,
là lời khuyên đầu tiên của đức Phật, tiếp theo là sự hành thiện, là hãy trở nên một phúc báu cho
mình và cho người khác, lời kêu gọi cuối cùng là tự giữ tư tưởng cho trong sáng, đó là các
điều giáo dục của Phật. Đối với các quốc gia dân tộc khác, lời dạy của Phật trên đây có thể chỉ
có tầm giáo dục về tâm lý hay luân lý thông thường. Nhưng đối với hoàn cảnh và tình hình đất
nước ta ngay từ xa xưa luôn địch họa rình rập, thì lời giáo dục ấy của Phật qua khí tiết, tính Việt
Nam đã làm cho Phật giáo Việt Nam lại mang theo một ý nghĩa sâu sắc khác.
Không làm các việc ác cũng có nghĩa là chống ác, làm các việc lành, có đức cũng có nghĩa là
liên minh với chân chính với thiện mỹ với chính nghĩa của nhân dân.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam rất sớm, với tinh thần “Từ bi – hỷ xả - vô ngã – vị tha”, năng
động hóa bởi đạo lý Bát chính đạo, là điều giáo dục phổ biến đối với dân tộc ta, dân tộc thường
xuyên bị những thế lực xâm lược đem theo sự thống trị đầy rãy những cái ác bất nhân, gieo
mầm bất nghĩa, trái đạo lý dân tộc. Bởi thế Phật giáo phương xa đến Việt Nam đã đương
nhiên trở thành Phật giáo Việt Nam với tư tưởng yêu nước là chủ yếu. Tư tưởng yêu nước này
được xác minh qua nhiều thế hệ, suốt dòng lịch sử tranh đấu giữ nước và dựng nước của dân tộc
ta, phù hợp với tư tưởng “Chư ác mạc tác” và nghĩa vụ “Chúng thiện phụng hành” của giáo lý nhà Phật.
Phật giáo Việt Nam nhập thế
Từ các vị thiền sư Việt Nam đến không ít các vị vua, các anh hùng dân tộc Phật tử đã thấm
nhuần tư tưởng yêu nước, trở thành mối quan hệ khăng khít giữa Phật giáo Việt Nam với lịch
sử tư tưởng Việt Nam. Hơn nữa trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu
nước, nhiều chùa chiền Phật giáo Việt Nam là cơ sở bao che nuôi dưỡng cán bộ, chiến sĩ cách
mạng, những Tăng, Ni, Phật tử nằm trong các đoàn thể cứu quốc, đoàn thể Phật giáo yêu nước,
hòa mình vào các sinh hoạt cách mạng.
Phật giáo Việt Nam vừa là một học thuyết giải thoát về thuật sống lương thiện tốt đẹp cho con
người Việt Nam, vừa là một học thuyết qua tinh thần Tứ ân có ơn với tổ quốc là trọng đại – đã
thực sự góp phần trong việc hình thành nền tư tưởng Việt Nam, văn hóa dân tộc Việt Nam,
trong đó tư tưởng yêu nước là chủ yếu.
Phật giáo đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho nền tảng tư tưởng văn hóa Việt Nam. Trước
hết Phật giáo đã đóng vai trò tích cực trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân
dân Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn, đạo đức, hành vi cư xử của người Việt,
làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc. Trước sự đòi hỏi của dân tộc, của tín đồ Phật
giáo, Phật giáo Việt Nam đã đóng góp tích cực cho nền văn hóa nước nhà.
Dân tộc Việt Nam có cái duyên là đã được tiếp nhận đạo Phật, đạo Phật có cái duyên là tìm
được chỗ đứng cho mình trong cộng đồng người Việt Nam. Cái cộng đồng dựa trên nền tảng
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, với quan niệm làng xã cổ truyền, với tín ngưỡng đa thần đã tiếp
nhận đạo Phật và cải biến nó cho ít nhiều phù hợp với cộng đồng ấy.
Cộng đồng người Việt tiếp nhận Phật giáo, đồng thời tiếp nhận những tư tưởng bình đẳng, bắc
ái, vô ngã, vô thường…ở đạo Phật, những tư tưởng này cùng với những tư tưởng cộng đồng cổ
truyền đã làm cản trở cho quá trình phân hóa giai cấp, làm dịu những xung đột giai cấp trong xã
hội. Trong thời gian tới, Phật giáo tồn tại và thậm chí tiếp tục phát triển mạnh ở Việt Nam. Phật
giáo đóng góp phần tích cực của nó bằng cách tự làm trong sạch bản thân, xóa bỏ những yếu
tố mê tín lỗi thời. Phật giáo góp phần cân bằng cuộc sống ngày càng quay cuồng với nhịp độ
cao và Phật giáo góp phần hướng thiện cho con người.
Việc cải tiến nghi lễ, và hiện đại hóa là một xu hướng tất yếu, là điều cần thiết của đạo Phật,
điều đó có từ trong lịch sử Phật giáo của Việt Nam. Đạo Phật còn có vai trò to lớn trong
đời sống tình cảm, tâm linh của người Việt Nam, người dân của đất nước đã trải qua nhiều đau
thương và đang còn nhiều khó khăn trong đời sống xã hội.
Xin mượn lời của cố giáo sư Trần Quốc Vượng trong (Mấy ý kiến về Phật giáo và văn hóa dân
tộc – Mấy vấn đề Phật giáo và tư tưởng Việt Nam) để khẳng định những giá trị văn hóa của đạo
Phật “Đạo Phật có thể mất đi như mọi hiện tượng vô thường. Song cái tinh túy của văn hóa Phật
giáo đã được dân tộc hóa và dân gian hóa thì mãi mãi trường tồn”.
Ngày nay để tiếp tục phát huy những giá trị tích cực của mình, Phật giáo phải biết tự giữ gìn,
bồi đắp và đổi mới cho phù hợp với thời đại nhằm góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” như trước đây đã từng đóng góp cho “quốc thái dân an”.
Trong điều kiện xã hội hiện nay, những di sản văn hóa của Phật giáo đang tiếp tục phát huy tác
dụng, tạo nên sắc thái dân tộc, góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa Việt Nam. Gần đây,
nhiều tổ chức và cá nhân đã quyên góp, công đức tiền của để khôi phục, tôn tạo chùa chiền, xây
cất tịnh xá, niệm Phật đường, đúc chuông, đắp tượng, dựng tháp… Ngoài ý nghĩa tâm linh,
nhiều ngôi chùa đã trở thành những danh thắng nổi tiếng để du khách đến chiêm ngưỡng.
Những giá trị văn hóa Phật giáo không chỉ tồn tại trong tư tưởng, mà còn đang hiện diện thông
qua sự nỗ lực của hàng triệu tín đồ nhằm vươn tới một lẽ sống vì Tổ quốc giàu mạnh, nhân
sinh hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định được vị trí, vai trò của Phật giáo trong suốt quá
trình đồng hành cùng dân ta. Câu 6:
Nho giáo được xem là hệ tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội Việt Nam, là
nền tảng đạo đức giáo dục con người, đóng góp to lớn vào việc tổ chức nhà nước, duy trì trật tự
xã hội, phát triển kinh tế, sáng tác văn học trong các triều đại quân chủ như Nhà Lý, Nhà
Trần, Nhà Lê, Nhà Nguyễn, trong suốt chiều dài lịch sử phù hợp và dung hòa với đời sống
người Việt hình thành nền Nho giáo bản sắc Việt Nam nôm na gọi là Việt Nho ... Ảnh hưởng
của Nho giáo đối với Việt Nam sâu sắc là nền tảng của nền văn minh tại Việt Nam và xếp Việt
Nam vào các nước ảnh hưởng nền Văn minh Trung Hoa gọi là Vùng văn hóa Đông Á. Từng
bước hình thành nên lối sống, sinh hoạt, đạo đức đối nhân xử thế trong xã hội của người Việt.
Ngày nay Việt nho ít được xem trọng kèm những khía cạnh suồng sã, tiêu cực trong văn hóa
phương tây ảnh hưởng đang làm đạo đức một bộ phận giới trẻ xuống cấp.
*Sự hình thành và phát triển
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu Công
Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử (sinh năm 551 trước
công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư
tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra Nho giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-xu,... người
đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp mà chỉ được biết các
tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt
sách, chôn Nho" của nhà Tần,vào khoảng hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời, khiến cho
việc tìm hiểu tư tưởng gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau
vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và cuộc đời của ông. Nho giáo nguyên thủy
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi,
Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc
nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông
tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng
Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học. Sau đó, cháu nội của
Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc,
Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng
Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời
Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm, Nho giáo
và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học; còn Nho
giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành
giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành. Hán Nho
Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế đưa Nho giáo lên hàng
quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở
thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm.
Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán
Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị". Tống Nho
Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng với Luận ngữ và Mạnh
Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối đầu giường của các nhà Nho.
Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu
Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học
nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt
của Tống nho với Nho giáo trước đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và
các yếu tố "siêu hình" (lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị. Đặc điểm
Về nội dung học tập, Nho giáo chỉ nói đến "trí dục" và "đức dục" mà không xét đến mặt "thể
dục" là mặt cũng rất cần cho sự phát triển toàn diện con người. Những kiến thức về giới tự
nhiên và về sản xuất vật chất không được Nho giáo đề cập (bởi ở thời của Khổng Tử, khoa học
kỹ thuật và nền sản xuất chưa phát triển). Do vậy, người học tuy thấm nhuần tư tưởng Nho học
về đạo đức, tinh thông cổ văn, nhưng kiến thức về khoa học tự nhiên, sản xuất thực tiễn thì lại
không phát triển. Cả hai mặt tiến bộ và hạn chế của Nho giáo đều để lại dấu ấn trên Nho sĩ. Khi
tiếp xúc với nền văn minh phương Tây mạnh về khoa học kỹ thuật, nếu người xuất thân Nho
học biết tiếp thu những kiến thức khoa học và sản xuất thì sẽ khắc phục được mặt hạn chế, trở
nên "Vừa có tài vừa có đức", ngược lại nếu tiếp thu không có chọn lọc thì không những không
khắc phục được hạn chế mà những giá trị đạo đức của nền Nho học cũng bị đánh mất.
Nhược điểm nghiêm trọng hơn nữa là Nho giáo Việt Nam thiếu sự xuất hiện các trường phái
học thuật nên vận động trong sự đơn điệu và một chiều, chứ không được phong phú và đa dạng
như Nho giáo Trung Quốc. Nho giáo Việt Nam thiếu sự vận động bên trong, thiếu sự phản tỉnh
nên trì trệ. Đa số nhà Nho Việt Nam chỉ đặt cho mình mục đích học là để đi thi, thi đỗ thì ra làm
quan để được giàu sang, sung sướng. Đạt được mục đích đó thì xem như việc học tập đã kết
thúc. Ít người có chí cao xa, như học để tham gia tranh luận những vấn đề mang tầm khu vực,
học để kinh bang tế thế hoặc để phát triển văn hoá, đạt đến những tầm cao tư tưởng. Cũng có
một số Nho sĩ quan tâm đến học thuật, nhưng thường là các vấn đề chính trị và đạo đức, ít bàn
đến vấn đề siêu hình, một lĩnh vực thuần túy triết học làm nền tảng cho khả năng nhận thức sâu
sắc thế giới và hành động sáng tạo. Thậm chí, họ còn biến những vấn đề siêu hình thành cái
thực tế, thực dụng. Vì học tập và tư duy như thế nên họ ít có cống hiến to lớn trong lĩnh vực học
thuật có thể so sánh với các nước khác cũng chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nền giáo dục Nho
giáo Việt Nam chỉ sản sinh ra được một tầng lớp quan lại có nền tảng Nho học còn các loại hình
trí thức then chốt của một tầng lớp trí thức thực thụ thì xuất hiện thưa thớt, mờ nhạt, hoặc hoàn
toàn vắng bóng trong một số lĩnh vực như triết học.
Một số nhà Nho uyên thâm của Việt Nam khi đứng trước kho tàng đồ sộ và uyên bác của Nho
giáo Trung Quốc thường tóm lược lấy những điều cốt yếu, biên soạn lại thành những tài liệu
đơn giản và ngắn gọn để dạy học trò. Có thể liệt kê các sách Nho học như “Tứ thư tập chú” của
Chu Hy, “Tứ thư đại toàn” của Tống, Nguyên, Minh, Thanh Nho, sang Việt Nam chỉ còn là
“Thuyết ước” (tóm lược học thuyết) và “Ước giải” (giải thích tóm tắt); hoặc như cuốn “Tính lý
đại toàn” của Hồ Quảng thời Minh, sang Việt Nam chỉ còn “Tiết yếu”. Đây là hiện tượng chung
của nhiều triều đại quân chủ Việt Nam. Nếu ở triều Trần có “Tứ thư thuyết ước” của Chu Văn
An, thì ở triều Lê - Trịnh có “Tứ thư ước giải” của Lê Quý Đôn, triều Nguyễn có “Tứ thư trích
giảng” của Nguyễn Văn Siêu; nếu ở triều Lê - Trịnh có cuốn “Tính lý tiết yếu” của Bùi Huy
Bích, thì ở triều Nguyễn cuốn đó vẫn còn được xem là cuốn sách giáo khoa mẫu mực. Chính
điều này đã lược bớt rất nhiều điều, làm mất rất nhiều điểm có khả năng gợi mở, giản đơn hoá
nội dung phong phú và súc tích của học thuyết khiến người học không lĩnh hội được chiều sâu
của Nho giáo. Người được truyền đạt cũng hài lòng với cách làm đó thì mọi lối tư duy, mọi
đường sáng tạo đều bị thu hẹp lại. Bên cạnh đó, Nho giáo Việt Nam đã pha trộn với tư tưởng
của Phật giáo, Đạo giáo và các tín ngưỡng dân gian khác. Nhưng hạn chế lớn nhất là tập quán
sùng bái thánh hiền, giáo điều và máy móc của giới Nho sĩ Việt Nam. Trong khi đó bên cạnh
Nho giáo còn có nhiều trường phái tư tưởng khác như Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia... Giữa các
trường phái này luôn có sự tranh luận, phản bác nhau. Điều này khiến sự phát triển của Nho
giáo Việt Nam hạn chế. Nó chỉ đạt đến mức độ tiếp thu một số tín điều từ Nho giáo Trung Hoa,
chưa tạo được lý luận riêng, chưa xuất hiện các học phái khác nhau. Phương pháp tư duy của nó
thiên về bảo thủ, giáo điều
3. Quá trình thâm nhập của Nho giáo vào Việt Nam
3.1. Hán Nho đã được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang, Nhâm Diên, Sỹ Nhiếp ra sức
truyền bá từ đầu Công nguyên. Tuy nhiên, vì đây là thứ văn hóa do kẻ xâm lược áp đặt cho nên,
suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam. Đến
năm 1070, với sự kiện Lí Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử, mới có thể
xem là Nho giáo được tiếp nhận thính thức. Chính vì vậy mà Nho giáo ở Việt Nam chủ yếu là
Tống Nho chứ không phải Hán Nho, Đường Nho hay Minh Nho, Thanh Nho.
Đời Trần có Chu Văn An đào tạo được khá đông học trò. Các nhà nho những lớp đầu tiên này ra
sức bài xích Phật giáo để khẳng định chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, cho đến gần cuối đời Trần,
Nho giáo vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi.
Trong cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh (1418- 1408), các nhà nho Việt Nam tập hợp
dưới cờ Lê Lợi đã có những đóng góp to lớn. Sự lớn mạnh của Nho giáo Việt Nam (điều kiện
chủ quan) cùng với nhu cầu cải cách quản lí đất nước (yêu cầu khách quan) đã dẫn đến việc
triều Lê đưa Nho giáo thành quốc giáo: sự phát triển của Nho giáo chuyển sang giai đoạn mới –
giai đoạn Nho giáo độc tôn. Từ đó, Nho giáo thịnh suy theo bước thăng trầm của triều đình:
Thời Lê sơ thì Nho giáo thịnh, chí sĩ đua nhau đi thi để ra làm việc nước. Thời Lê mạt thì Nho
giáo suy, nhiều nhà nhà xuất sắc (như Nguyễn Bình Khiêm) lui về ở ẩn. Nhà Nguyễn lên cầm
quyền, địa vị Nho giáo một lần nữa được khẳng định để rồi mất hẳn khi phải đối mặt với sự tấn
công của văn hóa phương Tây. *Vai trò, ảnh hưởng
Tính từ khi bắt đầu du nhập cho đến lúc suy vong, Nho giáo đã có lịch sử 1900 năm truyền bá ở
Việt Nam. Thời Bắc thuộc, trong những thế kỷ đầu công nguyên, các quan cai trị người Hán
như Tích Quang (1 - 5), Nhâm Diên (29 - 33), Sĩ Nhiếp (187 - 226), Đỗ Tuệ Độ (đầu thế kỷ V)
đã ra sức truyền bá Nho giáo ở Giao Châu. Cũng trong thời kỳ này, các đoàn người Hán di thực
và tị nạn nối tiếp nhau kéo xuống Giao Châu, mang theo văn hóa Hán. Tuy nhiên, đây là thời kỳ
mà văn hóa Việt - Mường đã đạt tới những thành tựu đỉnh cao, có sức mạnh văn hóa nội tại, và
có khả năng chọn lọc, chuyển hóa những yếu tố văn hóa mới du nhập để bồi bổ cho sức mạnh
văn hóa nội tại của mình. Trong khi đó, Nho giáo là công cụ củng cố thể chế nhà nước của quân
xâm lược. Vì vậy, trải qua cả nghìn năm, Nho giáo vẫn không thâm nhập được vào văn hóa Việt
- Mường. Cư dân Việt - Mường vẫn bảo tồn được văn hóa tộc người, ý thức tộc người, ý chí
quật cường và nhu cầu đấu tranh vì độc lập tự do.
Phải đến thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ XI trở đi, Nho giáo mới được Nhà nước phong kiến chú trọng
đề cao. Để xây dựng, hoàn thiện thể chế nhà nước, giai cấp phong kiến đã tìm thấy ở Nho giáo
những lợi khí mà Phật giáo và Đạo giáo đương thời không có: sự thần bí hóa vương quyền, sự
thiêng liêng hóa quan hệ quân thần, những chuẩn mực và nội dung đào tạo quan lại thích hợp để
nối dài cánh tay quyền lực của nhà vua. Đến thời Hậu Lê, Nho giáo vươn lên chiếm địa vị độc
tôn trong văn hóa cung đình, đẩy Phật giáo và Đạo giáo xuống hàng tôn giáo dân gian. Nhưng
Nho giáo có vị trí hàng “Quốc giáo” thật sự ở triều Nguyễn, một triều đại tập quyền tuyệt đối và
triệt để khai thác đạo lý tam cương, ngũ luân của Nho giáo để bảo vệ tôn ti quân thần và quyền
thống trị vĩnh viễn của tông tộc nhà vua. Trên đỉnh cao quyền lực, Nho giáo đã phát tác tối đa
sức mạnh kìm hãm của nó, trở thành nguyên nhân sâu xa của tình trạng loạn lạc và trì trệ kéo
dài suốt thế kỷ XIX cho đến khi mất nước về tay Pháp. Từ đầu thế kỷ XX, cùng với sự suy tàn
của nhà nước phong kiến và giai cấp phong kiến, Nho giáo đã không còn là ý thức hệ chính
thống và cũng không còn đóng vai trò một tôn giáo chính thống điều chỉnh hành vi và đạo đức
như trước nữa. Sự đột khởi của phong trào Duy Tân - Đông Du (1905 - 1908) đã đóng cây đinh
cuối cùng vào nắp quan tài của Nho giáo ở Việt Nam.
Điểm sơ qua như vậy, có thể thấy rằng, giai cấp phong kiến Việt Nam thượng tôn Nho giáo
không chỉ do nhu cầu xây dựng quốc gia, mà còn vì và chủ yếu là vì Nho giáo có ích đối với
việc cai trị nhân dân. Vì vậy, tuy có lúc thăng lúc trầm, nhưng bao giờ Nho giáo cũng là chiếc
phao chống đắm của các triều đại phong kiến Việt Nam, kể từ khi vua Lý Thánh Tông dựng
Văn Miếu ở Thăng Long năm 1070, cho đến khi triều đình Huế ký Hòa ước Quý Mùi (năm
1883) giao chủ quyền quốc gia cho Pháp.
Do sự truyền bá chủ động và kiên trì của giai cấp phong kiến, trong thời trung đại, Nho giáo đã
thẩm thấu vào một một bộ phận của chủ thể văn hóa Việt Nam là giai cấp quý tộc, quan lại và
tầng lớp nho sĩ, quan viên. Nho giáo cũng bén rễ vào một bộ phận văn hóa tinh thần của xã hội,
làm hình thành dòng văn hóa quan phương chính thống bên cạnh các hoạt động văn hóa tinh
thần của dân gian. Bằng cách đó, văn hóa tinh thần của Việt Nam đã bị Hán hóa một phần.
Cũng bằng cách đó, Nho giáo đã được Việt hóa một phần trong quá trình thâm nhập vào văn hóa Việt Nam.
Do tác động từ Nho giáo nên sự phân hóa xã hội ở Việt Nam thêm sâu sắc, chủ thể văn hóa Việt
Nam bị chia đôi; hình thành tầng lớp nho sĩ, giai cấp quý tộc, quan lại theo hình mẫu Nho giáo,
tồn tại bên cạnh các giai cấp, tầng lớp sẵn có của xã hội Việt Nam xưa (nông dân, thợ thủ công,
thương nhân). Tầng lớp nho sĩ và quan lại ấy có trách nhiệm kinh bang tế thế, trị quốc an dân,
và tùy theo thời thế mà chọn lựa cách ứng xử, xuất và xử, hành và tàng. Còn các giai cấp, tầng
lớp lao động thì có trách nhiệm bảo đảm nhu cầu vật chất cho các giai cấp, tầng lớp bên trên và cho bản thân mình.
Lịch sử Việt Nam có rất nhiều nhà nho có phẩm hạnh, khí tiết cao cả, như Mạc Đĩnh Chi, Chu
Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Võ Trường Toản, Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài
Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh, Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành,
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Huy Đức, Nguyễn Thức Tự, Khiếu Năng Tĩnh,
Trần Đình Phong, Lương Văn Can, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp,... Những nhà nho này, dù lúc bình thời hay khi
vận nước gian nan, vẫn tỏ rõ khí tiết và phẩm hạnh, đồng thời có thái độ và hành động vì nước, vì dân.
Trong các hoạt động văn hóa, Nho giáo tác động chủ yếu vào các hoạt động văn hóa tinh
thần. Trong văn hóa tổ chức cộng đồng, ở cấp độ gia đình, Nho giáo phối hợp với văn hóa Hán
làm hình thành chế độ gia đình phụ hệ đi đôi với nam quyền cực đoan, tồn tại song hành với
truyền thống trọng nam đi đôi với trọng nữ của văn hóa dân gian. Trong gia đình, gia tộc, quốc
gia, Nho giáo trực tiếp làm hình thành chế độ tông pháp, trao quyền thừa kế, thừa tự cho con
trai trưởng chính dòng, song hành với tập quán trao quyền thừa kế, thừa tự cho con trai út của
dân gian. Trên bình diện quốc gia, Nho giáo là cơ sở làm hình thành tổ chức nhà nước của Đại
Việt, bao gồm hệ thống hành chính, tổ chức quân sự, quan chế, lương bổng... mô phỏng Trung
Hoa, tồn tại song hành với tổ chức cộng đồng cấp làng quê ra đời từ thời Văn Lang - Âu Lạc.
Về tín ngưỡng, nhà nho Việt Nam coi Nho giáo như là tôn giáo; gạt bỏ, bài xích các tôn giáo
khác ngoại trừ những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích, như lòng tin vào
thiên mệnh, việc tế lễ, việc thờ cúng tổ tiên... Vì vậy, trong Nho giáo là tôn giáo của đàn ông
người Việt, bên cạnh các tôn giáo dành cho các bà các cô như đạo Phật, đạo Mẫu...
Về phong tục, sự tác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một phần các phong
tục vòng đời, đặc biệt là phong tục hôn nhân, phong tục tang ma. Trong thời trung đại, các
phong tục này đều lấy hình mẫu của Nho giáo và văn hóa Hán làm chuẩn mực. Chính vì vậy mà
cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều người viết sách mô tả các phong tục và nghi thức ấy trong văn
hóa Việt Nam hiện đại như thể chúng là bản sao của phong tục Trung Hoa trung đại! Thật ra,
bên cạnh các phong tục hôn nhân, phong tục tang ma theo hình mẫu của Nho giáo và văn hóa
Hán trước đây, người Việt ở các vùng miền khác nhau và các tôn giáo ở Việt Nam đều có cách
thức riêng để thực hiện các phong tục ấy.
Trong giáo dục, Nho giáo là cơ sở hình thành hệ thống giáo dục chính thống của Việt Nam
trung đại ở bốn cấp kinh đô - tỉnh/đạo - phủ - huyện/châu, và chế độ thi tuyển gồm bốn cấp
khảo hạch - thi Hương - thi Hội - thi Đình, để đào tạo ra quan lại nhà nước, quan viên làng xã.
Hệ thống giáo dục chính thống này tồn tại song hành với mạng lưới giáo dục dân gian trong gia
đình, làng xóm, làng nghề, nhằm giáo dục cách ứng xử với gia đình, cha mẹ, ông bà, tổ tiên, họ
hàng, làng xóm, thần linh... Trong lịch sử 844 năm khoa cử Hán học ở Việt Nam (1075 - 1919),
nền giáo dục Nho giáo đã tạo ra hàng nghìn ông Nghè, ông Cử, ông Tú mà trong số đó nhiều
người đã nổi lên thành nhà văn hóa hay nhà khoa học, như nhà sử học Lê Văn Hưu, danh nhân
văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, nhà sử học Ngô Sĩ Liên, Trạng Lường Lương Thế Vinh, Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà bác học Lê Quý Đôn, thi hào
Nguyễn Du, nhà bác học Phan Huy Chú…
Về văn học và nghệ thuật, Nho giáo đã góp phần làm hình thành các thể văn khoa cử (kinh
nghĩa, chiếu, biểu, luận, văn sách, thơ, phú...), các thể loại văn học mô phỏng Trung Hoa (thơ
Đường luật, phú, từ, đối...), các điển tích văn học, các sách giáo khoa truyền thụ Nho giáo, các
tác phẩm văn học và nghệ thuật chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Những sản phẩm ấy làm thành
dòng văn học nghệ thuật quan phương chính thống, tồn tại song hành với dòng văn học dân
gian, nghệ thuật dân gian.
Về ngôn ngữ và văn tự, quá trình tiếp biến văn hóa Hán nói chung, Nho giáo nói riêng đã để lại
dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ và chữ viết ở Việt Nam. Về ngữ âm, tiếng Việt, tiếng Mường đã
biến đổi các phụ âm cuối, hình thành thanh điệu và rơi rụng các âm tiết phụ của thời Môn -
Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn rơi rụng các tổ hợp phụ âm đầu. Về ngữ pháp, tiếng Việt,
tiếng Mường đã rơi rụng các phụ tố tạo từ của thời Môn - Khơme; riêng tiếng Việt hiện đại còn
hình thành các phụ tố tạo từ gốc Hán - Việt, và mượn nhiều cách diễn đạt của tiếng Hán. Về từ
vựng, trong tiếng Việt, tiếng Mường đều có nhiều yếu tố gốc Hán; riêng tiếng Việt có đến 70%
từ gốc Hán. Hiện nay, tiếng Việt đang sử dụng một bộ phận từ vựng gốc Hán có số lượng và tần
suất sử dụng rất lớn, bao gồm Hán - Việt cổ, Hán - Việt trung đại, Hán - Việt cận đại (khẩu ngữ
của người Hoa Nam bộ), từ ngữ có yếu tố Hán - Việt. Trong vốn từ tiếng Việt, đặc biệt là lớp từ
vựng văn hóa, số lượng các yếu tố gốc Hán chiếm một tỷ lệ áp đảo, cả ở ba cấp độ: từ, ngữ, phụ
tố. Bộ phận từ vựng gốc Hán này bao gồm hầu hết các bình diện văn hóa mà cư dân Việt chịu
ảnh hưởng của văn hóa Hán, trong đó ảnh hưởng rõ rệt nhất là các hoạt động văn hóa tinh
thần: cách thức tổ chức xã hội cổ truyền (con người, họ tên, quan hệ thân tộc, tổ chức hành
chính, tổ chức quân sự, bộ máy quan lại...); tín ngưỡng, phong tục, lễ hội (tín ngưỡng, tôn giáo,
giáo dục, khoa cử, phong tục vòng đời, lễ hội...); văn học, nghệ thuật (thuật ngữ, các thể văn
hành chính và khoa cử, các thể loại văn học bác học, một số loại hình sân khấu...); ngôn ngữ
(đặt địa danh, vay mượn và sao phỏng từ ngữ, cấu tạo từ mới từ các yếu tố gốc Hán...). Quá
trình tiếp biến văn hóa Hán và Nho giáo trong ngôn ngữ ấy tồn tại song hành với quá trình bảo
tồn ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng gốc Môn - Khơme, và tiếp biến các ngôn ngữ Tày, Chăm, Hoa,
Khơme, Pháp trong tiếng Việt.
Về văn tự, chữ Hán là văn tự chính thức của Việt Nam trong suốt thời phong kiến tự chủ, và vì
là phương tiện chuyên dùng chuyển tải Nho giáo, nên chữ Hán thường được gọi là chữ Nho,
chữ Thánh hiền. Quá trình tiếp biến văn hóa Hán và Nho giáo trong chữ viết ấy tồn tại song
hành với quá trình Việt hóa các văn tự ngoại lai. Từ khi ra đời dưới thời Trần, chữ Nôm, loại
văn tự phái sinh từ chữ Hán, vừa được dùng để chuyển tải văn hóa dân gian, vừa được dùng để
chuyển tải văn hóa quan phương chính thống theo Nho giáo. Và đến đầu thế kỷ XX, với phong
trào Duy Tân - Đông Du, chữ Quốc ngữ, hình thành từ thế kỷ XVII, đã phát triển thành văn tự
của toàn dân, giúp chuyển tải những tư tưởng, tri thức mới, thoát ly Nho giáo.
Như vậy, trong chặng đường hơn 2000 năm tiếp xúc văn hóa Hán của Việt Nam, Nho giáo đã
thật sự tác động mạnh vào xã hội Việt Nam trong hai giai đoạn: Hậu Lê (1428 - 1527) và
Nguyễn sơ (1802 - 1883). Hai đối tượng chịu ảnh hưởng rõ nhất của Nho giáo và văn hóa Hán
là chủ thể văn hóa và văn hóa tinh thần. Trong chủ thể văn hóa, Nho giáo đã tác động chủ yếu
đến các giai cấp, tầng lớp trên trong xã hội, chứ không ăn sâu bén rễ vào các giai cấp, tầng lớp
dưới. Đối với văn hóa tinh thần, Nho giáo đã góp phần làm hình thành dòng văn hóa quan
phương chính thống, chứ không thay thế được dòng văn hóa dân gian vốn có một bề dày lịch sử
gắn với ý thức tộc người, làm nên cốt lõi của văn hóa tộc người. Tức là, Nho giáo đã làm tách
đôi kiến trúc thượng tầng của xã hội Việt Nam, làm hình thành dòng văn hóa quan phương theo
Nho giáo, song hành và đối lập với dòng văn hóa dân gian bản địa. Hai dòng văn hóa này dung
hợp lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Nho giáo ở Việt Nam được Việt hóa một phần, khác với Nho
giáo ở Trung Hoa. Văn hóa dân gian Việt cũng bị Nho giáo hóa một phần, nhiều phong tục gốc
Hán và gốc Việt tồn tại song song. Cho nên, sẽ rất sai lầm nếu quan niệm hoặc mô tả văn hóa
Việt như một bản sao của văn hóa Hán.
Vả chăng, ảnh hưởng của Nho giáo và văn hóa Hán đối với văn hóa Việt Nam cũng chỉ kéo dài
đến cuối thế kỷ XIX. Trong nền văn hóa Việt Nam đương đại, Nho giáo không còn là tôn giáo,
ý thức hệ hay học thuyết chính thống, chỉ là tàn dư trong một số phong tục và nghi lễ.
Những tác hại chính yếu của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam
Trước hết là những tác hại trong lĩnh vực giáo dục. Trong thời Minh thuộc (1407 - 1428), giặc
Minh xóa bỏ nền độc lập của Đại Việt, hủy diệt triệt để tất cả các di sản văn hóa của các triều
đại Lý - Trần, áp đặt nền giáo dục Tống nho cho nho sinh, nho sĩ Đại Việt. Lý do là vào đầu thế
kỷ XV, các nho gia đời Minh chưa xuất hiện, di sản được tôn sùng nhất của Nho giáo đương
thời là Tống nho, với các đại biểu lớn như Chu Đôn Di, Trương Tái, Trình Hạo, Trình Di, Chu
Hi... Sau khi Lê Thái Tổ giành lại độc lập, di sản văn hóa Lý - Trần chỉ còn là mảnh vụn, nên
việc giáo dục của triều Hậu Lê cũng phải dùng tài liệu của Tống nho.
Về chính trị, tư tưởng trung quân của Nho giáo khiến cho nhiều nho thần, nho sĩ Đại Việt đều
dốc sức bảo vệ ngai vàng, khôi phục ngai vàng cho những dòng vua, những ông vua ăn hại, bù
nhìn. Thay vì làm cho non sông nhất thống, họ lại làm cho chính sự suy đồi, đất nước loạn lạc,
dân chúng lầm than. Nhà Mạc giết vua cướp ngôi, sau khi mất nước lại dấy binh làm loạn, vẫn
được nhiều người tôn phò để tái lập vương triều ở Cao Bằng
Về kinh tế, sự độc tôn Nho giáo đã kiềm hãm kinh tế Việt Nam, làm suy yếu các nguồn nội lực,
là một trong những nguyên nhân làm cho Việt Nam mất nước. Do ý thức hệ Nho giáo, một số
nghề nghiệp trong xã hội Việt Nam đã bị coi khinh, mặc dù cần thiết, có ích cho cuộc sống của
con người như nghề xướng ca, nghề thương mại..
Về xã hội, quan điểm bất bình đẳng của Nho giáo đã chà đạp phụ nữ Việt Nam xuống đất đen.
“Đạo” mà Nho giáo dành cho người phụ nữ là đạo tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử”. “Đức” mà Nho giáo dạy cho phụ nữ là tứ đức: “Công, dung, ngôn, hạnh”.
Tất cả là để cho người phụ nữ làm tròn chức trách phục vụ đàn ông. Đã thế, nền giáo dục và
khoa cử theo Nho giáo cũng chỉ dành cho nam giới; gần 100% phụ nữ Việt Nam bị gạt ra ngoài,
chỉ được thụ hưởng giáo dục gia đình, giáo dục dân gian, rất hiếm người được học chữ, học hỏi
kiến thức qua Nho giáo. Vì vậy mà trong suốt thời trung đại, toàn bộ việc làng, việc nước là
việc của đàn ông. Việc của phụ nữ chỉ là “tề gia, nội trợ”, có thể kiêm thêm việc chạy chợ, chạy
đồng, đầu tắt mặt tối, nhưng không vì thế mà địa vị trong gia đình, xã hội của họ được nâng lên. Kết luận
Nho giáo đã làm cho văn hóa tinh thần của Việt Nam thời trung đại bị Hán hóa một phần đáng
kể. Nho giáo ảnh hưởng cả trong văn hóa tinh thần lẫn văn hóa vật chất của Việt Nam. Nho giáo
có mặt trái, gây hại cho văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam trước kia có rất nhiều lúc, nhiều
nơi không cần Nho giáo. Văn hóa Việt Nam ngày nay càng không cần Nho giáo. Để hình thành
các chuẩn mực đạo đức cho những con người mới ở Việt Nam, chúng ta cần những cơ sở lý
thuyết và những giá trị tinh thần kết hợp truyền thống và hiện đại. Trong những giá trị tinh thần
truyền thống, cần chú ý tìm hiểu, phát huy những giá trị truyền thống bản địa Việt Nam, thay vì
cố đào xới lại nấm mồ Nho giáo như một số người vọng ngoại và hoài cổ đã làm. Như ý kiến
của nhà nghiên cứu Quang Đạm: “Nói tóm lại, đạo lý Nho giáo thường xuyên kìm hãm xã hội
chúng ta thuở trước ở một trạng thái thấp kém. Trong khuôn khổ thiên hạ của đạo lý Nho giáo
không có con đường nào tốt hơn con đường tìm hướng quay ngược trở về với Tây Chu, với
Đường, Ngu. Trong khi đó, truyền thống Việt Nam vì độc lập của Tổ quốc và vì quyền sống
chính đáng của cả dân tộc vẫn không ngừng thể hiện một tinh hoa, một bản sắc không có thế lực
nào vùi lấp, xóa bỏ được. Chế độ trị nước trị dân của các thế lực Hán tộc xâm lược và các triều
đại phong kiến Việt Nam, tôn sùng Nho giáo luôn luôn ngăn cản sự vươn lên của truyền thống
Việt Nam. Tinh hoa và khí phách Việt Nam cũng luôn luôn tỏ rõ sức sống bất diệt của mình trong mọi hoàn cảnh”. Câu 7
1. Làng và văn hoá làng 1.1. Khái niệm
Khái niệm Làng gắn với hình ảnh làng xã cổ truyền ở Việt Nam với 3 đặc
trưng cơ bản: ý thức cộng đồng làng (ý thức dân chủ làng xã, cộng đồng trong sản
xuất bảo vệ xóm làng, xây dựng văn hoá, lối sống, đạo đức.v.v...); ý thức tự quản (thể
hiện rõ nhất trong việc xây dựng hương ước); và tính đặc thù độc đáo, rất riêng của
mỗi làng (có khi hai làng gần nhau nhưng không hề giống nhau).
Nền văn hoá Việt Nam được tạo dựng trên cơ sở của nền văn minh nông
nghiệp. Cuộc sống của người Việt Nam gắn bó với làng xã, quê hương. Tập tục
làng, truyền thống và văn hoá làng là chất keo đặc thù gắn kết mọi thế hệ thành viên của
làng.Cho đến nay, các nhà nghiên cứu sử học vẫn chưa xác định rõ làng xuất hiện từ khi nào.
Nhưng làng và văn hoá làng được xem là phát triển rực rỡ nhất vào thế kỷ XVI-XVIII. Ngoài
ra, làng và văn hoá làng chỉ có ở Việt Nam, ở nhiều nước làng cũng như tổ chức làng hầu như không có. 1.2. Nét đặc chưng
Làng không chỉ là sản phẩm của một nền tổ chức chính trị nhà nước mà nó
còn là sản phẩm văn hoá mang bản sắc người Việt. Văn hoá làng được thể hiện
thông qua các biểu trưng văn hoá mang giá trị truyền thống: cây đa, bến sông, con
đê, mái đình, giếng nước đến các bản gia phả, hương ước, hội hè đình đám, những
làn điệu dân ca, dân vũ. Đó còn là phong tục tập quán, cách ứng xử, tâm lý, tín
ngưỡng tôn giáo, phương thức hoạt động, nghề đặc trưng.v.v…Có thể xem văn hoá
làng chính là những khuôn thước ứng xử nằm sâu trong mỗi con người, những nhân
tố tạo nên tính cộng đồng. Và những ứng xử giữa con người với con người, con
người với thiên nhiên, giữa các cộng đồng với nhau được tổng kết qua kinh nghiệm
sống đã trở thành văn hoá. Văn hóa làng như một dòng nước ngầm không thể nhìn
thấy nhưng lại có sức mạnh chi phối, điều khiển mỗi người trong cộng đồng làng.
Các nhà nghiên cứu văn hoá cũng như sử học Việt Nam đều khẳng định 80%
văn hoá vật thể là ở làng. Đó chính là “cây đa, bến nước, sân đình”, là ngôi chùa
hay những ngôi nhà cổ. Và cũng 80% văn hóa phi vật thể ra đời từ văn hoá làng. Đó
là những phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng.v.v…Nói sâu hơn thì văn hoá làng
chính là cái gốc của văn hoá dân tộc. Tổng thể nền văn hóa dân tộc đều mang bản
sắc văn hoá vùng, miền. Mà cái tạo nên văn hoá vùng miền chính là văn hoá làng,
đơn vị tổ chức nhỏ nhất. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc có nền văn
hóa riêng biệt. Vì vậy nền văn hóa Việt Nam cũng đa dạng và vô cùng phong phú. 1.3. Nét đặc thù
Với đơn vị là làng, văn hóa đã hiện ra như là những khuôn thước ứng xử
nằm ở tầng sâu trong đời sống cộng đồng; như là hệ thống các giá trị đặc thù qui
định và ngầm điều khiển các quan hệ cộng đồng; như là sự tổng hợp của những
kinh nghiệm sống hình thành qua lịch sử của các cộng đồng. Mỗi con người Việt
Nam, nếu có được cái may mắn là sinh ra và lớn lên ở làng, thì dù đi đâu, về đâu; dù
làm nghề nay hay nghề kia; dù mang quốc tịch này hay quốc tịch khác cũng đều khó
có thể thoát ly khỏi tâm thức làng, lề thói làng, giá trị làng, cái đã ăn sâu vào văn hóa cá nhân.
"Phép vua thua lệ làng" thành ngữ gắn liền với quá trình phát triển của làng
Việt. Thông qua thành ngữ này, văn hóa làng luôn biểu đạt cái đặc trưng riêng, cái
có ý nghĩa riêng, cái mang lại sức mạnh của làng. Lịch sử cho thấy, tất cả những gì
là ngoại nhập hay ngoại sinh, nếu muốn có chỗ đứng thực sự ở làng thì phải tìm
cách "chung sống" với văn hóa làng. Chính từ thực tiễn lịch sử của dân tộc Việt mà chúng ta nhận ra văn hóa làng.
Xác định sự tồn tại hiện thực của văn hóa làng là sự phát triển phù hợp với sự tiến
triển của các ngành tri thức về văn hóa. Có lẽ chỉ khi đặt trong tương quan với các
dạng thức văn hóa vùng và các loại văn hóa cộng đồng khác, mới thấy rõ hơn tính
đặc thù và ý nghĩa của văn hóa làng. 2. Đình làng
Đình làng - một mảnh hồn quê, một nét đẹp của xóm làng Việt Nam, từ lâu
đã in váo tâm khảm của mỗi con người và tỏa sáng trong những áng thơ văn. "Hôm
qua tát nước đầu đình. Để quên chiếc áo trên cành hoa sen". Đã từ rất lâu rồi, khi
nói đến văn hoá làng - nét văn hoá của nông thôn Việt Nam, chúng ta liên tưởng
ngay tới những hình ảnh rất đặc trưng, làm nên biểu tượng của làng quê. Đó là
những hình ảnh của "cây đa, bến nước, sân đình, bụi tre, vườn cây, ao cá...". Từ bao
đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân
Việt, là nơi chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống xã
hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Đình làng trang trọng và thiêng liêng, nó
gần như là đại diện, là biểu tượng của quyền lực làng xã. Nhưng đình làng lại là nơi
tụ họp mọi người trong mọi sinh hoạt cộng đồng. Đình làng trở thành một nơi thân
quen gần gũi, là nơi ở, là cuộc sống của những người nông dân Việt Nam 2.1. Nét đặc chưng
Đình làng xưa - nét đặc trưng tiêu biểu nhất của làng quê Việt Nam:Từ xưa
đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung đình chùa, nhưng trên thực tế
đình và chùa không cùng một ý thức văn hóa. Chùa là nơi thờ Phật, ít nhiều có ảnh
hưởng văn hóa Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hoa. Còn đình là của cộng đồng làng
xã Việt Nam. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi "cân bằng" phép
tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng,
nhất là về tín ngưỡng, nơi để thờ thần Thành Hoàng làng, người có công với dân,
cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống. Nhìn quanh đình làng, ta
sẽ thấy lòng tri ân, trọng nghĩa, trọng tài, ''uống nước nhớ nguồn'' của người Việt Nam. Tuy đình
là của dân làng nhưng thần không hẳn là người của làng. Hơn nữa
người Việt Nam thừa hưởng nhiều tín ngưỡng cổ sơ, nguyên thủy nên thờ và tôn
kính rất nhiều vị thần như: thần núi, thần biển, thần nước.v.v… ở tất cả những tín
ngưỡng ấy, các thế hệ dân Việt Nam tiếp nối nhau tạo thành một nền vǎn hoá đình,
một nền vǎn hóa hỗn hợp, đa dạng, có mặt nhiều thành phần tôn giáo khiến cho
đình trở thành một tập thể siêu thần, thành một sức mạnh vô hình, tạo một niềm tin,
một niềm hy vọng, một sức mạnh vô hình của làng cộng đồng xã Việt Nam. Ở nước
ta vào đầu thời Trần, vua Trần Thái Tông xuống chiếu: "... nơi nào có đình trạm thì
phải tô tượng Phật để thờ trong đình đó" (đình trạm là những kiến trúc được dựng
lên ở các cung độ đường làm nơi cho nhà Vua đi tuần thú hoặc khách bộ hành nghỉ
ngơi). Là bởi thời đó Phật giáo đang chiếm ưu thế. Sang thời Lê, kinh tế hàng hóa
phát triển, những đình trạm cũng được sử dụng làm chợ, nên gọi là đình chợ (như
đình chợ Đông Ba - Huế, Xuân Giang - Nghệ Tĩnh).Từ thế kỷ XVI đến XIX có
những lúc không có chiến tranh, người dân có điều kiện phát triển kinh tế nên đình
được phát triển hơn. Những nơi không có chiến tranh như miền Hải Dương, Bắc
Ninh, Sơn Tây đình phát triển mạnh (đình Chu Quyền, đình Đình Bảng, đình Tây
Đằng). Dần dần những ngôi đình làng phát triển ở miền núi, vùng người Tày, người
Nùng (đình Hồng Thái, Tân Trào). Trải qua thời gian, đình làng dần dần thiên di
vào miền Trung, nhất là Bắc Trung Bộ: đình Hoàng Sơn, Chu Cân ở Nghệ An.
Nhưng càng vào Nam càng ít và đến Nam Bộ, ngôi đình chỉ còn là ngôi đền.
Đình tồn tại trên công thổ, công điền của làng. Người từ 18 tuổi trở lên được
nhận ruộng công về làm và nộp hoa lợi cho đình hoạt động. Mỗi khi ra đình phân
biệt mâm ăn và chiếu ngồi, chia phần "một miếng giữa làng hơn một sàng só bếp",
"một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần"... Như vậy, đình làng diễn ra sự phân
chia đẳng cấp rất chặt chẽ, trọng tuổi hơn trọng chức sắc, là nơi quyết định về kinh
tế, chính trị và tâm tư tình cảm của người dân. Hàng năm đình có lễ hội thường
được tổ chức vào ngày sinh hoặc ngày mất của vị thần được thờ. Lễ hội gắn với
truyền thống lịch sử (sự tích thần đánh giặc, lập làng, dạy nghề), gắn với lễ nghi
nông nghiệp (lễ rước nước). Tế thần là hoạt động lễ, hội tế để biểu thị lòng biết ơn
của dân làng đối với thần, mong thần tiếp tục phù hộ cho dân làng mạnh khỏe, được
mùa . Lễ vật tế thần là cỗ tam sinh (trâu, bò, dê hoặc lợn) là những sản phẩm nông
nghiệp, là lễ vật kỷ niệm. Nhìn chung, văn hoá đình Việt Nam có tính hoàn toàn độc
lập của một cộng đồng xã hội biết tổng hợp dung hòa mọi nền văn hóa khác thành
một nét văn hóa riêng nhằm phục vụ an ninh cho dân tộc mình, trong ấy, yếu tố chủ
yếu vẫn là thờ cúng những người có công với làng xã, người anh hùng dựng làng
lập nước và bảo vệ đất nước. 2.2. Kiến trúc
Đình làng - Một kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống: Kiến trúc đình làng
mang đậm dấu ấn văn hóa, độc đáo và tiêu biểu cho kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống.
Thế kỷ XVIII, Việt Nam có khoảng 11.800 làng xã. Mỗi làng có một cụm
kiến trúc nghệ thuật tôn giáo đình đền chùa với hàng trăm pho tượng và nhiều đồ
trang trí thờ cúng khác nhau. Có lẽ, những đình cổ nhất nước ta vẫn là những ngôi
đình mang kiến trúc theo hình chữ Nhất như: đình Tây Đằng, đình Lỗ Hạnh. Riêng
đình Lỗ Hạnh, nguyên xưa là chữ nhất, nhưng qua các đời sau tu bổ đã thêm hậu
cung nên đình thành chữ Đinh. Theo quan niệm kiến trúc, đình là một kiến trúc
công cộng, rộng mở để chờ đón bất cứ người con nào của đất Việt. Với ý nghĩa như
thế, đình làng Việt Nam chính là nơi không phân biệt giàu sang nghèo hèn, là nơi
thể hiện rõ nhất vǎn hóa hiện thực của đời sống nhân dân. 2.3. Điêu khắc
Đình làng, nhất là đình làng ở miền Bắc, là kho tàng hết sức phong phú của
điêu khắc Việt Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc
tôn giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình. Điêu
khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt
Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm
hồn của người nông dân Việt Nam. Nói điêu khắc đình làng cũng là nói đến nghệ
thuật trang trí đình làng. Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí. Người thợ làm đình
chẳng những thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết tô điểm cho ngôi đình
thêm đẹp. Điêu khắc ở đây do đó gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các thành
phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn tay điêu luyện
của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ thuật cao, thu hút sự chú
ý của mọi người lúc ghé thăm đình.
Như vậy, điêu khắc trang trí, cùng với kiến trúc đã làm cho đình có những
nét riêng trên chiều dài của đất nước. Đình làng đã có từ ngàn xưa, gợi nhớ một di
tích cổ kính thân tình. Đình làng lại theo ta vào cuộc sống mới và hình ảnh đậm nét
về nó không hề phai nhạt trong cuộc sống của người Việt Nam hôm nay. 3. Hội làng
Hàng năm, có lẽ không có làng quê Việt Nam nào lại không mở hội làng,
nhỏ thì một ngày, lớn thì nhiều ngày, nhất là những năm được mùa thì hội làng vui
không kể xiết. Hội làng ở các làng quê nước ta thường được tổ chức vào mùa xuân,
khi đất trời giao hòa, thiên nhiên tươi tốt, lòng người hân hoan. Có thể nói, trên cái
nền hết sức phong phú và đa dạng của hội hè, đình đám ở nông thôn Việt Nam, hội
làng được coi là thời điểm cuốn hút nhất, tưng bừng nhất với những nghi thức tôn
nghiêm và thuần Việt nối đời: tế lễ, rước, trò vui và hát xướng.
Ngoài các quốc lễ do Nhà nước phong kiến tổ chức, hội làng thường do một
làng đứng ra tổ chức, hoặc có thể do một số làng gần nhau cùng thờ chung một
thành hoàng, cùng có mối liên hệ lịch sử thông qua sự tích thánh mà họ tôn phụng.
Nhưng, dù là hội của một làng hay liên làng thì hội làng như một mạch nước ngầm
xuyên thời gian, bừng chảy tràn trề trong đời sống vật chất, tinh thần và tâm linh người Việt. 3.1. Lịch sử hình thành
Hội làng đã có từ xa xưa, theo sử sách, nhiều hội làng nổi tiếng tiêu biểu cho
tín ngưỡng phồn thực được bảo lưu từ thời thượng cổ. Ngay trên trống đồng cổ,
cũng có những nét hoa vǎn, dấu ấn của hội làng. Có những hội làng trở nên tiêu
biểu, nức tiếng gần xa như hội: Đền Hùng-tỉnh Phú Thọ, hội Cổ Loa, Lệ Mật, Phù
Đổng của Hà Nội, các hội làng ở Hà Tây.v.v…
Có thể nói, hội làng mang tính cộng đồng sâu sắc, đó là đỉnh cao của sự hòa
hợp, đoàn kết vì một ước nguyện chung cho sự phồn vinh của làng xã. Hội làng
thường được tổ chức thật vui, thật đầm ấm tình làng nghĩa xóm, điều đó thể hiện
qua những khâu chuẩn bị cho đến khi nuối tiếc lúc tan hội. Có xem hội làng mới
cảm nhận hết ý nghĩa và lòng tự hào dân tộc với một truyền thống vàng son. 3.2. Lễ và hội
Cũng như Lễ hội truyền thống, hội làng gồm hai phần lễ và hội, thường diễn
ra ở các ngôi đình làng. Nhưng, ở hội làng, phần hội bao giờ cũng nổi trội hơn. Lễ
thể hiện lòng ngưỡng mộ, sùng bái anh hùng, tôn vinh danh nhân, người có công
với dân, tổ nghề, có thể là những thần, thánh, phật, mẫu, những nhân vật siêu phàm,
những đại diện cho tôn giáo, người bảo trợ tinh thần và đem lại đời sống ấm no,
hạnh phúc cho cộng đồng. Phần lễ thường gồm các hoạt động rước nước và mộc
đục, rước và tế. Hội là dịp thể hiện những sinh hoạt văn hóa cộng đồng từ múa, hát
giao duyên, hát thờ, các diễn xướng sân khấu cổ truyền, các cuộc thi tài mang tính
thượng võ (bơi trải - hội làng Đăm, chạy cờ - làng Triều Khúc, thú chơi cờ người -
làng Xuân Phương.v.v..), các trò diễn phong tục (thổi cơm thi - làng Thị Cấm, bơi
cạn và bắt chạch trong chum - làng Hồ, trình nghề - làng Sài Đồng, thú chơi thi thơ,
thú chơi tạo cây cảnh, con giống bằng sáp nến, thú chơi chọi gà, vùng Bưởi).v.v...
Trong các sinh hoạt hội, mọi người tham gia trình diễn, sáng tác, thưởng
thức và hưởng thụ sau những ngày lao động vất vả, không kể sang hèn. Vì thế, có
thể cho rằng, hội làng đã tạo nên niềm cộng cảm sâu sắc giữa các thành viên trong
cộng đồng, là sự nhất quán trong việc trao truyền các giá trị vǎn hóa giữa các thế hệ. 3. Chợ làng
Nhắc đến văn hoá làng xã người ta không thể không nhắc tới chợ làng. Quả
thật một phần đời sống của những người dân quê được khắc hoạ qua sự phát triển
của chợ làng. Ngoài ý nghĩa trao đổi mua bán, chợ làng còn là nơi để thăm hỏi, mời gọi, nói
chuyện con trâu, cái cày, chuyện ruộng, vườn, đồi núi.v.v... Tất cả cứ ồn ã,
xôn xao và đậm đà tình làng, nghĩa xóm.Bởi thế, người xưa đã từng ao ước: “Muốn
cho gần chợ mà chơi gần sông mà tắm, gần nơi đi về”.
Trong mỗi con người Việt Nam, dù ít hay nhiều, cũng lưu giữ trong ký ức
một miền quê với bóng dáng cây đa, giếng nước, con kênh và... một Chợ Làng
Ai sinh ra và lớn lên ở một vùng quê nào đó mới hiểu hết cái thú của đi chợ làng.
Chợ làng không chỉ là nơi bán - mua mà còn là nơi mọi người trao đổi, thăm hỏi lẫn
nhau do mối quen biết “tình làng nghĩa xóm”.
Chợ làng thường họp rất sớm, đông đúc nhất là lúc 6 - 7h sáng. Cỡ độ 10 -
11h mà mới xách làn đi chợ thì e rằng bạn sẽ chẳng mua được thứ cần mua, bởi chợ
thường tan sớm lắm. Khi nắng đứng bóng là lúc chợ vãn, chỉ còn vài quầy kiểu “ki-
ốt” chuyên đồ khô là bán cầm chừng. Buổi chiều chợ vắng hẳn, bởi người quê ít có
thói quen đi chợ ngày hai buổi. Những thứ cần cho cả ngày thường được mua luôn vào buổi sáng.
Toàn người làng với nhau nên người bán không nói thách quá, người mua ít
mặc cả theo kiểu trả giá chỉ còn “một nửa” như ở các chợ lớn nơi đô thị!
Sản phẩm hàng hoá của chợ làng cũng bình dị như chính con người vậy. Mọi
thứ bày biện không hề hào nhoáng: giỏ cua, mớ ốc vẫn còn vương bùn non, mớ rau
còn nhựa ứa, sọt trứng lơ thơ vài sợi rơm mới lót ổ…
Đến bất cứ một vùng quê nào, chỉ cần nhìn qua chợ làng, quan sát hàng hoá -
thực phẩm bày bán và khung cảnh bán - mua là có thể biết được đời sống của người
dân nơi đây. Cái sự no đủ hay thiếu thốn nó bày ra hết! Vẫn còn những vùng quê
nghèo mà chợ làng chỉ họp nháo nhào, bán - mua lèo tèo vài thứ mà giá rẻ như… cho!.
Vào những dịp phiên, chợ đông vui hẳn. Không khí hồ hởi thấy rõ trên
gương mặt người đi chợ. Tiếng nói, tiếng cười ríu rít. Cứ ra chợ là gặp người quen,
và thể nào cũng phải đứng lại chào hỏi thân mật vài người.
Chợ phiên thường họp sớm và tan muộn hơn ngày thường một chút, hàng
hoá cũng phong phú hơn. Cách đây mấy mươi năm, có những thứ phải chờ đến chợ.