












Preview text:
MỤC LỤC
MỤC LỤC.....................................................................................................1
MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
NỘI DUNG...................................................................................................4
Chương I: Tiền đề tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo..............................4
1.1 Sự xuất hiện của Phật giáo...........................................................4
1.2 Tiền đề tư tưởng Phật giáo ở nước ta..............................................5
Chương II: Nội dung tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam......7
2.1 Nội dung tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam..............7
2.2 Ý nghĩa tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo..................................11
KẾT LUẬN.................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................14 1 MỞ ĐẦU
Tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng là nhu cầu tinh thần của một bộ
phận nhân dân, có ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội,
văn hóa, đạo đức, an ninh quốc phòng... của đất nước. Phật giáo khi du nhập vào
nước ta được tiếp nhận dễ dàng, tự nhiên vì tư tưởng có nhiều điểm tương đồng
với phong tục, tập quán, truyền thống của dân tộc và đã từ tôn giáo ngoại lai trở
thành bản địa, từ xa lạ trở nên thân thuộc với mọi tầng lớp nhân dân suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc.
Nhân sinh quan Phật giáo là quan niệm của Phật giáo về con người, cuộc
sống con người, bản chất con người, thái độ và hành vi tu tập của con người
nhằm mục đích giải thoát. Nói cách khác, mục đích cuối cùng và tư tưởng chủ
đạo của nhân sinh quan Phật giáo là giải thoát chúng sinh khỏi kiếp trầm luân
đau khổ. Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn chân lý (tứ diệu đế) cho
mọi người thực hiện. Từ khi du nhập đến nay, Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn
cho dân tộc Việt Nam, từ tín ngưỡng đến văn hóa, từ thế giới quan đến nhân sinh
quan, từ tư tưởng đến tình cảm. Nhiều vấn đề của lịch sử dân tộc và văn hóa dân
tộc Việt Nam sẽ không sáng rõ nếu không hiểu được Phật giáo Việt Nam. Mặt
khác, văn hóa Việt Nam cũng góp phần biến đổi Phật giáo, làm cho Phật giáo
Việt Nam có những đặc trưng riêng so với Phật giáo Ấn Độ hay Phật giáo Trung Quốc.
Bài viết này bước đầu luận giải một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật
giáo Việt Nam như: nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam có sự hòa quyện với văn
hóa và các hình thức thờ cúng bản địa; sự tương đồng giữa nhân sinh quan Phật
giáo Việt Nam với quan niệm nhân sinh người Việt Nam; tinh thần nhập thế của
nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam. Có thể nói, chính giáo lý Phật giáo và nhân
sinh quan nhà Phật đã tạo nên một chủ nghĩa tích cực mang màu sắc Việt Nam,
một nhân tố bền vững trong nhân sinh quan của dân tộc. Chính vì thế tôi lựa
chọn đề tài Phân tích giá trị của nhân sinh quan Phật giáo để làm tiểu luận. 2 NỘI DUNG
Chương I: Tiền đề tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo
1.1 Sự xuất hiện của Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo rất cổ, có từ lâu đời, kể từ lúc nhân loại hình
thành nếp sống quần tụ thành xã hội. Cách đây khoảng 2600 năm, Tất-đạt-đa
Cồ-đàm sanh ra đời ở nước Ấn Độ, tu hành chuyên nhất trong hơn 6 năm, đắc
đạo thành Phật . Chứng ngộ được giáo lý Tứ Diệu Đế, giúp con người giải khổ,
và giải thoát khỏi vòng Luân hồi sinh tử, mở ra một con đường mới thích hợp
với trình độ tiến hóa của nhân sinh thời đó, vì Đạo Bà-La-Môn lúc bấy giờ rất
suy tàn, giáo lý bị sửa cải nhiều làm cho xã hội Ấn Độ có những bất bình đẳng
trầm trọng, khiến con người xa vòng Thiên lương, trầm luân trong bể khổ.
Phật giáo hay Đạo Phật, Đạo Bụt là một tôn giáo đồng thời cũng là một hệ
thống triết học bao gồm một loạt các giáo lý, tư tưởng triết học cũng như tư
tưởng cùng tư duy về nhân sinh quan, vũ trụ quan, thế giới quan, giải thích tự
nhiên, tâm linh, bản chất sự việc, xã hội và các phương pháp thực hành, tu tập
dựa trên giáo pháp (lời dạy) của Siddhārtha Gautama và các truyền thống, tín
ngưỡng được hình thành trong quá trình truyền bá, phát triển Phật giáo sau thời
của Siddhārtha Gautama. Siddhārtha Gautama thường được gọi là Bụt hay Phật
hoặc người giác ngộ, người tỉnh thức. Theo kinh điển của Phật giáo, cũng như
các tài liệu khảo cổ đã chứng minh, Siddhārtha Gautama đã sống và giảng đạo ở
vùng đông bắc Ấn Độ xưa (nay thuộc Ấn Độ, Nepal, Bhutan) từ khoảng thế kỉ
thứ 6 TCN đến thế kỉ thứ 4 TCN.
Đạo Phật được Siddhārtha Gautama truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào
thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 49 năm khi Đức Phật còn
tại thế ra nhiều nơi đến nhiều dân tộc nên lịch sử phát triển của Đạo Phật khá đa
dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức, nghi lễ hay phương pháp thực tập,
tu học. Ngay từ buổi đầu, Siddhārtha Gautama, người sáng lập Đạo Phật, đã tổ 3
chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Tại Ấn Độ, Phật giáo có thể
đã bắt đầu suy tàn từ thế kỉ thứ 7 và đạo Phật thật sự biến mất trên đất Ấn vào
thế kỉ thứ 14 do sự đàn áp của các chính quyền Hồi giáo. Mãi cho đến thế kỉ thứ
19 thì phong trào chấn hưng Phật giáo tại Ấn mới bắt đầu lại. Tuy nhiên Phật
giáo lại phát triển mạnh ở những nước lân cận. Phật giáo được truyền bá từ Ấn
Độ sang Tây Tạng, Trung Quốc và Đông Nam Á. Nhờ vào tính chất khai sáng
cùng sự uyển chuyển, linh hoạt của giáo pháp, Đạo Phật được nhiều người tiếp
nhận và có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều tầng lớp giai cấp,
nhiều phong tục tập quán ở các thời kỳ, đất nước khác nhau, trong đó để lại
nhiều dấu ấn sâu đậm tại Việt Nam.
1.2 Tiền đề tư tưởng Phật giáo ở nước ta
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ nhất
trước Công nguyên theo đường hải và đường bộ. Đạo Phật xuất hiện ở Việt Nam
từ xa xưa trong các truyền thuyết và truyện cổ tích. Lĩnh Nam Chích Quái (viết
vào thời Trần và hiệu chỉnh thời Lê) có chép truyện Chử Đồng Tử và Man
Nương, trong đó Chử Đồng Tử, sống vào thời Hùng Vương được một vị tăng là
Ngưỡng Quang truyền phép. Những vị học Phật được ghi chép đầu tiên ở Giao
Chỉ phải kể đến Mâu Tử và Khương Tăng Hội. Tại Luy Lâu (Bắc Ninh), Mâu
Tử gặp được đạo Phật ở đây và chuyên tâm học Phật. Nhiều năm sau, ông viết
Lý Hoặc Luận (lý giải những điều còn nghi hoặc về đạo Phật), dùng tư tưởng
của mình để đối đáp với những người cho rằng ông bỏ đạo của thánh hiền
(Khổng giáo, Lão giáo) để học thứ đạo của man di. Lý Hoặc Luận được xem là
trước tác đầu tiên bằng chữ Hán về Phật giáo, vậy chính Mâu Tử là người học
Phật ở Giao Chỉ. Các dấu tích của Phật giáo tại Việt Nam được ghi nhận qua các
truyền thuyết như Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng
với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189[5],
Phật giáo hình thành nên hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp.[7] 4
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ
thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ
pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật giáo hóa".
Các pho tượng này thường được gọi tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và
Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu chuẩn của
một pho tượng Phật. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các
ngôi chùa "tiền Phật, hậu Thần" hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa
các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong
chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
Chính vì thế Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến thời
nhà Đinh - Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là
quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu
Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái.
Đến cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh
đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế
kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của phong trào chấn hưng Phật giáo của các
nước, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền
Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu[4]. 5
Chương II: Nội dung tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam
2.1 Nội dung tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam
Nhân sinh quan Phật giáo là quan niệm của Phật giáo về con người, cuộc
sống con người, bản chất con người, thái độ và hành vi tu tập của con người
nhằm mục đích giải thoát. Trong suốt 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đều kêu gọi
và gợi nên bản chất thánh thiện, từ bi bác ái của con người. Phật giáo cũng thừa
nhận “Nhân sinh đa khổ” nên Phật giáo coi đạo là cứu cánh, là động lực duy
nhất để khoan hòa với chính mình và nhờ đó thoát khỏi bể khổ. Nhân sinh quan
đó được xây dựng qua thuyết "mười hai nhân duyên". Trong mười hai nhân
duyên ấy, vô minh là căn bản.
Phật giáo cũng chủ trương đem tình yêu thương đến với mọi người. Từ bi
là phạm trù thuộc tứ vô lượng tâm, bao gồm: từ, bi, hỷ, xả. Tâm từ là tình
thương bao la, không giới hạn; đem lại hạnh phúc cho mọi người, mọi loài, cứu
khổ, cứu nạn cho chúng sinh mà quên đi những lợi ích của bản thân. Tâm bi là
thương xót vô lượng, vô biên nhưng không bi lụy, vì thế trở thành động lực cho
việc cứu khổ, cứu nạn. Tâm hỷ là sống vui vẻ, bất kể thất bại, nghịch cảnh, vui
với thành công của người khác là vô lượng vô biên. Tâm xả là đem hết sức mình
để cứu người, giúp người không mong bù đắp, là tinh thần hy sinh vì tha nhân.
Xây dựng tứ vô lượng tâm, Phật giáo muốn nhấn mạnh vào cái tâm của con
người, đó là đạo đức, lòng người, trí tuệ.
Phật giáo còn nói về đạo lý vô ngã nhằm giúp con người hiểu rằng cái tôi
thực ra chỉ là giả tướng do 4 đại: đất, nước, lửa, gió tạm thời hợp nhau tạo thành,
theo quy luật có ngày nó sẽ bị tan rã, suy yếu, già rồi chết. Do vậy, con người
không nên mê muội theo đuổi danh lợi, không cần thiết phải tranh giành mà cần
phải độ lượng, khoan dung với mọi người. Đó cũng chính là cách con người
hoàn thiện bản thân để tiến tới giải thoát. Với thuyết vô thường, vô ngã, Phật
giáo đem lại cho con người một triết lý sống vị tha, nhân bản. Khi đã thấu suốt 6
được chân lý này, con người sẽ vươn lên khỏi cuộc sống vị kỷ mà sống theo tinh
thần từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha. Như vậy, Phật giáo là một tôn giáo giàu tình
thương, yêu chuộng hòa bình.
Mặt khác, thuyết nhân quả, nghiệp báo, luân hồi còn cho thấy rằng con
người không chỉ phải chịu trách nhiệm về hành động của mình lúc còn sống, mà
còn cả sau khi chết, vì chết chưa phải là hết. Sự kết thúc một cuộc đời này sẽ chỉ
là sự kế tiếp của cuộc đời khác. Do đó, con người chỉ có thể đi đến giác ngộ để
giải thoát cho mình. Nói cách khác, mục đích cuối cùng và tư tưởng chủ đạo của
nhân sinh quan Phật giáo là giải thoát chúng sinh khỏi kiếp trầm luân đau khổ.
Để đạt được sự giải thoát, Phật giáo nêu ra bốn chân lý (tứ diệu đế) cho mọi
người thực hiện. Tuy vậy, trên cái nền của nhân sinh quan Phật giáo Ấn Độ với
những phạm trù cơ bản như Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Lục độ… khi vào Việt
Nam, Phật giáo đã có những biến đổi cho phù hợp với phong tục, tập quán, lối
sống của con người Việt Nam. Chúng được mang những hình thức thể hiện mới
mặc dù vẫn chứa đựng những nội dung cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo
như: quan niệm về cuộc đời con người là khổ, nguyên nhân của khổ do Tam
độc: Tham - Sân - Si, con đường thoát khổ bằng Giới - Định - Tuệ…
Không chỉ vậy, với tư duy của mang tính biện chứng mềm dẻo, linh hoạt
cộng với thái độ bao dung, cởi mở nên chúng ta dễ dàng dung nạp, thích ứng và
chung sống hòa bình với các tư tưởng, tôn giáo không gây hại cho sự phát triển
đất nước. Trong nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam có sự dấn thân và nhập thế
của Nho giáo, có sự tiêu dao và tự tại của Đạo giáo, có bóng dáng quyền năng
của các hình thức thờ cúng bản địa[6, tr135]. Sự dung hòa các yếu tố trên hay
‘‘tam giáo đồng nguyên’’ là đặc trưng riêng chỉ có ở một số nước Đông Á trong
đó có Việt Nam. Điều đó hình thành nên những đặc trưng riêng biệt chỉ có ở nước ta.
Đầu tiên, nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam đã có sự hòa quyện với văn
hóa và các hình thức thờ cúng bản địa. Phần lớn quần chúng ưa thích tiếp nhận 7
Phật giáo dưới dạng đơn giản và rút gọn trong giáo lý, phù hợp với quan niệm
của họ về thế giới siêu nhiên che chở con người, góp phần nhân đạo hóa cuộc
sống con người. Nhân sinh quan Phật giáo được đơn giản hóa phù hợp với các
hình thức thờ cúng của người Việt Nam. Phật giáo đã làm phong phú và nâng
cao quan niệm của người Việt Nam về cái Thiêng trong đời sống tôn giáo của họ.
Nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam quan niệm phần thưởng cao nhất là
được làm người, sống no đủ về vật chất và hạnh phúc trong tình thương yêu
đùm bọc lẫn nhau, thương người như thể thương thân. Người Việt Nam trước
hết quan tâm đến cuộc sống thực tại, sẵn sàng biên chế Phật ông, Phật bà vào hệ
thống phúc thần luôn che chở và phù hộ cho cuộc sống của họ. Một số lượng
khá lớn từ ngữ, khái niệm của Phật giáo gia nhập vào lời ăn tiếng nói hằng ngày,
thành phương tiện diễn đạt quan niệm đạo đức truyền thống của người Việt như
“cứu nhân độ thế”, “phúc đẳng hà sa”, “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, “tu
nhân tích đức”, “nhân nào quả ấy”… với cách hiểu không còn nguyên theo lý
thuyết Phật giáo. Do phù hợp với lẽ sống của người Việt Nam, chúng trở thành
ngôn ngữ đạo đức thực tiễn, biểu hiện phương thức ứng xử nhân ái, hòa hợp
giữa con người với tự nhiên và xã hội, giữa con người với con người như những
giá trị truyền thống trong văn hóa Việt Nam - một nền văn hóa lấy con người và
cuộc sống thực tại làm mục đích. Người Việt Nam tìm thấy ở nhân sinh quan
Phật giáo nhiều nét tương đồng với văn hóa, phong tục tập quán của mình. Qua
nhân sinh quan Phật giáo, người Việt Nam tìm thấy lòng hướng thiện. Ngược lại,
thông qua văn hóa truyền thống Việt Nam, nhân sinh quan Phật giáo đã bén rễ,
lan rộng trong đời sống của người Việt Nam.
Thứ hai, sự tương đồng giữa nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam với quan
niệm nhân sinh của người Việt Nam. Khi du nhập vào nước ta, với quan niệm
nhân sinh sâu sắc về con người và cuộc đời con người, Phật giáo đã tìm thấy sự
tương đồng với nhân sinh quan của người dân bản địa. Nhân sinh quan Phật giáo
phù hợp với tư tưởng, tình cảm và nguyện vọng của người dân Việt Nam; ảnh 8
hưởng sâu rộng đến đạo đức, thích ứng với điều kiện kinh tế xã hội và với đời
sống phong hóa của người Việt Nam.
Tư tưởng đạo đức trong nhân sinh quan Phật giáo kết hợp với giá trị đạo
đức truyền thống của người Việt Nam tạo nên những khác biệt cho nhân sinh
quan Phật giáo Việt Nam. Không những vậy, nhân sinh quan Phật giáo còn góp
phần nâng cao, làm phong phú hơn và nhân văn hơn những giá trị đạo đức
truyền thống của con người Việt Nam. Đạo đức truyền thống của dân tộc với nét
nổi bật là chủ nghĩa yêu nước có nhiều điểm tương đồng với đạo đức từ bi, cứu
khổ, cứu nạn của Phật giáo. Đã từ lâu, trong nhân gian lưu truyền nếp nghĩ, nếp
sống: “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”,
“một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”,
“thương người như thể thương thân”,... Những triết lý đó đã thấm sâu vào tâm
thức của người dân Việt Nam khiến họ nói đến những điều đó một cách rất tự
nhiên, có khi không nghĩ rằng đó là triết lý nhân quả của nhà Phật. Triết lý này
trở thành nhân sinh quan của đại đa số người Việt Nam, có tác dụng khuyến
thiện trừng ác rất lớn.
Thứ ba, tinh thần nhập thế của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam. Từ hơn
2.000 năm về trước, khi vào Việt Nam với tư cách sứ giả của hòa bình và tình
thân ái, tinh thần nhập thế của Phật giáo đã được coi như một chuẩn mực tối cao
của việc hành đạo. Chính quan niệm từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn của Phật giáo
đã dẫn dắt sự nhập thế và đã đưa ảnh hưởng của tôn giáo này lan tỏa một cách
mạnh mẽ và sâu rộng trong dân gian. Giá trị tinh thần nhập thế của Phật giáo
Việt Nam cần được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Do điều kiện lịch sử
quy định, các Phật tử Việt Nam không chỉ biết tụng kinh, gõ mõ, lo cho việc giải
thoát của bản thân, mà còn thực sự quan tâm đến vận mệnh chung của dân tộc.
Quan niệm về nhân sinh không dừng lại ở kinh sách, mà thực sự lan tỏa vào
trong cuộc sống một cách sinh động. 9
Phật giáo Việt Nam quan niệm, con đường đi đến giác ngộ chính là thông
qua các hoạt động thực tiễn hằng ngày. Phật tử Việt Nam quan niệm Chân Như,
Niết Bàn, Bồ Đề, Chân Tâm, Phật không phải ở đâu xa mà ngay trong tâm mỗi
người. “Niết Bàn nằm trong thế giới trần tục, vậy con người trần tục muốn đạt
đến cái nằm trong thế giới trần tục (Niết Bàn), tốt nhất nên bằng con đường trần
tục như giã gạo, bổ củi, gánh nước, quét dọn...”[3, tr.395]. Con người hướng
thiện bằng việc phục vụ quần chúng xã hội. Điều này hoàn toàn khác với Phật
giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc.
Minh Chi từng nhận định xác đáng rằng: “Nhân sinh quan Phật giáo Việt
Nam trên thực tế là một nhân sinh quan yêu đời, tích cực và chủ động cho nên
đã tạo ra cả một thế hệ thiền sư, cao tăng, Phật tử của hai triều đại Lý - Trần, lăn
lộn giữa đời để cứu người nhưng không bị thế tục làm thấp nhân phẩm, lên tới
đỉnh tột cùng của danh lợi thế gian mà coi thường danh lợi ấy như bèo bọt, như
sương mai, sống giữa bùn lầy như hoa sen mà vẫn không hôi tanh mùi bùn”[1, tr.75].
2.2 Ý nghĩa tư tưởng nhân sinh quan Phật giáo
Trong suốt tiến trình lịch sử kể từ khi được truyền bá vào Việt Nam, Phật
giáo đã để lại dấu ấn trên nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần. Có thể nói tư
tưởng nhân sinh quan Phật giáo đã bén rễ, lan rộng trong đời sống tinh thần của
người Việt Nam từ ngàn xưa, nằm trong tâm thức của mỗi người Việt Nam.
Đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam là hệ thống giá trị truyền thống
yêu nước, cần cù, thương người, vì nghĩa, anh hùng, sáng tạo và lạc quan, trong
đó chủ nghĩa yêu nước là giá trị đạo đức tinh thần đứng đầu bảng trong giá trị
truyền thống Việt Nam, truyền thống đó được hình thành trong quá trình hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước. Phật giáo với những giá trị xây dựng từ tinh
thần đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn đã hòa quyện với tư tưởng yêu nước, nhân
nghĩa Việt Nam, thâm nhập và củng cố thêm đạo đức dân tộc theo truyền thống vì nghĩa, vì nước. 10
Không chỉ vậy, trong giải quyết các mối quan hệ, người Việt cũng đề cao
việc lấy cái tâm làm gốc, thiên về tình cảm. Nét phổ biến trong quan hệ ứng xử
và giao tiếp của Phật giáo là cái thật, cái thiện ở cả thân, khẩu, ý. Trong gia đình,
việc thờ cúng tổ tiên là một truyền thống, đạo lý của người Việt Nam tất nhiên
cũng chịu ảnh hưởng một phần từ thuyết nhân sinh của nhà Phật.
Đặc biệt, các thuyết nghiệp báo, nhân quả, luân hồi có giá trị trong việc
giáo dục con người hiểu được gieo nhân nào thì sẽ nhận quả ấy. Bởi vậy góp
phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, có tác dụng điều chỉnh không chỉ ý
thức đạo đức mà cả hành vi đạo đức của con người. 11 KẾT LUẬN
Trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Phật giáo vẫn giữ khả năng tự
biến đổi và thích nghi theo xu hướng đi cùng với dân tộc ta. Tư tưởng Phật giáo
tiếp tục góp phần cùng pháp luật chống lại những biểu hiện tiêu cực, phi nhân
tính trong đời sống xã hội hiện đại, góp phần phát huy những nét đẹp trong quan
hệ giữa con người với con người; xây dựng và điều chỉnh nhân cách con người
Việt Nam trong thời đại mới vừa hiện đại vừa giàu bản sắc dân tộc.
Phật giáo thực sự đã trở thành một tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong
đời sống tinh thần của người dân Việt Nam; góp phần định hình lối sống, phong
tục, chuẩn mực giá trị đạo đức văn hóa Việt Nam. Những giá trị mà Phật giáo
mang lại trong đời sống tinh thần của người Việt Nam trải dài từ Bắc chí Nam,
từ quá khứ đến hiện tại và sẽ còn tiếp tục trong tương lai. 12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.
Minh Chi (2005), Truyền thống văn hóa và Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội. 2.
Nguyễn Thị Thúy Hằng (2014), Một số đặc trưng của nhân sinh quan
Phật giáo Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu số 02 25-34. 3.
Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam,
tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 4.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo Sử Luận, Nhà xuất bản Văn Học 1979, tập III. 5.
Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nhà xuất bản Thuận hóa 1999, tập I 6.
Nguyễn Thị Toan (2010), Giải thoát luận Phật giáo, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội: 135. 7.
Tín ngưỡng thờ tứ pháp tại đồng bằng Bắc Bộ, truy cập tại
http://buddhistedu.org/viet/van-hoa-giao-duc/van-hoa-dan-gian/319-
tin-nguong-tho-tu-phap-tai-dong-bang-bac-bo, thời gian truy cập 1h23p 26/12/2020. 13